Các thánh tử đạo của
chúng ta, không phải chỉ hy sinh mạng sống để chu toàn giới răn mến Chúa, mà
các ngài còn luôn biểu lộ lòng bác ái trong cuộc sống đối với đồng loại.
Chúa Giêsu tuy là
Thiên Chúa thật, nhưng Ngài cũng còn là một con người có một quả tim rung động,
đầy lòng trắc ẩn trước những đau khổ của chúng ta. Thánh Matthêô đã ghi chép
trong bài tin mừng ta vừa nghe: Ra khỏi thuyền, người thấy dân chúng đông đảo
thì thương xót họ và sợ để họ ra về đói lả, sau khi đã nghe Ngài giảng, Ngài đa
hóa bánh ra nhiều để nuôi họ.
Các thánh tử đạo của
chúng ta, không phải chỉ hy sinh mạng sống để chu toàn giới răn mến Chúa, mà
các ngài còn luôn biểu lộ lòng bác ái trong cuộc sống đối với đồng loại.
Gia phả con cháu của
Ông Phạm Trọng Tả (tử đạo ngày 13.1.1859, 59 tuổi) có chép:
“Đầy tớ Ông rất đông, chưa tết Ông đã đi thăm viếng từng nhà, và
cho tiền mừng tuổi rất hậu. Số tiền ấy thường gấp đôi số quà họ biếu Ông trong
năm. Tiền thóc gia nhân vay mượn Ông thường cho một nửa; nếu túng quá, Ông cho
luôn. Dân trong làng nợ Ông, Ông cũng hay châm chước như thế. Bà vợ cằn nhằn
thì Ông trả lời: Mình quên nợ người, thì Chúa quên tội mình.”
Phạm Trọng Tả sinh năm
1800 cũng tại Quần Cống, anh em thúc bá với cụ Án Khảm, là con Ông Đaminh
Thành. Ông Giuse Tả là một Kitô hữu đạo đức, là cựu chánh tổng. Phụ lực với
cháu, Ông tìm cách giúp mọi người sống đạo, trong hoàn cảnh khó khăn.
Các Ông Tả, Khảm và
Thìn bị bắt và giải về Nam Định, và sau này được giam chung với nhau. (Coi
Thánh Đaminh Phạm Trọng Khảm)
Sau bốn tháng rưỡi bị
giam, một hôm quan báo cho biết là ba người đã bị án xử giảo (án bị xiết cổ).
Ngày 13 tháng 1 năm
1859, ngoài ba vị Án Khảm, Cai Tạ và Cai Thìn còn có bảy giáo hữu khác cũng
thuộc xứ Quần Cống được đưa ra pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định và bị xử giảo
Các tín hữu xứ Quần
Cống đưa thi thể các anh hùng tử đạo về quê mình và tổ chức lễ an táng trọng
thể.
Trong những ngày tháng
ở tù, cha Luca Vũ Bá Loan (tử đạo ngày 5.6.1840, 84 tuổi) được rất nhiều người
thăm nom tiếp tế. Quà biếu nhận được, Ngài luôn luôn sẵn sàng chia sẻ cho lính
và các bạn tù.
Trước ngày bị trảm
quyết, hai ba giáo xứ nài nỉ cha Vũ Bá Loan làm tờ di chúc thi hài sau khi chết
cho giáo xứ mình. Cha chỉ cười và nói:
“Xác tôi cũng là tro bụi. chết rồi cũng tanh hôi cho giòi bọ rúc
rỉa, các ông xin làm chi?”
Thế nhưng cha cũng
nhận lời ký giấy trao thi thể mình cho họ Chuôn Trung, xứ Kẻ Chuôn (Hà Đông),
tức là họ đạo có người giúp cha trong tù, được lo liệu mai táng.
Vũ Bá Loan sinh năm
1756 ở họ Bút Quai, thuộc Giáo xứ Bút Đông (Hà Nam). Qua nhiều năm học tập tại
Phú Đa và Kẻ Bèo (Hà Nam) và sau khi thụ phong linh mục, cha Loan đến giúp xứ
Nam Xang (Hà Nam) 6 tháng, rồi về giúp cha già Liêm xứ Kẻ Vôi (Hà Đông). Năm 1828,
khi đức cha Longer Gia chia xứ Kẻ Vôi làm hai, thì cha Loan nhận xứ mới là Kẻ
Sổ cho tới ngày bị bắt.
Cha Loan chăm chú
nhiều vào việc giảng dạy. Các mùa chay, mỗi ngày cha giảng ba lần. Bài giảng
của cha ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu và rất thực tế với những chỉ dẫn áp dụng cụ
thể trong cuộc sống. Cha ít dùng lý luận, cha nói bằng kinh nghiệm bản thân
mình về Đấng cha đã gặp gỡ thực sự trong kinh nguyện và thánh lễ.
Khi cầu nguyện cha
quên hết mọi chuyện chung quanh, dù ai gây tiếng động sát bên, cũng
không ảnh hưởng tới Cha. Thánh Lễ cha cử hành rất trang nghiêm, khoan
thai, cung kính đặc biệt. Một thầy giảng góp ý xin cha dâng Lễ lẹ lên
một chút như các vị linh mục khác. Cha đáp “Không được con ạ, lễ Misa là việc cao trọng nhất trần gian.
Không có gì đáng để chúng ta phải cử hành Thánh Lễ cách vội vã
cả. Việc thờ phượng Chúa cần phải làm cho trang nghiêm sốt sắng.”
Sau thánh lễ, cha quỳ lại lâu giờ trước Thánh Thể để cảm tạ Chúa.
Cha thường xuyên đi thăm viếng người nghèo khổ bệnh tật, cha không quản
ngại nuôi vài em hiền lành nhanh nhẹn, cho ăn học, chuẩn bị chức linh
mục tương lai. Cha nhiệt tình hướng dẫn nhiều tín hữu sống thân thiện
bác ái, giúp đỡ mọi người, dù có đạo hay không.
Một đặc điểm khác
nơi cha Loan là lòng khiêm tốn trong phục vụ. Khi đức cha gởi linh mục
phó xứ về Kẻ Sổ, cha tín nhiệm, khích lệ và nâng đỡ tận tình. Cha
nói: “Xin trao phó mọi sự cho cha,
tôi đã già, lại chậm chạp. Xin cha săn sóc cửa nhà, người giúp việc
và coi sóc cả tôi nữa.” Tuy được giáo dân sẵn sàng trợ cấp mọi
nhu cầu cần thiết, nhưng cha Loan lại tự giới hạn cho mình. Cha muốn
sống nghèo theo gương Đức Kitô, và Ngài cũng luôn nghĩ tới cảnh túng
nghèo của dân chúng. Áo quần, cha mặc cho đến sờn rách, vá trên, vá
dưới mới chịu dùng cái khác. Ăn uống, cha ăn những món bình dân. Khi
đi giảng ở đâu, nếu ai dọn mâm sang cỗ đầy một chút là được cha tỏ
thái độ liền. Thừa sai Jeantet Khiêm nói về cha như sau: “Nhận xét các việc cha Loan làm từ khi
chịu chức linh mục đến ngày tử đạo, tôi thấy có lẽ trong hàng linh
mục Việt Nam từ trước đến nay, không ai sánh kịp.”
Có hai người Bá Hộ
Kiểng ở làng Bún và đô Cang ở phố Vồi, cả hai đều ngoại giáo, bấy
giờ đang chờ xét xử vì tội phạm pháp. Họ bàn tính với nhau đến
bắt cha Loan để lập công chuộc tội. Thế ngày 10.1.1840 tại họ Kẻ
Chuân (Hà Đông), khi cha vừa dùng cơm xong, họ giả làm khách đến thăm
cha, rồi mời cha xuống thuyền chở thẳng về làng Bún. Các tín hữu
nghe biết tin đến xin chuộc, họ đòi 2000 quan. Cha Loan thương giáo hữu
nghèo, cha nói: “Các anh đòi 200 quan
may ra còn liệu được, chứ bạc ngàn thì vô phương.” Bá Hộ Kiểng
định hạ giá xuống, nhưng Đô Cang không chịu, vì muốn có cơ hội để
được giảm án cho mình.
Hai người đem nộp
cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không nhận, họ lại phải đưa cha
lên thẳng Hà Nội. Vừa đến công trường, quan tổng đốc chỉ thẳng vào
mặt hai người mắng rằng: “Quân dại
dột, sao chúng bay đang tâm bắt người hiền lành đạo đức, đáng tuổi
cha ông chúng bay thế này?” Tuy nhiên vì nhà vua đã ra lệnh bắt
đạo, và việc đạo trưởng Loan bị bắt đã công khai, quan đành phải ra
lệnh giam cha.
Tuy phải ra tòa hai
lần, nhưng cha luôn được các quan đối xử lịch sự và kính trọng mái
đầu bạc. Các quan chỉ điều tra lý lịch là khuyên cha lên đạp Thánh
Giá. Cha tìm cách nói khéo rằng: “Các
linh mục nuôi tôi và đức cha truyền chức cho tôi đã chết hết cả rồi.
Chỗ tôi ở thì nay đây mai đó, nơi nào không chứa, tôi ẩn mình trong
chùa nọ đình kia. Riêng việc khóa quá thì thưa quan, tôi là đạo
trưởng làm sao tuân theo điều đó được?” Khi quan hỏi sao lại theo
đạo ngoại quốc, cha trả lời: “Tôi
chẳng theo Chúa của nước nào cả, tôi chỉ thờ Chúa trời đất, Chúa
của muôn dân thôi”
Trong trại giam, cha
Loan không bị gông cùm, vì các tín hữu đút tiền cho lính canh và nói:
“Cụ già quá rồi, có bảo trốn cũng
chẳng đi đâu được, mấy anh cùm làm chi.” Lính thông cảm tuổi già
nên không cùm cha một ngày nào. Một lần quan tổng đốc xuống trại giam
thăm cha, dặn dò lính canh: “Cụ già
tuổi tác, phải xử cho hẳn hoi, đừng cấm người ta vào thăm.” Nhờ
thế trong những ngày tháng ở tù, cha Loan được rất nhiều người thăm
nom tiếp tế. Quà biếu nhận được, cha chia sẻ cho lính và các bạn
tù, nên càng được mọi người quý mến.
Tuy không thiếu thốn
vật chất, nhưng vì sức yếu tuổi già, lại phải ở nơi chật nẹp hôi
tanh, sau một tháng tù cha Loan trở bệnh nặng, chân phù sưng, cộng với
căn bệnh suyễn kinh niên, làm cha kiệt sức, nhiều lúc tưởng không ra
tới pháp trường. Viên cai ngục thấy tội nghiệp, tâu trình quan cho một
số tín hữu họ đạo Chuôn Trung ở luôn trong ngục chăm sóc cha cho đến
ngày xử.
Quan tổng đốc Hà
Nội tuy kính trọng cha, nhưng sợ triều đình, nên khi thấy cha cương
quyết không bỏ đạo, ông phải làm án xử trảm quyết. Vua châu phê và ra
lệnh thi hành. Trước ngày xử, một giáo dân tìm cách đưa cha Tuấn vào
ngục giải tội và trao Mình Thánh Chúa cho cha.
Ngày 5.6.1840, lính
tình nguyện cáng cha già Loan ra pháp trường, nhưng cha cám ơn và từ
chối. Vì trời nắng gay gắt cha chỉ chấp nhận cho hai tín hữu đi cầm
lọng che. Viên quan giám sát chủ trì phiên xử thấy cha đi bộ cũng bỏ
ngựa, trao cho lính hầu, rồi cùng đi ra Ô Cầu Giấy.
Tới pháp trường,
quan nói với cha: “Cụ muốn làm gì
thì làm đi.”
Cha Loan quỳ xuống
cầu nguyện, rồi vui vẻ đưa tay cho lính trói vào cọc.
Mười người lính
được chỉ định chém cha Loan bỗng trốn đâu hết. Để giải quyết vấn
đề, quan sai một người lính xứ Nam tên Minh, người lý hình bất đắc
dĩ đó đã đến vái lạy cha Loan và biện bạch rằng:
“Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho, cháu
sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời, xin cụ nhớ đến cháu.”
Cha Loan gật đầu,
rồi ra hiệu cho anh thi hành phận sự. Chỉ một nhát chém, cha giã từ
trần thế lãnh triều thiên Tử đạo quanh vinh. Các tín hữu xô nhau, lấy
áo thấm máu Cha. Theo tờ di chúc, giáo dân xứ Kẻ Chuôn đưa thi hài cha
về họ Chuôn Trung an táng.
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Đề
tựa của Lm. HK