Suy niệm LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ- B
MỤC LỤC
28. Video
Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
29. Chúa
Giêsu là lương thực thiêng liêng catholic.org.tw
30. Thánh
Thể, bảo chứng tình yêu Lm Giuse Đinh lập Liễm
31. Thánh
Thể quà tặng của tình yêu Lm. Phêrô Lê văn Chính
32. Hồng
ân Thánh Thể Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
33. Thánh
Thể tình yêu tự hiến Lm,Jos Tạ Duy Tuyền
34. Chuẩn
bị ăn lễ vượt qua JKN
1. Mình Máu Thánh Chúa
Dân Do Thái được giải thoát khỏi ách nô lệ của người Ai Cập và
được đào luyện để trở thành dân riêng của Chúa. Một thứ giao kèo đã được thực
hiện giữa Thiên Chúa và dân của Ngài. Thiên Chúa ban cho họ một lề luật quy
định thái độ và cách sống của họ đối với Chúa, và của mọi người đối với nhau.
Người Do Thái đã đồng thanh thề hứa xin thi hành mọi lời Chúa đã phán. Maisen
lập bàn thờ và toàn dân cử hành nghi lễ ký kết giao ước với Thiên Chúa. Người
ta giết bê để làm lễ tế. Máu bê một nửa được rưới trên bàn thờ, một nửa được
rảy trên dân.
Ở đây lễ ký kết giao ước đã được thực hiện bằng máu bê. Và trong
lịch sử của dân Chúa, giao ước này đã không được tuân giữ từ phía dân Ngài.
Nhưng Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín trong lòng yêu thương của Ngài. Và Ngài
đã thực hiện một giao ước mới.
Nhưng lần này, giao ước được thiết lập không phải trong một nghi
lễ, mà là bằng một cuộc sống. Lễ vật giao hoà không phải là chiên bò hay máu
của chúng, mà là chính Con Thiên Chúa làm người, đã sống giữa con người, để mạc
khải tình thương của Chúa đối với con người và cuối cùng đã đổ đến giọt máu
cuối cùng không phải trên bàn thờ mà trên thập giá.
Tin Mừng của thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy: Chúa Giêsu và
các môn đệ của Ngài đang chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua, lễ kỷ niệm dân Chúa được
giải thoát khỏi ách nô lệ người Ai Cập. Nhưng chúng ta lại cũng có thể thấy
được rằng cảnh tượng diễn ra không còn ở trong một nghi lễ mà là ở trong chính
cuộc sống. Hay nói cách khác trong chính việc cử hành lễ Vượt Qua này, cái ý
nghĩa thâm sâu nhất, cái nội dung đích thực của mọi nghi lễ được cử hành đang
trở thành hiện thực.
Chúa Giêsu và các môn đệ đang sống biến cố Vượt Qua, đang sống
cuộc giao ước giữa Thiên Chúa và con người. Cử chỉ của Chúa Giêsu, hãy cầm lấy
bánh, hãy cầm lấy rượu, mang ý nghĩa là Mình Máu Ngài, nói lên cái chết của
Ngài, một cái chết cho nhiều người mà đại diện là 12 môn đệ, đồng bàn với Ngài,
nhưng cũng là những người sẽ chối Chúa, sẽ bỏ Chúa để thoát thân, những con
người tội lỗi, yếu đuối như bao con người tội lỗi và yếu đuối khác. Nhưng với
bữa tiệc ly trở thành tiệc Thánh Thể này, khi trao cho các môn đệ Mình Máu
Ngài, Chúa Giêsu tự báo cho các môn đệ ơn tha thứ, ơn cứu thoát. Khi lãnh nhận
Mình Máu Chúa, các môn đệ lãnh nhận cho mình cuộc hy sinh của Chúa Giêsu và ơn
cứu rỗi được dành cho con người.
Chính vì vậy mà sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nghĩa là sau khi
các môn đệ đã có những cử chỉ bất trung, các ông vẫn có thể đồng bàn với Người.
Sự đồng bàn ở đây có ý nghĩa của một sự giao hoà. Giáo Hội trong suốt dòng lịch
sử, đã không ngừng lặp lại cử chỉ này như Chúa Giêsu đã truyền dạy để tưởng nhớ
đến Ngài. Nhưng không phải chỉ là một sự tưởng nhớ trong tưởng tượng, trong
tình cảm, mà là trong chính cuộc sống bằng cách sống trọn vẹn ý nghĩa, nội dụng
của nghi lễ mình làm.
Việc cộng đoàn Kitô hữu họp lại với nhau trong nhà thờ để cử
hành thánh lễ phải là điểm khởi đầu và kết thúc của một giai đoạn dấn thân.
Nghĩa là thánh lễ được cử hành trong nhà thờ cần phải được nối tiếp trong cuộc
sống và cuộc sống cũng cần phải được cử hành trong thánh lễ tại nhà thờ chứ
không được tách thánh lễ ra khỏi cuộc sống. Bởi đó chúng ta thực sự kéo dài
thánh lễ trong cuộc sống bằng cách thực thi bái ái yêu thương hay chưa. Đồng
thời chúng ta có biết gom góp những hy sinh của cuộc sống để dâng tiến trong
thánh lễ hay chưa.
2. Dâng tiến
lễ vật.
Có một mẩu chuyện kể lại rằng: Trước khi từ giã mái nhà Nagiarét
để lên đường rao giảng Phúc Âm, Chúa Giêsu đã hỏi Đức Mẹ: Thưa Mẹ, Mẹ muốn con
để lại gì cho Mẹ sau những năm Mẹ đã giúp đỡ và an ủi con? Đức Mẹ đã trả lời:
Mẹ chỉ mong được đứng cạnh con dưới chân thánh giá vào ngày thứ sáu hầu kết
hiệp với hy lễ của con.
Đúng thế, kết hiệp với hy lễ của Đức Kitô cũng chính là điểm cao
đẹp nhất mà người tín hữu chúng ta phải thực hiện. Để hiểu được điều đó, chúng
ta hãy nhìn lên bàn thờ và chúng ta sẽ thấy những gì? Trước hết vị linh mục
thượng phẩm chính là Chúa Giêsu. Sau khi thiết lập và cử hành thánh lễ đầu tiên
vào chiều thứ năm tuần thánh, Ngài còn tiếp tục hiện diện và cử hành trong mỗi
thánh lễ. Bởi vì nếu không có Chúa Giêsu thì cũng chẳng có thánh lễ. Và như
sách giáo lý đã dạy, qua bàn tay linh mục chính Chúa Giêsu cử hành thánh lễ và
dâng lên Chúa Cha của lễ tinh tuyền, bởi vì Đức Chúa Giêsu là linh mục đời đời
theo dòng Melchisédech.
Bên cạnh Chúa Giêsu là vị linh mục, đã lãnh nhận bí tích Truyền
Chức Thánh. Nhờ ngài mà bánh rượu sẽ trở nên Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Nhờ
ngài mà thánh lễ được cử hành ở khắp mọi nơi trên mặt đất này. Như chúng ta đã
thấy trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã truyền chức linh mục cho các môn đệ, rồi
trong dòng thời gian, các môn đệ lại truyền chức cho những người khác, như vậy
quyền dâng tiến hy lễ và truyền phép được chuyển thông cho đến tận cùng thời
gian. Vị linh mục rao giảng Lời Chúa, tha thứ tội lỗi và nhất là cử hành thánh
lễ.
Thế nhưng, trong thánh lễ chúng ta không chỉ dừng lại ở đó để
rồi có một thái độ thụ động, mơ mộng hay ngủ gục. Chúng ta không xem lễ như xem
một vở kịch, một cuốn phim, nhưng chúng ta thực sự tham dự bằng cách kết hiệp tâm
tình với những lời vị linh mục đọc và những việc vị linh mục làm. Và dưới một
góc độ nào đó thì trong thánh lễ chúng ta cũng là những người cử hành, những
người dâng tiến.
Để chuẩn bị cho con mình trong thánh lễ mở tay, có một bà mẹ đã
cẩn thật trồng một đám lúa mì. Sau khi đã thu hoạch, bà xay thành bột rồi làm
thành những chiếc bánh. Và trong ngày con bà cử hành thánh lễ đầu tiên, thì
chính bà đã đem những tấm bánh ấy đến nhà thờ để dâng tiến.
Hơn thế nữa, trong ngày chịu phép rửa tội, chúng ta cũng đã được
xức dầu để thánh hiến cho Thiên Chúa và như thế chúng ta cũng được tham dự vào
chức vụ linh mục của Chúa Giêsu, và chúng ta gọi đó là chức linh mục cộng đồng
của mọi người tín hữu, khác với chức linh mục thừa tác của những người được
tuyển chọn qua bí tích Truyền Chức Thánh. Bởi đó trong thánh lễ chúng ta cũng
thi hành chức vụ linh mục, chúng ta cộng tác với Chúa Giêsu, chúng ta góp phần
bằng của lễ cuộc đời chúng ta, đó là những lao công vất vả và những hy sinh
gian khổ chúng ta gặp phải. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng: cử hành thánh lễ
là việc của Chúa Giêsu và các linh mục chứ không phải là việc của tôi. Bởi đó
tôi có thể nghĩ đến những chuyện khác trong khi tham dự thánh lễ. Có ý thức vai
trò của mình, chúng ta mới tham dự thánh lễ một cách sống động và việc tham dự
sống động này mới thực sự đem lại lợi ích cho chúng ta.
3. Ta là Bánh – Lm. Ignatiô Trần
Ngà
Chúa Giêsu dùng một ngôn ngữ vừa hình tượng vừa thân quen để
diễn tả vai trò hết sức quan trọng của Ngài đối với sự sống của chúng ta, đó là
bánh. "Ta là Bánh".
Nếu Chúa Giêsu ở Việt Nam, thì Ngài sẽ nói: "Ta là
cơm", vì ở đất nước chúng ta cơm là thực phẩm hàng ngày của mọi người.
Thân phận của bánh, của cơm là phải chịu nghiền, chịu nhai, chịu
tiêu tan và phân hủy đi để đem lại sự sống cho người khác.
Để trở thành cơm thành bánh nuôi sống con người, thóc lúa bị
phơi ra nắng, kế đó phải bị xay, bị nghiền, bị sàng sảy, chịu trầy vi tróc vảy,
rồi mới thành hạt gạo trong ngần. Hạt gạo nầy lại phải chịu ngâm, chịu vò trong
nước, chịu bỏ vào nồi nấu sôi rồi mới thành cơm. Khi đã thành cơm lại còn bị
hàm răng của con người nhai nghiến, chịu co bóp và phân huỷ trong hệ tiêu hoá
rồi mới thành chất dinh dưỡng đem lại sức sống cho con người.
Nhưng để được lớn lên thành người, ngoài các loại cơm bánh thông
thường, chúng ta còn cần những tấm bánh khác. Xét theo nghĩa rộng, cha mẹ cũng
là cơm bánh cho con, vì nhờ cha mẹ chịu nghiền tán, chịu tiêu hao đi, con cái
mới có thể lớn lên thành người.
Cha mẹ cũng là cơm bánh
Nhà thơ Kiên Giang có những diễn tả rất thiết tha về tình thương
dạt dào của người mẹ, người mẹ hiến mình làm cơm, làm bánh cho con lớn lên:
"Ngày xửa ngày xưa thời trẻ dại
Con đau rên siết mẹ sầu lo
Bán đôi bông cưới mua thang thuốc
Mua bánh tai heo giấy học trò.
Đêm nao con khóc đòi ru ngủ
Mẹ thức mỏi mòn: nhịp võng đưa
Thân lạnh nằm khoanh lòng mẹ ấm
Mẹ ơi! con lớn giữa niềm ru.
Nhớ ngày mẹ ốm nằm trong xó
Chiếu lạnh ủ không ấm vóc gầy
Đau đớn không hề rên siết khẽ
Sợ con nghe tiếng mà buồn lây"...
Mẹ là cơm bánh cho con khi mẹ thức thâu đêm để cho con say nồng
giấc ngủ.
Mẹ là cơm bánh cho con khi mẹ đem bao nhiêu dinh dưỡng trong
châu thân hoá thành dòng sữa nuôi con.
Mẹ là cơm bánh cho con khi mẹ phải hao mòn đi cho con được lớn
lên từng ngày; mẹ phải gầy guộc đi để cho con lớn mạnh; lưng mẹ ngày càng còng
xuống cho con được đứng thẳng hiên ngang.
Mẹ đúng là tấm bánh rất cần thiết cho con. Mẹ chịu nghiền tán,
chịu tiêu hao đi để con thành người khôn lớn.
Chúa là Tấm Bánh cho loài người
Chúa Giêsu phán: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn
bánh nầy sẽ được sống đời đời". Suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu hoá
mình nên như cơm bánh, chịu nghiền tán, chịu tiêu hao đi cho nhân loại được
sống còn.
Chúa Giêsu hoá mình nên cơm bánh cho nhân loại khi Ngài gieo
mình xuống thế, sống kiếp người lam lũ thấp hèn để đồng hành và khai hoá chúng
ta.
Chúa Giêsu là tấm bánh bẻ ra cho nhân loại khi Ngài chịu đau
thương mất mát, chịu tiêu hao, chịu nghiền tán... cho chúng ta được hạnh phúc
và vinh quang:
Ngài hạ mình xuống làm người phàm để cho chúng ta được tôn lên
làm con Thiên Chúa;
Ngài cam chịu vô vàn sỉ nhục cho chúng ta được vinh quang;
Ngài phải mang đầy thương tích cho chúng ta được chữa lành;
Ngài phải chết đi trong đau thương cho chúng ta được sống lại
trong vinh hiển;
Ngài xuống tận âm phủ cho chúng ta được lên cõi trời cao;
Và nhất là qua bí tích Thánh Thể, Ngài hiến ban thân mình như
tấm bánh cho mỗi người chúng ta được ăn Ngài thực sự, để cho chúng ta được trở
nên đồng huyết nhục với Ngài, để Ngài ở trong chúng ta và chúng ta ở trong
Ngài, để Thiên Chúa và con người không còn là hai mà chỉ là một xương một thịt:
Một sự kết hợp nhiềm mầu và đầy yêu thương...
Hôm nay, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta hãy ăn Ngài.
Ăn Chúa Giêsu là vâng nghe lời Ngài phán dạy, là học với Ngài,
noi gương bắt chước Ngài, là uốn nắn đời sống chúng ta nên giống Ngài... để lớn
lên thành người có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức, có văn hoá.
Và một khi đã được nuôi dưỡng hằng ngày bằng bánh Giêsu
-"các con hãy nhận lấy mà ăn"- thì chúng ta cũng được mời gọi trở
thành bánh cho người thân trong gia đình cũng như cho các anh chị em đang sống
quanh ta - "các con hãy làm việc nầy (việc Thầy đang làm) để tưởng nhớ đến
Thầy".
4. Hy lễ
thập giá – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Hôm nay lễ suy tôn Thánh Thể. Nói đến Thánh thể người ta thường
hay nói đến một bữa ăn, một bữa ăn Agape, bữa ăn huynh đệ. Nhưng thực ra,
"Bản chất của Bí tích Thánh Thể không chỉ là bữa ăn chung, mà còn và trước
tiên là hiện tại hóa hy lễ thập giá. Thiếu giá trị hy tế, Mầu Nhiệm Thánh Thể
không có ý nghĩa và chỉ có giá trị như là một buổi gặp gỡ giao hảo và huynh
đệ" (Bí tích cứu độ).
Vì thế hôm nay, chúng ta cùng nhau khơi gợi lại ý nghĩa và những
giá trị thiêng liêng của thánh lễ.
Một họa sĩ người Ý, đã diễn tả giá trị thánh lễ qua bức tranh
như sau: Khi linh mục dâng lễ, trên đầu ngài có 4 thiên thần bay lượn, miệng
ngậm loa, sẵn sàng báo tin ngày chung thẩm của thế giới. Nhưng xem ra các Ngài
còn chờ đợi cho tới khi linh mục cuối cùng này cử hành xong thánh lễ giao hòa
dâng lên Thiên Chúa, mới gióng lên tiếng loa định mệnh này.
Thực vậy, Mẹ Têrêsa thành Calcutta thường hay nói với các chị em
trong dòng rằng: "Không có thánh lễ Misa, chúng ta sẽ ra sao, mọi sự dưới
gầm trời này hẳn sẽ bị tiêu hủy, chỉ có thánh lễ mới ngăn được tay Thiên Chúa.
Không có thánh lễ, chắc chắn giáo hội sẽ không còn tồn tại và thế giới ắt sẽ bị
diệt vong".
Vì cử hành thánh lễ là hiện tái hóa hy tế thập giá năm xưa của
Chúa Kytô trên thập giá. Máu Thánh Chúa được tiếp tục đổ ra cho nhiều người
được tha tội, được ơn cứư độ. Hy tế thập giá của Chúa Kytô hôm qua, hôm nay và
mãi mãi vẫn tiếp tục tái diễn để giao hòa thế gian với Thiên Chúa.
Nhìn vào thế giới hôm nay, người ta thấy tội lỗi mỗi ngày một
gia tăng, sự dữ ngày càng ngập tràn. Tại sao Thiên Chúa không trút cơn thịnh nộ
xuống trên địa cầu? Thưa, bởi vì hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, Con Chiên
Thiên Chúa tế lễ trên bàn thờ, xoa dịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa Cha,
"và tước khí giới nơi bàn tay sẵn sàng sửa phạt của Ngài". Chúng ta
không thể đếm được các tia lửa từ các ông khói tàu thủy tung tóe ra. Thế mà,
các tia lửa đó không gây hỏa hoạn. Vì chúng rơi xuống biển và dập tắt ngay.
Cũng không thể đếm được các tội ác hằng ngày từ trái đất xông lên và đòi sự
công thẳng của Thiên Chúa. Nhưng nhờ sự giải hòa của Thánh lễ, chúng ta được
đẩy vào đại dương của lòng từ bi Thiên Chúa và hình phạt đã không trút xuống
địa cầu.
Thánh Laurensô Giustinianô nói: "lưỡi loài người không thể
kể hết những ơn phúc từ thánh lễ: nào là tội nhân được giao hòa với Thiên Chúa,
người công chính nên công chính hơn, tội lỗi được xóa sạch, nết xấu được giảm
thiểu, nhân đức và công nghiệp gia tăng, kế hoạch của ma quỷ bị bẻ gãy".
Cha sở họ Ars: "Mọi việc lành họp lại cũng không thể so
sánh với thánh lễ Misa, vì mọi việc lành là của loài người, còn thánh lễ là của
Thiên Chúa".
Thế nhưng, hôm nay nhiều người vẫn xem nhẹ thánh lễ. Họ đi lễ
nhưng thiếu tấm lòng đón nhận ơn cứu độ, ơn tha thứ của Chúa. Đi lễ cho qua lần
chiếu lượt. Đi lễ vì luật buộc. Vì người khác đi mình cũng được. Có mấy ai ý
thức giá trị của hiến tế thập giá. Có mấy ai hiểu được hy tế thập giá cần phải
được cử hành mỗi ngày để xin ơn tha tội và để Con Thiên Chúa lại tiếp tục đổ
máu mình ra để giao hòa với Chúa Cha.
Bên cạnh đó, khi tham dự thánh lễ là chúng ta thông hiệp vào Mình
và Máu Thánh Chúa Kytô. Chúng ta được kết hợp nên một trong Chúa Kytô. Chúa
Kytô là Đầu Hội Thánh đã dâng chính mình làm tế lễ, còn chúng ta là những chi
thể trong nhiệm thể của Người, chúng ta cùng ăn một bánh, cùng uống một chén
thánh là chính Mình Máu Thánh Chúa Kytô, chúng ta có cùng chịu hiến tế chính
mình như Đức Kytô là Đầu của Hội thánh hay không? Liệu rằng, chúng ta có thể
đứng nhìn Chúa chịu sát tế, còn mình không chịu làm gì cả, hay chỉ đứng đó như
những khách bàng quang, đứng bên vệ đường nhìn xem máu Chiên Con vô tội đang đổ
ra vì loài người, mà lòng mình không cảm thấy một chút hổ thẹn hay ái ngại
lương tâm? Chúa Kytô vẫn đang đổ máu vì tội lỗi loài người. Giáo hội vẫn đang
hiệp thông với đau khổ của Con Chiên Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ đóng góp phần
vụ gì trong việc đền tội cho thế giới và cứu độ trần gian?
Chúng ta biết rằng, trên bàn thờ tế lễ Giáo hội buộc phải có
tượng Chúa chịu nạn, chính là để nhắc nhở chúng ta phải hy sinh, phải dâng hiến
mình như Chúa Giêsu đã hiến dâng. Phải đóng góp phần chúng ta như Mẹ Maria đã
đóng góp chính nỗi đau khổ xé nát lòng mình, hiệp thông với đau khổ của Chúa
Giêsu để dâng lên Chúa Cha.
Thiết tưởng để thánh lễ thực sự mưu ích cho phần rỗi chúng ta và
cho toàn thể nhân loại. Mỗi người chúng ta cũng phải biết gom góp hy sinh mỗi
ngày như những hạt lúa bị nghiền nát, như trái nho ép thành chén rượu mới có
của lễ để dâng trên bàn thờ. Đó chẳng phải là mồ hôi nước mắt trong lao công
con người làm nên hay sao? Đó chẳng phải là những hy sinh, những chén đắng trong
cuộc đời mà mỗi người chúng ta đang chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa hay sao?
Lạy Chúa, xin nhận lấy hạt lúa nghèo nàn này, nó thuộc về Chúa.
Dưới cối xay của bổn phận trong bậc sống của mình, của những thập giá Chúa gởi
tới. Xin cho con được nghiền nát cho Chúa, và xin cho ngọn lửa tình yêu mến làm
con trở nên một tấm bánh tinh tuyền dâng lên trước tôn nhan Chúa. Amen.
