Lời của Thiên Chúa
Chịu thử thách về
mọi sự, nhất là về sự bị đẩy vào các chỗ rốt hết, đó là một nét của chân dung
tình yêu cứu độ, mà Đức Kitô đã muốn mọi người nhìn ngắm, khi gặp gỡ Người.
Trước
hết, Người nói bằng thân phận kẻ rốt hết.
THÂN PHẬN KẺ RỐT HẾT
Thực
vậy, Người đã giáng sinh trong thân phận hài nhi cực kỳ khốn khổ, nằm trong một
máng cỏ rơm, đặt ở góc hang đá, giữa cánh đồng, bên cạnh mấy con bò và chiên.
Chỗ như thế phải kể là chỗ rốt hết. Chính chỗ rốt hết này đã là nơi chọn lựa của
Thiên Chúa giáng trần.
Ở
đây, tính cách rốt hết không chỉ hệ tại chỗ đó thấp hèn, mà còn ở tại sự khinh
miệt người ta thường dành cho kẻ nào rơi vào chỗ đó.
Chỗ rốt
hết dành cho Đức Kitô đã được tiên tri Đavid loan báo từ lâu trước “Tôi chọn sự
khinh miệt trong nhà Chúa” (Tv. 83,11). “Tôi là kẻ bị khinh miệt nhất trong toàn dân” (Tv. 21,7).
Từ chỗ
rốt hết tại Bêlem, Đức Kitô đã tiếp tục sống ơn gọi kẻ rốt hết suốt cả cuộc đời.
Thánh
Phaolô đã diễn tả cuộc đời đó như sau: “Đức Kitô, tuy mang ngôi vị của Thiên
Chúa, nhưng Người đã không nghĩ phải tranh giành cho mình chức vị đồng hàng với
Thiên Chúa. Song Người đã tự huỷ mình ra không, là lãnh thân phận tôi đòi, trở
thành giống hẳn người ta, đem thân mặc thân phận người phàm. Người đã hạ mình
thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết trên thập giá” (Pl
2,6-8).
Như
thế Đức Kitô đã đi xuống. Từ xuống ít tới xuống nhiều. Từ thân phận kẻ bần cùng
đến thân phận kẻ đầy tớ tôi đòi, và sau cùng tới thân phận kẻ bị án chết.
Chọn
chỗ rốt hết, đó là một chọn lựa cứu độ của Đức Kitô. Để cứu độ ai, sự có mặt của mình đã là một việc tốt, gần gũi họ là việc tốt hơn, chia sẻ thân phận của họ là việc còn tốt hơn nữa, và chết tủi nhục vì họ là việc không ai dám nghĩ tới. Đức Kitô đã đi tới
cùng tiến trình cứu độ ấy.
Tiến
trình ấy không đơn giản chỉ có một vài thử thách, mà là mọi thử thách. Thánh Phaolô nói: “Chúng ta có một vị thượng tế không
phải là không biết những yếu đuối của chúng ta. Bởi vì Người đã chịu thử thách
về mọi sự, ngoại trừ tội lỗi” (Heb. 4,15).
Chịu
thử thách về mọi sự, nhất là về sự bị đẩy
vào các chỗ rốt hết, đó là một nét của chân dung tình yêu cứu độ, mà Đức Kitô đã muốn mọi
người nhìn ngắm, khi gặp gỡ Người.
Khi gặp
gỡ Đức Kitô, khi nhìn ngắm chân dung ấy, nhiều người đã hết muốn hỏi Người điều
nọ điều kia. Chính Người là câu trả lời đầy đủ, mặc dầu Người thinh lặng. Bằng
thinh lặng, Người cũng đã nói rất nhiều. Một sự thinh lặng đã được chọn lựa
ngay từ hang đá Bêlem.
THINH LẶNG
Thực
vậy, Đức Kitô làm chứng nhiều hơn là rao giảng. Trước khi giảng đạo
đức, Người đã sống đạo đức. Người làm chứng các chân lý đạo bằng chính cuộc sống
mình. Để bất cứ ai, khi theo đạo Người, sẽ có thể nói: Theo đạo Đức Kitô là đi
theo Người, là sống như Người, là noi gương Người. Và để bất cứ ai, khi trích dẫn
lời Người, sẽ có thể trích dẫn đời Người kèm theo.
Như
thế, sự thinh lặng của Đức Kitô không có nghĩa một tình trạng thiếu nội dung.
Trái lại, nó có nghĩa một chọn lựa để làm chứng cho những giá trị cao cả.
Thinh
lặng của Người là sự lặng lẽ của một hành trình dài ơn gọi “Này con xin đến, để
làm theo ý Cha”, Đấng hằng mong muốn cho mọi người được rỗi, bằng cách họ tự do
đón nhận ơn Người ban cho.
Thinh
lặng của Người là sự khiêm tốn của tinh thần dâng hiến. Xin làm men, làm muối, làm hạt giống chấp
nhận phải thối đi, để có thể nẩy mầm, sinh cây.
Thinh
lặng của Người là sự tỉnh thức của kẻ đợi chờ, kêu gọi người ta bằng sự kiên trì đầy yêu
thương và bằng gương sáng, hơn là bằng những lời ép buộc.
Thinh
lặng của Người là sự tĩnh mịch của tinh thần cầu nguyện, một sự cầu nguyện có nghĩa là sự gặp gỡ
giữa con người với Thiên Chúa.
Thinh
lặng của Người là sự dũng cảm của tinh thần sự thực, làm chứng cho chân lý bằng thực chất bản
thân mình, chứ không bằng cách nói nhiều, phô trương nhiều, tố cáo nhiều, biện
minh nhiều.
Thinh
lặng của Người là sự chân thành của tình mến Chúa yêu người, làm chứng cho
tình bác ái, cho đi âm thầm, hy sinh lặng lẽ.
Thinh
lặng như thế là quê hương của kẻ mạnh. Để trong việc đào tạo các môn đệ sau
này, Đức Kitô sẽ coi việc tập cho họ biết giữ thinh lặng là việc quan trọng. Biết
bao điều sai trái đã được nhận ra và sửa đổi, nhờ sự thinh lặng làm chứng của
những người tích cực sống Phúc Âm, nêu gương sáng, sốt sắng cầu nguyện. Biết bao người đã được ơn trở lại nhờ tiếp cận với những
tâm hồn thinh lặng đầy sự hiện diện của Thiên Chúa.
Thinh
lặng như thế là dấu chỉ của tinh thần khắc kỷ, thường xuyên phấn đấu với chính mình, để
có sự tự do tâm hồn, một sự tự do là ơn huệ của Chúa Thánh Linh và múc ra từ
thánh giá. Nhiều môn đệ Đức Kitô đã được kính trọng và tín nhiệm, nhờ khả năng
thinh lặng đầy tinh thần chiêm niệm, cầu nguyện và tự chế.
Chọn
lựa thinh lặng để cứu đời, đó cũng là một nét của chân dung tình yêu cứu độ, mà Đức Kitô mời gọi mọi người nhìn ngắm, khi gặp gỡ Người.
Khi gặp
gỡ Người, khi nhìn ngắm chân dung ấy, nhiều người phải lặng đi ngây ngất, và
không ngừng cảm tạ Đức Kitô. Họ sẽ lại thấy Người dễ thương quá đỗi, ở chỗ Người
rất đơn sơ. Người nói qua sự đơn sơ của Người.
ĐƠN SƠ
Thực
vậy, khi giáng trần, Đức Kitô đã đến một cách đơn sơ, hết sức đơn sơ, một sự đơn sơ không ai tưởng
tượng nổi. Nơi Người chọn đến là một chỗ cực kỳ đơn sơ. Đó là hang đá Bêlem. Những
người gặp gỡ đầu tiên là những kẻ rất mực đơn sơ. Đó là Đức Mẹ, thánh Giuse và
các mục đồng. Ngôn ngữ đầu tiên của Người là những cử chỉ dễ thương của hài nhi
bé bỏng.
Đơn
sơ là đi thẳng vào căn bản. Theo tinh thần đó, Đức Kitô đã giới thiệu
chính bản thân Người, trước khi giới thiệu đạo lý của Người. Chính bản thân Người
là quà tặng. Chính bản thân Người là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chính bản
thân Người là sự hiền từ, khiêm nhường và bác ái.
Đơn
sơ là rất thực, hoàn toàn thực. Theo tinh thần đó, Đức Kitô đã cho thấy,
Người cam chịu muôn vàn khổ cực, chắc chắn không phải để cứu thân Người, mà để
cứu nhân loại. Càng không phải để theo ý riêng mình, mà để theo ý Đấng đã sai
mình đi.
Đơn
sơ là dễ hiểu. Theo tinh thần đó, Đức Kitô đã làm chứng hơn là giảng dạy.
Người làm chứng về một Thiên Chúa yêu thương, chấp nhận hy sinh đến cùng, để mọi
người được biết yêu thương nhau, và cùng nhau trở về với Thiên Chúa là tình yêu
vĩnh cửu.
Đơn
sơ là hồn nhiên, đón nhận. Theo tinh thần ấy, Đức Kitô đã
khẳng định, chỉ những ai trở nên giống như trẻ nhỏ, mới được vào thiên đàng (x.
Mt 18,3). Và chỉ những tâm hồn đơn sơ bé mọn mới được Chúa Cha mạc khải cho biết
các mầu nhiệm Nước Trời (x. Lc 10,21).
Đơn
sơ như thế là vẻ đẹp toả sáng của tâm hồn sống sự thực và phó
thác khiêm nhường. Tâm
hồn ấy chỉ khao khát một điều duy nhất, đó là làm vui lòng Đấng đã thương mình
và mình gắn bó vô điều kiện.
Đơn
sơ như thế là lợi dụng mọi dịp, dù bé nhỏ nhất, của giây phút hiện tại, để chứng
minh lòng mình mến Chúa yêu người thực sự hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết
trí khôn.
Đơn
sơ như thế, đó cũng là một nét của chân dung tình yêu cứu độ, mà Đức Kitô muốn
mọi người nhìn ngắm, khi gặp gỡ Người.
Với một
chân dung đơn sơ, thinh lặng và chấp nhận chỗ rốt hết, Đức Kitô dạy ta hãy biết
đón nhận Người, hãy để Người yêu thương ta, hãy tin tưởng phó thác vào tình yêu
cứu độ của Người, hãy biết mở lòng thực rộng, để Người tự do thực hiện trong ta
công việc tạo dựng, cứu độ và thánh hoá.