Gương thánh thiện của
một vị linh mục:
ẤN TÍN TÒA GIẢI TỘI.
Gương thánh thiện của cha Pierre hầu như có
mãnh lực cảm hóa được bốn tâm hồn đậm nét hận thù và tội lỗi: chúng tôi có cảm
tưởng được cứu chuộc và dung thứ.
René Belbenois,
người tù khổ sai trên đảo Guyane thuộc Pháp, đã vượt ngục trên chiếc thuyền độc
mộc của thổ dân. Ông vượt hàng ngàn hải lý qua biển Antilles, đi bộ xuyên những
cánh rừng bạt ngàn ở châu Mỹ La tinh, để sau cùng đến được Mỹ. Tập nhật ký dầy cộm
của ông ghi nhận trung thực số phận bị thảm của tù nhân được các nhà xã hội học
và giới văn học Mỹ đặc biệt quan tâm. Sau khi được sắp xếp, gọt giũa lại, tác
phẩm bỗng chốc trở thành một best-seller với hành triệu ấn bản được tiêu thụ
trong thời gian ngắn.
Xin trích giới
thiệu cùng bạn đọc 1 đoạn sau đây:
Dòng hải lưu đẩy
con thuyền nhỏ của chúng tôi lao vun vút hướng về cửa sông Rio Acarouany. Ánh
chiều tà bắt đầu nhợt nhạt để bóng tối chóng dâng lên từ các cánh rừng già mênh
mông. Sau lưng chúng tôi là ngục tù thảm khóc. Trước mặt là biển Antilles lúc
nhúc cá nhà táng, mồ chôn xác những kể đánh đu cùng định mệnh tìm đường vượt biển.
1. Marcel, tên
đầu sỏ, ra lệnh cặp thuyền vào bờ, cạnh 1 trại tù bỏ phế để qua đêm. Loay hoay
tìm một cành khô đốt lửa, chúng tôi bắt gặp một ngôi mộ nhỏ cùng cây thánh giá gọt
đẽo sơ sài, vùi dập dưới đám dây leo chằng chịt. Nơi đây, tù nhân chết thường
được vứt cho cá mập đớp gọn. Ngôi mộ là một hiện tượng bất thường. Marcel vung
thanh mã tấu gọt sạch rong rêu trên cây thánh giá, trầm giọng bảo:
-
Linh mục Pierre đấy! Cũng là một tù khổ sai như
tớ và các cậu. Bất chợt, giọng anh ta chùng hẳn lại, hầu như thì thầm: Một sứ
giả của Chúa.
Có thể nói
Marcel là tên bất trị trong số những tù nhân hung hãn nhất trong trại. Thân thể
lực lưỡng của hắn xâm đầy hình ảnh thô tục, mặt chằng chịt sau những trận đánh
nhau. Lần đầu tiên trong đời, chúng ta vừa thấy hắn ra biểu lộ nét tôn kính.
Quây quần bên
ngọn lửa bập bùng, bốn đứa chúng tôi nép mình sau làn khói cay sè, xua dạt đàn
muỗi đen kịt lượn lờ chung quanh. Marcel trầm ngâm đảo mắt nhìn cây thánh giá
chơ vơ đến tội nghiệp bên ven rừng.
2. Tớ gặp cha
Pierre trên chuyến tàu chở những trọng phạm lưu đày sang quần đảo Guyane. Chúng
tớ không "ngửi" được ông ấy khi biết ông đã nhẫn tâm giết một bà lão
góa bụa cư ngụ cạnh giáo đường. Chúng tớ thường gọi ông là "lão thầy Tu lạc
đạo.” Một sáng, người ta tìm thấy thi thể mụ góa Duval nằm sóng sượt trước nhà,
quần áo rắch tươm. Những vết chân còn lưu lại từ nhà mụ đến cổng giáo đường,
đôi giầy và chiếc áo dòng loang lổ máu của cha chôn giấu ở khuôn viên nhà nguyện
là bằng chứng cụ thể bọn cướp trưng ra chống lai cha Pierre. Cha nhận bản án
chung thân, dù luôn khẳng định mình vô tội.
3. Đến đảo, chúng tớ được áp tải ngay đến trại
Oraput nổi tiếng là khắc nghiệt. Tù phải lao động trong đầm lầy, nước ngập đen
xì đến tận ngực, trên đầu muỗi vo ve như sáo. Cha lao động cật lực như chúng tớ
và không bao giờ phàn nàn. Xong việc cha còn cố giúp những bạn tù thương tật khác.