5. “Này là Máu Ta” – ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt
Máu cần thiết cho sự sống. Thiếu máu nhiều bệnh nhân sẽ khó
sống. Hiến máu đã cứu được nhiều người thoát chết. Hiến máu là tặng ban sự
sống. Đó là hình ảnh cuộc hiến mình của Đức Kitô trên thập giá. Trong bữa tiệc
ly, Đức Kitô cho biết Người sẽ đổ máu ra để cứu thế giới khi Người cầm chén
rượu và nói: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống. Này là chén Máu Thầy, Máu
giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội”. Máu để cứu sống,
máu để thiết lập giao ước, máu để tha tội, tất cả những ý nghĩa này đã được
tiên báo trong Cựu ước.
Máu để cứu sống được diễn tả bằng hình ảnh con Chiên Vượt Qua.
Để cứu dân Do Thái ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Chúa truyền cho người Do Thái giết
một con chiên còn trong sạch, lấy máu bôi lên cửa. Đêm hôm ấy, thiên thần Chúa
đến trừng phạt người Ai Cập, nhà nào có máu chiên bôi trên cửa sẽ được cứu
thoát. Để tưởng niệm việc được cứu sống và được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai
Cập, từ đó, hằng năm vào đúng ngày ấy, người Do Thái vẫn giữ tập tục giết chiên
mừng lễ. Lễ đó gọi là lễ Vượt Qua. Con chiên bị giết gọi là con chiên Vượt qua.
Khi hiến mình đúng vào dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu trở thành Chiên Vượt Qua mới.
Máu Người đổ ra cứu linh hồn ta khỏi nô lệ tội lỗi và khỏi chết. Các thánh Giáo
phụ cắt nghĩa rằng: Miệng ta là cửa linh hồn. Người rước Mình Máu Thánh Chúa
vào miệng cũng như bôi máu chiên lên cửa nhà, sẽ được cứu sống và được giải
thoát khỏi nô lệ tội lỗi.
Máu giao ước được diễn tả qua nghi lễ ông Môsê cử hành dưới chân
núi Sinai. Bài đọc thứ nhất hôm nay thuật lại: “Ông Môsê sai các thanh niên
trong dân Israel tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông
tế Chúa. Ông lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy
lên bàn thờ. Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: Tất cả những
gì Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và sẽ tuân theo. Bấy giờ, ông Môsê lấy máu
rảy trên dân và nói: Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em”. Đó là giao
ước cũ hay là Cựu ước.
Tại Việt Nam cũng như tại các nước Á Đông có tục “uống máu ăn
thề”. Khi muốn giao kết với nhau, mỗi người lấy một chút máu của mình hòa chung
vào một chén rượu. Sau đó mọi người chia nhau cạn chén. Việc uống máu ăn thề
nói lên sự đồng tâm nhất trí. Những người cùng uống chung chén rượu pha máu trở
nên ruột thịt với nhau, cùng sống cùng chết với nhau. Đức Giêsu đổ máu ra để
lập một giao ước mới giữa loài người với Thiên Chúa. Máu Đức Giêsu giao hòa con
người với Thiên Chúa và con người với nhau. Máu giao ước đó làm cho con người
trở thành con cái ruột thịt của Thiên Chúa và trở nên anh em ruột thịt với
nhau. Đó là máu giao ước.
Máu để tha tội được dùng nhiều trong Cựu ước. Khi dâng lễ đền
tội, người ta cũng xả thịt một con vật dâng cho Thiên Chúa. Thày cả lấy máu con
vật vảy lên tội nhân để ban ơn tha tội. Khi ta rước Mình Máu Thánh Chúa, ta
cũng được tha tội vì Máu Chúa không vảy lên thân xác, nhưng vảy vào linh hồn
ta.
Những ý nghĩa mà máu súc vật trong Cựu ước tượng trưng nay được
hoàn thành viên mãn trong Máu Đức Kitô.
Nhân loại đang rên xiết trong ách nô lệ đã được Người giải
thoát. Nhân loại đang xa lìa Thiên Chúa và bất hòa với nhau đã được Người giao hòa
thành một gia đình thương yêu thuận hòa, sống chết có nhau. Nhân loại đang sống
trong tội lỗi được Máu Người tẩy sạch mọi vết nhơ.
Chúng ta được ân phúc dường ấy là nhờ Người đã tự hiến mạng sống
vì ta. Dòng Máu Người đổ ra đến đâu đem lại sự sống đến đấy. Dòng Máu Người lan
tới đâu thì ban ơn tha tội đến đấy.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy cảm tạ tình yêu vô biên của
Người đã hiến mình, đổ máu để cứu chuộc ta.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy đáp lại tình yêu của Người
bằng cách siêng năng đến lãnh nhận và siêng năng đến thờ lạy Đức Giêsu ngự
trong phép Thánh Thể.
Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy noi gương Người, biết quên
mình, hiến thân phục vụ đồng loại.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có tham dự Thánh lễ và chịu lễ sốt sắng không?
2) Mỗi khi chịu lễ, bạn có cảm nghiệm được Đức Giêsu ngự trong
bạn không?
3) Yêu mến Chúa trong phép Thánh Thể, bạn có muốn nên giống
Người, biết hiến thân phục vụ đồng loại không?
4) Trong Kinh Thánh, máu có những ý nghĩa nào?
6. Hiến
lễ tình yêu – Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc
Đối với tất cả những người Công giáo chúng ta thì Hiến tế trên
Thập Giá là nơi Chúa Giê su đã đổ máu ra để ban ơn cứu độ, là nơi Chúa tuyên
bố: “Mọi sự đã hoàn tất”(Ga 19,30), vì hiến lễ Misa chính là Hiến lễ Thập Giá
kéo dài. Thế nhưng, khi chúng ta cùng các tông đồ đi vào bàn tiệc dự bữa Tiệc
Ly với Chúa, chúng ta đã thấy Máu Chúa đổ ra ngay từ trong bữa Tiệc ly, vào lúc
Chúa Giêsu cầm lấy chén và trao cho các tông đồ: “Này là Máu Thầy, Máu giao ước
mới sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”(Mc 14,24). Không phải ở
trên cây Thánh Giá, Máu Chúa mới đổ ra, mà ngay giờ phút này, Máu Chúa đã đổ ra
cho nhiều người được tha tội, và các tông đồ là những người đầu tiên được ăn
Thịt Chúa và uống Máu Chúa từ Nhà Tiệc Ly.
Hiến lễ Misa là hiến lễ được kéo dài từ Hy tế Thập Giá nhưng
cũng bao hàm cả giờ phút xúc động Chúa lập phép Mình Thánh, Máu Thánh trong bữa
Tiệc Ly. Có thể thấy, Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta chương trình cứu độ,
không phải bằng mồ hôi – là những biểu hiện vất vả đời trần thế – hay bằng
những con đường chông gai vác Thập Giá, mà ở đỉnh cao nhất, đó là Hiến Tế Cuộc
Đời, trao ban Mình và Máu Ngài cho toàn dân.
Máu là biểu hiện của sự sống. Vì thế, khi người ta thề hứa với
nhau một điều gì trọng đại thì người ta thường gọi là “Uống máu ăn thề” (Thành
ngữ). Người Do Thái ngày xưa, khi muốn hiến dâng cho Thiên Chúa một lễ vật tinh
tuyền và đẹp lòng Thiên Chúa thì người ta muốn dâng sự sống của mình, nhưng vì
mạng sống của con người cao quý nên được thay thế bằng mạng sống của chiên cừu
dâng tế lễ cho Thiên Chúa. Do đó, máu chiên được bôi lên thành cửa (tại đất
nước Ai Cập) được biểu hiện là sự sống. Sự sống không chỉ của thể xác, mà sự
sống của linh hồn. Sự sống thể xác là lễ Vượt qua của thời Cựu Ước, khi Thiên
thần Chúa đi qua, thấy máu chiên bôi trên thành cửa thì để cho nhà đó được bình
an, nhưng nhà nào không có máu bôi trên thành cửa thì Thiên thần Chúa lập tức
giết chết con đầu lòng của nhà đó (x. Xh 12, 1-14). Năm ấy, cả đất nước Ai Cập
đều có đại tang. Còn bên đất nước Israel thì sự sống tràn đầy và bình an đã làm
cho toàn dân Do Thái được sống hạnh phúc. Sang thời Tân Ước, Máu của Chiên
Thiên Chúa, từ nhà Tiệc Ly cũng như từ trên Thập Giá đổ ra đã trao ban cho tất
cả mọi người, cho sự sống linh hồn được bảo đảm. Vì vậy, máu là biểu hiện của
tình yêu, của giao ước. Và Chúa Giêsu gọi giao ước này là giao ước mới, mặc dầu
xét về bề ngoài, trước sau vẫn là máu, nhưng giao ước mới được đổ ra từ Chiên
Thiên Chúa. Giao ước ấy mới hoàn tất được Chương trình Cứu độ và trao ban sự sống
đời đời cho những kẻ tin.
Bí tích Thánh Thể mà chúng ta cử hành mỗi ngày là nhắc lại cho
chúng ta một hiến tế tình yêu, một hiến tế mà Chiên Thiên Chúa đã bị sát tế và
lễ Vượt qua của thời Tân Ước hôm nay không phải chỉ vượt qua Biển Đỏ, mà còn
vượt qua cả sự chết để được vào đất hứa là Thiên Đàng. Với một ý nghĩa quan
trọng đó, Bí tích Thánh Thể là nơi hội tụ của tình yêu, là nơi kết tinh của
trời đất, là trung tâm điểm của ơn cứu độ. Nơi đây, chúng ta đến không phải
bằng lòng tin mà cả bằng lòng kính mến, vì tình yêu phải đáp đền bằng tình yêu,
mà bí tích Thánh Thể là Bí tích Tình yêu đã được Đức Giê su thiết lập không
phải là bằng một lời phán, và cũng không phải chỉ là bằng những biểu tượng bên
ngoài nhưng là chính Thịt và Máu Ngài từ tay Ngài trao cho các tông đồ, Ngài
nói: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, các con hãy cầm lấy mà uống. Này là Mình Ta,
này là Máu Ta”. Một giao ước mới được ký kết trong chính Thân Mình và Máu Chúa
Giêsu. Giao ước ấy là Giao ước Tình yêu Hiến tế. Vì vậy, đức tin chưa đủ mà cần
phải có lòng mến tha thiết để đáp lại tình yêu vô cùng của Chúa đã trao ban cho
chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể yêu thương.
Điều lạ lùng trong Bí tích Thánh Thể đó là dùng tình yêu để xóa
đi hận thù; dùng tình yêu để cảm hóa những oán ghét. Đức Giêsu đã dùng tình yêu
của mình trên Thập Giá để xóa tội trần gian, và tình yêu ấy đã làm cho những kẻ
thù của Chúa Giêsu phải thốt lên: “Người này đích thực là người công chính”(Lc
23,47). Tình yêu ấy đã làm cho bao nhiêu những người từ trong cõi chết sống
lại. Tình yêu đánh thức tất cả nhân loại và đánh thức tất cả những ai đang ở
trong cõi chết. Đến với Bí tích Thánh Thể không chỉ bằng lời nói mà bằng cả
việc làm, bằng lòng yêu mến, bằng những hy sinh có thể được và bằng sự kết hợp
tha thiết với Chúa Giêsu. Lời Chúa Giêsu tha thiết thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha,
Con muốn rằng con ở đâu thì những kẻ Cha ban cho Con cũng ở đó với Con” (Ga
17,24). Bí tích Thánh Thể đã phát xuất từ lời cầu nguyện Hiến tế của Chúa Giêsu
để đưa chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, và khởi
đi từ Bí tích Thánh Thể với việc chúng ta ăn Thịt và uống Máu Ngài, chúng ta
được trở nên sự sống trong Đức Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa Hằng Sống.
Chúng ta là người Kitô hữu, chúng ta không chỉ mặc lấy danh hiệu
Kitô hữu mà còn được nên đồng hình đồng dạng với Ngài, vì được ăn Thịt và uống
Máu Ngài, được ở trong Ngài. Khi chúng ta ý thức như vậy thì Bí tích Thánh Thể
làm cho người ta được tẩy sạch tội lỗi. Như trong sách Khải Huyền của thánh
Gioan diễn tả: “Tôi thấy một trăm bốn mươi bốn ngàn người thuộc đủ mọi thành
phần, giai cấp. Họ mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành thiên tuế”. Và thánh Gioan
tả tiếp: “Tôi hỏi những người này từ đâu mà đến thì được trả lời ‘họ từ đau khổ
lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trong Máu của Con Chiên’”(Kh 7, 9,14).
Chính Máu Đức Giêsu Kitô đã tẩy sạch trần gian, đã tha thứ tội lỗi và đã đưa
những người yêu Chúa vào sống trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tất cả được khởi điểm từ Bí tích Thánh Thể. Cho nên, điều mà
Chúa Giêsu tiên quyết: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời, và
Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại vào ngày sau hết”(Ga 6,54). Những lời tiên quyết của
Chúa Giê su đã khiến nhiều môn đệ của Người thốt lên: “Lời này chói tai quá, ai
mà nghe được. Từ lúc đó nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa”(Ga 6,
60, 66). Chỉ có tông đồ Phê rô đại diện tông đồ đoàn mười hai đã thưa với Chúa
Giê su rằng: “Chúng con bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai? Thầy mới có những
lời ban sự sống đời đời”(Ga 6, 68-69).
Hôm nay, sự sống đời đời nơi Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta:
Hãy cầm lấy mà ăn; hãy cầm lấy mà uống. Một lần nữa, mỗi người chúng ta đến với
Bí tích Thánh Thể trong tất cả lòng tin yêu của người Kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu Kitô Thánh Thể,
Chúa đã cho chúng con được mặc lấy danh hiệu Kitô hữu.
Chúa còn cho chúng con ăn Thịt và uống Máu Chúa,
để chúng con được đồng hóa trong Chúa
và được sống bằng sức sống của Chúa
là sự sống của Tình yêu Thiên Chúa Ngôi Hai nhập thể làm người.
Xin cho chúng con thực hiện được lời Chúa đã cầu nguyện, đó là:
“Chúa ở đâu, chúng con cũng ở đó với Chúa”,
và để chúng con được nên một
trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi
là Cha và Con, và Thánh Thần. Amen.
7. Lễ
Mình Máu Thánh Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Chúa Nhật thứ hai sau lễ Hiện Xuống, Giáo Hội mừng lễ Mình Máu
Thánh Chúa Kitô. Đây là lễ rất quan trọng, vì nó diễn tả sự hiểu biết và niềm
tin của Kitô hữu vào Đức Giêsu Kitô.
I. Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến tuyệt vời
Khi Thiên Chúa đưa dân Do Thái ra khỏi Aicập, dân đã phải đi
trong hoang địa bốn mươi năm trường. Giữa chốn hoang vu như vậy và không canh
tác, làm sao dân có lương thực để ăn? Thiên Chúa đã cho Manna từ trời rơi xuống
để nuôi dân. Đây là một điều rất lạ lùng trong lịch sử loài người. Dân Do Thái
đã tưởng rằng Môsê là người đã cho dân Manna, nhưng Đức Giêsu đã đính chính:
“Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi
trời đâu, mà chính là Cha tôi đã cho các ông ăn bánh bởi trời…” (Ga. 6, 32).
Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, cũng là bữa tiệc Đức
Giêsu và các môn đệ làm theo truyền thống Do Thái tưởng niêm lễ Vượt Qua, Đức
Giêsu cầm lấy bánh và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị
trao nộp vì anh em;” cũng tương tự vậy, Ngài cầm lấy chén rượu, dâng lời tạ ơn
và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà uống, này là chén máu thầy, máu giao ước mới,
giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra vì anh em” (Mc. 14, 23-24).
Bí tích Thánh Thể là sáng kiến tuyệt vời của Đức Giêsu. Bí tích
Thánh Thể là biểu tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, cho thấy Đức
Giêsu đã tự nguyện chấp nhận cái chết, điều mà hôm sau như thể Đức Giêsu không
thể nào trốn thoát được. Đức Giêsu như tấm bánh được bẻ ra nuôi sống nhiều
người. Đức Giêsu là lương thực, là sự sống cho con người. “Ai không ăn bánh
này, sẽ không có sự sống nơi mình” (Ga.6, 53).
II. Bí tích Thánh Thể hàm chứa một mặc khải sâu xa
“Làm sao một người lại có thể lấy máu thịt mình nuôi sống chúng
ta?” (Ga. 6,52). Người ta dùng cơm bánh để sống chứ không ai ăn thịt uống máu người
khác để sống. Quả thực lời nói của Đức Giêsu thật “khó nghe” đối với không chỉ
con người đương thời nhưng cả với con người của mọi thời đại. Đứng trước người
phát biểu lời này, người ta sẽ nghĩ, hoặc đây là một người điên, hoặc đây là
một người rất đặc biệt.
Đứng trước lời nói “sống sượng” của Đức Giêsu, một số đông dân
chúng đã bỏ không đi theo Đức Giêsu nữa. Cả một số môn đệ xưa nay đi theo Ngài,
cũng bỏ Ngài: “Lời chi mà sống sượng thế, ai nghe cho nổi” (Ga. 6,60). Đức
Giêsu cũng nhận ra điều đó; Ngài hỏi nhóm mười hai: “còn các anh, các anh có
muốn bỏ đi không?” (Ga. 6,67); và Phêrô đã có một câu trả lời rất đặc biệt: “bỏ
Thầy thì chúng con biết theo ai, Thầy có lời ban sự sống đời đời” (Ga. 6,68).
Thật sự, không thể ngờ rằng Phêrô có câu trả lời rất đặc biệt như vậy. Không có
ơn từ trên, Phêrô không thể có câu trả lời như vậy. Không có ơn từ trên, người
ta không thể tin bí tích Thánh Thể được.
Làm sao một người lại có thể là lương thực nuôi sống người khác?
Nếu không phải là người bị khùng điên, thì hẳn phải là một người rất đặc biệt.
Người này phải có một nguồn gốc thần linh. Những người chấp nhận lời nói này
của Đức Giêsu, phải là người được ơn như Phêrô và các môn đệ, nhận ra nguồn gốc
siêu vượt của Đức Giêsu. Nếu chỉ là phàm nhân, thì không thể lấy thịt máu mình
nuôi sống người khác. Đức Giêsu là người thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức
Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật. Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể.
III. Bí tích Thánh Thể quy tụ và phát triển Giáo Hội Chúa Kitô
Ngày xưa người Do Thái đã có thói quen tụ họp nhau vào ngày
sabbát để nghe đọc Lời Chúa. Chính thánh Phaolô cũng dùng những dịp người Do
Thái gặp nhau này để rao giảng Đức Giêsu phục sinh cho người Do Thái. Với niềm
tin vào Đức Giêsu phục sinh, Kitô hữu tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa và cử
hành nghi thức bẻ bánh: “Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà
phán…” (Mc.14, 22). Kitô hữu không chỉ tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa, mà
còn để ăn thịt và uống máu Chúa, để có sự sống đời đời.
Ngày xưa khi nghệ thuật in ấn chưa phổ biến, việc tụ họp nhau để
nghe Lời Chúa và được nghe giải thích Lời Chúa là chuyện cần thiết. Ngày nay,
với phương tiện hiện đại người ta có thể có sách Lời Chúa để đọc hằng ngày,
được nghe diễn giải Lời Chúa bất cứ lúc nào người đó muốn, nên nếu chỉ để nghe
Lời Chúa, thì người ta không cần đến với nhau nữa. Tuy nhiên, Kitô hữu vẫn tiếp
tục tụ họp nhau, không chỉ để nghe Lời Chúa nhưng còn để tham dự nghi thức bẻ
bánh, để tham dự bí tích Thánh Thể.
Hiểu như trên, người ta nhận ra nét đặc biệt của giáo huấn về bí
tích tư tế thừa tác nơi Hội Thánh Công Giáo. Bí tích Thánh Thể qua thừa tác
viên tư tế mang tính xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô. Không phải tất cả mọi người
đều có thể cử hành bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể không chỉ là dấu chỉ
mình máu thánh Đức Giêsu Kitô, nhưng là biểu tượng, là dấu chỉ thực, vừa là dấu
chỉ vừa là thực tại, là chính mình máu Đức Kitô. Chức vụ tư tế phổ quát, tư tế
vương giả của mọi Kitô hữu, giúp Kitô hữu tham dự thánh lễ và rước Mình Máu
Thánh Chúa Kitô. Niềm tin vào bí tích Thánh Thể diễn tả sự hiểu biết sâu xa của
Kitô hữu về chính Đức Giêsu, đồng thời củng cố nuôi dưỡng Hội Thánh. Đức Giêsu
không chỉ là con người, nhưng còn là Thiên Chúa nhập thể. Chính Thiên Chúa xây
dựng và củng cố Hội Thánh của Ngài qua bí tích Thánh Thể. Đức Giêsu Kitô củng
cố và nuôi dưỡng Hội Thánh Chúa mỗi ngày.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có bị khủng hoảng niềm tin vào bí tích Thánh Thể bao giờ
chưa? Nếu được xin chia sẻ.
2. Bí tích Thánh Thể có giúp bạn sống đức tin Kitô hữu không?
3. Đức Giêsu Kitô hiện diện nơi cung lòng bạn và hiện diện nơi
bí tích Thánh Thể khác nhau như thế nào? Xin giải thích theo sự hiểu biết của
bạn.
8. Mầu
nhiệm tình yêu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được
sống”. Đó là lời của bà Suzanna sau khi được cứu trong trận động đất ở Armêni
vào tháng 12/1987. Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch, có hai
mẹ con bà Suzanna may mắn còn sống sót. Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước. Tìm
đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý
nghĩa táo bạo, đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ
khát nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu.
