THỨ
NĂM SAU CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN
NĂM
CHẴN
BÀI
ĐỌC: Pl 3, 3-8a
3
Thưa anh em, chúng ta mới thật là những người được cắt bì, những người thờ
phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí của Người, những người hiên ngang hãnh diện vì
Đức Ki-tô Giê-su, chứ không cậy vào xác thịt, 4 mặc dầu tôi đây, tôi
có lý do để cậy vào xác thịt. Nếu ai khác có lý do để cậy vào xác thịt, thì tôi
càng có lý do hơn:5 tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi
Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì
đúng như một người Pha-ri-sêu;6 nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội
Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi. 7
Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là
thiệt thòi. 8a Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với
mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi
ĐÁP
CA: Tv 104
Đ. Tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỷ!
(c 3b)
2 Hát lên đi, đàn ca mừng Chúa, và suy
gẫm mọi kỳ công của Người. 3 Hãy tự hào vì danh thánh Chúa, tâm hồn
những ai tìm kiếm CHÚA, nào hoan hỷ.
4 Hãy tìm CHÚA và sức mạnh của Người, chẳng
khi ngừng tìm kiếm Thánh Nhan. 5 Hãy nhớ lại những kỳ công Người
thực hiện, những dấu lạ và những quyết định Người phán ra,
6 Hỡi anh em, dòng dõi Áp-ra-ham tôi tớ
Chúa, con cháu Gia-cóp được Người tuyển chọn! 7 Chính ĐỨC CHÚA là
Thiên Chúa chúng ta, những điều Người quyết định là luật chung cho cả địa cầu.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Mt 11, 28
Hall-Hall: Chúa nói: Tất
cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ
ngơi bồi dưỡng. Hall.
TIN MỪNG: Lc 15, 1-10
1 Các người thu thuế
và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2
Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp
phường tội lỗi và ăn uống với chúng.”3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ
ngôn này:
4 "Người nào
trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi
chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?5
Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. 6 Về đến nhà, người ấy
mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm
được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. 7Vậy, tôi nói cho các
ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám
hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.
8 "Hoặc người
phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp
đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được?9 Tìm được rồi, bà ấy mời
bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được
đồng quan tôi đã đánh mất. 10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay:
giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám
hối.”
TRONG
TAY CHÚA GIÊSU VÀ MẸ MARIA
MỚI TUYỆT VỜI!
Ta biết ơn cứu độ loài người Thiên Chúa
thực hiện không chỉ dựa trên tình thương của Chúa Giêsu, mà còn được tình
thương của Mẹ Maria cộng tác với Chúa. Chân lý này Chúa Giêsu đã diễn tả qua
hai dụ ngôn: Chiên lạc trở về và người đàn bà có mười đồng bị mất một phải tìm
cho đủ.
1/ DỤ NGÔN TRĂM CON
CHIÊN DIỄN TẢ TÌNH THƯƠNG CỦA CHÚA MUỐN QUY TỤ MỌI NGƯỜI VÀO HỘI THÁNH.
Nếu ta cắt nghĩa dụ ngôn con chiên lạc
theo nghĩa đen, thì thật là vô lý! Vì người nuôi chiên, ai cũng mong vắt được
nhiều sữa, lấy được nhiều thịt, đạt kinh tế cao. Thế thì 99 con chiên không lạc
làm cho chủ có nhiều lợi tức hơn, vậy tại sao chủ không vui mừng khi 99 chiên
không lạc, mà lại rất vui khi một con trở về, liệu nó có đem lại nhiều lợi tức
cho chủ hơn 99 con kia không?!
Bởi đó, muốn hiểu đúng ý nghĩa và giá
trị của dụ ngôn chiên lạc, ta phải biết số
100 mang ý nghĩa được Thiên Chúa chúc phúc. Nên ngôn sứ Isaia nói: “Ai chưa tròn 100 tuổi mà chết là dấu bị
nguyền rủa” (Is 65, 20).
Thế thì Chúa Giêsu hữu ý chọn 12 môn đệ
làm nên Israel Mới (x. Lc 6, 12-13), đây là dân được Chúa chúc phúc, nhưng cuối
cùng chỉ còn 11, vì Giuđa đã tự tử (x. Cv 1, 18). Nên sau khi Chúa Giêsu từ cõi
chết sống lại, Ngài đã chọn kẻ lạc đạo là Saulô vào hàng môn đệ, để bù vào
những thiếu sót trong đoàn môn đệ của Ngài.