Năm sau cha được
phân công đến phòng y tế thay cho tên vừa bị rắn độc mổ chết. Các cậu hẳn biết
đấy là công việc béo bổ: bán thuốc quinine với giá cắt cổ cho những tên đang
lên cơn sốt, ăn chận khẩu phần bồi dưỡng của những người ốm nặng...và còn biết
bao là những bóc lột khác. Với cha Pierre không còn cảnh mánh mung trên xác chết.
Đôi khi, cha "dập" chúng tớ 1 điếu thuốc cũng là để cho 1 người tù
đau ốm khác. Bọn tớ rất quý cha, cả những tên cai ngục ác ôn cũng phải thay đổi
thái độ trước con người trung thực ấy.
Khi trại Oraput
được lệnh đóng cửa vì bệnh dịch, cha xin được di chuyển đến đảo Saint-Louis,
nơi biệt giam những tên bị hủi, một thế giới hoàn toàn cách ly với xã hội con
người. Hằng tuần, 1 tên cai ngục đáp ca-nô vứt bừa lên bãi cát 1 bao thực phẩm
rồi chuồn thẳng. Gầy gò như cây đinh, nhưng cha vẫn chăm sóc bọn người không mệt
mỏi.
4. Một hôm, người ta mang đến cho cha tên
Groscaillou. Nằm dài trên chiếc cáng, coi hắn không còn tí gì là dáng dấp của
con người. Vừa thấy linh mục mang ly sữa đến, hắn hốt hoảng "Không, không thể là cha Pierre"
-
Anh biết tôi à? Cha dịu dàng hỏi.
-
Con là Groscaillou, người làm vườn trong nhà thờ
lúc trước, hắn đáp.
Cha nhìn hắn thật
lâu trước khi thốt nên lời.
-
"Khốn khổ cho con. Chúa trừng phạt con thật
nghiêm khắc.”
Bọn hủi xum xít
quanh tấm lều đổ nát, háo hức lắng nghe. Giọng tên tội phạm thì thầm như từ cõi
âm vọng lại:
-
Chính tôi đã giết mụ góa Duval. Biết mụ vừa nhận
một món tiền khá lớn. Tối hôm đó, tôi khoác chiếc áo dòng đánh cắp của cha và đến
bấm chuông. Thấy tà áo đen thấp thoáng, mụ tin tưởng vội ra mở cổng. Khi nhận
ra rõ mặt, mụ hãi quá định gào lên cầu cứu, buộc lòng tôi phải siết cổ mụ. Quay
lại nhà nguyện tôi chạm mặt ngay với cha Pierre. Người biết tôi vừa làm một cú
dại dột.
Sau khi nghe
tôi xưng tội, cha khuyên tôi nên ra đầu thú. Lúc bọn "cớm" đến bắt
cha, dù nắm rõ bí ẩn của vụ án, cha vẫn tuân thủ giới luật im lặng của Chúa. Chấp
nhận một bản án chung thân như một tông đồ tử đạo, không hé răng khai báo. Các
cậu hãy giải oan cho cha để tôi ra đi thanh thản.
-
Không cần thiết con ạ! Hãy thành tâm khấn nguyện
và con sẽ được tha thứ. Cha từ tốn đáp.
Sáng hôm sau,
các tù nhân bắt gặp thi thể Groscaillou ngoài bãi cát, bấp bênh theo triều sóng.
5. Sáu tháng trôi qua, khi quyết định tự do của
cha được gởi đến thì đã quá muộn. Trước khi mất, cha mong sẽ được chôn trên đảo,
giữa những người bất hạnh mà cha hằng chăm sóc. Chính những tên đại bàng đã
kính cẩn an táng và dựng cho cha cây thánh giá này.
Marcel ngừng kể,
đăm chiêu nhìn ngôi mộ đơn sơ ở bìa rừng rồi khẽ kết luận: một tấm lòng vĩ đại.
Ngả người trên
thảm lá khô, tôi bâng khuâng nhìn ánh sao đêm nhẹ lung linh trên bầu trời nhiệt
đới, Gương thánh thiện của cha Pierre hầu như có mãnh lực cảm hóa được bốn tâm
hồn đậm nét hận thù và tội lỗi: chúng tôi có cảm tưởng được cứu chuộc và dung
thứ. Chắn hẳn, với niềm tin vừa tìm lại được, chúng tôi sẽ vững vàng đối mặt với
vô vàn hiểm nguy và cái chết bất chợt đón chờ trong chuyến du hành dài đăng đẳng
trở lại với xã hội con người.