Câu truyện trên giúp chúng ta hiểu phần nào bí tích Thánh Thể.
Chúa Giêsu đã chết để chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái
chết thập giá và Ngài lấy Thịt Máu Ngài làm lương thực nuôi sống chúng ta.
Chính trong bối cảnh lễ Vượt Qua của người Do Thái, Chúa Giêsu
đã thiết lập bí tích Thánh Thể, bí tích của Giao Ước mới: Chúa Giêsu cầm lấy
bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ, đó là cử chỉ thuộc nghi
thức bữa tiệc Vượt Qua (x.Xh 12,26-27). Nhưng lời mời gọi: “Các con hãy cầm lấy
mà ăn, này là Mình Thầy”, Chúa Giêsu đã biến đổi ý nghĩa của cử chỉ thuộc lễ
Vượt Qua cũ, và làm cho nó trở thành cử chỉ của riêng Ngài. Cả lời Chúa phán
trên chén rượu cũng vậy: “Này là chén Máu Thầy, Máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho
nhiều người được tha tội”. Lời này đã gợi lại Giao Ước Sinai, nhưng ở đây giao
ước không còn được niêm ấn bởi máu chiên bò, mà là máu của chính Con Một Thiên
Chúa, máu có hiệu lực thanh tẩy tội lỗi (Bđ. 2)
Hơn nữa, nếu trong lễ Vượt Qua, người ta cùng ăn thịt con chiên
chịu sát tế, thì cử chỉ Chúa Giêsu bẻ bánh, trao cho, ám chỉ thân xác Chúa bị
xâu xé, hiến cho người khác, và lời nói: “Máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều
người…” lại càng làm nổi bật ý nghĩa hy tế của lễ Vượt Qua mới, tức là Bàn Tiệc
Thánh Thể. Nói cách khác, dưới hình thức bánh rượu, Chúa Giêsu đã thể hiện
trước, đã cảm nếm trước cuộc vượt qua của chính Ngài, tức là cuộc khổ nạn và
Phục Sinh sẽ xảy ra hôm sau. Ngài biến cái chết thành hy lễ cứu độ đem là sự
sống, thành quà tặng và lương thực siêu nhiên cho tất cả những ai tin vào Ngài.
Nhờ đó, các môn đệ Chúa Giêsu khi ăn bữa tiệc này, đã được dự phần vào Giao Ước
mới, được hiệp thông với Ngài trong biến cố chết và sống lại, được cùng với
Ngài đi từ cõi chết vào cõi sống muôn đời. Và cũng từ đó, qua muôn thế hệ, mỗi
lần cử hành Thánh Thể, một mặt Giáo Hội tái diễn và hiện tại hoá cuộc hiến tế
của Chúa Giêsu để nhớ đến Ngài; mặt khác, Giáo Hội lại hướng về tương lai,
hướng tới ngày Chúa đến trong vinh quang để đưa chúng ta vào dự bàn tiệc Nước
Trời, bàn tiệc viên mãn đã được khơi mào từ Bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay.
Theo lời Chúa truyền dạy: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”
(1Cr 11,24b), mỗi ngày và đặc biệt trong ngày Chúa Nhật, Giáo Hội cử hành Thánh
Thể để nhắc con cái mình nhớ đến tình yêu của Đấng đã hiến mạng sống vì nhân
loại, Đấng ấy vẫn đang hiện diện để trao ban cho nhân loại bánh sự sống là
chính Mình Máu Ngài. Vì thế, khi tham dự Thánh Lễ, tôi không hiện diện như khán
giả xem một vở kịch, cũng không phải chỉ nhớ đến một kỷ niệm trong quá khứ
không liên hệ gì đến cuộc sống thực tế, nhưng là hiệp thông sự sống với Chúa
Kitô, là chia sẻ hy tế thập giá của Ngài và cùng với Ngài tôi hiến dâng thân
mình làm lễ tế sống động đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12,1). Do đó, khi tham dự
Thánh Lễ, tôi không lập đi lập lại những cử chỉ, những động tác theo thói quen,
nhưng tôi hiến dâng cho Chúa niềm vui nỗi buồn, những lo âu và hy vọng, những
tâm tư thao thức của tôi. Nói chung là tất cả những gì đan dệt nên cuộc sông
đời thường đều có thể trở thành hy lễ dâng lên Thiên Chúa, những hy lễ như dấu
chỉ tình yêu của tôi nhằm đáp trả Đấng đã yêu thương đến nỗi hiến ban chính Con
Một yêu dấu cho tôi.
Mặt khác, Thánh Thể không chỉ tạo mối tương quan ân tình giữa
Chúa và cá nhân tôi, nhưng còn mờ rộng, bao trùm mọi người. Thật vậy, bí tích
Thánh Thể đã được Chúa Giêsu thiết lập trong bầu khí thân tình của một bữa ăn
từ giã. Tấm bánh Chúa Giêsu đã cầm và phân chia cho các môn đệ chính là bánh
của bữa ăn hằng ngày nơi Ngài sống. Chén rượu cũng vậy, và bánh ấy, rượu ấy, đã
được biến đổi thành Mình Máu Ngài. Do đó mầu nhiệm Thánh Thể còn là mầu nhiệm
chia sẻ, chia sẻ để mọi người cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ, và chính
việc chia sẻ này đã được Chúa Giêsu dùng như dấu chỉ các môn đệ làm để nhớ đến
Ngài: Hai môn đệ đi Emmau đã nhân ra Đấng Phục Sinh và chính lúc Ngài “cầm lấy
bánh chúc tụng, đoạn bẻ ra trao cho hai ông…” (Lc 24,30-31).
Ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người chúng ta không được đóng khung
nhưng buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh
Thể, mầu nhiẹm yêu thương ngay trong cuộc đời mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể
cử hành Thánh Thể một cách trung thực, nếu chúng ta sống dững dưng ích kỷ, bưng
tai bịt mắt trước nhưng anh em đói khát khốn cùng, đòi khát cơm bánh vật chất,
nhất là đói khát công lý và tình thương.
Giờ đây, chúng ta sắp cùng nhau chia sẻ Bàn Tiệc Thánh Thể, chia
sẻ Mình Máu Chúa Kitô, Đấng đã hiến cả cuộc đời mình nên của lễ tình yêu. Xin
Chúa giúp chúng ta, một khi đã hiệp thông với Ngài, thì cũng biết thông hiệp
với anh em bằng cuộc sống yêu thương phục vụ, Có như thế, Bàn Tiệc Thánh Thể sẽ
trở nên điểm hẹn diệu kỳ, nơi đây chúng ta được nối kết với Chúa Kitô, thông
chia cùng một sự sống với Ngài. Nơi đây, chúng ta nối kết với mọi người anh em,
để cùng nhau xây dựng một thế giới công bằng, yêu thương, đang lúc chờ đợi Bàn
Tiệc hạnh phúc vĩnh cửu trong vinh quang Nước Trời.
9. Đây là Mình Thầy, đây là
Máu Thầy
(Suy niệm của Noel Quesson)
Năm 1263, một linh mục người Đức cử hành Thánh Lễ ở nhà thờ kính
Thánh Christiana. Lúc bẻ bánh, đột nhiên, linh mục thấy Mình Thánh không còn là
hình bánh, mà đã biến thành Thịt và Máu thực. Những giọt máu loang ra thấm ướt
tấm khăn Thánh trên bàn thờ. Linh mục vội gấp khăn lại, nhưng gấp tới đâu, máu
thấm ra tới đó, máu thấm qua 25 lần vải. Vị linh mục vừa cảm động vừa sợ hãi
đến mức không tiếp tục Thánh Lễ được.
Ngài tới yết kiến Đức Giáo Hoàng Urbanô và kể lại sự kiện ấy.
Đức Giáo Hoàng sai một Giám Mục đến rước Mình Thánh cùng tấm khăn đẫm máu về
Tòa Thánh đặt ở nhà thờ chánh tòa cho giáo dân thờ kính. Năm sau, (1264) vào
ngày mồng 8 tháng 9, Người ra sắc dụ lập lễ kính Thánh Thể trong toàn Giáo Hội
như chúng ta mừng kính hôm nay.
Đã có nhiều phép lạ về Thánh Thể. Chắc Chúa Giêsu muốn củng cố
niềm tin của chúng ta vào bí tích này, cho chúng ta hiểu rõ ý định của Người
khi lập phép Thánh Thể, đó thực là của nuôi linh hồn chúng ta, cần thiết cho
linh hồn cũng như đồ ăn cần cho thân xác. Đó thực là Thịt và Máu của Chúa, dù
mắt thường không nhận rõ thực tại này.
Trong Thánh Lễ, linh mục làm những cử chỉ Chúa đã làm trong bữa
Tiệc ly, cũng đọc những lời Chúa đã đọc: “Các con làm việc này để nhớ đến
Thầy”. Làm việc này là việc gì? Là cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và
phân phát cho mọi người.
Bí tích Thánh Thể là trung tâm đời sống Kitô hữu. Trước hết vì ở
đây cử hành mầu nhiệm Cứu độ. Chúa Giêsu đã chết để cứu chuộc nhân loại. Người
chết vì yêu thương chúng ta. Ngoài việc chết một lần trong lịch sử, Chúa còn
dùng Thịt và Máu nuôi dưỡng ta, để biểu lộ Tình yêu của Chúa, để ta thông hiệp
với sự sống vô biên của Chúa, của một vị Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta cho
đến muôn đời. Những thực tại này được thể hiện trong bí tích Thánh Thể, trong
Thánh Lễ. Sống cuộc sống thế trần chúng ta cốt đem sự sống tới cho loài người
và bí tích Thánh Thể chính là suối nguồn sự sống. Chúng ta cần năng tiếp xúc
với nguồn sống đó, chúng ta mới có sự sống để có thể chuyển thông sự sống ấy
cho người khác.
Trong Thánh Lễ, chúng ta được đón nhận Lời Chúa và tiếp nhận
Mình Chúa vào tâm hồn. Lời Chúa đã thành cụ thể đi vào tâm hồn ta khi ta tiếp
nhận Mình Chúa. Chúa đã hiến mạng sống cho mọi người và trao ban chính mình cho
chúng ta như là bánh sự sống, vì lẽ đó, tiệc Thánh Thể là nhiệm tích Mình và
Máu Đức Kitô, nhiệm tích của sự hiện diện đích thực của Đức Kitô. Chính Thánh
Linh đã làm cho Đức Kitô thực sự có mặt và hiến ban trong Bánh và Rượu (Conseil
oecuménique năm 1974).
Tiệc Thánh Thể còn là cuộc họp mặt của các tín hữu. Muốn được Ơn
Chúa, chúng ta phải hiệp nhất với nhau. Thánh Thể là dấu hiệu hiệp nhất rõ ràng
và vững chắc: chỉ có một tấm bánh, một chén rượu chia ra cho mọi người. Trong
chúng ta đều lưu hành một của ăn và một thức uống, đều có chung một nguồn sống.
Từ Thánh Lễ đi ra, chúng ta ý thức mình là một phần chi thể, là Thịt Máu Đức
Kitô, chúng ta mang Đức Kitô trong mình. Trong khi đó, người anh chị em bên
cạnh ta cũng là phần chi thể Máu Thịt Đức Kitô như ta. Còn gì gần gũi hơn và
thân thiết hơn thế.
Lạy Chúa, nhờ bí tích Thánh Thể, chúng con được hòa nhập vào sự
sống Thánh thiện của Chúa. Nhờ hiến lễ Tạ Ơn, chúng con cũng được tôn vinh
Thiên Chúa; nhờ Tiệc Thánh, chúng con được hiệp nhất với nhau trong Ngài. Chúng
con xin cảm tạ Ngài.
10. Thánh Thể
– Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Trong một số nhà thờ, nơi gian cung thánh hay trước bàn thờ có
chạm trổ hình con chim bồ nông mẹ đang truyền của ăn cho các chim con. Biểu
tượng của chim bồ nông mẹ nuôi con có gốc tích trong truyền thuyết cổ xuất hiện
trước thời Kitô giáo. Theo truyền thuyết, trong mùa đói khát, chim bồ nông mẹ
đã lấy mỏ tự mổ vào ngực để dùng máu mình mà dưỡng nuôi các con. Có một truyền
thuyết khác nói rằng chim bồ nông mẹ đã dùng máu mình để tái sinh các con đã
chết, nhưng chính mẹ lại bị chết. Chúng ta dễ hiểu tại sao các Kitô hữu thời sơ
khai đã dùng hình ảnh này để ám chỉ Chúa Giêsu. Chim bồ nông mẹ là biểu tượng
Chúa Giêsu cứu độ đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Con người đã chết
trong tội và được vui hưởng sự sống mới qua giá Máu Châu Báu của Chúa Kitô.
Bí tích Thánh Thể còn được gọi là Bí tích Tạ Ơn (Thanksgiving).
Chúa Giêsu đã lập Bí tích này trong Bữa Tiệc Ly như là Giao Ước mới. Ngày xưa,
ông Môisen đã dâng lễ toàn thiêu và hiến dâng Thiên Chúa của lễ đền tội. Dân
Dothái đã giết những con bò tơ làm hy lễ giao hoà. Ông Môisen hướng dẫn Dân
theo nghi thức hoà giải. Ông dâng của lễ và mời gọi dân chúng đồng lòng tuyên
xưng niềm tin vào Thiên Chúa: Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ
thưa: “Tất cả những gì Thiên Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo”
(Xh 24,7). Ông lấy máu rảy trên dân để ký kết giao ước: “Đây là máu giao ước
Thiên Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24,8).
Tác giả thư gửi tín hữu Do thái diễn tả về Chúa Giêsu: “Người đã
vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của
mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho
chúng ta” (Dt 9,12). Ngày xưa người ta dùng máu dê và tro bò rảy trên kẻ ô uế
còn thánh hoá được thân xác nên trong sạch, thì nay Chúa Kitô đã hiến tế chính
máu mình để tẩy sạch tội lỗi chúng sinh. Trước khi dâng mình hiến tế trên thánh
giá, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly. Thánh Marcô đã ghi
lại: Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra,
trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy” (Mc 14,22).
Bánh và rượu là của ăn, của uống nuôi sống chúng ta hằng ngày. Hình ảnh tấm
bánh được kết thành bởi muôn hạt miến và chén rượu được ép bởi muôn ngàn trái
nho chín. Chúa dùng cả bánh và rượu để biến đổi nên Mình và Máu Thánh Chúa: Và
Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống
chén này. Người bảo các ông: “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra vì muôn
người” (Mc 14,23-24).
Qua quyền năng của Chúa Thánh Thần và các linh mục lập lại lời
truyền phép của Chúa Giêsu Kitô, Linh Mục thượng phẩm, bánh và rượu đã trở nên
Mình Máu Chúa. Sau khi đọc lời truyền phép, linh mục chủ tế đã tuyên xưng: Đây
là mầu nhiệm đức tin. Chúng ta tin thật Chúa Giêsu ngự trong Bí tích Thánh Thể.
Sự biến đổi bản thể của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Lúc
chúng ta lên rước lễ, trước khi trao Mình Thánh, linh mục nói: Mình Thánh
Chúa Kitô, chúng ta thưa: Amen. Khi trao Máu Thánh, linh
mục hay thừa tác viên nâng cao chén thánh và nói: Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta
thưa: Amen. Bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm của đời sống người Kitô hữu.
Chúa Giêsu hiện diện thật trong Bí tích Thánh Thể. Tín hữu trong Giáo hội Công
giáo tin nhận Chúa Giêsu hiện diện thật nơi Nhà Tạm và Mình Thánh là của ăn
đàng cho những kẻ đau yếu bệnh hoạn hay trong cơn hấp hối.
Chúa Giêsu đã dưỡng nuôi chúng ta bằng Mình và Máu Thánh. Hình
ảnh thứ hai rất thân thương và gần gũi là người mẹ nuôi con cũng bằng chính
dòng sữa của mình. Các trẻ thơ đã được bú trực tiếp từ nguồn sống của người mẹ.
Ở các nước chậm phát triển, các bà mẹ thường cho con bú từ 6 tháng tuổi cho tới
2 năm. Chúng ta biết nguồn sữa từ vú mẹ là loại sữa tốt nhất trong các loại
sữa. Sữa được tiết ra từ dòng máu của mẹ. Sữa mẹ là nguồn sống và là nguồn tình
yêu. Sữa có đủ các chất béo, ngọt, nước và chất dinh dưỡng cần thiết cho bé
phát triển. Có một điều lợi ích của việc cho con bú là trung bình 500 lượng
calo, một ngày sẽ giúp người mẹ giảm cân sau khi sanh.
Chúa Giêsu đã nhiều lần hoá bánh ra nhiều để nuôi dân. Chúa cũng
đã làm biến đổi sáu chum nước ra thành rượu tại tiệc cước Cana. Chúa biết những
nhu cầu cần yếu của cuộc sống con người. Con người sống thì cần phải ăn phải
uống và phải hít phải thở. Ăn uống làm tăng thêm chất bổ dưỡng để nuôi sống.
Thật lạ lùng, khi chúng ta ăn bánh, uống rượu và bất cứ loại đồ ăn thức uống
nào, khi đã nuốt vào bao tử trong vòng 30 phút, các cơ quan trong thân thể
nhanh chóng biến đổi các thức ăn thành chất bổ dưỡng nuôi sống các cơ quan.
Thức ăn trở thành máu, thành thịt và giúp làm sống động các cơ năng tuần hoàn
trong thân thể. Đây là một chu kỳ nhiệm mầu mà Thượng Đế đã an bài.
Thức ăn bổ dưỡng sẽ giúp cho thân xác khoẻ mạnh và tinh thần
minh mẫn. Bí tích Thánh Thể cũng đáp ứng những nhu cầu về linh hồn và thân xác.
Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Có nhiều nơi, các
tín hữu có thói quen thay phiên nhau Chầu Mình Thánh Chúa suốt ngày đêm. Có
những người quỳ lặng cầu nguyện trước Nhà Tạm hàng giờ để kết hợp mật thiết với
Chúa Giêsu. Chúa Giêsu Thánh Thể là nguồn suối ủi an và nơi nương tựa. Chính
Chúa Giêsu đã phán: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến
cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Kết hợp với Chúa trong Bí
tích Thánh Thể sẽ mang lại nguồn tươi mát và dịu êm. Giáo Hội mời gọi chúng ta
năng kính viếng và lặng quỳ bên Thánh Thể Chúa. Chúng ta sẽ gặp gỡ một Chúa
thật có trái tim biết cảm thông và yêu thương.
Bí tích Thánh Thể là Bí tích Tình Yêu mà Chúa Giêsu đã lập để
tiếp tục lễ hy sinh trên Thánh giá và để ban Mình Máu Người hiện diện trong
hình bánh rượu, làm của nuôi linh hồn. Bí tích Thánh Thể được cử hành trong
thánh lễ. Thánh lễ dâng mỗi ngày cũng là một lễ như xưa trên cây Thánh Giá, vì
cũng là một Chúa Kitô làm chủ tế và của lễ nhưng không còn đổ máu như xưa.
Thánh lễ quý trọng vô giá. Thánh lễ giao hoà con người với Thiên Chúa. Thánh lễ
liên kết mọi người hợp nhất với nhau. Thánh lễ là lời tạ ơn tuyệt vời. Thánh lễ
mang lại ơn tha thứ và cứu độ. Mỗi khi cử hành thánh lễ, chúng ta tuyên xưng
việc Chúa Giêsu chịu đau khổ, chịu chết và sống lại cùng mong đợi Chúa lại đến
trong vinh quang.
Chúng ta hãy năng tham dự thánh lễ. Tham dự một cách sốt sáng và
hiệp thông. Chúng ta không đi xem lễ hay dự lễ như khách bàng quan, nhưng hãy
tham dự một cách tích cực. Hiệp lễ bằng cách cùng thưa kinh, dâng lời ca tiếng
hát, hoà điệu trong mọi nghi thức cử hành và nhất là lắng nghe và áp dụng Lời
Chúa trong cuộc sống. Có đôi trường hợp, chúng ta đi tham dự thánh lễ như để
chu toàn bổn phận giữ ngày Chúa Nhật. Đi trễ về sớm. Không hiểu ngôn ngữ, nghe
tai này ra tai kia. Để nuôi dưỡng đời sống nội tâm, chúng ta cần dành chút thời
giờ riêng tâm sự với Chúa và sưởi ấm tâm hồn.
Lạy Chúa, con nhìn thấy Nhà Tạm nơi Chúa ẩn ngự, nhưng con chẳng
muốn đến gần. Con tất bật lo lắng công việc và đi qua đi lại lo sửa soạn mọi
thứ. Đèn chầu vẫn cháy sáng, nhưng lòng con đã ngụm tắt từ bao giờ. Xin Chúa
giúp chúng con khơi lại ngọn lửa mến để sưởi ấm tâm hồn. Xin Chúa tha thứ những
lần chúng con thờ ơ lãnh đạm và làm ngơ trước sự hiện diện của Chúa. Xin thương
xót chúng con.
11. Vì muôn người.
Suy Niệm
Đại lễ Vượt qua gần đến. Chúa Giêsu ước ao ăn lễ Vượt qua lần
cuối với các môn đệ trước khi chịu khổ hình (Lc 22,15). Ngài đã tiên liệu nơi
tổ chức bữa tiệc. Một căn phòng rộng rãi trên lầu, đã chuẩn bị sẵn sàng. Các
môn đệ chỉ phải lo những gì cần cho bữa ăn: bánh không men, rượu, chiên và rau
đắng. Thế nhưng chỉ mình Chúa Giêsu biết Ngài sẽ làm gì trong bữa tiệc Vượt qua
này.
