SUY NIỆM LỄ HAI THÁNH TÔNG ĐỒ
PHÊRÔ & PHAOLÔ
PHÊRÔ & PHAOLÔ
MỤC LỤC
24. Thánh Phêrô và Thánh Phaolô - tông đồ
25. Làm lại cuộc đời tươi đẹp hơn Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
26. Phêrô và Phaolô, hai cột trụ của Giáo hội Lm. Phêrô Lê văn
Chính
28. Làm lại cuộc đời tươi đẹp hơn
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
29. Phêrô và Phaolô, hai cột trụ của Giáo
hội Lm. Phêrô Lê văn Chính
|
1. Hai con người
Từ xưa tới nay, Giáo Hội vẫn có thói quen liên kết hai thánh
tông đồ Phêrô và Phaolô trong một triều thiên vinh quang. Kinh Tiền Tụng hôm
nay đã diễn tả như sau: Thánh Phêrô là vị thủ lãnh trong việc tuyên xưng Đức
Kitô. Thánh Phaolô là người bảo vệ lừng danh trong việc tìm hiểu Đức Kitô.
Thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho những người Israel còn lại. Thánh
Phaolô là thầy và là đấng dạy dỗ muôn dân được kêu gọi. Và kinh Tiền Tụng đã
kết luận: Các ngài đã dùng những đường lối khác nhau mà quy tụ một gia đình cho
Chúa. Với lời ca tụng trên đây, Giáo Hội không những đề cao sự hợp nhất giữa
hai đường lối khác nhau mà còn ngợi khen sự hợp nhất giữa hai con người có
nhiều khác biệt.
Thực vậy, thánh Phêrô vốn bản chất dân chài lưới, trực tính và
nghiêng về thực tiễn. Còn thánh Phaolô là người trí thức, hay lý luận và thích
đào sâu giáo lý. Thánh Phêrô quan tâm đến việc loan báo Tin Mừng cho người đạo
cũ, nên không muốn sửa đổi nhiều những gì vốn có kẻo phật lòng họ. Còn thánh
Phaolô nhằm truyền bá đức tin cho các dân ngoại, nên muốn bỏ đi những lề luật
của đạo cũ không còn thích hợp, kẻo nặng gánh cho những người dân ngoại xin
tòng giáo. Thánh Phêrô là Giáo hoàng, nhưng không vì thế mà áp đặt ý kiến của
mình. Thánh Phaolô là Giám mục, nhưng không vì thế mà không thẳng thắn trình
bày quan điểm riêng của mình, để trao đổi và bàn luận. Thánh Phêrô là người đã
có lần chối Chúa vì yếu đuối và đã ăn năn sám hối do cái nhìn xót thương của
Chúa. Còn thánh Phaolô đã có lần bắt bớ đạo Chúa vì lầm lạc và đã trở lại nhờ
sự giúp đỡ của một môn đệ Chúa.
Với nhiều khác biệt, hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ đã được
liên kết lại để bổ túc cho nhau, làm cho nền móng của Giáo Hội được bền vững.
Động lực liên kết các ngài lại với nhau chính là việc mở rộng Nước Chúa. Cái
nhìn trên đây giúp chúng ta thêm tin tưởng hơn vào Chúa trong việc bảo vệ, xây
dựng và phát triển Giáo Hội. Đúng thế, Giáo Hội là hình ảnh của sự quy tụ hiệp
thông và liên kết. Giáo Hội là khí cụ kết hợp với Chúa và với nhân loại. Trong
Giáo Hội có yếu tố Thiên Chúa và cũng có yếu tố nhân loại. Có người nhân đức và
cũng có kẻ tội lỗi. Có phẩm trật và cũng có thành phần dân Thiên Chúa. Giáo Hội
vừa trung thành với truyền thống vừa phải đổi mới cho thích hợp với lịch sử
từng thời và từng nơi. Giáo Hội vừa củng cố đức tin cho người có đạo lại vừa
truyền bá đức tin cho người ngoại đạo.
Biết liên kết những cái khác nhau trong Giáo Hội và trong nhân
loại là một đặc điểm quan trọng của Kitô giáo. Bởi vậy trong giây phút này
chúng ta hãy cầu nguyện cho sự hiệp nhất, mặc dù có những khác biệt trong lòng
Giáo Hội, nhưng chúng ta vẫn có thể và phải liên kết phải trở nên một hầu ước
vọng của Chúa Giêsu sẽ là một sự thật: Xin cho mọi người được hợp nhất trong
chúng ta để cho thế gian nhận biết rằng Cha đã sai con.
2. Một
đức tin
Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta long trọng cử hành lễ trọng
kính thánh Phêrô và Phaolô, lễ này cũng là dịp giúp chúng ta chiêm ngắm gương
sống đức tin của các Ngài. Các Ngài là hai con người khác nhau, nhưng đón nhận
cùng một đức tin từ Thiên Chúa, nhưng các Ngài đã vượt qua và ra đi rao giảng
đức tin của mình.
Đức tin được đón nhận
Chúng ta thấy Phêrô và phaolô hai người có hai hoàn cảnh, hai
địavị, hai trình độ…
hoàn toàn khác nhau nhưng các Ngài cùng đón nhận một đức tin duy nhất đến từ
Thiên Chúa. Phêrô là người chài lưới, ông rất hăng say, nhiệt tình và có một
tâm hồn nhạy cảm. Ông không ngần ngại, không suy nghĩ đắn đo gì, đã bỏ tất cả
mọi sự theo Chúa khi Chúa gọi, điều này cho chúng ta thấy rất rõ Phêrô cảm
nghiệm bằng tình yêu nhanh hơn lý trí. Phêrô tin và theo Chúa với tất cả lòng
nhiệt thành của mình và niềm tin đó được tuyên xưng cách mạng mẽ rõ ràng: “Thầy
là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này thật chính xác, vượt
quá mọi hiểu biết và suy tư con người, đây là lời tuyên xưng về bản tính Thiên
Chúa của Đức Giêsu này chính là chỉnh cao trong đời sống niềm tin của Phêrô. Có
thể là đại diện cho nhóm mười hai, nhưng đây cũng là lời tuyên xưng cho chính
Phêrô. Chúa Giêsu xác định lời tuyên xưng này do Chúa Cha mạc khải nên Phêrô
mới biết được: “Anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho
anh điều ấy, nhưng là Cha Thầy Đấng ngự trên trời”.
Với Phaolô, ông là người biệt phái đã từng bách hại môn đệ Chúa,
thái độ đó được biểu lộ khi ông đồng tình trong vụ ném đá Stêphanô. Đang khi
ông hăng say phi ngựa trên đường Damas để bắt đạo, Phaolô được Chúa Kitô Phục
sinh gọi và thanh luyện, một quầng sáng đã bao ttrùm ông, khiến ông bị mù lòa
đôi mắt thân xác sau khi ngã ngựa, nhưng đồng thời quầng sáng ấy đã mở cho ông
cặp mắt đức tin, ông đã thực sự tin tưởng vào một Đức Giêsu chịu đóng đinh và
sống lại, là chính Đấng mà Phaolô đang bắt bớ trở thành Đấng mà “không ai và
không gì có thể tách ông ra khỏi lòng mến của Ngài”.
Rõ ràng Phêrô và Phaolô đã đón nhận đức tin trực tiếp từ Đức
Giêsu Kitô, còn chúng ta đã đón nhận đức tin gián tiếp qua cha mẹ, Giáo hội …dù
khởi đi từ nguồn nào điều đó không quan trọng cho bằng chính thái độ đón nhận
của ta, đức tin đo có gắn liền với chích con người mình hay không? Một khi đón
nhận cách chân thành, thì chắc chắn chúng ta cũng bị thử thách như Phêrô và
Phaolô đã từng bị thử tháh.
Đức tin bị thử thách
Mặc dù Phêrô và phaolô tin Chúa rất mãnh liệt, nhưng đức tin các
Ngài cũng không ngừng bị thử thách. Đức tin Phêrô còn phải là nên tảng nâng đỡ
đức tin Giáo hội, nên đức tin đó bị thử thách rất nhiều. Phêrô đã từng tin vào
Chúa, nhưng mới trước được Chúa khen tặng là đá tảng thì liền sau đó bị Chúa
quở trách là Satan hãy lui ra, đã có lần thề hứa “dù phải chết với Thầy con
không chối Thầy” mới hứa đó thì liền sau đó ba lần chối Chúa, mới phút trước
ung dung bước đi trên ngọn sóng thì phút sau bị chìm vì nghi ngờ. Rỡ rằng là
nhiều khi Phêrô nói mà chẳng hiểu mình nói gì, và chính cuộc tử nạn và cái chết
của Đức Giêsu là một thử thách có tính quyết định đối với niềm tin của Phêrô.
Cuộc đời theo Chúa của Phêrô đã sa ngã biết bao nhiêu lần trước khi trở thành
đá tảng vững chắc, trên đó Đức Giêsu Kit xây dựng Hội thánh Người. Phêrô chỉ có
thể nâng đỡ Đức tin cho anh em sau khi trở lại từ kinh nghiệm yếu đuối sa ngã
của mình.
Và Phaolô cũng bị thử thách “năm lần bị người Do thái đánh 40
roi bớt một, ba lần bị đắm tàu, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, một đêm
một ngày lênh đênh trên biển khơi”, ngoài ra ông còn gặp nhiều khó khăn nguy
hiểm trong các cuộc hành trình phải chịu đói khát, rét lạnh… cho dù những nguy
hiểm ấy ngày đêm cứ bám chặt vây bủa lấy ông thay vì chùng bước, nhưng niềm tin
vào Đấng Kitô Phục sinh qua mạnh nên ông coi những việc xảy ra cho ông không
quan trọng. Ong chỉ có một mối bận tâm ray rứt là lo cho tất cả Hội Thánh vì
lòng yêu mến và nhiệt thành nhà Chúa “tình yêu Chúa Kitô thức bách tôi”. Ông
coi sự sống của ông không phải là củ ông mà của đấng đã gọi chọn ông, đến độ
ông thốt ra: “Tôi sống nhưng không phải là Tôi sống mà là Đức Kitô sống trong Tôi”.
Khi nhìn lại cuộc sống, chắc chắn ai cũng đã hoặc đang ít nhất
một lần trải qua những đau khổ như: nghèo đói, bệnh tật, thất vọng… Trước những
nghịch cảnh đó chúng ta có đứng vững hay bị chao đảo nghi ngờ đức tin? Nếu vẫn
còn một niềm tin sắc con thì hãy làm chứng đức tin của mình cho người khác như
mẫu gương của Phêrô và Phaolô.
Đức tin được rao giảng
Phêrô và phaolô là hai khuôn mặt lớn trong việc rao giảng Tin
Mừng. Cuộc đời Phêrô sau khi gặp những thử thách thay vì nhút nhát là một dạ
can trường, thay vì chao đảo là một lòng xác tín. Sau khi Thánh Thần hiện xuống
ông là người đầu tiên công khai rao giảng Tin Mừng Chúa Cứu Thế cho mọi người,
đặc biệt là người Do tháij. Khi Chúa Giêsu đặt ông làm đá tảng Hội Thánh ông đã
sống đúng với chức vị của mình, ông làm chứng và rao giảng hết sức hùng hồn về
Đức Giêsu Kitô bị giết và đã sống lại từ cõi chết “Anh em đã giết Đấng khơi
nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, chúng tôi
xin làm chứng”.. Phêrô cũng cho thấy chính Đức Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất cho
nhân loại, chỉ có nơi Ngài mới có được ơn cứu độ: “dưới gầm trời này có một
danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ đó mà được cứu độ”. Quả thật ông là đá tảng vững vào trong mọi
sóng gió, những điều ông rao giảng đã chứng minh bằng cái chết của ông tại
Rôma.
Còn Phaolô, sau khi gắn bó với Chúa Kitô một cách mật thiết, ông
đã lao mình về phía trước như một vận động viên, và dùng chính sự nhiệt thành
của mình đi bất cứ nơi đâu vào bất cứ ngóc ngách nào, bất chấp mọi gian khổ tù
đày do quyền bính trần thế gây ra, miễn là từ cánh đồng dân ngoại đem về cho
Chúa các linh hồn. Phaolô cũng dùng chính khả năng tri thức của mình để trở nên
lợi khí phổ biến Tin Mừng cho những vùng đất mới, coi việc rao giảng Tin Mừng
là bổn phận và niềm hạnh phúc của mình: “Vô Phúc cho tôi nêu tôi không rao
giảng về Đức Kitô”, ông không hổ thẹn về Tin Mừng bở vì Tin Mừng đem lại ơn cứu
độ cho toàn thể nhân loại, đến với những người tin.
Ta thấy rõ Phêrô và Phaolô liên kết trong niềm tin, lòng mến
Chúa Kitô và Giáo hội, Phaolô luôn hướng về Phêrô như nền tảng cho niềm tin và
thế giá Tin Mừng mà ông rao giảng. Nền tảng Pherô cũng là định hước cuộc tiến
bước trong đức tin và đảm bảo sự thống nhất dân Chúa trong lòng mến. Điều mà
minh chứng hùng hồn nhất đức tin của Phêrô và Phaolô rao giảng đó là việc hai
Ngài cùng hội tụ tại Rôma để làm chứng cho Chúa Kitô bằng chính máu đào của
mình. Phêrô và Phaolô đã làm thành khuôn mẫu cho việc rao giảng niềm tin cho
mọi người.
Còn chúng ta, khi đứng trước một thế giới dường như mất cảm thức
về tội, quá nhiều người chưa biết và không tin Chúa, chúng ta có dám sống và
giới thiệu một Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại như Phêrô và phaolô không?
chúng ta hãy cố lên, can đảm minh chứng đức tin của mình vì chỉ có nơi Đức
Giêsu Kitô con người mới được cứu độ.
Sự khác biệt giữa hai cuộc đời, hai quá khứ của Phêrô và phaolô,
đã nối thành một, bởi một sởi chỉ vào “Đức tin vào Thiên Chúa”.
Chúng ta mỗi người tuy khác nhau, nhưng có cùng một niềm tin vào
Đức Giêsu Kitô. Chúng ta hãy sống liên đới hiệp nhất với nhau, kiên vững trong
đức tin, xẵng sàng minh chứng đức tin của mình qua đời sống cụ thể hằng ngày,
điều đó chỉ thực hiện được khi mỗi người biết siêng năng cầu nguyện, múc lấy
nguồn sức mạnh nơi bí tích Thánh Thể, luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu
Kitô, để lời tuyên xưng của Phêrô trở thanh kinh nghiệm riêng cho mỗi người:
“Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai?”.
3. Đức
tin
Hôm nay, chúng ta mừng kính trọng thể lễ thánh tông đồ Phêrô và
Phaolô tông đồ, là hai cột trụ chống đỡ cho tòa nhà Giáo hội. Chúng ta cùng
nhau dừng lại suy gẫm về một mẫu gương của hai đấng, để noi theo và bắt chước,
như lời thánh Phaolô đã xác quyết:
- Anh em hãy bắt chước chúng tôi, như chúng tôi đã bắt chước Đức
Kitô.
Nhờ đó, đời sống chúng ta không tầm thường, không tăm tối, nhưng
sẽ xứng đáng hơn với tước hiệu người Kitô hữu, người có Đức Kitô trong tâm hồn,
người mang Đức Kitô trong cuộc sống.
Mẫu gương chúng ta chia sẻ giờ đây, đó là đức tin của các
ngài.
Ngay từ đầu thánh Phêrô đã có một đức tin kiên vững. Thực vậy,
trước những dư luận trái ngược nhau, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ xem họ nghĩ
gì về Ngài. Thánh Phêrô đã không ngần ngại trả lời:
- Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống.
Lần khác Chúa Giêsu hứa ban thịt máu mình làm của ăn và của uống
nuôi sống linh hồn. Người Do thái lấy làm chướng tai, nên đã nói:
- Những lời ấy thật là khó nghe làm sao mà chấp nhận được.
Và rồi họ đã bỏ Chúa mà đi. Chúa Giêsu quay sang hỏi các môn đệ:
- Cả các con nữa, các con cũng muốn bỏ đi hay sao?
Thánh Phêrô vẫn với sự hăng say thường lệ đã thưa lên:
- Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì chỉ mình Thầy mới
có những lời ban sự sống. Chúng con tin và chúng con biết rằng Thầy là Đức
Kitô, Con Thiên Chúa.
Đức tin của Phêrô được đặt cơ sở trên đá tảng vững chắc. Sau
này, trong một bức thư ngài đã viết cho các tín hữu như sau:
- Chúng ta không tin vào những chuyện bịa đặt, nhưng tin vào
những bằng chứng cụ thể tai nghe mắt thấy, để nhận biết quyền năng của Đức
Kitô.
Thực vậy Phêrô đã nhìn thấy Đức Kitô biến hình trên đỉnh Tabor,
đã nghe những lời xuất phát từ môi miệng Chúa Cha:
- Này là con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng.
Tự bản chất, Phêrô không phải là một kẻ cứng lòng nhưng Phêrô
đòi hỏi phải có những chứng cớ.
Khi những người đàn bà đạo đức trở về và nói Chúa đã sống lại
phản ứng đầu tiên và tự nhiên của Phêrô là nghi ngờ. Phêrô muốn xem xét sự việc
theo quan niệm riêng của mình và muốn tận mắt được nhìn thấy Chúa…
Thánh Phaolô cũng đã nói theo thánh Phêrô để có một đức tin kiên
vững và nhiệt thành.
Sau khi bị quật ngã trên đường Đamas và được Chúa soi sáng.
Phaolô đã rao khắp các hội đường Do thái để rao giảng và minh chứng Đức Kitô là
con Thiên Chúa, khiến những người Do thái phải ngạc nhiên và nói với nhau:
- Ông ấy chẳng phải là kẻ đã bách hại những người kêu cầu tên
Giêsu và đã tới đây để dẫn độ các tín hữu về cho Thầy cả thượng phẩm đó sao?
Ngày càng thêm hăng say, Phaolô đã gặp gỡ những người Do thái
tại Đamas và minh chứng cho họ biết Chúa Giêsu chính là đấng thiên sai. Được
tiếp nhận ánh sáng tự trời cao, Phaolô đã chiếu tỏa ánh sáng ấy ra chung quanh.
Đức tin chính là vấn đề Phaolô không ngừng nói tới, coi đó là
điều kiện để được cứu độ và đòi buộc các tín hữu phải thực hiện liên tục.
Phaolô bảo: Người công chính sống bởi đức tin. Phaolô đòi hỏi nơi chúng ta một
đức tin sống động và trưởng thành, và chính thánh nhân cũng đã nêu gương trước
cho chúng ta: Đức tin đã thấm nhiễm vào suốt cả cuộc đời Phaolô và là động cơ
thúc đẩy Phaolô hành động.
Cuối cùng cả hai đã hy sinh mạng sống để làm chứng cho niềm tin
kiên vững, niềm tin sắt đá của mình. Phêrô đã bị đóng đinh trên ngọn đồi
Vatican, còn Phaolô thì bị chém đầu trên đường Ostie.
Giữa những đảo điên của cuộc sống, giữa những quyễn rũ của trần
thế, nhờ lời bầu cử của hai thánh Phêrô và Phaolô, chúng ta hãy xin Chúa hãy
cũng cố niềm tin nhỏ bé của chúng ta.
4. Anh Là Tảng
Đá
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong ngày lễ kính thánh Phêrô và thánh Phaolô, chúng ta được
mời gọi chiêm ngắm hai khuôn mặt, rất khác nhau mà cũng rất giống nhau.
Phêrô, một người đánh cá ít học, đã lập gia đình. Ông theo Thầy
Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ. Còn Phaolô là người có nhiều điều để tự hào, về
gia thế, về học thức, về đời sống đạo hạnh. Ông chưa hề gặp mặt Đức Giêsu khi
Ngài còn sống.
Nhưng hai ông có nhiều nét tương đồng. Cả hai đều được Đức Giêsu
gọi. Phêrô được gọi khi ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con. Phaolô được gọi khi
ông hung hăng tiến vào Đamát. Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Ngài. Tất cả của
Phêrô là gia đình và nghề nghiệp. Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa
vênh vang. Bỏ tất cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng. Cả hai đều đã từng có
lần vấp ngã. Vấp ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô, trong một phút giây
quá tự tin vào sức mình. Ngã ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô, trong
lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng.
Vấp ngã nào cũng đau và in một dấu không phai. Vấp ngã bẻ lái
đưa con người đi vào hướng mới.
Phêrô và Phaolô đều yêu Đức Giêsu cách nồng nhiệt, vì họ cảm
nhận sâu xa mình được Ngài yêu.
"Này anh Simon, anh có mến Thầy không?
Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." (Ga 21,16)
Cả Phaolô cũng yêu Đấng ông chưa hề chung sống, vì Ngài là
"Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi." (Gl 2,
20). Phaolô đã không ngần ngại khẳng định: Không gì có thể tách được chúng ta
ra khỏi Tình Yêu của Đức Kitô (x. Rm 8, 35.39)
Tình yêu Đức Kitô là linh hồn của đời truyền giáo, vì nói cho
cùng truyền giáo chính là giúp người khác nhận ra và yêu mến Đấng đã yêu tôi và
yêu cả nhân loại.
Cả hai vị tông đồ đều hăng say rao giảng, bất chấp muôn vàn nguy
hiểm khổ đau. Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40). Còn nỗi đau của
Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28). "Tôi mang trên mình tôi
những thương tích của Đức Giêsu" (Gl 6, 1-7)
Cả hai vị đã chết như Thầy. Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn
(x. Ga 21, 18). Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng, và đã đổ máu ra làm
lễ tế (x. 2Tm 4, 6).
Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới, dám bỏ, dám
theo và dám yêu dám sống và dám chết cho Đức Kitô và Tin Mừng. Hội Thánh vẫn
cần những chiếc cột và những tảng đá.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn biết gì về thánh Phêrô và thánh Phaolô? Có nét nào nơi hai
vị thánh làm bạn ưa thích?
Bạn nghĩ gì về Đức Thánh Cha? Bạn biết gì về những hoạt động của
Ngài cho giới trẻ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một
người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo
Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy
ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt
Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần
chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm
để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
5. Hai cuộc
đổi đời – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Hôm nay chúng ta mừng kính thánh Phêrô và Phaolô tông đồ. Các
ngài là cột trụ của Hội Thánh. Các ngài là những viên đá tảng, đá quý để xây
dựng toà nhà Hội thánh vững chắc và toả rạng cho khắp năm châu.
Các ngài là cột trụ của niềm tin cho toàn thể Hội thánh.
Một niềm tin không gì có thể lay chuyển đến nỗi “ma quỷ cũng không thắng nổi”.
Một đức tin can trường đến nỗi dầu có chịu nhiều thiệt thòi, dầu có phải trải
qua những gian truân cùng khốn: tù đầy, đói rét hay phải bôn ba rầy đây mau đó,
phải vượt qua biết bao phong ba bão tố, các ngài vẫn vui lòng chấp nhận vì được
thông phần đau khổ với Thầy Giêsu.
Hai con người này tuy được sự giáo dục khác nhau, và hấp thụ
những văn hoá khác nhau, nhưng họ lại đi chung một đường, và cùng chung một lý
tưởng. Cuộc đời các ngài đều phải lội ngược dòng để làm lại cuộc đời, để thay
đổi cách sống sao cho phù hợp với niềm tin của mình.
Thực vậy, nhìn vào đời sống của hai trụ cột của Hội thánh, chúng
ta thấy: một Phêrô đã từng sa ngã. Ông đã từng can ngăn không muốn cho Chúa nộp
mình chịu chết. Ông đã đi đến tận tùng của sa ngã là hành vi chối Chúa đến ba
lần trong cùng một đêm. Một Phaolô đã hăng say lùng bắt các môn đệ của Chúa.
Chính ông đã đồng loã với bọn quá khích ném đá vị tử đạo đầu tiên là Stephano.
Thế nhưng, ý Chúa nhiệm mầu. Tình yêu của Chúa đã thắng vượt những yếu đuối của
Phêrô và Phaolô. Chúa đã dùng muôn nghìn cách để đổi đời các ngài. Chúa đã tạo
cho các ngài cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa đã nói cùng Phêrô: “một khi con
trở lại hãy củng cố đức tin của anh em con”.
Theo Thánh Kinh kể lại: Sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên
pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô, Ngài biết hết! Phêrô chột dạ. Phêrô nhớ lại
lời Thầy: “Nội trong đêm nay, trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần”. Tức
thì, Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trũi nặng,
một cái gì đó đã chết trong ông. Vâng, đã chết rồi, niềm tự hào, tự tin quá
mức. Còn lời nào biện mình cho hành động hèn nhát của ông. Còn đâu lời khẳng
khái: “mọi người có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ”. Ông chỉ là cát bụi, ông biết mình chỉ là cát
bụi, yếu hèn và rất dễ sa ngã. Nhưng đêm hôm đó, một biến cố trọng đại đã
"đổi mới" tâm hồn Phêrô. Lòng ăn năn bộc phát và lòng khiêm nhường
chân thành đã biến Phêrô thành người thuyền trưởng trên con tàu Giáo hội.
Còn Phaolô thì sao? sau khi ngã ngựa đớn đau bởi một luồng sáng
chói loà. Mắt ông không còn thấy gì nữa, ông như kẻ bị mù trong ba ngày. Nhưng
thật ra, tâm hồn ông lại sáng. Ông đang thấy và thấy rất rõ. Đó là Đức Giêsu,
Người đã Sống lại thật, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Đó là sự thật mà ông
phải chấp nhận. Một sự thật mà từ nay ông phải làm chứng về những điều đã nghe,
đã thấy và đã biết.
Vâng, có thể nói, nhờ sự đổi mới cuộc đời của Phêrô và Phaolô mà
cả thế giới được đổi mới. Văn hoá ky-tô giáo đã làm mới lại bộ mặt địa cầu. Có
thể nói ở đâu đó còn có những người chưa tin vào Chúa nhưng họ đã được thấm
nhuần văn hoá Kitô giáo. Ở đâu đó vẫn còn đó những người được đổi mới cuộc đời
nhờ vào lời Chúa và sức mạnh của tin mừng. Ở đâu đó vẫn còn đó những tâm hồn
thất vọng, lầm than họ đã bừng lên niềm hy vọng nhờ những giá trị tin mừng mà
Kitô giáo mang lại cho họ.
Mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, mỗi người chúng ta
được mời gọi tiếp nối truyền thống của các tông đồ mang tin mừng đến khắp cùng
trái đất. Mỗi người chúng ta cũng là những viên đá sống động, góp phần xây dựng
toà nhà Hội thánh. Dù nhỏ bé, yếu hèn và bất lực, nhưng Chúa sẽ dùng tuỳ theo
nhu cầu của Ngài. Chính Ngài sẽ đổi mới cuộc đời chúng ta bằng ân sủng và tình
thương của Ngài, để nhờ đó chúng ta cũng có khả năng đổi mới môi trường chúng
ta đang sống. Đồng thời chúng ta hãy cầu nguyện nhiều hơn cho Đức Thánh Cha,
cho các giám mục là những Đấng kế vị thánh Phêrô và các tông đồ. Xin Chúa
ban thêm sức mạnh, nghị lực và ơn khôn ngoan, để các ngài luôn là điểm tựa cho
niềm tin của chúng ta. Amen.
6. Suy niệm
của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
“Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" (Mt 16,15)
Đó là câu hỏi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của mình để trắc nghiệm
họ về sự hiểu biết của họ về danh tính của chính Chúa Giêsu, khi Ngài đang đồng
hành với các ông từ thượng lưu Galilê đi xuống. Hẳn đã nhiều lần người ta đặt
cho các môn đệ câu hỏi về Chúa Giêsu, lần này chính Thầy Giêsu hỏi họ về Ngài.
Một câu hỏi rất cụ thể được Chúa đặt ra, và chờ họ trả lời. Và đây, Simon Phêrô
đã thay mặt cả nhóm thưa: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống" (Mt 16,16). Câu trả lời thật rõ ràng. Ở đây, Đức tin của Giáo Hội
phản chiếu một cách trọn vẹn. Chúng ta cũng thế, chúng ta được soi sáng cách
đặc biệt do lời tuyên xưng của Phêrô.
Phêrô tuyên xưng "Thầy là Đức Kitô!"
Với lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa Giêsu trả lời: "Hỡi
Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải
cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16, 17). – Phêrô, con
thật có phúc! Hạnh phúc thật, bởi vì sự thật này, là trung tâm đức tin của Giáo
Hội, có thể nảy sinh trong tâm thức của con người như công việc của Thiên Chúa.
"Không ai biết Con, trừ ra Cha, và không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con
muốn mặc khải cho" (Mt 11, 27). Câu Tin Mừng giầu ý nghĩa và phong phú này
khiến chúng ta suy nghĩ: Ngôi Lời Nhập Thể đã mạc khải Chúa Cha cho các môn đệ
của mình, và giờ đây đến lượt Chúa Cha mạc khải cho họ chính Con Một của Ngài.
Phêrô chấp nhận sự soi sáng nội tâm và ông can đảm tuyên xưng: "Thầy là
Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống"! Những lời này ở trên môi của Phêrô,
nhưng phát xuất từ mầu nhiệm thâm sâu của Thiên Chúa. Đó là những lời mạc khải
chân lý nội tại, và đời sống của chính Thiên Chúa. Và Phêrô, dưới tác động của
Chúa Thánh Thần, đã trở thành một nhân chứng, và là người tuyên xưng chân lý
siêu phàm ấy. Lời tuyên xưng của ông là nền tảng đức tin của Giáo Hội
"Trên đá này, Ta sẽ xây Hội Thánh của Ta" (x. Mt 16, 18). Dựa vào đức
tin và lòng trung thành của Phêrô, Giáo Hội của Chúa Kitô được thiết lập. Cộng
đoàn Kitô hữu tiên khởi ý thức rõ điều ấy, như sách Công Vụ Tông Đồ đã viết,
khi Phêrô bị giam trong ngục. Và Hội Thánh khẩn thiết dâng lời khẩn nguyện lên
cùng Thiên Chúa cho ông (x. Cv 12: 5). Giáo hội đã được nghe, vì sự hiện diện
của Phêrô vẫn cần thiết cho cộng đoàn trong những giai đoạn đầu của Hội Thánh:
Chúa đã sai thiên thần của Người đến mà giải thoát họ khỏi tay những người bách
hại (x.12, 7-11.). Điều này đã được viết trong ý định của Thiên Chúa mà Phêrô,
sau khi thừa nhận với anh em mình trong đức tin, đau khổ tử vì đạo ở Rôma, cùng
với Thánh Phaolô, vị Tông Đồ dân ngoại, cũng thoát chết nhiều lần.
"Nhưng Chúa đã phù hộ tôi và ban sức mạnh cho tôi, để dùng
tôi hoàn thành công việc rao giảng, và cho mọi dân tộc được nghe biết. Và tôi
đã thoát khỏi miệng sư tử" (2 Tim 4, 17). Đó là những lời của Phaolô người
môn đệ trung thành. Những lời này làm chứng cho việc được thành toàn nơi ông
nhờ ơn Chúa, Đấng đã chọn ông cho sứ vụ loang báo Tin Mừng. Đấng đã, "chọn
ông" trên đường đi Damas (x. Pl 3, 12). Được bao phủ trong ánh sáng chói
lòa con mắt, Chúa đã hiện ra với ông và nói rằng: "Saul, Saul, tại sao
ngươi bắt bớ Ta? "(Cv 9,4), một sức mạnh diệu kỳ quật ngã ông xuống đất
(x. Cv 9,5). Saul hỏi: "Thưa Ngài, Ngài là ai? Chúa Giêsu trả lời "Ta
là Giêsu, ngươi đang bắt bớ"! (Cv 9, 5). Có phải câu trả lời của Chúa Kitô
hàm ý Saul đang bách hại những người theo Chúa Giêsu và Chúa Giêsu báo cho ông
biết rằng, chính bản thân ông cũng đang bị họ bách hại lại. Chúa Giêsu thành
Nazareth, Đấng chịu đóng đinh, Đấng mà các Kitô hữu loan truyền. Ngài đã phục
sinh. Nếu bây giờ, Saul cảm thấy sự hiện diện mạnh mẽ, rõ ràng rằng Thiên Chúa
đã thực sự sống lại từ cõi chết. Ngài chính là Đấng Mê-sia, Đấng dân Israel
trông đợi, đó là Chúa Kitô hằng sống, đang hiện diện trong Giáo Hội và thế
giới!
Với lý lẽ trên, liệu Saul có thể hiểu tất cả những gì hàm chứa
trong một biến cố như vậy không? Chắc là không! Đúng thế, vì đó chỉ là một phần
trong những ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Thiên Chúa Cha sẽ trao ban cho
Phaolô ơn hiểu biết mầu nhiệm cứu chuộc, do Đức Kitô thực hiện. Chính Ngài sẽ
làm cho Phaolô hiểu được thực tại tuyệt vời của Giáo Hội, để Phaolô sống cho
Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô. Còn Phaolô, khi tham dự vào thực
tại này, ông sẽ không ngừng loan truyền cách không mệt mỏi cho đến tận cùng của
trái đất. Từ Damas, Phaolô bắt đầu cuộc hành trình tông đồ của mình, hành trình
ấy sẽ dẫn Phaolô mang Tin Mừng cho mọi quốc gia trên thế giới, đến những nơi mà
ông được kêu gọi. Lòng nhiệt thành truyền giáo của Phaolô sẽ giúp ngài thực
hiện được nhiệm vụ mà Chúa Kitô ủy thác cho các Tông Đồ: "Vậy anh em hãy đi,
và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy" (Mt 28, 19).
Sự hiệp nhất tròn đầy của Giáo Hội!
Giáo hội mang trong mình sứ mạng do Chúa Kitô ủy thác. Đây là sứ
mạng cần thiết ở thời đại này. Chúng ta hãy cầu nguyện cho hiệp nhất và những
tiến trình cho hiệp nhất, đừng bao giờ chán nản, hay thất vọng.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta sớm đạt được sự hiệp thông trọn
vẹn nơi tất cả những người tin vào Chúa Kitô. Hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô
đã cho chúng ta ơn đó, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta trong ngày này, nhờ sự
kính nhớ cái chết tử đạo, ngày sinh ra vào đời sống mới trong Chúa của các
ngài. Vì Tin Mừng, các ngài đã chấp nhận chịu đau khổ, chịu chết và các ngài đã
được tham dự vào sự phục sinh của Chúa. Đức tin mà các ngài minh chứng bằng cái
chết tử đạo của chính mình, là đức tin giống như Đức Maria, Mẹ của những người
tin, Mẹ của các thánh Tông Đồ, và các thánh nam nữ trong mọi thời đại. Ngày
nay, Giáo Hội tuyên xưng đức tin ấy. Đức tin của chúng ta, đức tin vững vàng
của Giáo Hội tin vào Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất, Người là Con Thiên Chúa
hằng sống, Đấng đã chết và sống lại để cứu độ chúng ta và toàn thế giới.
7. Hai chứng
nhân lịch sử tử đạo: Phêrô và Phaolô
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày 29 tháng 6, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cùng lúc tôn
kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Các ngài là hai cột trụ của Giáo hội
phổ quát Chúa Kitô, và theo Truyền Thống, Giáo hội không bao giờ mừng vị này mà
bỏ vị kia, nhưng luôn mừng kính và biết ơn đối với hai chứng nhân vĩ đại của
Chúa Kitô, vừa đồng thời là một lời tuyên xưng long trọng về một Giáo hội duy
nhất, thánh thiện, công giáo, và tông truyền. Thánh Phêrô có tên gốc là Simon,
làm ngư phủ người Galilê, sống ở Capharnaum bên hồ Tibêria. Thánh Phaolô có tên
là Saolê, người Do thái lưu vong, sinh tại Tarsô miền Tiểu Á bởi cha mẹ là
người thế giá, có quyền công dân Rôma. Cuộc đời của hai ông bị đảo lộn từ khi
gặp Đức Kitô, họ đã bỏ mọi sự đi theo Chúa. Phêrô bị bắt và được cứu cách lạ
lùng: “Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người
đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê, và khỏi mọi điều dân Do thái mong muốn
tôi phải chịu”. (Cv 12,11).
Thánh Phêrô, thủ lãnh các Tông Đồ, con người say mê Chúa Ki-tô,
đã xứng đáng nghe lời này: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô,
nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18).
Trên tảng đá này, Chúa sẽ xây dựng đức tin mà Phêrô tuyên xưng. Phêrô lấy từ
“tảng đá”, chứ không phải tảng đá lấy từ Phêrô. Thánh Phaolô là “dụng cụ ưu
tuyển” để mang Tin Mừng đến cho các dân tộc. Thánh Phêrô, người đánh cá miền
Galilêa, ít học, đã lập gia đình, theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ, là
người sau khi đã vượt qua những ngày đen tối của cuộc Thương Khó của Chúa, sẽ
có trách nhiệm củng cố anh em trong đức tin và chăn dắt đoàn chiên của Chúa
Kitô (x. Mt 16, 13-19). Còn thánh Phaolô là người Pharisêu sốt sắng, có nhiều
điều để tự hào, về gia thế, học thức, về đời sống đạo hạnh. Ông chưa hề gặp mặt
Đức Giêsu khi Người còn sống. Nhưng ông gặp Đức Kitô Phục Sinh với biến cố ngã
ngựa trên đường Damas, Phaolô trở nên tông đồ của ơn cứu rỗi đến từ đức tin.
(x. Cv 9, 1-22)
Cả hai đều được Đức Giêsu gọi, Phêrô được gọi khi ông đang thả
lưới bắt cá nuôi vợ con. Phaolô được chính Đức Giêsu Phục sinh gọi khi ông hung
hăng tiến vào Đamas, đang làm tông đồ không biết mỏi mệt của dân ngoại (x. Cv
9, 1-22). Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Người. Tất cả của Phêrô là gia đình và
nghề nghiệp. Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang. Bỏ tất cả là
chấp nhận bấp bênh, tay trắng.
Cả hai đều đã từng có lần vấp ngã. Vấp ngã bất ngờ sau khi theo
Thầy như Phêrô, trong phút giây quá tin vào sức mình. Ngã ngựa bất ngờ và trở
nên mù lòa như Phaolô, trong lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng. Vấp ngã
nào cũng đau và in một dấu không phai. Vấp ngã bẻ lái đưa con người đi vào
hướng mới.
Chúa Giêsu đã chọn một số môn đệ mà Người gọi là Tông Đồ. Trong
số các ngài, hầu như bất cứ nơi đâu, chỉ một mình ông Phêrô là xứng đáng đại
diện cho toàn thể Hội Thánh. Chính vì là đại diện duy nhất của toàn thể Hội
Thánh, nên ông xứng đáng được nghe Chúa nói: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá
Nước Trời” (Mt 16,19). Không phải một cá nhân, nhưng cả Hội Thánh duy nhất đã
lãnh nhận chìa khoá này.
Chương trình mầu nhiệm của Chúa Quan Phòng dẫn đưa Phêrô tới
Roma, nơi đây ngài đổ máu như chứng tá sau cùng và cao cả nhất của đức tin và
của lòng mến đối với Thầy chí Thánh “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Mt
16,17). Như vậy ngài đã chu toàn sứ mệnh trở nên dấu hiệu của lòng trung thành
với Chúa Kitô và của sự hiệp nhất tất cả Dân Chúa.
Phần Phaolô, trong hành trình truyền giáo, ngài không ngừng rao
giảng Chúa Kitô bị đóng đanh và lôi kéo nhiều nhóm người Á Châu và Âu Châu trở
về với Chúa. Sau khi qua Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, ngài đến Roma. Và chính ở đây,
ngài được phúc tử đạo để làm chứng cho Chúa Kitô. Chính ngài đã nói lên trong
bài đọc thứ hai Thánh lễ hôm nay rằng: “Chúa đã gần gũi tôi và ban sức mạnh cho
tôi, để qua tôi, việc rao giảng sứ điệp Tin Mừng được thực hiện và để các dân ngoại
được nghe biết đến”. (2Tm 4, 17-18)
Phêrô và Phaolô đều yêu Đức Giêsu cách mãnh liệt, vì họ cảm nhận
sâu xa mình được Người yêu mến. “Này anh Simon, anh có mến Thầy không? Thưa
Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,16). Cả Phaolô cũng yêu Đấng ông
chưa hề chung sống, vì Người là “Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến
mạng vì tôi” (Gl 2,20). Phaolô đã không ngần ngại khẳng định: “Không gì có thể
tách được chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Đức Kitô” (Rm 8, 35.39)
Tình yêu Đức Kitô là linh hồn của đời truyền giáo, vì nói cho
cùng truyền giáo chính là giúp người khác nhận ra và yêu mến Đấng đã yêu tôi và
yêu cả nhân loại. Cả hai vị Tông Đồ đều hăng say rao giảng, bất chấp muôn vàn
nguy hiểm khổ đau. Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40), còn nỗi đau
của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28); “Tôi mang trên mình tôi
những thương tích của Đức Giêsu” (Gl 6, 1-7).
Cả hai vị thánh đã chết như Thầy, đã lấy máu mình mà làm chứng:
thánh Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18), chịu đóng đinh chết;
thánh Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng, bị chém đầu; đã đổ máu ra làm
lễ tế (x. 2Tm 4, 6). Thánh Phêrô được chôn cất ở chân đồi Vaticano; thánh
Phaolô được an táng bên đường Ostiense.
Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới, dám bỏ, dám
theo và dám yêu dám sống và dám chết cho Đức Kitô và Tin Mừng. Hội Thánh vẫn
cần những chiếc cột và những tảng đá. Với lòng ngưỡng mộ biết ơn các ngài,
chúng ta quyết một lòng trung thành với đức tin đã lãnh nhận.
Lạy Mẹ Maria, Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ, xin cầu cho chúng con.
Amen.
8. Đứng
dậy nhờ ơn Chúa – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong buổi trò chuyện, diễn thuyết tối 22/05 tại White Palace
(Tp. HCM), Nick Vujicic đã cho mọi người thấy rằng, người bị khuyết tật nghĩa
là họ khiếm khuyết điều gì đó, nhưng người mang nỗi tự ti mới là người bị
khuyết tật thực sự.
Nick đã nói: “Dù ai đó không phải ngồi trên xe lăn nhưng bạn vẫn
phải trải qua những thời điểm khó khăn trong cuộc sống. Nếu lúc đó bạn thiếu tự
tin, bạn sợ thất bại, sợ nhìn về tương lai thì chính điều đó sẽ níu kéo bạn,
khiến bạn không thể tiến lên”.
Nick còn nói thêm: “Khi tôi 10 tuổi, tôi gần như muốn buông
xuôi, tôi muốn đầu hàng và nghĩ không bao giờ có công việc, có thể cưới vợ, lập
gia đình. Nhưng bây giờ tôi không chỉ lấy vợ, lập gia đình mà còn có đứa con
trai.
Chúng ta sẽ không biết được sự khó khăn diễn ra như thế nào nếu
không tạo cho bản thân cơ hội để vượt qua nó. Đừng bao giờ từ bỏ khi bạn gặp
thất bại hay khó khăn”.
Quả thực, con người luôn có những khuyết tật. Có người bị khuyết
tật điều này, người điều kia. Không ai hoàn hảo về thể xác hay về tâm hồn. Tuy
nhiên, có người biết bổ túc cho khuyết tật của mình bằng nghị lực, bằng phấn
đấu, bằng niềm tin vươn lên. Nhưng cũng có người buông xuôi, than trách cho số
phận và để mặc cho dòng đời đưa đẩy.
Nick không phải là một thiên tài. Nick là một nhân vật điển hình
cho bao người biết phấn đấu vươn lên để bổ túc cho khuyết tật của mình. Anh
không có chân tay nhưng anh vẫn lạc quan phấn đấu vươn lên, nhất là biết dùng
môi miệng mình để diễn thuyết, để rao giảng về Thiên Chúa. Anh không buông xuôi
theo số phận nhưng biết tận dụng khả năng giới hạn của mình để có thể phụng sự
Thiên Chúa và tha nhân. Anh đã rao giảng về Chúa ở quê hương anh. Anh đã rao
giảng vượt qua biên giới để đến nhiều vùng đất xa xôi. Anh đã đến Việt Nam và
đã tuyên xưng mình tin vào Thiên Chúa, tin vào thiên đàng và đó là lẽ sống cuộc
đời anh, là lý do anh sống và vươn lên.
Thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng từng có những khuyết tật trong
cuộc đời của các ngài. Phêrô yếu đuối, nhút nhát. Phaolô kiêu căng, thẳng thắn.
Vì tấm lòng khuyết tật nên Phêrô từng chối Chúa ba lần. Còn Phaolô thì lao vào
việc truy sát người tin vào Chúa Giêsu phục sinh để bách hại và giết chết. Thế
nhưng, cả hai đã nhận ra sự khuyết tật của mình để phấn đấu, để vươn lên. Nhất
là biết cậy vào ơn Chúa mà kiện toàn con người mình và phụng sự Thiên Chúa.
Phêrô đã từng cảm nghiệm “Ơn Ta đủ cho ngươi và quyền năng Ta hiển trị trên sự
yếu hèn của ngươi”. Phaolô thì trông cậy vào sức mạnh của Chúa mà ông đã đi đến
cùng sự bách hại, gian truân, đói rét, tù đầy nhưng vẫn giữ vững đức tin. Cả
hai đã nhờ ơn Chúa mà bù đắp những khuyết tật của mình để hoàn thiện con người
mình theo như lòng Chúa mong ước.
Hôm nay mừng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, trước hết
chúng ta cảm tạ Chúa đã cho chúng ta hai tấm gương biết sám hối và canh tân.
Các Ngài không chết trong tội như Giuđa nhưng đã đứng lên để làm lại cuộc đời.
Các Ngài đã ý thức sự yếu đuối bất toàn của mình để cần đến ân sủng của Chúa.
Các ngài đã biết nương tựa vào ơn Chúa để thắng vượt những giới hạn của bản
thân. Và trên hết chính là tấm gương rao giảng tin mừng không mệt mỏi, không
chùn bước trước nghi nan. Cho dẫu dòng đời có những sóng gió nguy nan. Cho dẫu
đường trần có lắm gian truân, các ngài vẫn kiên trung cho đến cùng lòng trung
thành với Chúa. Các ngài luôn ý thức rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là
vâng lời người ta”, thế nên: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Nước trời”.
Xin cho chúng ta luôn ý thức thân phận yếu đuối của mình để nhận
ra tình thương tha thứ của Chúa vẫn dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta biết
nương tựa vào ân sủng của Chúa để kiện toàn mình mỗi ngày một tốt hơn. Và xin
cho chúng ta biết chuyên tâm lắng nghe lời Chúa và nói về Chúa cho tha nhân.
Amen.
9. "ST" nghĩa
là sự thánh thiện
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta kể rằng: tại một vùng miền quê nước Mỹ, có hai anh em
nhà kia vì quá đói khổ, nghèo nàn đã trở thành kẻ "bần cùng sinh đạo
tặc". Họ rủ nhau đi ăn cắp cừu của nông dân trong vùng. Không may hai anh
em bị bắt. Dân trong làng đưa ra một hình phạt là khắc lên trán tội nhân hai
mẫu tự "ST", có nghĩa là quân trộm cắp (viết tắt từ chữ stealer).
Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một vùng
khác sinh sống để mong chôn chặt dĩ vãng. Thế nhưng, anh chẳng bao giờ quên
được nỗi nhục nhã mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ "ST" đáng
nguyền rủa này.
Còn người em, anh tự nói với bản thân mình: "Tôi cần phải
lấy lại lòng tin của những người xung quanh và của chính tôi". Thế là anh
tiếp tục ở lại xứ sở của mình. Chẳng mấy chốc anh đã xây dựng cho mình một sự
nghiệp cũng như tiếng thơm là một người nhân hậu. Anh sẵn sàng giúp đỡ người
khác với tất cả những gì mình có thể. Anh lao động bằng đôi tay của mình. Anh
dành một phần hoa lợi để giúp đỡ người nghèo. Anh sống chan hoà tình yêu thương
với mọi cư dân trong vùng. Tuy nhiên, cho dẫu thời gian có qua đi, hai mẫu tự
"ST" vẫn còn in dấu trên vầng trán anh. Nhưng chẳng mấy ai để ý đến ý
nghĩa hai chữ ST trên vầng trán của anh.
Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý
nghĩa hai mẫu tự này. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: "Tôi không biết
rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của anh ta, tôi
đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện (saint)".
Hôm nay lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, các ngài trở thành thánh
nhân cao cả là nhờ biết khép lại quá khứ để chỉ lo tìm kiếm ý Chúa và thực thi
trong hiện tại và suốt cuộc đời. Các ngài cũng có một quá khứ lầm lỗi, một quá
khứ tưởng chừng như đã làm cho hai ngài suốt đời sống trong ân hận và tủi nhục.
Phêrô đã có lần bị Chúa quở là satan. Lầm lỗi lớn nhất trong cuộc đời ông là ba
lần chối mình không phải là môn đệ của Thầy Giêsu. Phaolô đã năm lần bảy lượt
đi lùng bắt và giết chết những ai mang danh kytô hữu. Chính Phaolô đã can dự
vào việc ném đá Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Giáo hội. Nhưng mẫu số chung
của hai ông chính là biết đứng lên sau những lần vấp ngã và chuộc lại lỗi lầm
bằng cuộc sống đổi mới con người theo như lòng Chúa mong ước.
Thực vậy, sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa
nhìn xuống Phêrô. Ánh mắt Thầy vẫn trìu mến thân thương như gởi đến ông sứ
điệp: "Phêrô, sao con lại chối Ta. Ơn nghĩa Thầy trò ba năm gắn bó chẳng
lẽ không còn một chút vương vẫn hay sao?". Lại thêm tiếng gà gáy đêm khuya
đã giúp lương tâm ông tỉnh ngộ và nhớ lại lời Thầy đã tiên báo: "trước khi
gà gáy con đã chối Ta ba lần". Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt
tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng, một cái gì đó đã chết trong ông. Vâng, đã chết
rồi, niềm tự hào, tự tin quá mức. Ông chỉ là cát bụi, ông biết mình chỉ là cát
bụi, yếu hèn và rất dễ sa ngã. Mới hôm qua ông còn tuyên bố rằng: "dù mọi
người bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ". Thế mà, miệng gan hùm đã
không còn khi đối diện trước nguy nan. Ông đã hèn nhát chối Thầy đến ba lần.
Nhưng đêm hôm đó, một biến cố trọng đại đã "đổi mới" tâm hồn Phêrô.
Lòng ăn năn bộc phát và lòng khiêm nhường chân thành đã biến Phêrô thành người
thuyền trưởng trên con tàu Giáo hội.
Phaolô, sau lần ngã ngựa đớn đau bởi một luồng sáng chói loà hôm
ấy. Mắt ông không còn thấy gì nữa, ông như kẻ bị mù trong ba ngày. Con mắt thể
xác ông bị đóng lại, nhưng con mắt tâm hồn ông lại được sáng tỏ. Ông đã thấy
Giêsu, người mà ông tưởng đã chết, thế mà, Người đã Sống lại thật, lên trời ngự
bên hữu Chúa Cha. Người đang nói với ông: "Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm
giết". Bao lâu nay ông không tin có sự sống lại. Ông đang hăm hở tiêu diệt
những ai loan báo về sự sống lại của một tử tội Giêsu. Giờ đây, ông đã tin. Sự
sống của Chúa Phục sinh đã làm thay đổi cuộc đời của ông. Và kể từ nay, ông đã
trở thành một tông đồ ra đi đổi mới cả thế giới.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta đôi khi cũng có những yếu đuối,
có những bước đi bị vấp té bởi cạm bẫy của tham sân si. Vì thế, có ai đó đã
từng nói rằng: "lầm lỗi là của con người", nhưng đứng lên làm lại
cuộc đời đó là của "thánh nhân". Thánh Phêrô và thánh Phaolô đã nhìn
quá khứ như một hồng ân của Thiên Chúa dành cho các ngài. Chúa không trách phạt
các ngài mà còn tin tưởng trao phó sứ mạng mở mang nước Chúa đến tận cùng trái
đất. Với ơn trời cao cả đó, thánh Phaolô đã từng thốt lên: "Khốn cho tôi,
nếu tôi không rao giảng tin mừng". Còn thánh Phêrô thì không còn sợ cường
quyền ức hiệp, ngài đã mạnh dạn nói rằng: "phải nghe lời Thiên Chúa hơn là
lời của con người". Và hôm nay, Chúa vẫn không trách phạt chúng ta theo
như chúng ta đáng tội, Ngài vẫn khoan dung tha thứ và hằng mời gọi chúng ta hãy
làm lại cuộc đời, hãy dùng ơn Chúa để hoàn thiện mình và nhất là hãy nói về
tình yêu Chúa cho anh em, cho bạn bè, cho mọi người mà chúng ta gặp gỡ thân
quen.
Ước gì cuộc đời các ngài soi sáng cho cuộc đời chúng ta để chúng
ta không bao giờ thất vọng về lỗi lầm của mình, nhưng qua những yếu đuối bản
thân, chúng ta càng nhận ra tình thương bao la của Chúa và cũng biết noi gương
các ngài trở thành chứng nhân cho tình yêu Chúa giữa thế gian. Amen.
10. Phêrô Tông đồ
Ông là người được nhắc đến nhiều nhất ở trong Tin Mừng. Trong
bảng danh sách các Tông Đồ ông là người đứng đầu.
Người ta thường nghĩ rằng Phêrô là một con người nhiều khuyết
điểm nhất. Điều đó không hoàn toàn sai bởi vì ông đã có nhiều hàng động hăng
hái nhất và cũng có nhiều hành động sai lầm nhất. Nhiều người nhìn ông như một
con người bốc đồng. Nhưng nếu xét cho kỹ chúng ta thấy ông là một con người nổi
bật nhất, sáng chói nhất và có nhiều khả năng nhất.
A- Ngay từ trước khi gặp Chúa ông đã là nhà lãnh
đạo trong công cuộc chài lưới. Ông ra lệnh cho mọi người. Và khi thành tông đồ
ông là người nổi bật nhất trong Tân Ước.
Một cách tổng quát người ta thấy ông là người luôn mở miệng đầu
tiên và hành động trước nhất. Ông nóng bỏng, hăng say, cực đoan, hướng ngoại.
Đó là những điều mà người ta có thể thấy rất rõ nơi ông. Nhưng có một điều mà
người ta khó thấy đó là sự khiêm nhường của ông. Chính lòng khiêm nhường này đã
làm cho ông trở thành một vị thánh lớn. Ông không xử dụng khả năng để tìm lợi
lộc cho mình. Chính ông ông cũng biết rằng ông còn nhiều thiếu xót. Điều này đã
hiện rõ ngay trong lần đầu tiên chúng ta gặp ông.
Chúng ta gặp ông lần đầu tiên trong Tin Mừng của Luca 5,4-6. Hôm
đó ông cùng bạn bè vừa đi chài lưới về. Suốt một đêm họ không được gì cả. Họ
mệt mỏi, rã rời, chán nản. Hôm đó Chúa đến giảng ở bên bờ hồ Giênêgiareth.
Giảng xong Ngài bảo Simon: " Ra khơi mà thả lưới bắt cá" Dĩ nhiên là
Simon Phêrô phản kháng: "Thưa Thầy, suốt một đêm chúng tôi vất vả mà không
được gì (Rồi ông đổi ý) nhưng nếu Thầy bảo thì tôi thả" (Lc 5,4-6).
Sau một đêm thất bại, họ lại đi thả lưới và bắt được một mẻ cá
thật lớn, lớn đến độ suýt nữa thì rách cả lưới.
Tất cả mọi người đều xúc động. Thế nhưng chỉ có một mình Phêrô
chạy đến quí mọp ở dưới chân của Chúa và thưa với Ngài:"Lạy Ngài, xin hãy
tránh xa con vì con là một người tội lỗi" (Lc 5,8).
Ông không chịu nổi sự hiện diện của Chúa. Ông cản thấy mình nhỏ
bé, thấp hèn, bất xứng.
Chúa nhìn thấy thật rõ lòng khiêm nhường thật chân thành của ông
và Ngài đã biến ông thành thuyền trưởng trên con thuyền chài lưới mới:
"Đừng sợ. Từ nay con sẽ là kẻ chài lưới bắt người"
B- Rồi một đêm kia, Phêrô cùng với các môn đệ
đang lênh đênh trên biển. Hôm đó lại sóng to gió lớn. Bỗng dưng họ thấy một
bóng người đang từ từ tiến đến. Tất cả mọi người đều hoảng sợ. Họ có cảm tưởng
là họ thấy "ma". Phêrô cũng hoảng sợ nhưng khi thấy "bóng
ma" lên tiếng: "Thầy đây đừng sợ" (Mt 14,27-30) thì ông bốc đồng
dám nghĩ rằng ông cũng có thể làm được điều Thầy làm cho nên ông thưa với người
vừa lên tiếng: "Thưa thầy, nếu quả thực là Thầy thì xin truyền cho con
được đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy"
Chúa nói: "Hãy đến đây"
Và Phêrô bước xuống khỏi thuyền, không cần suy nghĩ và ông bước
đi, đi trên mặt nước mà cứ như đi trên dất liền. Nhưng rồi bất chợt ông nghĩ
đến truyện ông đang làm. Thật là lạ đời, chưa bao giờ thấy, chưa bao giờ nghe.
Thật là không hợp lý tí nào và bỗng ông đâm sợ. Ông bắt đầu bị lún xuống:
"Thưa Thầy, xin thầy cứu con với"
Chúa Giêsu đến đỡ ông và đưa ông về thuyền. Rõ ràng là ông đã
tin tưởng trước hết và rồi ông cũng lại sa ngã trước hết.
C- Lần khác Chúa muốn hỏi các môn đệ của Ngài
xem sau gần 3 năm trời sống với Chúa, được thấy những việc Chúa làm các ông
nghĩ gì về Ngài: "Còn các con, các con nghĩ Thầy là ai?" (Mt
16,15-23). Phêrô mở miệng trả lời ngay, không một chút do dự: "Thầy là
Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống"
Chúa Giêsu cho mọi người biết rằng câu nói đó không phải là từ
con người của Phêrô nhưng là từ Thiên Chúa mà ra: " Không phải máu thịt đã
mạc khải cho con nhưng là Cha Thầy, đấng ngự trên trời" Rồi Ngài
thêm:" Con là Phêrô, là Đá trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và
quyền lực của âm phủ sẽ không tắng nổi"(Mt 16,18).
Ngài vừa tuyên bố cho ông biết ông là Đá thì ngay sau đó tảng đá
lại nát ra thành cát liền.
Chúa Giêsu nói cho các môn đệ biết về sự thương khó của Ngài.
Ngài sẽ phải đau khổ và phải chết. Phêrô không muốn tin điều đó. Ông đã lên
tiếng cả ngăn:"Thưa Thầy chuyện ấy đâu lại xẩy ra với Thầy được"
Và Chúa đã phải nặng lời với ông:" Xéo ra đàng sau ta! Đồ
satan. Ngươi là cớ cho ta vấp phạm. Vì ý tưởng của ngươi không phải là của
Thiên Chúa mà là của loài người" (Mt 16,21-23).
Con người Phêrô là như thế. Vài phút trước ông được Chúa đưa ông
lên đến trời. Còn vài phút sau ông biến thành dụng cụ của Satan. Ông đã sa ngã
biết bao nhiêu lần trước khi trở nên đá tảng rắn chắc.
D- Sau ba năm trời theo Chúa ông tự nghĩ rằng
giờ đây mình đã có thể tự hào về sự vững chắc
Ông có thể mang tên Đá mà không mắc cở.
Ông cảm thấy mạnh mẽ vững vàng trong đức tin.
Bây giở không có gì có thể lay chuyển được ông. Ông xứng đáng là
thủ lãnh trong nhóm tông đồ.
Chính vì thế mà ông cảm thấy tự ái khi Chúa dùng lời Kinh Thánh
mà cảnh cáo các ông:"Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì ta như đã có lời
viết: Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên và đàn chiên sẽ tán loạn" (Mt 14, 27-31).
Phêrô đáp lại như một lời thách thức:"Dù cho mọi người có
vấp ngã đi nữa nhưng con thì không bao giờ".
Ông quả quyết với Chúa như vậy, Ông sẽ không chối Chúa. Và dù
cho có chuyện gì xẩy ra, Ông cũng sẽ không đào ngũ.
Ông vừa nói dứt lời thì Chúa quay về phía ông và nói:"Thầy
bảo con, chính con hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần con đã chối
Thầy 3 lần".
Câu nói dịu dàng nhưng chắc như bắp của Chúa làm cho Phêrô bực
tức. Ông quả quyết lại một lần nữa:"Dù có phải cùng chết với Thầy con cũng
sẽ không chối Thầy".
Viên đá này quyết sẽ không bao giờ sụp đổ.
Thế nhưng chuyện gì xẩy ra trong đêm hôm ấy mọi người chúng ta
vẫn còn nhớ. Đêm hôm ấy không ai bắt ông phải chết với Chúa. Đêm hôm ấy không
một quyền bính nào trao hỏi. Chỉ có mấy người đầy tớ của vị thượng tế, hai nữ
một nam. hỏi chuyện một cách bâng quơ.
Họ nói:"Người này cũng ở trong nhóm"
Thế là ba lần ông chối. Ông thề bán mạng:"Tôi không biết
người đó"
Ôi đá tảng! Ôi Phêrô! Ông đã thề sống thề chết. Ông đã quả quyết
sẽ không bao giờ chối bỏ Ngài…
Thế mà bây giờ…???
Rồi gà gáy, rồi ông nhớ lại lời của Thầy."Trước khi gà gáy
hai lần…"
Đúng lúc ấy (Luca nói thật rõ):"Ngay lúc ấy khi ông còn
đang nói, thì gà liền gáy và Chúa quay lại nhìn Phêrô" (Lc 22,60).
Chúa Giêsu xuất hiện với tiếng gà gáy. Những lời nhắn nhủ của
Chúa tràn về ký ức của ông.
Rồi ngay lúc ấy trên cầu thang Chúa bị xỉ vả, bị đánh đòn nhưng
Ngài biết Phêrô đang ở phía dưới. Ngài nhìn xuống. Ánh mắt của Chúa dừng lại
trên Phêrô. Phêrô nhìn lên. Thế là hai cặp mắt gặp nhau. Phêrô hiểu ngay, không
cần phải suy nghĩ. Ngài đã biết tất cả. Phêrô không chịu đựng nổi nữa. Ông cắn
chặt đôi môi. Nước mắt ông rào ra. Ông chạy ra khỏi pháp đình, ra khỏi cổng, đi
cho khuất mắt hết mọi người.
Tâm hồn ông nặng chĩu. Cảm xúc ông dâng trào. Ông cảm thấy mình
bị bể vụn ra như thanh gỗ mục. Đá bây giờ đã thành cát.
Đêm hôm ấy một biến cố thật lớn đã xảy ra với Phêrô. Một biến cố
thật trọng đại. Một biến cố khiến ông thay đổi. Một biến cố khiến ông trở lại
nếu chúng ta có thể nói như thế.
Đúng là một cái gì đó đã chết đi trong ông.
Vâng đã chết rồi niềm tự cao, tự mãn.
niềm tự tin quá mức
sự lên mặt vênh váo
một sức mạnh tưởng chừng như to lớn mà ông tự gán cho mình.
Ông ngỡ mình là đá không gì lay chuyển được. Ai ngờ ông chỉ là
cát bụi.Thật là mỉa mai, thật là khôi hài. Bây giờ ông mới nhận ra điều đó. Ông
tự cảm thấy xấu hổ với chính mình. Ông ăn không ngon, ngủ không yên. Lương tâm
ông gậm nhấm lỗi lầm của ông. Ông tự hỏi không biết Chúa có tha thứ cho ông
không? Ông nhớ lại đã có lần Chúa dạy phải tha thứ không đến bảy lần mà phải
đến bảy mươi lần bảy.
Thế rồi đùng một cái ông nghe tin xác của Chúa không còn trong
mộ. Ông vội chạy ra ngôi mộ trống cùng với Gioan.
Rồi người ta nói với ông.
Rồi Chúa hiện ra với các tông đồ. Ông chỉ biết đứng đó. Trước
kia ông nông nổi, ông ăn to nói lớn - Bây giờ ông cúi đầu lặng thinh. Ông không
dám mở miệng vui mừng.
Rồi ông trở về Galilê, trở về với chài lưới, trở về với quê quán
xưa, trở về với con đường xưa, lối sống xưa để cố quên đi những dày vò, cố quên
đi những lần vấp ngã.
Đêm hôm ấy họ không bắt được con cá nào…rất phải giống như lần
đầu tiên lúc họ mới gặp Chúa. Rồi có một người đứng đó. Người ấy bảo đem lưới
mà thả bên phải mạn thuyền. Họ làm như thế và bắt được rất nhiều cá. Gioan thốt
lên:"Thầy đó" (Ga 21,1-7)
Phêrô choáng váng. Ông vội khoác áo vào, nhảy xuống khỏi thuyền
bơi thật nhanh lên bờ.
Thầy đã gầy lửa và bảo họ lấy cá.
Phêrô vội vàng thi hành. Ông không dám hỏi một lời.
Sau bữa ăn Chúa phá vỡ im lặng. Ngài quay về phía Phêrô. Ông vẫn
im lặng. Chúa hỏi:"Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người
này không?.(Chúa gọi ông bằng tên riêng của ông chứ không gọi bằng tên Chúa
đặt: Phêrô: Đá)
Ông cảm thấy như đau nhói ở trong lòng. Trả lời với Thầy làm sao
bây giờ. Ông còn có quyền nói là ông yêu Chúa nữa hay không. Dù sao thì ông
cũng không thể nói trái với sự thật. Ông để cho Chúa phán xét:"Thưa Thầy,
thầy biết con yêu mến thầy"
Vâng có những điều người đời không thể biết nhưng Chúa biết. Ông
không nói láo. Một con người đã có lần phản bội, đã có lần chối Chúa, đã có lần
rất tầm thường như ông làm sao mà có thể dám quả quyết. Nhưng tự trong thâm
tâm, tự trong đáy lòng ông vẫn thấy còn tồn tại lòng ông yêu mến. Ông nói rất
thật.
Chúa lại nhìn ông một lần nữa rồi Ngài lại lập lại cũng một câu
hỏi trên: "Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này
không?.
Ông cũng lại lập lại câu trả lời như ông đã trả lời ở
trên."Thưa thầy có. Thầy biết rằng con yêu mến Thầy"
Rồi lần thứ ba Chúa hỏi lại để được nghe lại một lần nữa lời
tuyên xưng tình yêu của một kẻ được Chúa yêu thương nhất nhưng cũng đã vấp phạm
nhiều nhất.
"Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy không?.
"Thưa Thầy, thầy biết mọi sự. Thày biết rằng con yêu mến
thầy"
Ba lần ông chối Ngài,
Ba lần Ngài cho ông cơ hội để nhắc lại tiếng nói tình yêu. để
tuyên xưng lòng tin tưởng của mình.
Không một lời rầy la
Không một lời trách móc
Không một lời buộc tội
Chỉ là cơ hội để xác định lại mối dây liên hệ yêu thương.
Đó là cách Chúa cư xử với những kẻ khiêm nhường và rồi sau đó
ông bắt đầu một đoạn đời mới.
"Hãy chăn giữ các chiên của ta"
Phêrô được sai đi đến Giêrusalem, trở về chính nơi ông đã vấp
ngã và lúc này ông đủ can đảm để không phản đối.
Ông vâng lời trở về Giêrusalem và ở đó lần đầu tiên ông rao
giảng là rao giảng cho những người đã hò la muốn giết chết Thầy của mình.
Ông dùng khả năng của ông để đem về cho Chúa 3000 tín hữu sau
bài giảng đầu tiên.
Ông phải đối diện với gian nguy, bắt bớ.
Trước kia ông run sợ trước câu hỏi của một nữ tì.
Giờ đây ông đối diện với cả một đám đông mà không run rẩy.
Tảng đá đã bắt đều kết tinh.
Và sau này mỗi lần ông ở bên bờ sa ngã thì sự hiện diện của Thầy
lại kéo ông về thực tế.
Câu truyện truyền kỳ về những ngày chót của cuộc dời ông chắc
chắn cũng chứa đựng ít nhiều sự thật. Ông đến Roma trong thời kỳ bắt đạo. Lúc
cơn bách đạo dâng cao, ông đã sợ hãi và muốn lẩn trốn nhưng vừa ra khỏi thành
thì ông gặp một người vai mang thập giá đang đi hướng về phía thành.
Ông hỏi:"Quo vadis: Người đi đâu đó?"
Người ấy trả lời:" Ta đi vào Roma để cho người ta đóng đinh
một lần nữa"
Phêrô quay đầu trở lại. Ông vào Roma và chịu tử đạo tại đó.
Truyền thống kể rằng ông cảm thấy không xứng đáng được đóng đinh như thầy nên
ông xin được chết trên thập giá trong tư thế đầu lộn ngược xuống đất.
Ông thực hiện đúng lời của Chúa:"Khi về già ngươi sẽ dang
tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho và lôi ngươi đi đến nơi ngươi không
muốn" (Ga 21,18-19)
Và cuối cùng tảng đá của Giáo Hội đã được kết tinh.
Vì cuối cùng ông đã hiểu được rằng:
Hiến thân vì Chúa là lãnh nhận
Nô lệ cho Chúa là tự do
Và chết với Chúa là sống mãi.
11. Tranh cãi thế
nào?
Có một cặp vợ chồng sống trong một căn hộ, họ thường tranh cãi
nhau to tiếng và lâu dài hầu như mỗi đêm. Qua những bức tường không cách âm,
một cặp vợ chồng khác ở căn hộ kế cận có thể nghe tiếng họ la hét. Vậy phải làm
gì để ngừng sự quấy rầy này, để giúp cho cặp vợ chồng kia nói nhỏ nhẹ hơn?
Cặp vợ chồng bên cạnh quyết định một cuộc tranh cãi để cặp vợ
chồng kia có một vài ý tưởng về sự ồn ào đáng sợ thế nào. Họ đứng sát tường rồi
bắt đầu la hét nhau. Và hầu như tức thời cặp vợ chồng kia ngừng cãi nhau. Và
không bao giờ họ la rầy nhau nữa.
Tất cả chúng ta có tranh cãi nhau, vì không có hai người trong
chúng ta hoàn toàn giống nhau, không có hai người trong chúng ta nhìn cùng sự
vật theo cùng một cách thức. Chúng ta có những khác biệt, và chúng ta bày tỏ
những khác biệt này.
Có nhiều cách tranh cãi lành mạnh, nếu chúng ta thực sự trao dổi
tư tưởng, quan điểm và lý luận, chúng ta có thể học được nhiều nhờ trao đổi tư
tưởng với người khác.
Hôm nay chúng ta tôn vinh hai vị thủ lãnh của Giáo hội, thánh
Phêrô và thánh Phaolô. Các Ngài là những vị thánh, tuy nhiên các Ngài cũng đã
có một cuộc tranh cãi. Thánh Phêrô nghĩ rằng: người nào muốn nhập cộng đoàn
những người tin theo Chúa Kitô, thì trứơc hết phải trở nên người Do thái, họ
phải chịu cắt bì và tuân theo nhiều qui tắc của lề luật Do thái. Thánh Phaolô
thì nghĩ khác. Các Ngài đã tranh cãi công khai. Tại cộng đồng Giêrualem, các
Ngài quyết định sự tranh cãi bằng cách nhắc đi nhắc lại những điều Chúa Kitô đã
dạy các Ngài, nghĩa là Chúa Kitô đã thiết lập Giáo hội của Ngài không chỉ cho
người Do thái mà cho cả người ngoài Do thái, dân ngoại.
Nếu bạn phải tranh cãi, th2 hãy theo khuôn vàng thứơc ngọc là:
hãy làm cho người khác điều mà bạn muốn họ làm cho bạn. Hãy tranh cãi với người
khác như bạn muốn họ tranh cãi với bạn. Hãy lắng nghe, thực sự lắng nghe. Hãy
mở rộng cho những ý tưởng khác với ý tưởng của bạn. Hãy chấp nhận là người khác
có thông tin và kinh nghiệm vượt hơn bạn.
Bạn đừng chửi bới, hay nguyền rủa, thiên vị, bất công hay lăng
mạ. Bạn hãy giữ lời nói ôn hòa, đừng hăm dọa chút nào. Bạn hãy lắng nghe chính
mình và người khác. Hãy nghe cuộc tranh cãi dữ dội như cặp vợ chồng thứ nhất
trong câu chuyện đã làm.
Trước hết, bạn hãy cầu xin cho được hiểu biết và bình an. Hãy
xin Chúa thực sự. Hãy cầu nguyện với ý nghĩa đăc biệt của lời kinh nguyện Thánh
Thể II: “Xin cho chúng con khi thông Mình và Máu Chúa Kitô được hợp nhất cùng
nhau nhờ Chúa Thánh Thần”.
Trong công đồng Vat. II, đã có những sự tranh cãi giữa 2500 giám
mục. