Ơn thiên triệu _ mùa tiêu chín rộ

MÙA TIÊU CHÍN RỘ
Tình yêu của người nằm trên cây gỗ giá thúc giục chị, tình yêu đó cũng đã kết nối chị với nhiều người.  
Tiểu Hổ
Năm đó tôi mười tám, mùa màng thất bát, tôi theo bạn bè lên tận miệt Lộc Ninh hái tiêu mướn. Lẫn lộn trong nhóm công nhân làm mướn tôi quen chị. Chị không phải dân bản xứ, cũng làm mướn như tôi, nghe đâu ở tận Miền Tây lên lập nghiệp.
Đáng lý ra tôi cũng không quen chị, nhưng do duyên số đưa đẩy, buổi chiều hôm đó,vì cố quá sức, tôi xỉu ngay khi đang hái tiêu. Chị tận tình chăm sóc tôi, ngưng việc hái tiêu chị đưa tôi về nhà chị ở gần đó. Căn nhà nhỏ nhắn, lợp bằng mái tole cũ kỷ, gọn gàng sạch sẽ. Tỉnh dậy tôi thấy mình đang nằm trên chiếc giường nhỏ, trước mắt là ảnh tượng cây gỗ giá có người nằm treo trên.
Nhà chỉ có hai chị em. Chị chuyên đi hái tiêu mướn. Tôi thỉnh thoảng có gặp chị, cười chào rồi đi. Chị cần mẫn, không bô lô bô la như bọn làm mướn chúng tôi. Có vẻ như con cái nhà lành, chăm chỉ làm việc, hay cười nhưng ít nói, cư xử rất tốt với mọi người, ai cũng quý mến chị. Người em thì ít khi ra khỏi nhà, dường như là giữ trẻ mướn cho mấy người trong làng.
Tôi quen chị kể từ đó. Chúng tôi hay đi hái tiêu, hoặc làm cỏ, dọn vườn mướn cho các nhà thiếu công vắng người. Lâu lâu rảnh rỗi ghé nhà, chị đãi chén chè, ly nước, tình thân thắm thiết.
Có lần chị rủ tôi:
-    Mẫn ơi, ngày mai rảnh đi với chị, có ít quần áo, lương thực bà con ở thành phố gửi cho, chị muốn đi thăm bà con người dân tộc sống gần.
-    Mình có thể đi trễ chút, vì ngày mai em còn làm nốt phần cỏ hôm qua còn cù lại.
Chị dẫn tôi len lõi qua những vườn tiêu, đến với gia đình người dân tộc.
-    Có vẻ chị đến đây lâu, nên rành đường đi? Tôi tò mò hỏi.
-    Khoảng nửa năm, thi thoảng chị hay đi thăm bà con dân tộc.
Cái từ “ Bà con” của chị tôi nghe như chị gần gũi với họ, nghe như có dây mơ rễ má gì thì phải?
Nơi đầu tiên chúng tôi ghé. Bé gái lớn 14 tuổi, hai đứa nhỏ độ tầm 10 và 8. Chị đến chúng vui mừng ra mặt, dường như họ quen thân nhau. Tôi nghe chúng nó gọi chị bằng Cô. Chị mang bọc quần áo đã gói sẵn đưa cho con bé lớn. Tôi định hỏi em Ba Mẹ đi đâu vắng nhà, nhưng thấy chị không quan tâm đến việc đó nên thôi. Chị xách túi gạo, giúp nó cho vào hủ, cái hủ gạo cạn đến sát đáy. Con bé lớn hớn hở:
-    Chiều nay con định nấu cháo. Mai mà Cô đến…
Nó bỏ lửng câu nói, nhưng dường như chị hiểu nó và họ hiểu nhau sâu sắc thì phải.
Hai đứa nhỏ ướm thử mấy cái áo mới, vừa vặn khoe chị. Chị xoa đầu chúng, chị kéo đứa bé gái nhỏ vào lòng thủ thỉ gì đó tôi không nghe rõ lắm, hình như họ nói với nhau bằng ngôn ngữ xa lạ nào đó, tôi chẳng nghe ra. Con Bé nhỏ có vẻ hiểu chị nói gì, mắt nó tư lự rồi đầu gật xuống tỏ rõ sự đồng thuận với chị.
Trước khi rời nơi đó, chị dặn dò bé lớn đôi điều, tôi cảm nhận như chị và chúng được sinh ra để nương tựa nhau. Mà nói đúng hơn mấy đứa nhỏ tựa vào chị và chị hạnh phúc vì điều đó. Tôi thấy trên nét mặt chị, trong mắt chị lộ rõ niềm hạnh phúc.
Đến một vài nhà khác, có khi là người quá nghèo, người già neo đơn, hoặc người bệnh, chị ân cần với họ, chị quan tâm họ, tấm lòng của chị lớn quá làm cho mọi người rưng rưng nước mắt, ngậm ngùi niếu lấy tay chị, dường như họ muốn chị ở lâu hơn, muốn chị hiện diện bên họ, trên cả những vật chất chị mang đến họ như nhận được hơi ấm áp lan tỏa từ trái tim chị.
Đường đi vất vả, tôi không thấy chị nề hà, niềm vui luôn tràn trào trong khóe mắt, tình thương luôn đông đầy trong tim, đôi tay luôn dang ra kết nối mọi người.
Sao đời có nhiều điều lạ lùng?
Trên đường về chị kể chuyện ba đứa nhỏ tội nghiệp, cha mất cách đây mấy năm trong một tai nạn lao động. Mẹ mới chết hai tháng trước bệnh nan y. Đứa lớn đùm bọc hai đứa nhỏ, nhiều tổ chức từ thiện đến đón về nuôi, nhưng chúng không theo vì nơi đó còn mộ ba mẹ.
Bà Lão trong cái tum rách rưới nằm sâu trong vườn tiêu thì có đứa con trai biệt tăm biệt tích.
Vợ chồng A lú thì làm quần quật, con năm đứa, lo cái ăn cái mặc không đã khổ, không đứa nào được đi học cái chữ cái nghĩa, nói mãi mới cho hai đứa ra chị dạy cầm viết tính số.
Còn nhiều nhiều… chị kể vanh vách như chị từng đi vào đời họ, từng chung vai sát cánh với họ, từng bước đi bên họ để trông chừng nâng dắt họ.
Tôi trở về quê sau vụ hái tiêu mướn, mấy năm sau trời thương mùa màng tốt tươi, không phải lận đận đi hái tiêu mướn. Nhưng trong tôi mùa tiêu chín vẫn nở rộ, tôi nhớ chị, nhớ những ngày cùng chị rong rũi đi thăm bà con mà chị hay nói. Nhớ bát chè mát rượi chị hay múc cho lúc trời nóng bức.
Tôi lấy chồng, chồng tôi người công giáo, lần đầu tiên ghé thăm nhà anh, ảnh tượng gỗ giá có người chết treo trên đó làm tôi nhớ chị. Tôi theo đạo, không cần anh phải tốn công sức thuyết phục, bởi vì tôi nhận ra trong sâu thẳm tâm hồn mình có tiếng mời gọi, mà không phải vì tôi nhận ra sự tốt lành qua chị, hình ảnh mà cứ ở mãi trong tâm trí tôi.
Anh tốt với tôi, thương yêu tôi, ba mẹ anh thương tôi như con gái họ. Tôi thấy mình hạnh phúc, cái thứ hạnh phúc mà tôi ngấm ngầm nhìn thấy trong mắt chị khi mang yêu thương đến cho người khác.
Mùa chay, anh đưa tôi đi lễ nhà thờ lớn, anh nói đưa tôi đi gặp một người. Chị! Trong bộ tu phục tinh khôi, nét hiền dịu ngày xưa được tôn tạo bởi bộ áo nhà tu làm cho chị đẹp hẳn lên, nét đẹp của thiên thần Chúa. Tôi đứng ngỡ ngàng, chị khoát vai tôi. Không nhận ra chị chứ đâu?
Có những cuộc gặp gỡ nhiệm mầu phải không?
Tôi lờ mờ nhớ lại mùa tiêu năm ấy. Chị kể chuyện, chị đến đó sống âm thầm, nhận sứ vụ giúp đỡ bà con dân tộc, sống cùng, sống với, sống sẻ chia với họ. Từ “Bà con” trên môi chị vẫn ấm áp, vẫn như có đầy tình thương và trách nhiệm. Tình yêu của người nằm trên cây gỗ giá thúc giục chị, tình yêu đó cũng đã kết nối chị với nhiều người. Tôi nhận ra tình yêu mà tôi nhận được từ anh, từ cha mẹ anh cũng được kết dính từ chị.
Chị! Người “Bà con” mà tôi mai mắn gặp được trong cuộc đời, để rồi tôi được sống trong ngôi nhà ấm cúng nơi mà mọi người thương yêu nhau như tình máu mủ ruột thịt.
Tôi nhìn xa xăm về hướng, nơi có một mùa tiêu chín rộ ở mãi trong lòng tôi.
Tiểu Hổ