Thực vậy, khi chiên lạc Saulô trở về ràn,
ông đã không thua kém các Tông Đồ thượng đẳng (x. 2Cr 11, 5), xét về lượng cũng
như về phẩm:
·
Về
lượng: Nếu ta gạch bỏ hết những lời ông Phaolô nói
trong Tân Ước, thì cuốn Kinh Thánh Tân Ước chẳng còn được bao nhiêu! Và một
mình ông Phaolô thành lập được nhiều giáo đoàn như Côrinthô, Galat, Êphêsô, Philiphê,
Côlôsê, Thêsalônikê. Nếu ông Phaolô không trở về, thì có lẽ đạo Chúa đã bị ông
khai tử từ lúc ông hằm hừ thở ra mùi sát khí, lãnh trát các thượng tế, xông tới
Đamas triệt hạ hết những ai tin vào Đức Giêsu, và hôm nay thế giới chưa ai được
biết Chúa!? (x. Cv 9)
·
Về
phẩm: Giáo lý của thánh Phaolô giảng dạy về Đức
Giêsu vô cùng phong phú và sâu sắc. Đến nỗi có nhiều người cho là Đức Giêsu
không lập Hội Thánh Công Giáo, mà là thánh Phaolô! Và như vậy, chúng ta biết
thánh Phaolô không đơn phương độc mã trở về với Chúa, mà ông còn trở thành chiên đầu đàn dẫn cả dân ngoại, trước
đây không thuộc về đàn chiên của Đức Giêsu, nay được ở trong chuồng chiên, chính
là Hội Thánh, dưới sự chăm sóc, dẫn dắt của Mục Tử Giêsu! Vì thế, thánh Tông Đồ
đã khoe với ông Timôthê, môn đệ ông rằng: “Đức
Giêsu bước vào trần gian để cứu những người tội lỗi, trong số đó tôi là người
thứ nhất!” (1Tm 1, 15) Người thứ nhất ở đây không phải là người đầu tiên
được Chúa cứu, mà là mẫu trở về với Đức Giêsu cho tất cả mọi người. Hiểu như
thế, chúng ta mới biết giá trị câu nói của Đức Giêsu: “Khi người tội lỗi ăn năn sám hối trở về, thì cả tầng trời rúng lên vì
niềm vui mừng!” (Lc 15, 7a). Thế thì:
ü
Trong gia đình, người bố là chiên đầu đàn, như sách Huấn ca 30, 4 nói: “Người bố dù có tắt thở ông cũng chưa chết, vì
ông đã để lại con cái giống hệt ông!”
ü
Trong một giáo xứ: Cha Sở là chiên đầu đàn.
Thánh Gioan Maria Vianey nói: “Linh mục
thánh thiện, thì giáo dân đạo đức; Linh mục đạo đức, thì giáo dân tầm thường;
Linh mục tầm thường, thì giáo dân ra quỷ!” Vậy nếu Linh mục mà ra quỷ, thì
giáo dân còn độc ác hơn quỷ vương Beelzebul!! Vì cha Sở chịu trách nhiệm với
giáo dân trong xứ. Thế thì các Đức Giám mục là chiên đầu đàn, phải chịu trách
nhiệm với các Linh mục trong địa phận: “Giám
mục thánh thiện, Linh mục đạo đức, Giám mục đạo đức, Linh mục tầm thường, Giám
mục tầm thường, Linh mục ra quỷ!” Quỷ đội lốt Linh mục thì giết Thân Thể
Mầu Nhiệm Chúa Giêsu, như xưa quỷ đội lốt đầu mục Do Thái đã giết Con Thiên
Chúa! Thánh Augustin nói: “Làm Giám mục
cho anh em, tôi rất lo sợ, làm tín hữu với anh em, tôi rất an tâm. Vì Giám mục
chỉ là một chức vụ, tín hữu mới là một ân phúc. Giám mục là một danh hiệu nguy
hiểm, tín hữu là một danh hiệu đem ơn cứu độ!” (x. HCHT số 32).
Chính vì vậy mà bất cứ Thánh Lễ nào, sau
lời Truyền Phép, lời cầu nguyện đầu tiên là cho Giám mục Thủ lãnh (Giáo hoàng),
và Giám mục Địa phận, vì các vị này mới là người quyết định làm cho Hội Thánh
được bốc lên. Như thế các vị này được nhận nhiều ơn nhất, thì phải trả lẽ trước
mặt Chúa nhiều, đúng như Lời Kinh Thánh nói: “Mỗi người trong chúng ta sẽ phải trả lẽ vì chính mình trước mặt Thiên
Chúa” (Rm 14, 12: Bài đọc năm lẻ).
Bởi vì mỗi Giáo phận là một Hội Thánh
vẹn toàn, vì Giám mục là hiện thân Tông Đồ của Đức Giêsu, là thầy dạy Đức Tin. Nên
việc canh tân sống Đạo của mọi thành phần trong Giáo phận hoàn toàn lệ thuộc
vào Giám mục thủ lãnh Địa phận. Do đó nếu có giáo dân hay Linh mục nào giống
thánh Phaolô, thì cũng chỉ là “đèn chói mắt”, làm nhức đầu người khác! Nhưng
nếu Giám mục là một Phaolô mới, thì sẽ làm bốc lên sức sống Đạo của dân Chúa
trong Địa phận, trở thành bó đuốc sáng, thành đèn hải đăng soi dẫn muôn dân tìm
về ràn chiên của Đức Giêsu! Thực là buồn cho Hội Thánh Chúa, suốt hơn 20 thế kỷ
nay, mới chỉ có một Giám mục Phaolô mà thôi!
Vì sứ mệnh chính của Giám mục là thầy
dạy Đức Tin, do đó giáo huấn của Công Đồng Vat. II trong Hiến Chế Hội Thánh số
25 dạy: “Việc rao giảng Phúc Âm là một nhiệm vụ trổi vượt trong các nhiệm vụ chính
yếu của Giám mục, Giám mục là những người rao truyền Đức Tin, đem nhiều môn
đệ mới về cho Chúa Kitô. Giám mục là những tiến sĩ đích thực, nghĩa là có uy
quyền của Chúa Kitô, giảng dạy cho những kẻ được trao phó cho các ngài”. Đối
với các Linh mục, Giáo Luật số 773 và 776 đã buộc: “Cha Sở phải lo huấn luyện Giáo Lý cho người lớn, thanh niên và trẻ em. Cha
Sở phải cổ võ và thúc đẩy cha mẹ chu toàn bổn phận dạy Giáo Lý trong gia đình. Đây
là nhiệm vụ riêng biệt và nặng nề trong việc dạy Giáo Lý cho dân Chúa”.
Qua lời giáo huấn trên, ước gì hàng giáo
sĩ làm đúng nhiệm vụ ngôn sứ Hội Thánh đã truyền là, bài giảng phải liên kết
các Bài đọc Hội Thánh đã chọn trong Phụng Vụ, từ đó trình bày các mầu nhiệm Đức
Tin và những quy tắc cho đời sống Kitô hữu (x. HCPV số 24 + 52); cũng như bài
giáo huấn của chủ chăn phải đặt trên năm nền tảng: “Kinh Thánh , Thánh Truyền, Phụng
Vụ, Giáo Huấn của các Công Đồng cũng như Sách Giáo Lý của Hội Thánh công bố năm
1992, và Giáo Luật là những quy luật sinh hoạt của Giáo Hội” (x. Sắc
Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của các Giám Mục trong Giáo Hội số 14). Nếu không dựa
trên nguyên tắc này để giảng giải, thì sự cố tháp Babel thuở xưa lại tái diễn: Con cháu Noe
phải tản đi khắp mọi nơi, bỏ dở công trình xây tháp, vì mỗi người nói mỗi kiểu!
(x. St 11).
Giám mục Phaolô đã trở thành mẫu cho các
Giám mục khác, ông đã hiên ngang hãnh diện trong Đức Kitô mà nói: “Tôi không dựa vào xác thịt của mình, dù tôi
là dòng dõi Israel, họ Benjamin, giữ Luật thì đúng như một người Biệt phái, nhiệt
thành đến mức ngược đãi Hội Thánh. Nhưng những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì
nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt
thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi”
(Pl 3, 3-8: Bài đọc năm chẵn). Quả thật, “tâm
hồn những ai tìm kiếm Chúa nào hoan hỷ” (Tv 105/104, 3b: ĐC năm chẵn).
Như thế các Giám mục phải là hiện thân
Phaolô trở về canh tân đời sống Đức Tin của mình, để trở thành chiên đầu đàn
cho cộng đoàn dân Chúa đã được trao phó cho các ngài dẫn dắt.
2/ DỤ NGÔN NGƯỜI ĐÀN
BÀ CÓ 10 ĐỔNG BỊ MẤT 1 DIỄN TẢ TÌNH THƯƠNG CỦA MẸ MARIA.
Dụ ngôn người đàn bà có 10 đồng bị mất 1
diễn tả tình thương của Mẹ Maria. Vì ta biết số 10 mang ý nghĩa vẹn toàn, như
Mười Điều Răn của Chúa, ám chỉ ai tuân giữ là người hoàn hảo trong Chúa.
Chúng ta lại biết
Chúa Giêsu là Thiên Chúa toàn năng mà, trong đời hoạt động công khai của Ngài
còn cần đến Mẹ Maria cộng tác, từ khởi sự (x. Ga 2) cho đến hoàn thành (x. Ga
19; Cv 1, 12-14). Trong lời kinh chúng ta hay cầu nguyện: “Từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen”; thì Đức
Giêsu cũng cần có Mẹ Maria cộng tác: “Từ
khởi sự cuộc đời rao giảng của tôi cho đến lúc hoàn tất trên thập giá, tôi đều
nhờ Mẹ cộng tác. Amen!” Đức Giêsu là Thiên Chúa toàn năng còn cần có Mẹ
Maria cộng tác, còn ta là ai mà không chạy đến Mẹ xin bầu cử!?
Bởi thế Mẹ Maria có
trách nhiệm làm cho công việc Con của Mẹ được trở nên hoàn hảo, cụ thể Mẹ muốn
môn đệ của Đức Giêsu phải vẹn toàn về lượng cũng như về phẩm chất. Nhưng Mẹ
luôn bị đặt vào tình trạng lo âu, vì thiếu sự vẹn toàn nơi các ông:
·
Số môn đệ của Đức Giêsu phải là 12, thế
mà bị mất Giuđa đã tự tử, Mẹ đau đớn lắm.
·
Lúc Mẹ đứng dưới chân thập giá, Mẹ muốn
đón nhận cả 11 môn đệ còn lại cũng phải là con của Mẹ. Nhưng lúc ấy chỉ có
Gioan được Đức Giêsu trao cho Mẹ. Ông Gioan được vinh dự này vì ông đã can đảm
vượt mọi sợ hãi, chứ không như 10 môn đệ kia đã nhớ Lời Thầy nói: “Tôi tớ không trọng hơn chủ, nếu người ta đã
bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15, 20), nên họ đã bỏ chạy
hết! Dụ ngôn người đàn bà có 10 đồng lạc mất 1, đã làm bà lo lắng đi tìm kiếm, huống
chi ở đồi Sọ, còn 11 môn đệ theo Thầy Giêsu, lại trốn mất 10, thì làm cho Mẹ lo
lắng biết mấy! (x. Ga 19, 25-27). Ngày nay nhiều người Công Giáo bỏ dự Lễ hoặc
không rước Lễ làm Mẹ Maria càng đau khổ hơn nữa!
·
Khi Chúa Giêsu Phục Sinh, Ngài đến với
các môn đệ vào ngày Chúa nhật (thời Hội Thánh sơ khai, Chúa nhật là ngày dâng
Lễ), Ngài chỉ gặp có 10 môn đệ, thiếu ông Tôma, chắc chắn Mẹ không vui gì. Một
tuần sau ông Tôma mới trở về với cộng đoàn vào ngày Chúa nhật (dâng Lễ), thì
làm cho Mẹ vui mừng biết chừng nào (x. Ga 20, 19t), vui hơn bà kia có mười đồng
lạc mất một mà tìm lại được!
Đời người Kitô hữu nhờ dự tiệc Thánh Thể
mà vui như Tết, vui hơn dự tiệc cưới, bởi vì đời sống Hội Thánh được ví như
tiệc cưới (x. Mt 22, 1-14). Ta đừng lấy cớ chối từ như những người đã được vua
mời đến dự: Kẻ nói: “Tôi mới mua đất”; ông khác tâu: “Tôi mới tậu bò”; còn anh
nọ thì nói: “Tôi mới cưới vợ”, tất cả đều có lý do: không có giờ đi dự tiệc của
vua! (x. Lc 14, 15-24)
Thực
ra tôi bảo không có giờ làm việc này, chỉ có nghĩa là thời giờ tôi đã dành cho
việc mà tự tôi cho là quan trọng. Bởi đó, quan trọng việc gì thì có giờ cho
việc ấy, nhất là việc mình yêu.
Ai yêu bản thân mình, yêu đồng loại như
Chúa dạy mới là yêu Chúa (x. 1Ga 4, 20), thì phải bắt chước Mẹ Maria và các môn
đệ có giờ cùng đi dự tiệc với Chúa Giêsu - Tiệc Thánh Thể, để được đồng hành
với Chúa Giêsu đi phục vụ đồng loại, khởi đi từ tiệc cưới Cana.
Thế thì một Kitô hữu
tôn thờ Chúa và kính yêu Mẹ, càng cần có Mẹ ở bên, nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn
trao Mẹ Thánh Ngài cho ai can đảm vượt mọi rào cản, cụ thể không sợ mất thời
giờ đi dâng Lễ mỗi ngày. Mà ai có sở hữu được thời giờ đâu? Vì “thời giờ là của
Thiên Chúa” (lời công bố khi làm Phép Nến trong đêm Phục Sinh). Rõ ràng thời
giờ không thuộc quyền sở hữu của ai, mà người ta lại sợ mất, một sự sợ hãi
không tưởng, đến nỗi không vượt qua để đến dâng Lễ với Chúa Giêsu, thì làm sao
đón Mẹ Maria về nhà mình như Tông Đồ Gioan được?!
Vậy qua dụ ngôn “Con
Chiên Lạc Và Đồng Bạc Mất” đều tìm được, đã diễn tả Chúa Giêsu và Mẹ Maria rất
sung sướng khi thấy có thêm người gia nhập Hội Thánh, cũng như vui mừng vì mọi
Kitô hữu cùng hiệp dâng Thánh Lễ để được Chúa Giêsu Phục Sinh làm Chủ, từ cảm
nghĩ, lời nói đến việc làm, hầu xứng đáng một cuộc sống làm con Thiên Chúa, con
Đức Maria, như thánh Tông Đồ nói: “Không
ai được sống cho chính mình, cũng không ai được chết cho chính mình. Dù sống, dù
chết, ta đều thuộc về Chúa. Nếu ta không sống như thế thì ta sẽ phải trả lẽ về
chính mình trước mặt Thiên Chúa” (Rm 14, 7-12: Bài đọc năm lẻ). Bởi thế “tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc
Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27/26, 13: ĐC năm lẻ).
Bà cố của Đức Giáo
hoàng Gioan Phaolô II qua đời sớm, lúc ấy cậu Karol Wojtyla lên 7 tuổi, đứng
bên giường mẹ đang hấp hối, cậu khóc nức nở! Người mẹ nắm tay con ôn tồn nói: “Con đừng khóc, mẹ này chỉ là vú nuôi con, khi
Chúa rước vú này về với Chúa, thì người Mẹ thật của con là Đức Maria xuất hiện,
sẽ đích thân chăm sóc con.”
Từ ngày ấy, cậu Karol Wojtyla tỏ lòng
sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, tưởng đó cũng là lý do quan trọng mà ngày
18-10-1978 Chúa đã chọn ngài lên ngôi Giáo hoàng (Gioan Phaolô II), đem lại
nhiều lợi ích cho Hội Thánh và cả xã hội trong mọi lãnh vực. Ngài thành công
như vậy là đã sống như thánh Gioan Tông Đồ: “đưa Mẹ về nhà mình” (Ga
19, 27).
Một chú bé nghèo khổ, quần
áo tả tơi, không biết chữ o tròn hay méo, lê đôi chân gầy đến một khu phố nghèo
nàn ở Ba-lê (Pháp). Chú ấy là tên là Gioan, lên 6 tuổi, đi tìm ông già Bou-in, sống
bằng nghề viết thư mướn.
Chú bé vào nhà lễ phép cúi
đầu chào ông cụ. Ông già hỏi:
-
Cháu
muốn gì?
Chú vội thưa:
-
Cháu
muốn viết một bức thư.
Ông già ra giá ngay:
-
Đưa
đây 10 xu.
Chú bé ngập ngừng rồi thưa
lại:
-
Xin
lỗi cụ, cháu không có tiền.
Nói xong chú thất thểu đi
ra, ông già ngó theo thương hại, kêu chú trở lại:
-
Này,
mày không có đến 10 xu sao? Mày là con ai?
Chú bé từ tốn đáp:
-
Dạ
cháu là con má cháu.
Ông già nói:
-
Vậy là ta hiểu rồi, cháu không có 10 xu, má
cháu cũng không có, vậy viết thư để xin chút cháo ăn đỡ đói phải không?
Chú bé gật đầu. Ông
già nói tiếp:
-
Được
rồi vào đây ông viết giúp cho.
Ông Bou-in nghĩ thầm: Mình có hy sinh một chút thời giờ, tốn ít
mực, ít giấy thì cũng chẳng ra nghèo. Ông liền lấy bút giấy ra viết: “Ba-lê, ngày…
tháng… năm… Kính thưa ông.” Rồi ông già đọc lại cho chú bé nghe và bảo muốn xin
gì thì nói để ông viết tiếp.
Chú bé ấp úng:
-
Dạ
không phải ông ạ!
Ông già gạn hỏi:
-
Không
phải ông thì bà?
Chú bé run run thưa
lại:
-
Dạ
cũng không phải bà.
Ông Bou-in thấy bực
mình nên cáu gắt nói:
-
Đã
không biết ai để gởi mà lại đòi viết thư.
Chú bé lấy hết can
đảm thưa lại:
-
Dạ,
cháu muốn viết thư cho Mẹ Maria.
Ông già cười rộ rồi
nghiêm nghị nói:
-
Mày chế nhạo lão gìa này hả? Cút ra khỏi nhà tao ngay!
Chú bé ngoan ngoãn
bước ra khỏi cửa, ông già nhìn theo thấy tội nghiệp nên gọi chú trở lại, quan
sát kỹ chú bé một lúc, ông hỏi tiếp:
-
Tên
cháu là gì?
-
Dạ
tên cháu là Gioan.
-
Gioan
gì nữa?
-
Dạ,
Gioan thôi ạ.
-
Nhưng
cháu muốn xin gì cùng Đức Mẹ?
-
Dạ cháu muốn thưa với Ngài là má cháu đã ngủ
từ 4 giờ chiều hôm qua, hai tay để trên ngực, người lạnh ngắt, cháu không làm
sao đánh thức má cháu dậy được!
Nghe đến đó ông già hiểu ngay là mẹ em
đã chết vì đói, ông rươm rướm nước mắt và nghĩ thầm: mình chẳng thiếu của ăn, còn
mẹ con chú này thì lại chết đói! Ông già ôm ghì lấy chú bé vào lòng, và ôn tồn
nói:
-
Từ
nay ông sẽ là ba của cháu.
Vậy một bức thư không được gởi đi, những
đã có hiệu quả là cụ già biết thương người, và Mẹ trên trời đã dùng cụ để chăm
sóc cậu bé Gioan.
Cụ già này đã thực thi lời thánh Tông Đồ
dạy: “Không ai trong chúng ta sống cho
chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Vậy dù sống dù chết, chúng
ta vẫn thuộc về Chúa”. Cụ già này
đã không xét đoán cậu bé Gioan, cũng không khinh dể cậu. Bởi vì mọi người sẽ
phải trả lẽ trước Tòa Chúa (x. Rm 14, 7-10: Bài đọc năm lẻ).
Có sống Đạo ít nhất noi gương cụ già này
mới có thể nói: “Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27/26, 13:
ĐC năm lẻ).
THUỘC LÒNG
§
Chúa
luôn gìn giữ tôi chẳng khác gì con ngươi mắt Ngài
(Dnl 32, 10).
§
Dầu
cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì vẫn còn có Chúa đón nhận con
(Tv 27/26, 10).
Lm
GIUSE ĐINH QUANG THỊNH