Bữa tiệc cuối là thánh lễ đầu tiên của Chúa. Vẫn bánh đó, vẫn
rượu đó trên bàn tiệc. Nhưng đối với các môn đệ, thật là bất ngờ. Khi Chúa
Giêsu bẻ bánh, trao cho họ và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy”. Ngài
còn mời họ uống rượu và nói: “Đây là Máu Thầy, Máu giao ước, đổ ra vì muôn
người.”
Như thế bánh rượu đã được biến đổi tận căn để trở thành Mình Máu
Chúa. Ăn bánh và uống rượu trở nên hành vi thông hiệp vào cái chết sắp đến của
Thầy.
Ngay hôm sau, trên núi Sọ, máu Chúa đã đổ, và tấm thân Chúa bị
nát tan. Hy lễ núi Sọ chỉ diễn ra một lần, nhưng ảnh hưởng trên cả dòng lịch
sử.
Bữa tiệc ly chỉ diễn ra một lần, nhưng Chúa muốn nó được lặp lại
cho đến tận thế: “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19).
Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc ly, vị linh mục lặp lại cử chỉ và
lời nói của Chúa.
Mỗi thánh lễ là một tưởng nhớ hy tế thập giá. Cái chết cứu độ
năm xưa, nay trở thành hiện tại để đem đến sự sống cho tín hữu thuộc mọi thời.
Rước lễ là gặp gỡ Đấng hy sinh chịu chết, là kết hợp với Đấng đã
yêu đến cùng.
Ta được mời gọi sống như Đấng ta lãnh nhận, nghĩa là bẻ ra, chia
sẻ, phục vụ và hiến trao.
Ta không thể tiếp tục sống ích kỷ và khép kín, khi ngày ngày
rước lấy Đấng đã chết vì muôn người.
Rước lễ không phải chỉ là nhận Chúa vào miệng, mà là để Chúa
chiếm lấy mọi ngõ tối của đời mình, nhờ đó đời ta được hoàn toàn biến đổi.
Nhiều khi có một khoảng cách quá xa giữa thánh lễ và đời thường
của người Kitô hữu.
Thực sự gặp Chúa dưới hình bánh rượu sẽ đưa ta gặp Chúa nơi
những người nghèo khổ, vì họ cũng là sự hiện diện thật sự của Chúa (x. Mt 25,
35).
Mặt khác, càng say mê phục vụ con người, ta càng cảm thấy nhu
cầu rước lấy Đấng phục vụ.
Khi dự lễ, bạn hãy đem theo hy lễ đời mình để kết hiệp với Hy lễ
của Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhiều bạn trẻ dự lễ ngày Chúa Nhật chỉ vì sợ mắc tội. Họ chán
xem lễ”. Theo ý bạn, những nguyên nhân nào đưa đến thái độ này? Có cách nào
giải quyết không?
Rước lễ có thể trở thành một thói quen nhàm chán, vô nghĩa, nặng
phần hình thức. Theo ý bạn, làm thế nào để việc rước Chúa thực sự đem lại lợi
ích cho chúng ta?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con một tâm hồn theo hình ảnh Tấm Bánh
Thánh:
Một tâm hồn trong trắng, cố tránh cả những ô uế nhỏ mọn để luôn
xứng đáng với Chúa.
Một tâm hồn khiêm hạ tìm chiếm chỗ nhỏ bé, nhưng luôn luôn muốn
bày tỏ một tình yêu lớn lao.
Một tâm hồn đơn sơ, không biết đến những phức tạp của ích kỷ, và
tìm hiến dâng mà không đòi lại.
Một tâm hồn lặng lẽ, hạnh phúc khi thấy sự quảng đại của mình
không được người khác biết đến.
Một tâm hồn nghèo khó, chỉ làm giàu cho mình nhờ chiếm được
chính Chúa.
Một tâm hồn luôn hướng về tha nhân, quan tâm đến những nhu cầu
và ước muốn của họ.
Một tâm hồn luôn kết hiệp với Chúa, và múc lấy nguồn sống từ nơi
Chúa.
12. Tấm
bánh tình yêu – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mỗi khi chiêm ngắm Thánh Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng
trước tình yêu của Người. Tình yêu ấy vô cùng cao cả nhưng lại rất đỗi đơn sơ.
Đơn sơ như hình ảnh tấm bánh.
Tấm bánh, tình yêu gần gũi.
Sao Chúa không hoá thân làm viên kim cương quý giá mà lại làm
một tấm bánh? Tấm bánh bình thường, quen thuộc quá. Từ khi kinh tế phát triển,
bánh càng ngày càng xuống giá, bớt được quý trọng.
Tuy bình thường, nhưng bánh vẫn là lương thực cần thiết cho con
người. Cũng như khí trời, như nước, bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con
người. Bình thường lắm nhưng không có không được.
Chúa trở thành tấm bánh để gần gũi với loài người, để đi vào
sinh hoạt đời thường của con người. Con người có thể đến với Chúa dễ dàng,
không e ngại, sợ sệt. Chỉ là một tấm bánh vừa tầm tay mọi người. Chỉ là một tấm
bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của con người. Thật khiêm nhường mà đầy ý nhị.
Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến.
Tấm bánh, tình yêu tự hiến.
Bánh sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta
chiêm ngắm. Bánh chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị
nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận
chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây không phải là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm
bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu thụ.
Khi xưng mình là bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu
tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa
chịu chết cho ta được sống. Chúa chịu huỷ hoại cho ta được lành lặn các thương
tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được lớn mạnh.
Tấm bánh bị tiêu hoá để thực hiện một tình yêu hiệp thông.
Tấm bánh, tình yêu hiệp thông.
Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp thông. Người không ngừng mời
gọi con người đến sống thân mật với Người. Người tự nhận mình là cây nho và mời
gọi mọi người hãy trở thành cành nho gắn kết với cây nho.
Hôm nay, Người còn chủ động trở thành tấm bánh để hoà vào từng
giòng máu, từng thớ thịt của con người trong một kết hiệp sâu xa. Người tự tiêu
huỷ mình để trở thành thịt máu của con người. Không còn sự kết hợp nào sâu xa
khăng khít hơn nữa.
Tấm bánh gợi lên một bàn tiệc tại đó anh em quây quần trong tình
thương, chia sẻ lương thực và chia sẻ tâm tình. Không còn gì đẹp hơn. Chính
Chúa Kitô tự hiến mình để quy tụ chúng ta. Chính Chúa Kitô bị bẻ ra để cho tình
huynh đệ nhân loại được mặn mà thắm thiết.
Với những gợi ý như thế, Chúa hướng dẫn tôi trong tình yêu mến,
trong cử hành và trong cách sống Bí tích Thánh Thể.
Yêu mến Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là trở nên hiền
lành khiêm nhường, sống gần gũi với những người nhỏ bé nghèo hèn?
Cử hành Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là chấp nhận hao
mòn, quên mình, thiệt thòi vì Chúa và vì anh em?
Sống Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là xây dựng tình
đoàn kết, tình huynh đệ với những người sống quanh ta, trong mọi môi trường
cuộc sống?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa.
Con chúc tụng ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Khi dâng lễ, tấm bánh có gợi lên cho bạn điều gì về tình yêu
của Đức Giêsu không?
2) Khi bạn rước lễ, bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa
không?
3) Phép Thánh Thể thôi thúc bạn làm gì?
13. Cậu
bé Marcellino.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một cuốn phim mang tựa đề: “Cậu bé Marcellino” kể lại câu chuyện
sau đây:
Ở cổng nhà dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một thầy dòng đã đem về
nhà dòng nuôi. Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và tinh nghịch. Vốn
tính nghịch ngợm, cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên gác. Nhưng vì tò
mò, ngày nọ Marcellino đã leo lên kho trên gác. Cậu sửng sốt khi thấy có một
người khổng lồ bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang đói, nên ngay
đêm đó, Marcellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho người bị treo
trên Thánh giá. Từ đó, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương thực cho con
người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày nọ người khổng lồ ấy xuống khỏi Thánh giá,
đến bên cạnh cậu bé và hỏi:
- “Con thích điều gì nhất”.
Cậu bé đáp:
- “Con muốn được thấy mẹ con”.
Người khổng lồ liền nói:
- “Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say”.
Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy Marcellino nữa, họ
đi tìm khắp nơi và cuối cùng thấy cậu bé đã chết trong vòng tay của Chúa Giêsu
trên Thánh giá.
Anh chị em thân mến, đối với Marcellino trong câu chuyện trên,
bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để nói với Chúa Giêsu: “Con yêu mến Chúa”,
“Con muốn được săn sóc Chúa, nuôi dưỡng Chúa”. Còn đối với Chúa Giêsu, bánh và
rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình yêu hiến thân để trở
thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để
đón nhận.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài trong Thánh Thể, con người mới có
thể mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu
là Bánh từ trời xuống để lôi kéo họ về với Thiên Chúa. Chia sẻ sự sống thần
linh nơi bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu được mời gọi chia sẻ cơm bánh hằng
ngày với tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, người tín
hữu cảm nhận được sự sống trường sinh và hạnh phúc đích thức tràn ngập tâm hồn.
Thưa anh chị em, Bí tích Thánh Thể là Bí tích của Tình Yêu. Vì
yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã có một sáng kiến lạ lùng là lấy chính Thịt
Máu của Ngài làm của ăn của uống để nuôi sống chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã
khẳng định: Chính Ngài là của ăn và của uống Chúa Giêsu ban hoàn toàn khác với
manna và mạch nước trong sa mạc: “Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Chúa
Giêsu không nhằm thoả mãn cái đói cái khát thể xác. Thế nên, Ngài xác quyết:
“Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống”. Vậy Bánh Ngài ban chính là
Thịt Máu Ngài. Cụm từ “Thịt Máu” ở đây không những bao gồm tất cả những gì nuôi
sống linh hồn con người để đưa đến sự sống vĩnh cửu, mà còn ám chỉ đến Mầu
nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhập thể mang lấy xác phàm
trong thân phận con người và đã đổ máu ra trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại.
Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn của uống là những cái thường tình nhất của
cuộc sống chúng ta để đưa chúng ta đến sự sống vĩnh hằng.
Vì lý do đó, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với
Chúa Giêsu Thánh Thể là kết hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô, nghĩa là đồng
hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng, ngôn ngữ và cuộc sống: “Ai ăn Thịt
Tôi và uống Máu tôi, người ấy sẽ ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy”. Không bí
tích nào giúp chúng ta sống “với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng bí tích
Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám khẳng định: “Tôi sống, nhưng không còn phải
là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Từ việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến
việc hiệp nhất với các anh chị em tín hữu. Vì liên kết với Chúa Kitô, nên chúng
ta cũng liên kết với nhau để làm thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô,
điều mà Thánh Phaolô gọi là “Nhiệm thể Chúa Kitô”. Ăn Thịt và uống Máu Chúa
Kitô là lãnh nhận một động lực mạnh mẽ nhất để dẹp bỏ và xua tan những mối bất
đồng, những mâu thuẫn sâu xa nhất để chỉ còn trở nên với Chúa Kitô một thân xác
và một linh hồn. Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô hữu trong Bí tích Thánh Thể có
sức mạnh thu phục những khách bàng quan, những người xa lạ đến với Giáo Hội,
như các tín hữu thời sơ khai đã từng chinh phục và đem lại ảnh hưởng lớn lao
cho thế giới ngoại giáo: Họ nói với nhau: “Kìa xem coi họ (các tín hữu Kitô)
yêu thương đoàn kết với nhau biết chừng nào!” (x.Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên
Thiên Chúa”. Tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh Thể. Thế nhưng có
khá đông người tham dự Thánh lễ mà không tiếp rước Mình Máu Thánh Chúa. Phải
chăng Thánh lễ đối với họ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận phải làm, chứ
không còn là sự sống được trao ban và lãnh nhận? Hoặc phải chăng vì thấy việc
rước lễ xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên họ thất vọng và không muốn
rước lễ nữa? “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Chẳng lẽ được
mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì, chỉ ngồi đó “nhìn miệng” các thực khách,
rồi ra về mà lòng vẫn u sầu và bụng vẫn đói meo? Thiết tưởng không phải vô ích
khi khẳng định lại điều này: Chẳng bao giờ chúng ta đến với người khác thực sự,
nếu không kết hợp thâm sâu với Chúa Kitô.
Đức Cha Helder Camera, Tổng Giám Mục Giáo phận Récite ở Braxil,
đã chia sẻ kinh nghiệm thống nhất đời sống hoạt động và chiêm niệm của ngài thế
này: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, rồi
suốt ngày, tôi gặp gỡ Đức Kitô nơi anh chị em tôi. Cũng một Chúa Giêsu ở trên
bàn thờ và ngoài đường phố”. Có lẽ chúng ta dễ quên chân lý này: Hiệp nhất với
Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp nhất với anh em. Nói cách khác, hiệp nhất với Chúa
Kitô đang hiện diện ẩn dấu nơi anh chị em mình, nhất là nơi những người nghèo
đói và bất hạnh (x.Mt 25). Và chúng ta cũng hay quên rằng: Hiệp nhất sự sống
phải được thể hiện trong sự hiệp nhất lối sống. Lối sống của Chúa Giêsu Thánh
Thể là lối sống của tình yêu tự hiến để cho nhân loại được sống, là phục vụ đến
hy sinh mạng sống để làm giá cứu chuộc muôn người.
Được nuôi dưỡng cùng một Bánh Thánh –là Thịt Máu Chúa Giêsu-
chúng ta được mời gọi chia sẻ chén cơm hằng ngày cho anh em và dấn thân hoạt
động cho một trật tự công bằng, huynh đệ, cho cuộc sống ấm no hạnh phúc của mọi
người trên thế giới hôm nay.
14. Tình yêu và sự
sống.
Đã bao thế kỷ trôi qua, Giáo Hội Công giáo không ngừng đào sâu
niềm tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Dẫu có gặp
muôn vàn thử thách, dẫu phải đương đầu với bao chỉ trích, người tín hữu vẫn
kiên vững trong niềm tin không lay chuyển, bởi chính họ biết rõ Thánh Thể đã
đem lại cho họ những gì trong cuộc hành trình thiêng liêng của cuộc đời.
Mỗi thánh lễ là một lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Nhưng ngày lễ
trọng được ấn định hàng năm phải là một dịp đặc biệt để chúng ta suy niệm cách
sâu sắc hơn về một chân lý vốn được gọi là suối nguồn, là đỉnh cao của đời sống
người Kitô hữu, đó là Bí tích Thánh Thể.
Đã hẳn, trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu ở đó để thực hiện
lời hứa: Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Nhưng trước hết sự hiện diện ấy nhằm tái diễn hy tế thập giá của
Ngài. Thực vậy, Bí tích Thánh Thể không phải là một hy tế mới và độc lập, thay
thế hay bổ túc cho hy tế thập giá, nhưng là lặp lại hy tế chỉ diễn ra một lần
trên thập giá. Cũng một lễ vật, cũng một Đấng đã tự hiến đời mình thuở xưa trên
thập giá, còn nay hiến tế qua tác vụ của linh mục trong thánh lễ. Có khác chăng
là khác trong cách thức biểu lộ mà thôi.
Như dân Do Thái hằng nhớ lại những kỳ công Thiên Chúa, đặc biệt
là hai biến cố: Thiên Chúa giải phóng dân khỏi ách nô lệ Ai Cập và không ngừng
ban lương thực của Ngài cho dân suốt dọc theo những nẻo đường sa mạc. Trong
thánh lễ, Giáo Hội cũng nhớ lại cuộc vượt qua của Đức Kitô và việc Ngài ban
Thánh Thể cho dân mới trên đường lữ hành trần thế.
Thực vậy, tiếp nối Manna trong hoang địa, Thánh Thể trở nên
lương thực, trở nên của ăn đàng cho Israel mới là Giáo Hội. Nhưng Manna mới chỉ
là hình ảnh tượng trưng, chứ không thể nào sánh ví được với Bí tích Thánh Thể.
Bởi vì cũng như bao lương thực trần gian khác, Manna vẫn để con người lại đó
với cơn đói và nỗi khát khao vĩnh cửu. Manna chỉ cho người ta sống tạm để khỏi
chết chứ không giúp người ta khỏi chết đời đời. Chính thân thể vinh hiển của
Đức Kitô mới thực là bánh ban sự sống: Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai
ăn bánh này thì sẽ sống đời đời.
Chúa Giêsu đã trở nên bánh khi hiến mình làm lễ tế dâng lên Chúa
Cha. Chúa Cha đã chấp nhận lễ hy tế ấy bằng cách tôn vinh Chúa Giêsu và đưa vào
trong vinh quang của Ngài. Ngài nhận lễ vật mà Chúa Giêsu thay cho loài người
dâng tiến, để rồi ban lại cho loài người như của ăn thánh. Từ của ăn thánh ấy,
loài người kín múc sự sống để thông hiệp với Thiên Chúa… Và trong bữa tiệc ấy,
Thiên Chúa hòa niềm vui của Ngài với tiếng cười của nhân loại. Những ai đón
nhận của ăn thánh ấy sẽ được lôi kéo vào trong quỹ đạo của tình yêu Thiên Chúa
và lưu lại trong Ngài: Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì sẽ ở lại trong Ta và
Ta ở trong kẻ ấy. Người ăn uống Mình Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa từ đời này và
mai này thuộc về Ngài mãi mãi.
Như thế, Thánh Thể thực hiện trước bữa tiệc cánh chung trong
nước trời, sẽ được cử hành trong niềm vui rượu mới. Và như thế Thánh Thể là dấu
chỉ cho đời sống vĩnh cửu đã khởi sự và là bảo chứng cho sự sống lại trong ngày
sau hết.
15. Thánh Thể
Nói đến chuyện ăn thịt người đã là một việc ghê tởm, phương chi
còn nói đến chuyện uống máu người. Nhất là đối với dân Do Thái, máu được coi như
là chính sự sống của con người và chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền trên máu
huyết, không những của con người mà còn của mọi loài động vật. Đó chính là lý
do dân Do Thái không ăn máu huyết, thậm chí còn kiêng cả thịt thú bị chết ngạt,
và họ chỉ ăn những thú thịt đã làm sạch không còn tí máu nào sót lại.
Vì thế phản ứng của những người nghe Chúa Giêsu nói: Thật Tôi
bảo thật các ông nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không
có sự sống nơi mình, là một phản ứng dễ hiểu. Đúng là những lời lẽ chối tai
không ai nghe nổi. Nhưng đó lại là những lời thực tế nhất, khoa học nhất bởi vì
nếu Chúa Giêsu muốn trở nên sự sống của nhân loại, Ngài phải để cho thiên hạ ăn
thịt của Ngài. Chúng ta không thể sống nếu không ăn. Và khi chúng ta ăn cái gì
thì cái đó trở nên máu thịt chúng ta, trở nên chính chúng ta.
Cũng vậy, vì muốn cho chúng ta được sống và sống bởi chính Ngài,
Chúa Giêsu đã trở nên bánh cho chúng ta ăn. Hơn thế nữa, Bí tích Thánh Thể còn
là bí tích của hiệp thông, vì nhờ ăn thịt và uống máu Ngài, chúng ta trở nên
Ngài và Ngài trở nên chúng ta. Nghĩa là Ngài trở nên thịt máu chúng ta và chúng
ta sống thực sự bởi Ngài. Ngài có thể nói rằng thịt máu chúng ta, sự sống chúng
ta là thịt máu, là sự sống của Ngài.
Thế nhưng sự hiệp thông ấy không chỉ dừng lại ở mối tương quan
giữa chúng ta với Chúa Giêsu mà thôi. Thực vậy, vì không phải chỉ có một mình
tôi ăn thịt và uống máu Ngài, mà cả cộng đoàn dân Chúa đều tham dự vào bàn tiệc
của Đức Kitô: bởi vì chỉ có tấm bánh và tất cả chúng ta cùng chia sẻ nên tuy
nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.
Như thế, Bí tích Thánh Thể không phải chỉ kết hiệp chúng ta với
Thiên Chúa mà còn kết hiệp chúng ta với nhau. Tuy nhiên, không thiếu gì những
kẻ rước lễ trong tình trạng chiến tranh lạnh với người khác, đôi khi với cả gia
đình, với cả cộng đoàn. Có những cặp vợ chồng ly thân, thậm chí ly dị nhau mà
vẫn lên rước lễ. Họ đâu có hiểu rằng làm như vậy là họ đóng đinh Chúa Giêsu, là
xé nát thân thể của Ngài? Họ đâu có hiểu rằng làm như thế có nghĩa là kéo Chúa
về phe mình, là cấm vận không cho Ngài đến được với đối thủ của họ? Bởi vì làm
thế nào Đức Kitô có thể hiệp nhất với chúng ta khi chính chúng ta lại chia rẽ
và không chấp nhận nhau.
Nhìn vào tình trạng Giáo Hội cũng vậy, ngay trong nội bộ cộng
đoàn này, sự hiệp nhất đôi khi cũng chỉ có tính cách chung chung, hình thức hay
lý thuyết mà thôi. Như thế bàn tiệc Thánh Thể có ý nghĩa gì? Người ta nói Thánh
Thể làm ra Giáo Hội và Giáo Hội làm ra Thánh Thể, nghĩa là cử hành Thánh Thể.
Nhưng một Giáo Hội thiếu hợp nhất thì có thể làm ra Thánh Thể được hay không?
Và Thánh Thể có làm ra Giáo Hội được hay không khi mà các tín hữu không đồng
tâm nhất trí với nhau. Khi mỗi người trong một gia đình không thể ngồi quanh
một bàn ăn, hay khi tấm bánh nồi cơm bị phân tán, quẳng đi mỗi chỗ một mẩu một
hạt, thì liệu còn có thể gọi đó là một bữa cơm gia đình hay không?
Hãy nhớ rằng Thánh thể không phải chỉ kết hiệp chúng ta lại với
Chúa, mà còn kết hiệp chúng ta lại với nhau, để làm thành một đoàn chiên duy
nhất.
16. Thánh Thể.
Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bối cảnh của lễ
Vượt Qua của người Do Thái, một đại lễ lớn nhất của dân tộc. Đại lễ này tưởng
niệm lại hành động can thiệp đầy quyền năng của Thiên Chúa, trong việc dẫn dắt
dân Người thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập. Bữa ăn Vượt Qua là một nghi lễ long
trọng. Bữa ăn tưởng niệm lại một việc trong quá khứ, và đang khi cử hành việc
tưởng niệm đó thì quyền năng của Thiên Chúa lại được tái hiện.
Chúa Giêsu nói: “Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến
Thầy”. Mỗi khi chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể thì quyền năng và tình yêu
của Chúa Giêsu lại được tái hiện. Nhưng không chỉ như thế, chính Chúa Giêsu lại
hiện diện thật sự ở giữa chúng ta.
Trong khi đó, nhiều người Công giáo lại không ý thức đủ. Họ đi
tham dự thánh lễ mà lại đến trễ, về sớm. Vài người lại nói chuyện với nhau hay
chỉ nhìn ngắm kẻ khác. Nhiều người vào trong nhà thờ mà không tỏ sự tôn kính
Chúa Giêsu Thánh Thể đang hiện diện trong Nhà Tạm. Nhiều người không rước lễ và
hầu như không còn để ý đến việc đó nữa. Nhiều người ăn vận trang phục bất xứng,
thứ trang phục mà họ không dám mặc khi đến thăm một người bạn. Trong khi xếp
hàng lên rước Mình Thánh Chúa Giêsu, một số người thay vì tập trung vào việc
chuẩn bị đón Chúa ngự vào tâm hồn mình thì lại đưa mắt nhìn quanh khắp cả nhà
thờ.
Tại sao lại xảy ra tình trạng đáng buồn như vậy? Thật là tốt đẹp
khi Giáo hội khuyến khích các tín hữu thường xuyên rước lễ và tạo điều kiện dễ
dàng cho việc này. Nhưng cũng vì thế mà xảy ra tình trạng người giáo dân ơ hờ,
trễ nải đối với Chúa Giêsu Thánh Thể. Cũng có một số tín hữu chịu ảnh hưởng của
Tin lành cho rằng Bánh Thánh chỉ là biểu tượng của Chúa Giêsu mà thôi. Nhưng
Chúa Giêsu không nói: “Đây là biểu tượng của Mình Thầy”. Chúa nói cách rõ ràng:
“Đây là Mình Thầy”.
Ước gì đại lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô hôm nay giúp mọi
tín hữu Công giáo ý thức hơn về sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu Kitô trong
Bí tích Thánh Thể. Ước gì ngày lễ hôm nay canh tân tâm tình biết ơn của chúng
ta đối với quà tặng vô giá, mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta là chính Thịt Máu
Chúa. Càng ý thức hơn về sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích
Thánh Thể, chúng ta càng có thêm sức mạnh để tiến bước trên hành trình đức tin
của mình.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì quà tặng vĩ đại Chúa đã ban cho con
là Bí tích Thánh Thể. Xin Chúa giúp con luôn xác tín vào sự hiện diện của Chúa
Giêsu trong bí tích này và hết lòng tôn sùng mến yêu.
17. Bữa
tiệc.
Để cổ động cho việc cầu nguyện chung trong gia đình, linh mục
Pê-tanh đã nói: “Gia đình nào cầu nguyện chung với nhau thì sẽ sống hiệp nhất
với nhau”. Việc cầu nguyện chung trong gia đình sẽ củng cố mối dây hiệp nhất
mọi thành phần với nhau mỗi ngày một thêm bền chặt. Dù không muốn nói ngược lại
linh mục Pê-tanh và không muốn làm giảm giá trị của việc cầu nguyện chung trong
gia đình, nhưng cha Gioan Tô-mát, dòng Tên đã nhấn mạnh một khía cạnh khác,
cũng quan trọng không kém, đó là việc dùng cơm chung với nhau thì sẽ sống hiệp
nhất với nhau.
Bữa ăn chung trong gia đình có một tầm quan trọng và ý nghĩa đặc
biệt của nó mà ngày nay nhiều người đã bỏ quên hoặc không quan tâm cho đủ.
Không phải bất cứ người xa lạ nào cũng có thể ngồi vào bàn ăn dùng bữa chung
trong gia đình. Một người nào được mời dùng bữa với gia đình là dấu chỉ được
chấp nhận vào tình thân với gia đình đó, người được mời đến dùng bữa với gia
đình là người được gia đình đó quý mến. Bữa ăn tạo dựng sự hiệp thông và yêu
thương thân thiết ngày càng bền chặt hơn.
Bữa ăn chung trong gia đình làm cho mọi thành phần vợ chồng, cha
mẹ, con cái, anh chị em được hiệp nhất với nhau, được dịp chia sẻ những niềm
vui, những quan tâm lo lắng của nhau. Nếu quan sát thêm chúng ta sẽ thấy vai
trò của mỗi người được biểu lộ cách rõ ràng trong bữa ăn chung. “Một gia đình
dùng bữa chung với nhau sẽ sống hiệp nhất với nhau”, lý tưởng là như thế, nhưng
không phải tất cả mọi người, mọi gia đình ngày nay đều có thể thực hiện được lý
tưởng cao đẹp này. Nhiều gia đình đã bỏ mất dịp tốt này, mọi người vội vàng lo
cho mình có chút gì vào bụng rồi mau chóng đi lo công việc riêng, mọi người
không còn xếp đặt công việc để có thể tham dự bữa cơm chung trong gia đình nữa,
nhưng mỗi người xếp đặt đời sống theo một sở thích riêng hay một nhu cầu riêng.
Cha mẹ lo làm việc xếp đặt đời sống chạy theo công việc nên không còn quan tâm đến
việc ăn cơm chung với con cái; phần con cái bận việc với bạn bè hay công việc
riêng của mình nên cũng chẳng màng chi đến bữa cơm chung. Mỗi người trong gia
đình đều có lý do riêng để không ăn cơm chung với nhau, nhiều gia đình ngày nay
tan vỡ có lẽ vì hai lý do: không cầu nguyện chung với nhau và không ăn cơm
chung với nhau. Chúng ta hãy nhìn lại gia đình mình và kiểm điểm theo hai
nguyên tắc căn bản trên: cầu nguyện chung và dùng cơm chung.
Chúa Giêsu cũng dùng một bữa ăn, bữa ăn tối cuối cùng với các môn
đệ để thiết lập Bí tích Thánh Thể. Chúa đã làm cho bữa ăn cuối cùng này không
phải là bữa ăn chứng tỏ tình bạn như trước đây, cũng không phải là bữa ăn để
Ngài tự tỏ mình ra như một Môsê mới bằng cách ban phát Manna mới cho họ qua
việc hóa bánh ra nhiều, nhưng là bữa ăn liên kết tình bạn và tình yêu.
Chính vì thế thánh Gioan đã viết: “Ngài đã yêu thương các môn đệ
của Ngài và đã yêu thương họ đến cùng”. Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu
thương đến tột bực. Tột bực tình yêu của Ngài ở đây là việc lập Thánh Thể. Thực
vậy, Chúa Giêsu đã ghi dấu đặc biệt của Ngài nơi bữa tiệc này, để từ nay Ngài
trở thành nơi gặp gỡ tình yêu giữa chúng ta với Ngài và giữa chúng ta với nhau.
Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Chúa
Giêsu vừa báo trước cho các môn đệ là Ngài sẽ giã từ thế gian để về cùng Cha.
Ngài sẽ phải xa cách họ luôn sao? Không, trong tình yêu thương, Ngài đã tìm ra
một phương thế để ở lại với các môn đệ và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả
những ai tin vào Ngài. Phương thế tuyệt diệu đó là Bí tích Thánh Thể, nhờ đó
Ngài hiện diện thực sự và trải dài sự hiện diện đó đến tận cùng thời gian qua
mọi người để ban cho họ những điều tốt lành.
Đây là một mầu nhiệm đức tin, bởi vì lý trí chúng ta không hiểu
được, giác quan chúng ta không cảm nhận được, chỉ có đức tin dạy cho chúng ta
biết: Chúa hiện diện thật sự trong Bí tích Thánh Thể, nên khi rước lễ là chúng
ta ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa, là lương thực vừa giúp chúng ta sống khỏe,
sống mạnh, sống tốt đẹp ở đời này vừa bảo đảm cho sự sống lại và cuộc sống vĩnh
cửu, như Chúa đã quả quyết: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì Tôi sống trong
người ấy, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết và được sống đời
đời”. Như vậy, người ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa ngay từ đời
này và mai ngày thuộc về Ngài mãi mãi. Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh
cửu đã khởi sự, và là bảo chứng cho sự sống lại ngày sau hết. Vì vậy, chúng ta
hãy siêng năng rước lễ để chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, và sự kết hiệp
đó đưa chúng ta đến sự hiệp thông với nhau, tức là yêu thương nhau. Đúng ra
phải như vậy, nhưng thực tế có được như vậy không? Có lẽ nhiều người Kitô hữu
quên mất điều này: hiệp thông với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp thông với
nhau.
Tóm lại, khi dâng thánh lễ là chúng ta cùng tham dự bàn tiệc
Thánh Thể, chia sẻ Mình Máu Chúa Kitô, Đấng đã hiến cả cuộc đời mình nên của lễ
tình yêu. Xin Chúa cho chúng ta một khi đã được hiệp thông với Chúa, thì cũng
biết hiệp thông với nhau bằng cuộc sống yêu thương phục vụ để cùng nhau xây dựng
một thế giới tốt đẹp hơn.
18. Dấu
chỉ của tình yêu.
Hôm nay, mừng kính Mình và Máu thánh Đức Kitô, chúng ta cùng
nhau dừng lại để chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về bí tích Thánh thể.
Trước hết, bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình Chúa.
Thực vậy, khi yêu thương ai, chúng ta muốn được ở gần người đó
để hàn huyên tâm sự, như ca dao đã bảo:
- Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát sông cũng lội,
Tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.
- Yêu nhau chẳng quản xa gần,
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Hiểu theo chiều hướng này, thì Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta
bằng một tình yêu không bờ không bến, vì Ngài không phải chỉ đi qua vài ba ngọn
đồi, lội qua dăm bảy con suối để đến với chúng ta. Trái lại, Ngài đã đi con
đường dài nhất, con đường từ vô biên đến hữu hạn, con đường từ trời xuống đất,
con đường từ một Thiên Chúa toàn năng đến một kẻ nghèo hèn, để trở thành một
Emmnuel, nghĩa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Ở cùng chúng ta hơn ba chục năm mà thôi chưa đủ, Ngài lại còn
muốn ở cùng chúng ta mãi mại, cho đến tận cùng thời gian qua bí tích Thánh thể.
Tuy nhiên, Ngài không phải chỉ ở bên cạnh chúng ta, đi bên lề
cuộc sống chúng ta như một kẻ xa lạ. Trái lại, Ngài còn muốn thấm nhập và trở
nên một với chúng ta.
Bởi đó, mỗi khi lên rước lễ, chúng ta sẽ được kết hiệp và gắn bó
mật thiết với Chúa. Sự kết hiệp và gắn bó này còn mật thiết hơn cả tình bè bạn,
tình cha mẹ, tình vợ chồng, bởi vì chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.
Giọt nước hòa tan trong rượu thế nào, chúng ta cũng sẽ được hòa
tan trong Chúa như vậy. Thanh sắt nung trong lửa, sẽ nóng và đỏ như lửa thế
nào, chúng ta cũng sẽ được trở nên giống Chúa như vậy.
Ngoài ra, khi yêu thương ai, ngoài việc muốn được ở gần người
đó, chúng ta còn cố gắng làm cho người đó được hạnh phúc: nào là thư từ, nào là
quà cáp, nào là thăm hỏi…
Nếu hiểu theo chiều hướng này, thì Chúa Giêsu cũng đã yêu thương
chúng ta bằng một tình yêu không bờ không bến bởi vì Ngài đã xuống thế để làm
gì nếu không phải là để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và án phạt đời đời.
Rồi suốt cả cuộc đời, Ngài đã thực hiện biết bao nhiêu hành động
yêu thương. Ngài đã cúi xuống xoa dịu những đớn đau, chữa lành mọi bệnh tật,
xua trừ ma quỉ. Hơn thế nữa, Ngài còn chết trên thập già để cứu độ chúng ta như
lời Ngài đả phán:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bằng đó mà thôi cũng chưa đủ, Ngài còn theít lập bí tích Thánh
thể để trở nên của ăn nuôi sống linh hồn và đảm bảo cho chúng ta cuộc sống vĩnh
cửu:
- Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống đời đời.
Một người Cha trước khi chết thường trối lại cho con cháu bản
chúc thư. Những người yêu nhau trước khi đi xa, thường trao tặng cho nhau những
kỷ vật. Cũng vậy, là một người cha, Đức Kitô trước khi chịu chết, đã trối lại
cho các môn đệ cũng như cho mỗi người chúng ta một bản chúc thư, đó là giới
luật yêu thương. Là một người tình, Đức Kitô trước khi ra đi, đã trao tặng cho
chúng ta một kỷ vật, đó là thịt máu Ngài.
Và như thế, bí tích Thánh thể chính là dẩu chỉ tình yêu bao la
mà Chúa Giêsu đã dành cho chúng ta.
Tiếp đến, bí tích Thánh thể còn là dấu chỉ của tình người.
Thực vậy, nhìn vào một bữa ăn, một bàn tiệc, chúng ta tìm thấy
ngay được dấu chỉ của sự yêu thương và hiệp nhất.
Tiên vàn, những người ngồi cùng bàn đều có một mẫu số chung nào
đó. Có thể là chia sẻ một niềm vui như đi tự tiệc cưới. Có thể là chia sẻ một
nỗi buồn như đi ăn đám giỗ. Có thể là chia sẻ một băn khoan lo lắng như bữa
tiệc trước khi tính toán và bắt đầu một công việc quan trọng.
Ngoài ra, khi quây quần chung quanh một bàn ăn, chúng ta còn
chia sẻ với nhau một nguồn sống, là những thức ăn do lao công vất vả của nhiều
người làm nên. Chính những thức ăn này sẽ được tiêu hóa và trở nên thịt máu,
trở nên một phần cơ thể chúng ta. Bởi đó, chúng ta thường phải tránh đi những
bất hòa, xích mích trong bữa ăn: trời đánh còn tránh bữa ăn.
Chúa Giêsu cũng đã thiết lập bí tích Thánh thể dưới hình thức
một bữa ăn, một bàn tiệc. Chính vì thế, ý nghĩa của sự yêu thương và hiệp nhất
cần phải được nổi bật, bởi vì chúng ta cùng ăn một của ăn thiêng liêng muôi
sống linh hồn, như thánh Phaolô đã viết:
- Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và
làm nên một thân thể Đức Kitô.
Hơn thế nữa, nơi bàn tiệc Thánh thể, mọi người đều bình đẳng vì
tất cả đều là con cái Chúa, không còn phân biệt già hay trẻ, sang hay hèn…Các
tín hữu sơ khai đã ý thức được chân lý căn bản này, họ đã biến nghi thức bẻ
bánh, hay bàn tiệc Thánh thể trở nên nơi qui tụ cho tình thương. Họ mang rượu
bánh đến góp chung để dâng lễ, để nuôi sống linh mục và tu sĩ, cũng như để giúp
đỡ những người nghèo.
Tình bác ái huynh đệ này không phải chỉ đóng khung trong khi
tham dự nghi thức bẻ bánh, mà còn được nối tiếp trong cuộc sống, vì trong cuộc
sống, họ đã góp chung tiền bạc, tài sản để cho các tông đồ phân phối theo nhu
cầu.
Từ những xác quyết trên, chúng ta đi tới hai kết luận. Kết luận
thứ nhất, vì bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình Chúa, nên chúng ta hãy siêng
năng tham dự thánh lễ và nhất là rước lễ mỗi khi có thể, để đáp trả những yêu
thương Ngài đã dành cho chúng ta.
Kết luận thứ hai, vì bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình
người, nên chúng ta hãy cố gắng sống bác ái. Không phải chúng ta chỉ hòa giải
và yêu thương trong thánh lễ, trong nhà thờ, mà còn phải hòa giải và yêu thương
trong cuộc sống, bởi vì cuộc sống ngập tràn tình bác ái chính là một thánh lễ
nối dài, và những hy sinh chúng ta vui lòng chịu vì người khác sẽ là những lễ
vật xuất phát từ lòng cuộc đời, chúng ta dâng tiến Chúa.
19. Tình Chúa.
Vào tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ
Armênia thuộc Liên Xô cũ giết chết hằng ngàn người. Trong số những người bị
chôn dưới đống gạch vụn có 2 mẹ con bà Suzanna. Mẹ con may mắn nằm lọt vào
trong một khoảng trống nhỏ. Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ.
Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: “Mẹ ơi
con khát quá”. Bà Suzanna không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình máu mủ
đã gợi cho bà một sáng kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay
mình cho máu chảy ra và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nó lại
kêu khát, bà lại cắt một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến khi người ta cứu
2 mẹ con ra. Sau khi ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: “Lúc đó tôi biết thế nào
tôi cũng chết. Nhưng tôi muốn con tôi sống”
Câu chuyện trên thật cảm động. Nhưng vẫn không cảm động bằng
việc Đức Giêsu tự hiến dâng thịt máu mình cho chúng ta. Bà Suzanna đã lấy máu
của mình nuôi con khi bà biết rằng chắc chắn bà sẽ chết. Thay vì chết cách vô
ích. Bà đã hy sinh dòng máu của mình để cho đứa con được sống. Đó là sự hy sinh
trong một tình thế bó buộc. Còn Đức Giêsu thì không có gì bắt buộc cả: Ngài đến
trần gian để chết cho loài người. Càng ngày Ngài càng tiến gần đến cái chết.
Tuy nhiên bất cứ lúc nào Ngài cũng có thể thoát khỏi cái chết ấy. Dù vậy Ngài
vẫn cương quyết đi đến cái chết và cương quyết lấy thịt máu mình làm lương thực
nuôi sống loài người chúng ta. Thật đúng là: “Không có tình yêu nào cao trọng
cho bằng tình của người dám chết cho người mình yêu thương”. Điểm thứ hai khác
biệt giữa bà Suzanna với Đức Giêsu là: việc bà Suzanna hy sinh máu mình cho đứa
con chỉ xảy ra một lần; còn việc Đức Giêsu ban thịt máu Ngài cho chúng ta xảy
ra hằng ngày, như lời Ngài đã truyền dạy “Chúng con hãy làm việc này để nhớ đến
Ta”. Mỗi lần Giáo hội dâng Thánh lễ là mỗi lần việc hy sinh của Đức Giêsu được
lập lại, lập lại không chỉ như một tưởng niệm mà lập lại với tất cả hiệu quả có
nó. Hiệu quả ấy là như lời Đức Giêsu đã nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta thì
sẽ được sống muôn đời”.
Một điều đáng buồn là lòng chúng ta đã thành chai đá trước tấm
lòng của Chúa mà lẽ ra phải khiến chúng ta hết sức cảm động. Ngày nay ở phương
Tây, số giáo dân Pháp, chỉ còn có 10% giáo dân dự lễ Chúa Nhật. Còn bên Việt
Nam chúng ta, số người bỏ lễ Chúa Nhật cũng càng ngày càng nhiều. Trong số
những kẻ còn đi lễ thì nhiều người đứng ngoài Nhà thờ, vừa dự lễ vừa trò chuyện
và hút thuốc. Hình như rất nhiều người đi lễ chỉ vì sợ phạm tội trọng.
Khi Nữ Tu Têrêxa Calcutta sang Liên Xô xin mở trụ sở bác ái, Bà
đã gặp các vị lãnh đạo chính quyền và đã được đồng ý nhanh chóng. Tuy nhiên khi
bà xin cho có Linh mục tại những trụ sở đó thì các vị ấy đã ngần ngại. Lúc Mẹ
Têrêxa giải thích: Nguồn sức mạnh của các Nữ Tu chúng tôi là do Mình Thánh
Chúa. Nhờ mỗi ngày được rước Mình Thánh Chúa nên các Nữ Tu chúng tôi có sức hy
sinh quên mình để phục vụ những người nghèo khổ. Do đó cần phải có Linh mục để
mỗi ngày dâng Thánh Lễ và cho chúng tôi rước lễ. Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Bà
là những người đã cảm nghiệm được Lời Chúa phán khi lập phép Mình Thánh Chúa
“Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời”.
Hôm nay lễ Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu. Chúng ta ôn lại tình
yêu bao la của Đức Giêsu khiến Ngài chịu chết vì chúng ta và trước khi chết đã
ban Mình và Máu Ngài làm thương thực nuôi linh hồn chúng ta.
Nhưng chúng ta cũng nhận thấy sự giảm sút lòng sốt săng của
chúng ta đối với việc dự lễ và rước lễ. Chúng ta thờ ơ với một thứ lương thực
quý giá mà Chúa đã ban. Chúng ta bỏ mất biết bao ơn ích do việc rước lễ mà
nhiều người đạo đức rất quý chuộng.
Giờ đây chắc chúng ta biết mình phải làm gì:
- Trước hết, là những người làm cha mẹ, làm ông bà, chúng ta hãy
nhắc nhở và khuyến khích con cháu mình thường xuyên tham dự Thánh Lễ và Rước lễ
sốt sắng.
- Phần chúng ta, mỗi khi dự lễ và Rước Lễ, chúng ta hãy cố gắng
sốt sắng. Đừng làm một cách máy móc theo thói quen, nhưng hãy đặt hết tâm tình
vào đó.
Để kết thúc, xin trích đọc sau đây tâm tình của một người đã
biết cách dự lễ và rước lễ sốt sắng: “Mỗi Thánh Lễ, tôi lại cảm thấy có điều gì
đó cần thống hối cách đặc biệt. Mỗi Thánh Lễ, tôi lại thấy mình muốn đặt lên
đĩa Thánh một chút cố gắng riêng tư, đau khổ, mơ ước, thao thức… Tôi không đi
dự Thánh Lễ với hai bàn tay trắng, nhưng với lễ vật là chính cuộc đời tôi. Trong
mỗi Thánh Lễ, Lời Chúa lại tác động đến tôi, những lời nói đã nghe nhiều lần
tôi nhớ rằng Ngài đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho tôi, và tôi cũng phải trở nên
tấm bánh bẻ ra cho anh chị em tôi”.
20. Trao ban đến
tận cùng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Tình thương là động cơ chính thúc đẩy người ta ban tặng cho
nhau.
Vì tình yêu thương có nhiều cấp độ hơn kém khác nhau nên việc
trao ban cũng có nhiều mức độ nhiều ít khác nhau.
1. Trao ban những thứ dư thừa
Khi gặp một người ăn xin xa lạ trên đường phố chìa tay tìm sự
giúp đỡ, khách bộ hành dừng lại, tần ngần mở ví, tìm đồng tiền nhỏ nhất trao
cho người ấy.
Khi gặp người lỡ bước không chỗ tạm trú qua đêm, người chủ của
căn nhà sang trọng chỉ nhường cho người đó một xó nhỏ ngoài hành lang nhà mình.
Khi có nạn nhân những vùng bị lũ quét cuốn trôi hết gia tài sản
nghiệp, người dư ăn dư mặc chỉ chia sẻ cho họ những bộ áo quần cũ kỹ, mặc không
vừa ý...
Vì tình thương đối với những người hoạn nạn ấy rất nhỏ nhoi nên
người ta chỉ trao tặng họ những của dư thừa.
2. Trao ban những điều cần thiết
Khi tình yêu dành cho người khác lớn hơn, người ta sẽ ban tặng
cho họ những thứ cần thiết hơn. Hai người bạn tù thương mến nhau đang sống
trong cảnh tù đày thiếu đói, người nầy sẵn sàng bẻ đôi miếng bánh đang ăn để
chia sớt cho người kia cùng chịu cảnh tù tội đói khát với mình.
3. Trao ban cả bản thân
Cao cả hơn hết là trao ban chính bản thân mình.
Đó là khi người có đôi mắt tinh tường sẵn sàng hiến một con mắt
của mình cho người bị nạn hỏng cả hai mắt; người có hai quả thận hoạt động tốt,
hiến cho người bị hư thận hoàn toàn một quả; người có hai lá phổi lành lặn,
hiến cho người bị ung thư hai buồng phổi một lá; người có hai cánh tay khoẻ
mạnh tình nguyện hiến nguyên cả một cánh tay của mình cho người bị tai nạn nghề
nghiệp đứt lìa hai chi trên.
Chỉ khi nào người ta yêu mến nạn nhân hết lòng hết sức, yêu nạn
nhân còn hơn cả bản thân mình, người ta mới hiến tặng những chi thể trong thân
mình cho họ. Vì thế, những nghĩa cử cao đẹp đó rất hiếm hoi trên cõi đời ô trọc
nầy.
Chỉ có Chúa Giêsu mới trao ban cả thân xác và mạng sống của
Người cho chúng ta.
Người đời nghèo thiếu tình yêu nên cũng rất bủn xỉn trong việc
trao ban. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự nên
Người trao ban cho chúng ta tất cả không tiếc nuối điều gì, thậm chí còn ban cả
bản thân và mạng sống của Người cho chúng ta.
Khi nhân loại ngụp lặn trong đại dương chết chóc mong ước có một
"Tấm Phao" thần diệu cứu họ khỏi đắm chìm trong biển chết hãi hùng,
Chúa Giêsu từ trời gieo mình xuống và trở nên "Phao Cứu Sinh" cho họ.
Khi nhân loại khao khát thứ bánh thần thiêng mang lại sự sống
đời đời, Chúa Giêsu hiến ban Thân Mình Người làm bánh trường sinh mang lại sự
sống vĩnh cửu cho thế nhân.
Khi loài người cần máu của Con Thiên Chúa đổ ra tẩy rửa tội lỗi
ngút ngàn của họ, Chúa Giêsu sẵn sàng trút máu mình ra không tiếc nuối.
Khi con người cần sinh mạng của Ngôi Hai Thiên Chúa để đổi mạng
cho mình, Chúa Giêsu vui lòng dâng hiến mạng sống mình chết thay cho muôn
dân...
Chúa Giêsu luôn đáp ứng tất cả những nhu cầu sâu xa nhất, bức
thiết nhất của chúng ta cho dù Người phải thiệt mất mạng sống.
Chúa Giêsu trao ban hết tất cả những gì Người có và ban chính
bản thân Người vì yêu thương chúng ta.
"Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy
sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga 15,13).
Lạy Chúa Giêsu,
Không ai trên cõi đời nầy yêu thương chúng con bằng Chúa.
Dù chúng con có phản bội, có thờ ơ hờ hững với Chúa thì Chúa vẫn
trọn đời yêu quý chúng con.
Vậy mà tiếc thay, nhiều người trong chúng con không nhận ra tình
yêu cao vời ấy.
Xin đừng để chúng con trở nên người bội bạc vong ân vì không cảm
nhận được tình yêu của Chúa và không biết đáp đền tình yêu trời bể Chúa dành
cho chúng con.
21. Giao ước
mới.
Sau câu chuyện Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, câu chuyện về giao
ước của Thiên Chúa với Abraham chính là thời điểm chủ chốt trong Cựu ước. Câu
chuyện cứu độ của chúng ta bắt đầu từ đây. Thời điểm này trong Kinh Thánh đã
trở thành câu chuyện về mối tương quan của Thiên Chúa với dân Người. Câu chuyện
này được tóm tắt trong một công thức đã được lập đi lập lại nhiều lần trong Cựu
ước “Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”.
Giao ước này không giống như mối quan hệ tồn tại giữa các bên
đối tác trong thương mại – đó là một cách sắp xếp kinh doanh một cách chặt chẽ.
Giao ước này giống như giao ước tồn tại giữa đôi vợ chồng nhiều hơn. Trên thực
tế, đây đúng là cách thức mà một số ngôn sứ đã mô tả về giao ước này: họ so
sánh giao ước giữa Thiên Chúa và dân Người với mối quan hệ trong hôn nhân. Về
phần mình, Thiên Chúa luôn luôn trung thành; tình yêu của Người không hề thay
đổi. Nhưng thật đáng buồn, không phải lúc nào dân của Người cũng trung thành
với Người.
Để yêu và được yêu, Thiên Chúa phải ban cho chúng ta sự tự do để
chọn lựa. Giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại phải có gì quan trọng hơn, so
với việc Thiên Chúa toàn năng ban bố lề luật, Thiên Chúa cần có sự vâng phục
của chúng ta, chứ không cần đến tình yêu của chúng ta. Nhưng giao ước này phải
là một hợp đồng được thực hiện một cách tự do, giữa hai bên hoàn toàn tự do.
Trong bài đọc 1 của ngày hôm nay, chúng ta nhận thấy cách thức
Môsê phê chuẩn giao ước, trước khi dân chúng tiến vào đất hứa. Nhưng dân chúng
đã không giữ giao ước. Họ rơi vào cảnh sùng bái ngẫu tượng. Mặc dù vậy, Thiên
Chúa vẫn không bỏ rơi họ. Rất nhiều lần, Người đề nghị với họ một giao ước, và
thông qua các ngôn sứ, Người dạy họ biết hy vọng vào ơn cứu độ.
Và khi đến thời đến buổi, Thiên Chúa đã gửi Chúa Con đến làm
Đấng cứu độ chúng ta. Thông qua Người, Thiên Chúa thiết lập với chúng ta một
giao ước mới và kéo dài đến muôn đời. Đức Giêsu đánh dấu giao ước này bằng máu
của Người. Đức Giêsu chính là người đứng đầu dân tộc mới của Thiên Chúa. Vùng
đất mà Người dẫn đưa chúng ta tới không phải là mảnh đất trần gian này, mà là vùng
đất của cuộc sống muôn đời. Thông qua Người, chúng ta có một ràng buộc gần gũi
hơn bao giờ hết đối với Thiên Chúa. Chúng ta không chỉ là dân Thiên Chúa, mà
còn là những người con trai và con gái là gia đình của Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, chúng ta đang có một giao ước
với Thiên Chúa, Đấng luôn luôn trung thành. Chúng ta được mời gọi sống theo
cách thức nhất quán với mối tương quan này. Thiên Chúa không kêu gọi chúng ta
phải thành công, Người chỉ cần sự trung tín mà thôi.
22. Bánh Ban Sự
Sống – Peter Feldmeier
(Lm. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Bởi vậy, Người là trung gian của một giao ước mới (Dt 9,15).
Khi tôi đem Mình Thánh Chúa cho các bệnh nhân và những cụ già
tại một nhà dưỡng lão, lần đầu tiên tôi gặp ông Smith. Ông ta mắc bệnh rối loạn
tâm thần. Khi tôi gõ cửa phòng ông và đang chuẩn bị bước vào, tôi tự giới thiệu
và cho ông biết giáo xứ đã cử tôi đến đây. Ông ta tỏ vẻ bực bội và khó chịu nói
vọng ra “Xin lỗi, mời ông bước ra”. Khi tôi vừa quay lưng để định thoái lui,
ông gọi giật tôi lại và hỏi “Ông đến đây làm gì”? Tôi trả lời: “Tôi đến đem
mình Thánh Chúa cho ông”. Bấy giờ ông lên tiếng “Ồ, chuyện đó lại khác, mời ông
vào”. Thái độ của ông bỗng chốc trở nên cung kính và sốt sắng cách lạ thường.
Chúng tôi cùng cầu nguyện với nhau và đọc kinh Lạy Cha, rồi tôi trao Mình Thánh
Chúa cho ông. Ông đón nhận với thái độ rất kính cẩn và chậm rãi cầu nguyện cám
ơn Chúa sau khi đã rước lễ. Tôi thấy rất cảm động. Sau đó tôi chào ông và nói
“Xin lỗi, chào ông nhé, bây giờ thì tôi bước ra đây”.
Kinh nghiệm ngày hôm đó đã gợi hứng rất nhiều cho tôi để suy gẫm
về Bí tích Thánh Thể. Hiển nhiên tôi thấy rất rõ, ông Smith đã đón nhận Thánh
Thể một cách thật cung kính, chứ không phải như một thói quen máy móc. Ông đã
biểu tỏ lòng tôn kính và sự thánh thiện khi rước lễ một cách thật ý thức. Có
thể nói đó là phút giây đẹp nhất trong một ngày sống của ông. Mặc dù ông ta
đang mắc bệnh về não, khiến ông khó có thể kiểm soát được đầu óc mình, nhưng
việc rước Thánh Thể đã khơi dậy lòng sốt mến trong tâm hồn ông, và ông cảm nhận
một cách rõ ràng sự hiện diện của Chúa Giêsu nơi bánh Thánh. Ông đã biểu tỏ rõ
nét sự quý trọng thánh thiêng khi đón nhận mình Thánh Chúa Giêsu.
Bài đọc hai trong phụng vụ hôm nay trích từ thư gửi tín hữu Do
Thái, trong đó tác giả liệt kê một loạt những biểu tượng khá phức tạp để diễn
bày sự thánh thiện của Thiên Chúa. Gợi nhắc lại các nghi thức phụng tự xưa cũ
nơi cung thánh của đền thờ, tác giả quy chiếu về Đức Giêsu. Ngài chính là
Thượng Tế của giao ước mới, một giao ước đã trở nên trọn hảo. Tác giả đã viết
như sau “Đức Kitô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để
vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn. Người vào
chỉ một lần, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta”. Sau đó tác
giả thơ Do Thái dẫn giải tiếp và cho biết cung thánh mới được nói tới chính là
quê trời.
Ở đây, chúng ta không cần tưởng tượng ra trời cao hay thiên đàng
như một cung thánh thiêng liêng. Nhưng tác giả muốn chúng ta nhìn vào hoàn vũ
này như một đền thờ của Thiên Chúa và trời cao nơi Thiên Chúa ngự chính là Cung
thánh, nơi cực thánh. Trong đền thờ này có hòm bia giao ước. Cung thánh trong
đền thờ năm xưa là nơi đặt hòm bia chứng ước, và cũng là nơi chốn linh thiêng
nhất. Vị Thượng Tế phải đi qua một cái lều lớn để tiến đến cái lều nhỏ tận sâu
phía trong, là nội cung cực thánh. Ông chỉ vào nơi đây một ngày duy nhất trong
năm, đó là ngày lễ xá tội (Yom Kippur). Thượng tế được cột bằng một dải vải dài
từ chiếc áo choàng, để khi đi vào cung thánh gặp Thiên Chúa mà lỡ có phải chết,
các tư tế khác sẽ dùng miếng vải đó lôi ông ra ngoài vì không ai được vào tận
trong cung thánh. Người Do Thái tin rằng đây là nơi cực thánh không ai được vào
trừ Thượng tế, và nếu ai liều lĩnh đi vào, người đó sẽ chết. Vị Thượng tế tiến
vào cung thánh mỗi năm một lần để gặp Thiên Chúa trực tiếp thay cho dân. Nhưng
đây chỉ là hình bóng về một cung thánh khác trên trời cao, nơi chúng ta sẽ được
tiếp cận Thiên Chúa một cách trực tiếp. Bằng máu hiến tế đổ ra, Đức Kitô đã đi
qua một chiếc lều tạm là chính thân xác Ngài, để tiến về chiếc lều nhỏ, là
chính cung thánh trên trời. Vì thế, Ngài trở thành Thượng tế đích thật, là
“Trung gian của giao ước mới”.
Theo tôi nghĩ, thế giới tạo thành này hiện hữu với hai cấp độ:
cấp độ vật chất hữu hình và cấp độ thiêng liêng vô hình. Cả hai cấp độ này hòa
quyện và đan xen với nhau. Cách thái hiện hữu này giúp cắt nghĩa lý do tại sao
các phép lạ vẫn xảy ra mà không hủy phá trật tự của tự nhiên, cho dù nó được
thực hiện bằng những sức mạnh thần thiêng mà luật tự nhiên không thể cắt nghĩa
nổi. Chúng ta hãy tưởng tượng vũ trụ này như một đền thờ, và trời cao như là
cánh cửa dẫn vào nội cung cực thánh bên trong đền thờ đó. Ý tưởng này sẽ giúp
chúng ta nhìn vào hoàn vũ bao la này và khám phá ra sự linh thánh của nó. Khi
tôi thực hiện một quyết định gì về thế giới tạo thành quanh đây, tôi luôn phải
ghi nhớ sự linh thánh ẩn chứa bên trong. Nếu chúng ta ý thức rằng tất cả mọi
người đang sống trên trái đất đều được phủ che bằng một tấm màn thánh thiêng
như thế, chúng ta sẽ đối xử với nhau một cách khác hẳn.
Nhưng trên hết, hình ảnh này sẽ giúp chúng ta hiểu được Đức Kitô
đã liên kết trời và đất như thế nào. Đương nhiên trời không phải là đất, và
trái đất chúng ta đang ở không phải là quê trời. Nhưng trong Đức Kitô, cả hai
thực tại đều liên hệ chặt chẽ với nhau. Trời và đất đều là thành phần của cùng
một đền thờ. Trong Đức Kitô, không có cái gì chỉ thuần phàm tục, và cũng không
có cái gì tuyệt đối hoàn hảo. Không có cái gì chỉ là tạm bợ và cũng không có gì
trong vũ trụ này là vĩnh cửu mãi mãi.
Tôi nghĩ rằng ông Smith đã có một trực giác để thấu hiểu điều
này. Từ đáy sâu thẳm của cuộc sống làm người với những giới hạn mong manh, ông
đã cảm thức về một thế giới vô hạn. Khi đón nhận Thánh Thể, ông đã thực sự tiến
vào Cung Thánh, vào nơi cực thánh cùng với Đức Kitô. Ông đã đón nhận của ăn
đàng chỉ một ngày trước khi ông chết. Các thiên thần sẽ đưa ông về quê trời.
Ông đã về với Chúa cùng với Bánh ban sự sống đem theo, là lương thực độ đường
trong cuộc lữ hành tiến về cung thánh thật, và cũng là quê hương thật của ông.
Nơi thánh cung này, cùng với Đức Kitô, ông sẽ đạt tới sự vinh quang tròn đầy.
23. Chia sẻ.
Trong ý nghĩa yêu thương, trước giờ biệt ly, Chúa Giêsu muốn để
lại cho loài người một vật kỷ niệm. Người đời trước khi đi xa, thường lưu lại
cho người thân thích một món đồ nào đó để ghi nhớ: một cuốn sách, một khăn tay,
một tấm hình, một cái áo, một chiếc nhẫn v.v… Đối với Chúa Giêsu, những vật đó
hay bất cứ vật nào cũng đều tầm thường quá, hời hợt quá, không đủ nói lên tấm
lòng yêu thương nồng nhiệt của Chúa đối với nhân loại. Kỷ vật Chúa muốn lưu lại
cho loài người phải hết sức đặc biệt, đó là chính bản thân Chúa.
Nhưng bản thân bằng xương bằng thịt của Chúa lại sắp sửa bị bắt
và bị giết chết. Do đó, Chúa đã thực hiện ý muốn trên bằng một thể thức vô cùng
linh diệu, là lưu lại bản thân dưới hình thức nhiệm mầu. Chúa lấy bánh và rượu
biến đổi thành Mình và Máu Ngài: “Này là Mình Thầy”, “Này là chén Máu Thầy”.
Với những lời ấy, Chúa Giêsu đã lập Phép Thánh Thể. Rồi Chúa còn truyền cho các
môn đệ: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, tức là Chúa ban quyền cho
các môn đệ được làm việc cao quý này để tưởng niệm đến Ngài.
Như thế, trong bữa tiệc ly và cũng là thánh lễ đầu tiên do Chúa
Giêsu cử hành, Chúa đã thiết lập Bí tích Thánh Thể và ban quyền chức linh mục
cho các tông đồ. Từ đó trở đi, cho tới ngày nay, và cho tới tận thế, trong
thánh lễ, khi linh mục trịnh trọng lặp lại những lời của Chúa Giêsu: “Này là
Mình Thầy”, “Này là chén Máu Thầy”, tức thì bánh không còn là bánh, rượu không
còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Kitô. Đây là một chân lý cao siêu
vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người. Bởi vì trước và sau khi linh mục
đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm bánh và rượu chưa
truyền phép và đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác nhau. Nhưng theo
đức tin thì lại khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa
Kitô, một đàng là một tấm bánh nhỏ bé, một chút rượu tầm thường. Vì thế, chúng
ta gọi đây là một bí tích và là một mầu nhiệm đức tin.
Như vậy, trong tình yêu và vì tình yêu, Chúa Giêsu đã tìm ra một
phương thế để ở lại với các môn đệ; và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả
những ai tin vào Ngài. Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện.
Dưới hình bánh và hình rượu, Chúa Giêsu hiện diện luôn mãi với loài người nơi
trần gian. Thánh thể còn là bí tích của sự hiệp nhất. Trước hết, Thánh Thể làm
cho chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô, bởi vì Ngài đến với chúng ta
dưới hình bánh hình rượu, làm cho chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài.
Đồng thời, khi kết hiệp chúng ta với Chúa Kitô, thì thánh thể cũng kết hiệp
chúng ta với nhau: được qui tụ chung quanh một bàn ăn, chúng ta cùng uống một
chén, chia sẻ cùng một của ăn, chúng ta sống bằng chính mầu nhiệm của tình
thương, chúng ta càng hiệp nhất với nhau còn hơn là con cái của một gia đình.
Thánh Thể còn là bí tích của sự chia sẻ: Bí tích Thánh Thể đã
được Chúa Giêsu thiết lập trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm
bánh Chúa Giêsu đã cầm và phân chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã
trao cho các môn đệ là để họ cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ; và chính
việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ cho các môn đệ làm để nhớ đến
Ngài. Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người không được đóng khung những
buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh thể,
mầu nhiệm yêu thương ngay trong cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể cử
hành Thánh Thể một cách trung thực nếu chúng ta sống dửng dưng, ích kỷ, không
quan tâm đến những anh chị em chung quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất,
chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho tình thương, sự thông cảm, vị tha, bác ái dưới
mọi hình thức với hết mọi người.
Tóm lại, về Phép Thánh Thể, chúng ta hãy nhớ: Thánh Thể là một
bí tích. Trong Thánh Thể, có Chúa Giêsu thật sự. Vì thế, sau khi truyền phép,
không còn bánh và rượu trên bàn thờ nữa. Chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh
lễ. Mỗi lần dâng thánh lễ là chúng ta cử hành việc Chúa lập Phép Thánh Thể. Đàng
khác, chúng ta hãy cố gắng rước lễ mỗi khi tham dự thánh lễ, bởi vì rước lễ làm
cho chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô và hiệp nhất với nhau; tăng thêm sức mạnh
cũng như nghị lực cho chúng ta trên đường lữ thứ trần gian; và bảo đảm sự sống
đời đời của chúng ta. Như thế, bàn tiệc Thánh Thể trở nên điểm hẹn diệu kỳ, nơi
đó, chúng ta được nối kết với Chúa Kitô và nối kết với nhau, để cùng nhau xây
dựng một thế giới công bằng và tốt đẹp hơn.
24. Bữa
tiệc linh thánh.
Trong cuộc bắt đạo năm 1980, những người Công Giáo tại Guatemala
vẫn tiếp tục tụ tập tại nhà thờ mỗi Chúa Nhật cho dù là không có linh mục để cử
hành Thánh Lễ, cho dù toàn quốc không có một linh mục nào cả.
Diễn tả lại những lúc tụ tập lại mà không có linh mục, Fernando
Bermudez viết trong cuốn “Death and Resurrection in Gautemala, Cái Chết và Sự
Phục Sinh của Gautemala” như sau: “Tất cả mọi người, quì trước mặt nhau, đều
xưng tội lỗi mình ra, và cùng nhau hát bài xin Thiên Chúa tha thứ. Và một người
làm đầu trong nhóm đứng lên đọc một đoạn Phúc Âm rồi giảng giải với hết khả
năng theo sự hiểu biết của anh. Sau đó, anh mời mọi người trong nhóm chia sẻ ý
nghĩ của họ về bài Phúc Âm đó.
Mỗi tháng một lần, các giáo xứ gởi đi một đại diện đến một chỗ
mà các linh mục vẫn còn được hoạt động. Người đại diện đó phải đi bộ mất 18
tiếng đồng hồ để tham dự Thánh Lễ nhân danh giáo xứ của họ.
Diễn tả về Thánh Lễ này, Bermudez viết: “Bàn thờ được chẩn bị
những rổ bánh. Sau Thánh Lễ, các đại diện đến nhận lại cái rổ bánh của mình,
bây giờ là Mình Thánh Chúa, đem về giáo xứ của mình để chia sẻ với những anh
chị em khác.”
Đó là lòng yêu mến Thánh Thể mà Thánh Lễ hôm nay, kính Mình Máu
Thánh Chúa, chúng ta đang kính nhớ.
Thánh Lễ đặc biệt này cử hành để kỷ niệm món quà rất quý giá mà
Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ trong Bữa Tiệc ly. Thánh Luca đã tả lại như
sau:
“Người cấm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà
nói: “Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con; hãy làm sự này mà nhớ đến Ta”. Cùng
một thể thức ấy, sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu mà nói: “Này là máu Ta,
máu Giao ước mới, đổ ra vì các ngươi” (Lc 22:19-20).
Lời của Chúa Giêsu thật quan trọng. Ngài phán: “Đây là mình Ta,
sẽ bị nộp vì các con” và “Đây là Máu Ta, sẽ đổ ra vì các con.”
Những lời này, “sẽ bị nộp vì các con” và “sẽ đổ ra vì các con”
nói lên tinh thần hy sinh cao cả. Những lời này nói lên hy tế Thân xác và Máu
của của Chúa Giêsu trên thánh giá.
Diễn tả về hy tế cực thánh trong Thánh Thể, Thánh Phaolô đã
viết: “Chén chúc tụng ta (cầm lên mà) đội ơn, lại không phải là thông phần Máu
Đức Kitô sao? Bánh ta bẻ, lại không phải là thông phần Thân mình Đức Kitô sao?”
(1 Cor 10:16).
Thánh Phaolô nêu ra cho chúng ta một điểm quan trọng. Mỗi lần
khi chúng ta cùng nhau cử hành Bí tích Thánh Thể, chúng ta tham dự vào hiến tế
của Chúa Kitô lên Thiên Chúa Cha.
Nói một cách khác, bữa tiệc Thánh Thể mà chúng ta cử hành mỗi
Chúa Nhật là một hy tế giống như hy tế mà Chúa Giêsu đã bắt đầu trong Bữa Tiệc
ly và hoàn tất trên đồi Golgôtha. Khi chúng ta hiểu được điều đó thì Thánh Thể
sẽ mang một ý nghĩa mới.
Đó là một mầu nhiệm cao cả mà chúng ta tụ họp nơi đây để cùng
nhau cử hành cách đặc biệt trong Thánh Lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Trong một vài phút nữa, khi vị chủ tế cầm Mình Thánh và nói:
“Mình Thánh Chúa Kitô”, xin các bạn hãy nỗ lực nhận thức cách đặc biệt cái gì
bạn đang đón nhận.
25. Hồng
ân của Bí Tích Thánh Thể
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Từ ngày tổ tông loài người sa ngã phạm tội, ông bà nguyên tổ và
con cháu cắt đứt mọi tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa, phải xa lìa Thiên Chúa
vĩnh viễn và cuối cùng phải trầm luân đời đời trong cõi chết.
Không nỡ để cho loài người phải chìm ngập trong đau khổ và sự
chết do tội lỗi gây ra, Thiên Chúa tìm mọi cách cứu vớt loài người để họ được
sống hạnh phúc với Người luôn mãi.
Thế là Thiên Chúa lên kế hoạch cứu độ loài người. Kế hoạch đó
nhắm đến ba mục tiêu tối quan trọng sau đây:
- Xóa bỏ tội lỗi con người.
- Kết hợp nên một với con người và ở với họ mọi ngày cho đến tận
thế.
- Thông ban sự sống cao cấp và viên mãn của Thiên Chúa cho loài
người.
Ba mục tiêu cao cả nầy được đạt tới trọn vẹn nhờ việc Chúa Giêsu
thiết lập Bí Tích Thánh Thể.
Vậy thì Bí Tích Thánh Thể là gì mà có thể mang lại hiệu quả
tuyệt vời đến thế?
Có thể trả lời vắn gọn: Bí Tích Thánh Thể, còn gọi là Thánh Lễ,
chính là hy tế thập giá của Chúa Giêsu đã khởi đầu cách đây hơn 2.000 năm trên
đồi Can-vê và còn tiếp tục diễn tiến qua các thời đại cho đến ngày tận thế.
(Giáo lý Công Giáo 1323,1366)
Trăm nghe không bằng một thấy. Muốn hiểu điều cốt yếu của Bí
Tích Thánh Thể hay Thánh Lễ là gì thì cứ việc nhìn vào tượng chuộc tội, hoặc
muốn thấy rõ hơn thì nhìn vào mười bốn bức tranh đường thánh giá mà các tín hữu
vẫn chiêm ngắm vào mỗi ngày thứ sáu hằng tuần. Tượng chuộc tội đó, mười bốn bức
họa đường thánh giá đó, minh họa cho thấy hy tế thập giá của Chúa Giêsu diễn ra
thế nào. Thánh Lễ ta tham dự hôm nay chính là phần nối tiếp của hy tế thập giá
đó và cũng là một với hy tế đó.
1. Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giêsu dâng mình đền tội cho ta.
Luật Chúa đã truyền: “Tội lỗi tất phải đưa đến sự chết” (xem
Ê-dê-ki-ên 18,20. Rm 5,12. Rm 6,23. Giacôbê 1,15) mà luật Chúa thì không thể
xóa bỏ được. Chiếu theo luật nầy, loài người đã phạm tội nên loài người không
thể thoát chết, trừ phi có ai chết thay cho họ. Thế là Ngôi Hai Thiên Chúa tình
nguyện làm Đấng chết thay.
Khi dâng mình làm lễ tế trên đồi Can-vê hôm xưa, cũng là khi
dâng mình trong Thánh Lễ hôm nay, Chúa Giêsu chịu đền tội và chịu chết thay cho
người tội lỗi để họ được ơn tha thứ và thoát khỏi án chết đời đời. (xem glcg
1365, 1366)
2. Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giêsu cho ta được kết hợp nên một với
Người và Người ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Làm thế nào để cho con người được nên một với Chúa Giêsu?
Chúa Giêsu có một sáng kiến tuyệt vời: Người hiện diện dưới hình
tấm bánh, dưới hình rượu để cho chúng ta được ăn Người, được uống Người. Và một
khi đã ăn Chúa Giêsu, chúng ta được nên cùng máu thịt, cùng một thân mình với
Chúa như lời Người phán: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và
Tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6, 56)
Thiên Chúa như đại dương bao la. Còn chúng ta như vũng nước nhỏ
bên bờ đại dương. Khi ta rước Chúa vào lòng, ngăn cách giữa ta với Chúa không
còn nữa: Ta được tan hòa vào Chúa như ao nước nhỏ tan hòa vào đại dương, nên
một với đại dương, được nước đại dương làm cho trong lành.
3. Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giêsu ban sự sống của Người cho ta.
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn,
thì nó phải được tháp nối nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ
thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân
thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu
thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Khi rước Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, chúng ta được hòa tan trong
Chúa, Chúa với ta không còn là hai mà chỉ là một. Nhờ đó, Sự Sống đời đời của
Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho ta như sự sống của thân thể
chuyển thông cho từng chi thể. Nhờ đó, chúng ta mới được sống đời đời như lời
Chúa Giêsu xác nhận: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga
6,54)
Như thế, Thánh Lễ, hay nói khác đi là hy tế thập giá của Chúa
Giêsu là một phương thế tuyệt vời Thiên Chúa dùng để cùng một lúc ban cho chúng
ta đến ba hồng ân vô giá, đó là tha thứ tội lỗi cho chúng ta, cho ta được thông
hiệp nên một với Chúa và nhất là thông ban sự sống vô cùng cao quý của chính
Người cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa phải trả giá rất đắt, trả giá bằng cả cuộc
đời và sinh mạng của Chúa để đem lại cho chúng con những ân huệ quá đỗi tuyệt
vời. Lẽ nào chúng con lại ngoảnh mặt quay lưng hay tỏ ra thờ ơ hững hờ với
những hồng ân cao vời như thế?
Xin cho chúng con sớm nhận ra hồng ân vô giá nầy để ngày ngày
siêng năng tham dự Thánh Lễ và tận hưởng thiên ân.
26. Chuẩn
bị tiệc Vượt Qua và khai mạc Giao Ước
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Phụng vụ hôm nay đưa chúng ta đến bữa ăn cuối cùng Đức Giêsu
chia sẻ với các môn đệ. Đây là một trong nhiều sự cố đã xảy ra kể từ khi Đức
Giêsu đến Giêrusalem (x. 11,1). Tuy nhiên, bữa ăn này có một giá trị đặc biệt,
vì đây là một bữa tiệc Vượt Qua, trong đó Đức Giêsu sẽ ký kết giao ước mới
trước khi đi vào cuộc Thương Khó.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Chuẩn bị tiệc Vượt Qua (14,12-16);
2) Khai mạc giao ước (14,22-26).
3.- Vài điểm chú giải
- Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên
Vượt Qua (12): Theo truyền thống Kinh Thánh, lễ Vượt Qua (Pesach) được
cử hành vào chiều ngày 14 Nisan (“Nisan” là tháng thứ nhất của năm) và chính
ngày lễ là 15 Nisan, còn lễ Bánh Không Men (lễ Matzoth), kéo dài thành bảy
ngày, lại bắt đầu vào đúng ngày 15 Nisan. Vì hai đại lễ này quá gần nhau, chẳng
mấy chốc lễ Bánh Không Men đã được gọi là lễ Vượt Qua, và kéo dài trong bảy
ngày và bắt đầu với đêm lễ Vượt Qua, và phụng vụ cũng gọi đêm lễ Vượt Qua ấy là
“lễ Bánh Không Men”. Chiên và bánh không men là lương thực biểu tượng của lễ
mùa xuân. Cả hai thứ này nói lên sự tái sinh và đời sống mới[1].
Truyền thống kinh sư quy định việc sát tế chiên bắt đầu sau khi
đã dâng hy lễ chiều ngày vọng, nghĩa là vào khoảng 14g30, tức trước khi ngày
thứ nhất bắt đầu vào lúc mặt trời lặn. Nếu lễ Vượt Qua rơi vào ngày thứ bảy,
thì bắt đầu sát tế chiên sớm hơn 1 giờ. Nhưng tác giả Mc quan tâm đến độc giả
gốc ngoại giáo, ông cho bắt đầu ngày bằng ban sáng (14,17: “chiều đến”, các
ngài dùng bữa), “ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men”, tức là đúng ngay
ngày 15 Nisan.
Nhận định tổng hợp là: Bản văn Mc xác định Bữa Tiệc cuối cùng
chính là bữa tiệc Vượt Qua, tức đúng ngày 15 Nisan; các tác giả Nhất Lãm khác
cũng theo thời gian biểu của Mc. Còn Ga 19,14 lại đặt cái chết của Đức Giêsu
vào chiều ngày 14 Nisan và như thế làm cho bữa ăn tối cuối cùng trở thành một
bữa ăn tiền-Vượt Qua. Thời gian biểu của Gioan có lẽ đúng hơn, bởi vì khó mà
cho rằng các thượng tế và các kinh sư lại hành động như ta đã biết vào ngày thứ
nhất của lễ Vượt Qua. Khi biến bữa Ăn tối cuối cùng thành một bữa tiệc Vượt
Qua, tác giả Mc nhắm kéo cái chết của Đức Giêsu vào gần hơn nữa với các đề tài
lớn của lễ Vượt Qua là hiến tế và giải phóng.
- dọn cho Thầy ăn lễ (12): Có nhiều việc
phải làm: tìm một nơi thích hợp, giết chiên, chuẩn bị bánh không men, sắm các
đồ dùng vào bữa tiệc. Các dân cư Giêrusalem rất sẵn sàng giúp cho các khách
hành hương có chỗ mà ăn lễ. Nhưng ở đây, tác giả Mc không muốn nói tới điểm
này, ngài muốn nêu ra một chuyện lạ lùng.
- một người mang vò nước (13): Các môn đệ được
cho một dấu chỉ để có thể chu toàn nhiệm vụ, nhưng đây lại là một dấu chỉ của
đời thường: một người mang vò nước thì ta có thể gặp bất cứ lúc nào trong
Giêrusalem. Tuy nhiên dấu chỉ này cho hiểu rằng hành trình đưa Đức Giêsu đến
cuộc Thương Khó được tiên liệu đến từng chi tiết.
- một phòng rộng rãi trên lầu (15):
Khi cử hành lễ Vượt Qua, ít ra có khoảng mười người họp lại với nhau, nên sách
Mishna quy định là phải có một không gian 10x10 “khuỷu tay” (tức khoảng 23m2).
Khi ăn tiệc, người ta nằm dài để diễn tả là dân chúng đã ra khỏi kiếp nô lệ Ai
Cập và đã được tự do; ngay cả người nghèo nhất cũng ăn tiệc Vượt Qua trong tư
thế này.
- dâng lời chúc tụng (22): Với cách hành
động này, ta có thể nói đây là bữa tiệc Vượt Qua hay bữa tiệc bằng hữu cũng
được. Trong bữa tiệc Vượt Qua, phải có trước tiên lời chúc tụng về ngày lễ, rồi
chén rượu đầu tiên, các món khai vị là rau đắng và trái cây, suy niệm về lễ
Vượt Qua, rồi chén rượu thứ hai. Phần chính của bữa ăn bắt đầu với lời chúc
tụng trên bánh không men. “Cầm lấy, dâng lời chúc tụng, bẻ ra” là những từ ngữ
chuyên môn của lời kinh người Do Thái đọc trước khi ăn. Rất có thể người Do
Thái nghĩ rằng miếng bánh được trao cho họ, do ông chủ bẻ ra từ tấm bánh lớn,
đưa lại phúc lành cho mình.
- đây là mình Thầy… Đây là máu Thầy
(22.24): Vì từ ngữ “mình” (sôma) là một từ nói quanh để chỉ bản thân con người,
câu này có thể diễn lại là: “Đây là chính Thầy”. Những ai ăn tiệc thì được hiệp
thông cách mới mẻ với Đức Giêsu. Dựa vào c. 24 nói về chén rượu, ta hiểu là đây
là sự hiệp thông với Đấng đang đi tới cái chết. Từ ngữ sôma, vì ở trong thế
song đối với “máu đổ ra”, có nghĩa là thân thể dâng làm hy lễ.
- Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn (23):
Trong tiệc Vượt Qua, giữa lời chúc tụng trên bánh và lời chúc tụng trên rượu,
có việc ăn thịt chiên. Theo sách nghi thức, đây là chén rượu thứ ba. Ta lưu ý
là tác giả Mc đã chuyển đi từ “dâng lời chúc tụng (eulogein)” sang “dâng lời tạ
ơn (eucharistein)”, trong khi trong bữa tiệc Do Thái, cả hai lần đều là “lời
chúc tụng”. Có thể công thức này đã được chọn vì người ta đã nghĩ tới kết thúc
bữa ăn. Nhưng rất có thể tác giả muốn gợi tới bữa tiệc Thánh Thể (eucharistia).
- tất cả đều uống (23): Chi tiết này
đến quá sớm, vì sau đó Đức Giêsu còn giải thích ý nghĩa của rượu. Trong một ngữ
cảnh rộng hơn, từ “tất cả” đây nhìn tới trước tình cảnh “tất cả” sẽ vấp ngã
(14,27.50). Việc tham dự vào bữa tiệc không giữ cho người ta khỏi vấp ngã vào
giờ quyết định.
- máu giao ước, đổ ra vì muôn người (24):
“Máu giao ước” nhắc đến Xh 24,8. Trong đoạn văn này, sau khi dân đã cam kết giữ
luật và sau hy lễ, Môsê rảy máu các tế vật lên dân và nói: “Đây là máu giao ước
Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này”. Ngay sau đó ông dùng một
bữa tiệc huynh đệ với các vị kỳ mục của dân (Xh 24,11). Nhờ cái chết của Đức
Giêsu, một giao ước mới được thiết lập, thay thế giao ước thứ nhất. Máu Đức
Giêsu đi vào thế đối lập tiên trưng với máu giao ước cũ. Theo Dcr 9,11, các tù
nhân được phóng thích “nhờ máu của giao ước này”. Việc khai trương giao ước đưa
lại sự cứu chuộc và cứu độ. “Máu đổ ra” đồng nghĩa với “bị giết”, bởi vì theo
một quan niệm của Kinh Thánh, máu được coi là mang sự sống và sức sống. Từ đó
ta hiểu rằng chén được dâng đảm bảo có sự hiệp thông với Chúa, Đấng hiến mình
trong cái chết. “Đổ ra”, ekchêô, được dùng thường xuyên để nói về máu con vật
được đổ ra (Lv 4,7.18.25.30.34…) và việc rưới rượu (Is 57,6).
Câu “đổ ra vì muôn người” (dịch sát là “đổ ra vì nhiều người”)
nhắc đến Is 53,12 và đưa lại cho hành vi một chiều kích hy tế. Hai đoạn văn Cựu
Ước này được dùng để diễn tả cái chết của Đức Giêsu như là một hy lễ vì những
người khác. Cụm từ hyper pollôn, “vì nhiều người”, dựa trên kiểu nói Sê-mít đặc
biệt của Is 53,12 (rab), có nghĩa là “tất cả” / đoàn người đông đảo”, chứ không
chỉ là “một số người”; đây là toàn thể thế giới ngoại giáo (x. Người Tôi Trung
được gọi là “ánh sáng cho các dân” [x. Is 42,6; 49,7t]). Như vậy, “nhiều” đây
không đối lập với “tất cả”, nhưng có nghĩa là “tất cả là nhiều”[2].
- chẳng bao giờ Thầy còn uống … trong Nước Thiên Chúa (25):
Câu kết thúc này đặt Bữa Tiệc Ly trong khung cảnh là bữa tiệc thiên sai (x.
6,35-44; 8,1-10). Thay vì coi bữa tiệc cuối cùng này (và Tiệc Thánh Thể) là một
biến cố cô lập, cần phải liên kết nó với các bữa ăn Đức Giêsu đã chia sẻ trước
đây với những người thu thuế và tội lỗi (x. 2,16) và với bữa tiệc cánh chung
tương lai.
- Hát thánh vịnh xong (26): Đây là khối Tv
113–118, thường được gọi là Tập Hallel nhỏ. Tập Hallel này này có một vị trí
đặc biệt trong ba đại lễ Vượt Qua, Ngũ Tuần và Lều.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chuẩn bị tiệc Vượt Qua (12-16)
Bữa tiệc có một tầm quan trọng lớn lao trong Tin Mừng. Tác giả
Mc thường xuyên cho thấy Đức Giêsu ngồi vào bàn ăn với các môn đệ, với những
người tội lỗi và với dân chúng. Biến cố cuối cùng trước Thương Khó cũng vẫn là
một bữa tiệc: Đức Giêsu cùng với Nhóm Mười Hai cử hành tiệc Vượt Qua. Trong sự
hiệp thông đức tin và đạo giáo Israel, các ngài cử hành lễ trọng nhất của dân
tộc mình. Bằng bữa tiệc Vượt Qua, dân Israel nhắc lại cách Thiên Chúa đối xử
với các tổ phụ và được canh tân trong niềm tin đầy tri ân, vui tươi và vững
vàng đặt nơi Thiên Chúa.
Các môn đệ được phái đi chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ cuối cùng của
Đức Giêsu với các môn đệ trên bối cảnh là bữa tiệc và nội dung của đại lễ Vượt
Qua như thế.
Các môn đệ đã đi vào thành và gặp một người mang vò nước đón
mình. Các ông đã chuyển giao sứ điệp: “Thầy nhắn: «Cái phòng dành cho tôi ăn lễ
Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?»”. Đây là lần duy nhất danh xưng “Thầy”
(didaskalos) được Đức Giêsu dùng để nói về mình, vừa với nghĩa là “vị thầy
truyền đạt kiến thức”, vừa theo nghĩa là “bậc đáng kính”; điều này còn được
khẳng định bởi cụm từ “các môn đệ của tôi” chỉ được dùng duy nhất ở đây. Tuy
nhiên, chi tiết “người mang vò nước” lại chứng tỏ rằng hành trình đưa Đức Giêsu
đến cuộc Thương Khó đã được tiên liệu trong từng chi tiết: Người biết và Người
vâng phục (x. 11,1t). Như thế, bên cạnh sự cao cả của Người, là sự hạ mình
khiêm nhường của Người. Ông chủ nhà sẽ dành cho các môn đệ một phòng lớn trên
lầu trên (thường đây là phòng rộng nhất của căn nhà). Các môn đệ thấy mọi sự
đúng y như Đức Giêsu đã nói trước.
* Khai mạc giao ước (22-26)
Tại bữa tiệc, trong bánh và rượu, Đức Giêsu ban cho các môn đệ
thân mình và máu của Người. Đây là bữa tiệc từ biệt. Đức Giêsu sẽ bị giao nộp
và bị giết, Người sẽ không đi đi lại lại trong xứ cùng với các ông, cũng không
ăn tiệc với các ông như lâu nay nữa. Tuy nhiên, Người sẽ ở giữa các ông trong
bánh và rượu; trong tương lai, đây sẽ là cách thức hiện diện của Người. Đức
Giêsu từ biệt, tuy vậy, Người vẫn ở lại đó.
Máu mà Đức Giêsu hiến dâng trong chén rượu là máu của giao ước,
được đổ ra vì muôn người. Tiếp nối vào cuộc giải phóng khỏi đất Ai Cập, được
nhắc lại trong tiệc Vượt Qua, là việc ký giao ước tại núi Sinai. Đây không phải
là một giao ước giữa các partner ngang nhau. Trước tiên giao ước này có đặc
điểm là Thiên Chúa tự ràng buộc và tự cam kết là Thiên Chúa nhân ái của dân (x.
Xh 20,1); và giao ước này hàm chứa cam kết của dân là tuân giữ các điều răn (x.
Xh 20,3-17). Giao ước được đóng ấn, khi Môsê rảy máu tế vật lên bàn thờ và dân
chúng (Xh 24,6-8). Với máu của Đức Giêsu, giao ước mới và vĩnh viễn được đóng
ấn. Trong máu Người, trong hành vi hiến tặng mạng sống của Người, tình yêu của
Thiên Chúa đối với thế gian được tỏ bày (x. Ga 3,16); nhờ máu Người đổ ra, “một
đoàn lũ đông đảo” được giải thoát khỏi tội lỗi. Đức Giêsu không chỉ ở lại với
các môn đệ, mà còn đặt nền tảng và đóng ấn cho sự hiệp thông của họ với Thiên
Chúa.
Đức Giêsu tạng ban cho họ mình và máu Người. Mình và máu là toàn
thể bản thân một người. Việc Người tặng ban mình và máu phải mãi mãi nhắc nhớ
đến việc Người hiến tặng mạng sống, cái chết của Người trên thập giá. Đàng
khác, bánh là lương thực hằng ngày nuôi sống con người, còn rượu chính là tiệc
mừng trong niềm vui. Để sống được, loài người chúng ta cần lương thực. Khi ban
tặng chính mình trong bánh và rượu, Đức Giêsu cho ta thấy rằng nhờ sự hiện diện
của Người giữa chúng ta và nhờ sự hiệp thông của chúng ta với Người, chúng ta
có sự sống ở mức viên mãn và trong niềm vui.
Trong những lời kết thúc (c. 25), Đức Giêsu lại nhấn mạnh rằng
sự hiệp thông mà Người đã sống cho đến lúc này với các môn đệ đã đến lúc kết
thúc: Người sẽ không uống thứ rượu trong tiệc mừng với họ như lâu nay Người vẫn
làm nữa. Đồng thời, Đức Giêsu nói đến sự hoàn tất của sự hiệp thông này trong
Nuớc Thiên Chúa, khi Thiên Chúa sẽ thiết lập và tỏ bày vĩnh viễn quyền chúa tể
của Ngài ra.
+ Kết luận
Khi tường thuật truyện Đức Giêsu mừng lễ Vượt Qua với các môn
đệ, tác giả Mc đã cho thấy Đức Giêsu đã trung thành đi theo ý muốn của Thiên
Chúa trong từng chi tiết. Do đó, bài tường thuật không chỉ để ghi nhận các sự
kiện, nhưng mang tính tín lý. Tác giả đã liên kết Thương Khó với tiệc cuối
cùng; với bữa tiệc này, cuộc Thương Khó đã bắt đầu vào lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua
của Đức Giêsu được ghi dấu ấn là cuộc Thương Khó của Người. Rất có thể từ ngữ
pascha khiến tác giả Mc nghĩ đến ý nghĩa của từ Hy Lạp paschô (“đau khổ”); dĩ
nhiên về từ nguyên thì không đúng, nhưng về thực tại thì có lý.
Đức Giêsu cũng bày tỏ sự trung thành với các môn đệ cho đến
cùng, qua việc hiến tặng mình và máu Người trong bánh và rượu. Sự trung thành
của Đức Giêsu, được tỏ hiện trong tất cả mọi hình thức hiện diện của Người, là
điểm vững chắc duy nhất trong tương quan hỗ tương giữa Người với các môn đệ.
Đức Giêsu luôn ở cùng chúng ta và cho chúng ta được hiệp thông của Người như
cho một quà tặng.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đến cuối thời gian hoạt động, Đức Giêsu lại chia sẻ bữa tiệc
Vượt Qua này với các môn đệ: bữa tiệc này nhắc lại lịch sử của quan hệ của
Thiên Chúa với Israel và đưa tới chỗ hoàn tất. Đức Giêsu lại ăn tiệc với các
môn đệ, như cách hiệp thông riêng tư với các ông. Tại đây mọi sự được quay
hướng về các hình thái khác của sự hiện diện của Người giữa các môn đệ, về sự
hiệp thông không cùng của họ với Người. Tuy nhiên, các môn đệ không thể tự ru
ngủ mình trong sự an toàn; chính họ đã thấy định mệnh của Đức Giêsu là một
chướng kỳ; chính họ đã không đủ sức liên kết với Người.
2. Trên thập giá, Đức Giêsu đã đổ máu ra; bằng cái chết của
Người, Người đã thiết lập giao ước mới, tạo điều kiện cho có sự hiệp thông vĩnh
viễn của Thiên Chúa với loài người. Đức Giêsu sẽ mãi mãi ở với họ và sẽ là Đấng
Chịu đóng đinh đã hiến tặng mạng sống cho họ. Cho đến nay, Người đã ở giữa họ
theo cách thấy được rõ ràng bằng mắt thường, kể từ nay, Người sẽ ở giữa họ
trong bánh và rượu, trong tư cách Đấng Chịu đóng đinh, trong tư cách dấu chỉ
tình yêu của Thiên Chúa và sự sống. Tất cả những điều này sẽ tới mức viên mãn
khi Nước Thiên Chúa được tỏ hiện.
3. Hôm nay chúng ta đã quen coi truyền thống về bữa tiệc ly như
là một thành phần thuộc cuộc Thương Khó. Điều này chính tác giả Mc đã nhắm: bữa
tiệc này được quy hướng về thập giá và Phục Sinh. Bữa tiệc này kết thúc các bữa
tiệc Đức Giêsu dùng với các người tội lỗi (2,15tt) và với dân chúng (6,35tt;
8,1tt) và đưa các môn đệ vào cuộc Thương Khó. Người Kitô hữu khi tham dự vào
bữa tiệc Thánh Thể thì cũng đã được đặt trên cùng một nẻo đường.
4. Việc lãnh nhận Mình và Máu của Chúa mang lại cho chúng ta sự
thông dự vào sự sống của Người, cái chết cũng như sự phục sinh ngõ hầu chúng ta
cũng có thể sẵn lòng sống phục vụ và yêu thương tha nhân như Người đã làm. Khi
chúng ta đón nhận Bánh Sự Sống và Chén Cứu Độ, chúng ta được nhắc nhớ rằng chết
không phải là hết. Với mỗi cái chết là một lời hứa và mở ra sự sống mới
(Siciliano).
27. Chú giải
của Noel Quesson.
Hôm ấy nhằm ngày thứ nhất trong tuần bánh không men là ngày giết
chiên mừng lễ Vượt qua, các môn đệ thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy muốn
chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”.
Đức Giêsu đã bị “hành quyết” vào một ngày thứ sáu, rất có thể
năm ba mươi hay ba muơi ba, vào lúc những con chiên được giết để mừng lễ Vượt
qua trong khuôn viên đền Thánh (Ga 19,14).
Nhưng người ta không biết rõ Chúa Giêsu đã theo lịch nào để dùng
bữa ăn cuối cùng của Người. Điều chắc chắn là Người đã mặc cho bữa ăn này một
đặc tính “vượt qua”.
Lễ Vượt Qua là một lễ lớn của người Do Thái: Người ta ăn mừng
cuộc “giải phóng”. Trong một bữa ăn cổ truyền được tổ chức tại nhà, trong gia
đình, người cha phải giáo huấn con cái mình nhớ lại việc tổ tiên của họ đã được
giải thoát khỏi ách nô lệ như thế nào. Vì thế, dân Do Thái luôn ý thức mình là
một dân tộc “nguyên là nô lệ” nhưng bấy giờ được “tự do! Chúa đã can thiệp, ủng
hộ sự nổi lên của họ chống lại kẻ áp bức, giúp họ ra khỏi đất Ai Cập, để vào
miền đất hứa.
Mỗi năm tại Nagiarét, Đức Giêsu cùng với Thánh Giuse và Đức
Maria, đã cử hành bữa tiệc mừng lễ này. Người đã thuộc lòng mọi diễn tiến theo
nghi thức trong bữa ăn: Bánh miến, rượu nho, thịt chiên, rau đắng, kinh nguyện,
thánh vịnh. Nhưng tối hôm đó, Người sẽ cho bữa ăn cổ truyền này một nội dung
mới! Hôm nay chính người là đấng giải phóng!
Đó là lễ vượt qua! Công cuộc giải phóng! Một bữa tiệc mừng, một
bữa ăn giải thoát dân khỏi ách nô lệ .
Chúng ta quá coi thường điều đó! Các Thánh lễ của chúng ta có
nguy cơ bị nhạt nhẽo và nhàm chán lặp đi lặp lại biết bao Thánh lễ xem ra có phần
bi thảm! Điều quan trọng là trước hết chúng ta phải lo lắng “cử hành những buổi
lễ” và “tôn trọng các nghi thức”! Chúng ta có hay quên rằng mình luôn luôn cần
phải được “giải phóng” và “cứu rỗi không”. Thưa quý ông bà, vâng quý ông bà vẫn
còn là những “nô lệ”. Quý vị hãy xét kỹ lại cuộc đời của mình và hãy tỏ ra sáng
suốt. Hãy ý thức tất cả những gì đang xiềng xích quý vị, lúc bấy giờ quý vị sẽ
xin Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con dọn bữa ăn lễ vượt qua cho Thầy,
bữa ăn giải phóng ở đâu?”. Vâng xin Chúa giải phóng chúng con thoát khỏi tội
lỗi và sự chết.
Người liền sai hai môn đệ đi mà dặn họ: “Các anh đi vào thành,
rồi sẽ gặp một người mang vò nước, cứ đi theo người đó.”
Bầu khí lúc bấy giờ trở nên nặng nề. Đức Giêsu là một người bị
săn đuổi. Những lãnh tụ Do Thái đã quyết định giết hại người. Vì thế Đức Giêsu
làm như ra tín hiệu cách kín đáo. Ngừơi có bạn hữu, nhưng phải liên hệ cách
vụng trộm. Người đã chuẩn bị tất cả – tôi hình dung ra hai môn đệ đang đi theo
người mang vò nước – cái chết của đức Giêsu, việc Người rời khỏi thế giới này,
phải chăng đối với chính người trước tiên, là một việc vượt qua, một cuộc giải
thoát. Đó là “Lễ vượt qua của Chúa”: người sẽ được giải thoát.
Người đó vào nhà nào, các anh đi theo và thưa với chủ: “Thầy hỏi
ông dành cho Thầy phòng nào để ăn lễ vượt qua với các môn đệ?”. Ông ấy sẽ chỉ
cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, sẵn sàng đầy đủ tiện nghi. Các anh dọn
tiệc cho chúng ta ở đó.
Đức Giêsu đã tiên liệu tất cả. Người cảm thấy tầm quan trọng.
Chính Người là chủ mời. Dó là “bữa ăn của Người”. Lát nữa, chính Người sẽ là
chủ toạ. Những môn đệ là “khách được mời”.
Người dùng quyền sắp đặt và chuẩn bị. Chúng ta ngạc nhiên vì sự
quan trọng của chi tiết này. Đúng vậy, ngày nay, bất cứ một buổi lễ nào cũng
phải được chuẩn bị. Chúng ta hằng nghĩ đến những buổi lễ tại làng thôn hay
trong khu xóm, những bữa ăn mừng rước lễ lần đầu, lễ đính hôn hay kết hôn.
Chúng ta rất muốn buổi lễ được thành công, và như thế chúng ta phải rất cực
nhọc.
Còn những Thánh lễ của chúng ta thì sao? Chúng ta có chuẩn bị tử
tế không? Biết bao Thánh lễ đã được cử hành cách vội vã, đọc cho qua lần, cử
hành cho mau xong. Như Đức Giêsu chúng ta cần quyết định biến các Thánh lễ của
chúng ta thành buổi lễ thực sự, cần dành thời giờ để “chuẩn bị", và trước
hết phải đến đúng giờ và nếu cần, hãy lập lại những bài Thánh ca trước khi cử
hành Thánh Thể, như phần cốt yếu của buổi lễ. Đức Giêsu, tối hôm ấy đã chuẩn bị
tất cả để cho buổi lễ được tốt đẹp và trang trọng.
Hai môn đệ ra đi - Vào đến thành các ông thấy mọi sự y như người
đã nói, và các ông dọn tiệc vượt qua.
Thánh Máccô nhấn mạnh về điểm này. Ngài muốn đề cao uỷ quyền và
vẻ nghiêm trọng của Đức Giêsu. Người đã tiên liệu tất cả, Người đã quyết định
tất cả. Người là "Chúa”, không ai chối cãi được. Đức Giêsu biết rằng đó là
buổi hội họp cuối cùng của Người với các bạn hữu, "giờ" đã nghiêm
trọng rồi: Thánh Gioan sẽ nói là "giờ" của Người". Việc gì đã
xảy ra? Chúng ta được đưa vào một hồi kịch quan trọng, biến cố sắp xảy ra... sẽ
thay đổi lịch sử của hành tinh, của nhân loại. Cái chết và sự Phục sinh của Đức
Giêsu là sự giải phóng thế gian tội lỗi.
Khi tôi đi dự lễ Chúa Nhật, tư tưởng của tôi như thế nào? Tôi
chuẩn bị tâm hồn ra sao? Đó có phải là một “biến cố" trong tuần sống của
tôi không? Tất cả có hội tụ và hướng về đó không? Hay đó chỉ là một thời gian
nhỏ bị "đánh cắp" cách lén lút trong những công việc quan trọng khác
của tôi? Một thứ "dấu ngoặc"?
Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy tấm bánh, dâng lời chúc tụng, rồi
bẻ ra trao cho các môn đệ
Chúng ta có 4 trình thuật về cảnh này. Thánh Maccô, Thánh Luca,
Thánh Matthêu và Thánh Phaolô (I Cr 11, 23-25). Bốn trình thuật này đều như
nhau về điểm cốt yếu, nhưng trình bày cho chúng ta những công thức khác nhau
trước những "lời" Chúa phán. Đức Giêsu đã không quá câu nệ là nghi
lễ, và cả Giáo Hội tiên khởi cũng thế. Điều quan trọng là phải lưu ý sự kiện
hiển nhiên này để giải thoát chúng ta khỏi một quan niệm, “duy vật" về các
bí tích, cứ như là Người dính liền với những từ ngữ, theo kiểu phù thủy - Thực
ra người ta không biết rõ "từng chữ" Đức Giêsu đã nói tối hôm đó như
thế nào - Bốn trình thuật không phải là những phóng sự, mà là những bản văn
phụng vụ khác nhau. Đã được dùng trong những cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên. Người
ta có thể đoan chắc rằng những cộng đoàn đó, vì gần với biến cố vừa qua, đã tôn
trọng ý định và cả những công thức của Đức Giêsu.
Trước tiên chúng ta cần tưởng tượng những "cử chỉ" của
Đức Giêsu. Người "cầm lấy" bánh? Tôi thấy tay Người đưa ra với lấy
chiếc bánh trên bàn. Tôi nhìn tay của Người, cầm chiếc bánh không men,
"một thứ bánh của người nghèo mạt", vì tại Ai Cập, tổ tiên chúng ta
đã không có thì giờ để cho lèn men. Người "đọc lời chúc tụng" đó là
lời tạ ơn. Về chén rượu Thánh Máccô dùng chữ "Eueharitèsas" có nghĩa
là "đang khi tạ ơn", do đó có từ Thánh Thể. Tôi lắng nghe Đức Giêsu
cầu nguyện, nói lời "tạ ơn" Chúa Cha, trong thái độ vui mừng. Tôi
ngắm nhìn dung nhan Đức Giêsu, khi Người nói chuyện với Chúa Cha. Chúng ta có
thể quên được Thánh lễ là một lễ Tạ ơn sao?
Người "bẻ bánh", cử chỉ này không phải là mới lạ.
Người cha trong gia đình cũng làm cử chỉ này để phân phát phần cho mỗi người,
nhưng cử chỉ tượng trưng này rất đẹp: Mọi người đều ăn cùng một tấm bánh. Điều
này nhấn mạnh việc "đồng bàn mà sẽ thành một ý lực trong những cộng đoàn Kitô
hữu tiên khởi. Thánh lễ là một thách thức muốn bứng tận gốc rễ những khuynh
hướng vị kỷ của chúng ta. Nếu ta vẫn giữ những bức tường ngăn cách mà Đức Giêsu
đã phá đổ, thì chúng ta đã nhạo báng Mình thánh Chúa vậy (Pr 2,14). Tôi nhìn
Đức Giêsu bẻ bánh. Họ đã nhận ra Người qua cách bẻ bánh" Người
"trao" bánh này. Khi tôi rước lễ, tôi có ý thức được rằng chính Đức
Giêsu đưa miếng bánh cho tôi không? Đó là cử chỉ thánh thiêng và đầy ý nghĩa
huyền bí. Lạy Chúa, đây là tay chúng con đưa ra để đón Chúa!
Và Người nói: "Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình
Thầy".
Sau nhiều thế kỷ, tranh cãi, mà trong thời gian đó từ trên đã
được giải thích theo nhiều cách khác nhau, nhiều cộng đoàn họp lại thành Hội
Đồng Đại Kết các Giáo Hội năm 1974, đã đồng ý về bản văn chung sau đây:
"Bữa ăn bánh miến và rượu nho này là một bí tích, dấu chỉ hữu hiệu và quả
quyết sự hiện diện của chính Đức Kitô, Người đã hy sinh mạng sống mình cho tất
cả loài người và đã tự hiến thân mình làm bánh hằng sống. Vì lẽ đó, bữa tiệc
Thánh Thể là Bí tích Mình và Máu Thánh của Đức Kitô. Bí tích của sự hiện diện
thực sự của Người. Chính Thánh Thần trong Thánh Thể cho Đức Kitô thực sự và
hiến thân trong bánh và rượu. Khi đọc lời truyền phép. Dĩ nhiên chúng ta luôn
đứng trước một mầu nhiệm. Thánh Thomas Aquino, nhà thần học vĩ đại về Bí tích
Thánh Thể ở thời Trung cổ đã viết: "Sự hiện diện thực sự" này không
có nghĩa là giới hạn Đức Kitô ở trong bánh và rượu mà thôi hay gây ra một sự
biến đổi vật lý hóa học nào của những chất này. Tất cả những vẻ bên ngoài vẫn
không thay đổi (Tổng luận thần học cuốn III 76/3-5. 77/5-8).
Con người thời nay cần phải lặp lại những chân lý cổ truyền này.
Thánh lễ về "Lễ Mừng kính Thiên Chúa" đã được Thánh Thomas Aquino
soạn ở Orvieto vào năm 1264. Cùng với toàn thể Giáo Hội tiên khởi, Thánh Thomas
“đã tin” nhưng không theo một cách đơn giản. Thánh Phaolô phải chăng là người
đầu tiên đã nói rằng, cần phải có đức tin mới "nhận thấy được Mình và Máu
Thánh Chúa sao?" (1 Cr 11,23-29).
Vâng, lạy Chúa, chúng con xin tin!
Người lại cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ
và tất cả đều uống. Người bảo họ: "Đây là Máu Thầy, Máu để lập Giao ước đổ
ra vì muôn người”.
Đó là bản dịch chính xác đoạn văn Hy Lạp của Thánh Maccô. Đức
Giêsu biết người sắp chết, và chết cách nào. Người thế chỗ cho con chiên vượt
qua (mà người ta không nói đến tí nào trong bữa ăn vượt qua này, trong khi món
này là chính trong nghi lễ Israel). Ở đây Đức Giêsu làm cho ta nhớ đến người
tôi tớ của Đức Giavê (đã hy sinh mạng sống của mình cho muôn dân) (Is 53,11).
Đó là một "Giao ước". Thiên Chúa trở nên một thực tại duy nhất với
nhân loại, một người trong "đồng minh". Và điều này đã được định
nghĩa với những gì là mật thiết và sống động nhất trong chúng ta; "Máu”.
Thầy bảo thật anh em: "Chẳng bao giờ Thầy còn uống rượu nho
này nữa cho đến ngày được uống thứ rượu mới trong nước Thiên Chúa". Hát
Thánh Vịnh xong, Đức Giêsu và các môn đệ đi lên núi Ôliu.