Thánh GIOAN Ở DAMASCUS
(676?-749)
Lược sử
Hầu như toàn thể cuộc đời của
Thánh Gioan là sống trong tu viện St. Sabas, gần Giêrusalem, và dưới chế độ của
Hồi Giáo.
Ngài nổi tiếng trong ba lãnh vực. Thứ nhất, về các văn bản
của ngài chống với những người không muốn tôn kính ảnh tượng thánh
(iconoclast). Thứ hai, ngài nổi tiếng về luận án.
Thứ ba, ngài là một thi sĩ nổi tiếng, là một trong hai đại
thi hào của Giáo Hội Đông Phương. Ngài rất sùng kính Đức Mẹ
và các bài giảng của ngài về Đức Mẹ cũng rất nổi tiếng.
Suy niệm 1: Cuộc đời
Hầu như toàn thể cuộc đời
của Thánh Gioan là sống trong tu viện St. Sabas, gần Giêrusalem, và dưới chế độ
của Hồi Giáo.
Theo các sử gia, khi
Damascus rơi vào tay người Ả Rập, thì tổ tiên của Thánh Gioan là những người
duy nhất còn trung thành với đức tin Kitô Giáo và họ được làm việc trong tòa án
để giúp vua Hồi Giáo áp dụng luật lệ Kitô Giáo đối với các Kitô Hữu. Sau khi được
giáo dục về thần học và kinh điển, Thánh Gioan theo cha ngài giữ một chức vụ
trong chính quyền của người Ả Rập. Vài năm sau, ngài từ chức và gia nhập tu viện
St. Sabas.
Ngài được thụ phong Linh
Mục vào năm 735. Ngài có năng khiếu và rất giỏi về âm nhạc, thiên văn học, thần
học, toán học và địa lý. Ngài mất năm 749 và được tôn vinh là Giáo Phụ cuối
cùng của Giáo Hội Công Giáo Rô Ma, và được nhận danh hiệu Tiến Sĩ Hội Thánh vào
năm 1883.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con
theo gương tổ tiên của thánh nhân để luôn trung thành với đức tin Kitô Giáo dầu
phải sống trong hoàn cảnh nào.
Suy niệm 2: Ảnh tượng thánh-với luật Giáo
Hội
Ngài nổi tiếng trong ba
lãnh vực. Thứ nhất, về các văn bản của ngài chống với những người không muốn
tôn kính ảnh tượng thánh (iconoclast).
Là con người có trí khôn
thông minh, "đầu đội trời, chân đạp đất, chẳng ngang như súc vật, chẳng ngược
như loài cây", mà lại đi thờ kính cục đá cục đất, cây đa cây đề...cũng là
một vấn đề. Là con người thông minh, "đẽo gọt hình tượng thần linh mình tưởng
tượng ra để mà thờ, lại là một vấn đề nữa. Vì thế Yavê Thiên Chúa cấm ngặt, bởi
vì Chúa là Đấng linh thiêng, không có hình thể như con người, con vật, cây cối,
đất đá.
1- Theo sách Xuất hành
trong Bộ Cựu ước, Thiên Chúa cấm hẳn Không được tạc ảnh tượng mà thờ:
"Ngươi không được tạc
tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở
trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những
thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi (Xh 20,4-5)
Đệ nhị luật viết thêm:
"Vì ngươi đã không nhìn thấy một hình thể nào trong ngày Chúa nói với ngươi
từ trong khối lửa ở núi Horeb, cho nên ngươi đừng để mình bị suy đồi, đừng làm
một hình ảnh nào, điêu khắc, tượng trưng cho bất cứ vật gì" (Đnl 4,15-16).
Đàng khác, tâm trí người
thời Cựu ước còn dễ "lẫn lộn" giữa Thiên Chúa và thần linh ngoại giáo
nên Chúa phải cấm ngặt. Nhưng dần dần, Chúa cũng cho họ những biểu tượng như
"cho đúc con rắn bằng đồng, làm khám chứng thư và các thiên thần
kêrubim".
2- Tới thời Tân ước, Ngôi
Hai Thiên Chúa giáng sinh làm người, có cha nuôi, có mẹ. Các môn đệ, các tín đồ
cũng được vẽ, được đúc hình tượng các Ngài để kính nhớ, đó là lẽ thường thấy nơi
con cái trong các gia đình, dòng họ đối với các Bậc sinh thành.
Do đó, vấn đề thờ kính ảnh
tượng được tìm thấy trong sách Giáo lý Công giáo những chỉ thị thật rõ ràng như
sau:
Số 2130 Ngay từ trong Cựu
Ước, Thiên Chúa đã dạy hoặc cho phép làm ra những hình ảnh được coi là những biểu
tượng dẫn tới ơn cứu độ nhờ Ngôi Lời Nhập thể: đó là con rắn bằng đồng, Khám Chứng
thư và các thiên thần sốt mến.
số 2131 Căn cứ vào Mầu
nhiệm Ngôi Lời Nhập thể, Công đồng chung thứ VII tại Nicê (năm 787), đã biện
minh cho việc tôn kính các ảnh tượng thánh, chống lại những người phá hủy các tượng
thánh: đó là ảnh tượng Chúa Kitô, ảnh tượng Đức Mẹ, các thiên thần và tất cả
các vị thánh. Khi nhập thể, Con Thiên Chúa đã khai mạc một chương trình mới, một
"kế hoạch" mới về các ảnh tượng.
Và số 2132 Sự tôn kính tượng
ảnh của Kitô giáo không nghịch với điều răn thứ nhất cấm các ảnh tượng, vì
"sự tôn kính tượng ảnh là hướng lên khuôn mẫu uyên nguyên", và
"khi người ta tôn kính một ảnh tượng, người ta tôn kính vị có hình ảnh đó".
Sự tôn kính các ảnh tượng chỉ là "một sự cung kính" chớ không phải là
một sự tôn thờ, vì sự tôn thờ chỉ được dành cho một mình Thiên Chúa:
"Sự tôn kính được
dành cho các ảnh tượng, không coi đó như là những hiện thực, nhưng ta chỉ coi ảnh
tượng như các hình ảnh dẫn ta tới Thiên Chúa Nhập thể. Hành động tôn kính không
dừng lại nơi các ảnh tượng, nhưng hướng tới thực tại mà chúng là hình ảnh".
Thật là những chỉ thị rõ
ràng để ta tự minh giải cho chính mình và cho người không hiểu ý nghĩa sâu xa của
hình tượng ta tôn kính (Linh mục. Đoàn Quang, CMC).
Suy niệm 3: Ảnh tượng thánh-với thánh
nhân
Ngài nổi tiếng trong ba
lãnh vực. Thứ nhất, về các văn bản của ngài chống với những người không muốn
tôn kính ảnh tượng thánh (iconoclast).
Thật ngược đời, chính
hoàng đế Leo của người Kitô Giáo Đông Phương đã cấm việc tôn kính này, và vì
Thánh Gioan sống trong lãnh thổ của người Hồi Giáo nên không ai làm gì được.
Thánh Gioan bảo vệ Giáo Hội
về việc tôn kính ảnh tượng thánh và giải thích đức tin Kitô Giáo trong một vài
sự tương tranh. Trên 30 năm ngài sống đời cầu nguyện cũng như sáng tác. Sự
thánh thiện của ngài được tỏ lộ qua các bài giảng cũng như văn bản nhằm phục vụ
Thiên Chúa.
Vào thế kỷ 8, một phong
trào xuất hiện nhằm đả phá việc tôn kính ảnh tượng. Bất chấp việc chống đối của
Thánh Germanus, Thượng Phụ Giáo chủ của Canstantinople, vào năm 726, Hoàng đế
Leo III ra sắc lệnh đầu tiên cấm việc tôn kính các ảnh tượng cũng như việc trưng
bày ở cac nơi công cộng. Gioan liền viết ra các luận án nhằm bảo vệ việc tôn
kính các ảnh tượng thánh vốn giúp ngài được nổi danh. Thật ra ngài không chủ ý đả
kích hoàng đế, mà chỉ nhằm giải quyết các cuộc tranh luận trong quần chúng theo
hướng bảo vệ đức tin chân chính. Điều này khiến hoàng đế tức giận và đòi buộc
vua Hồi phải nghiêm trị Gioan. Vua Hồi lệnh chặt tay phải của ngài và treo nơi
cộng cộng để thị uy. Ngài đã cầu nguyện trước ảnh tượng Đức Mẹ và được ơn chữa
lành. Sau này các tác phẩm của ngài đã đóng một vai trò quan trọng cho Công Đồng
chung thứ VII tại Nicê (năm 787), trong việc biện minh cho việc tôn kính các ảnh
tượng thánh, chống lại những người phá hủy các tượng thánh.
Suy niệm 4: Luận án
Thứ hai, ngài nổi tiếng về
luận án.
Luận Về Đức Tin Chính Thống,
một tổng hợp các văn bản của Giáo Phụ Hy Lạp (mà ngài là người sau cùng). Người
ta nói quyển sách này làm nền tảng cho tư tưởng Đông Phương cũng giống như cuốn
Tổng Luận (Summa) của Thánh Aquinas làm nền tảng cho Tây Phương.
"Các thánh phải được
tôn vinh như những người bạn của Đức Kitô và là miêu duệ của Thiên Chúa, như
Thánh Sử Gioan đã viết: “Càng nhận được nhiều bao nhiêu, Đức Kitô lại càng ban
cho họ bấy nhiêu để họ trở nên con cái Thiên Chúa” Chúng ta hãy thận trọng quan
sát đời sống của các tông đồ, các vị tử đạo, các vị khổ tu và người công chính,
họ là những người loan truyền về Đức Kitô. Và chúng ta phải ganh đua với các
ngài về đức tin, đức cậy, đức ái, sự hăng say, sự sống, sự kiên nhẫn trong đau
khổ, và kiên trì cho tới chết, để chúng ta có thể chia sẻ triều thiên vinh hiển
của họ trên thiên đàng" (Luận về Đức Tin Chính Thống).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con
biết phải ganh đua về đức tin, đức cậy, đức ái, sự hăng say, sự sống, sự kiên
nhẫn trong đau khổ, và kiên trì cho tới chết.
Suy niệm 5: Thi sĩ
Thứ ba, ngài là một thi sĩ
nổi tiếng, là một trong hai đại thi hào của Giáo Hội Đông Phương.
Thi ca là một trong những
mặt mạnh của ngài. Tập “Oktoechos” được biết đến như là “tập thánh thi dùng hằng
ngày”, nhờ đó ngài có thể cải thiện và xét mình. Tập “Canons” điều 8 hoặc 9 là
những thánh thi có cấu trúc rất phức tạp, được sáng tác thành 3 hoặc 4 khổ thơ,
mà mỗi khổ đều mang một giai điệu đặc biệt. Tập “Troparion” cho hay ngài là một
chiến sĩ của Đức Tin chính truyền và một giảng sư về đức khiết tịnh và việc tôn
thờ chân chính. Tập “Kontakion” nói lên tinh thần bảo vệ các học thuyết của
Giáo Hội cũng như đả phá các tà giáo.
Ngài cũng còn là một thần
học gia. Ngài đã để lại một số tác phẩm nổi bật: Tract on Right Thinking,
Dialogue against Manicheans, Conversation between a Saracen and a Christian,
Introduction to Elementary Dogmatics, The Precious Pearl, Apologetic Treatises
against those Decrying the Holy Images, The Fount of Knowledge, Sacred
Parallels, Fountain of Knowledge, Against the Jacobites, Against the
Nestorians, Elementary Introduction into Dogmas, Letter on the Thrice-Holy
Hymn, On the Faith, Against the Nestorians, On the Two Wills in Christ (Against
the Monothelites), On Dragons and Ghost.
Suy niệm 6: Đức Mẹ
Thánh Gioan rất sùng kính
Đức Mẹ và các bài giảng của ngài về Đức Mẹ cũng rất nổi tiếng.
Ngài đặc biệt sùng kính Đức
Maria, Mẹ Thiên Chúa. Chính nhờ vậy ngài nhận được một ơn lạ nhờ vào lời cầu
bàu của Đức Mẹ. Thái độ nhiệt thành bênh vực việc tôn kính tượng ảnh đã khiến
ngài bị các hoàng đế căm ghét. Trong lúc họ cho vào nhà thờ phá hủy các ảnh tượng,
thì ngài ra sức bảo vệ. Họ ra lệnh chặt tay phải ngài để không thể bút chiến được.
Ngài cầu nguyện và van xin trước ảnh tượng Đức Mẹ. Thế rồi vết sẹo mặc dầu dài
và đỏ bao quanh cườm tay ngài bỗng nhiên biến mất và nhường chỗ cho một bàn tay
lành lặn như trước kia. Để tạ ơn, ngài cho làm một tay bằng bạc và gắn vào bức
tượng ấy, từ đấy bức tượng ấy được biết đến là bức tượng Mẹ có 3 tay. Bàn tay được
gắn lại cách lạ lùng với cánh tay ngài là một nhắc nhở về việc Chúa quyền năng
có thể liên hợp được linh hồn và thể xác Mẹ trong cuộc sống tại thế thì cũng thế
trong thiên đàng trong cái chết được gọi là giấc ngủ thánh của Mẹ.
Khi đánh giá giáo thuyết
của ngài về đặc ân Lên trời cả hồn lẫn xác của Đức Maria, Đức Thánh Cha gọi
ngài là “vị giải thích tuyệt vời”, với đọan trích dẫn sau đây: Mẹ cần phải được
vô nhiễm ngay từ thụ thai và cần phải được không bị hủy hoại sau khi chết, để xứng
đáng cưu mang Đấng Sáng Tạo trong cung lòng như một tổ ấm cho Thiên Chúa của Mẹ,
để xứng đáng với sứ mạng Đồng Công Cứu Chuộc với chính Con Mình trên Thập Giá
như một lưỡi gươm đâm thâu tâm hồn và cùng được hiển trị với Người và với Cha của
Người trên thiên đàng, cũng như được mọi thụ tạo tôn kính.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con
ghi nhận lời thánh nhân: Bạn hãy nói cho tôi biết bạn chiêm ngắn tượng ảnh nào,
tôi sẽ nói cho bạn biết về niềm tin của bạn.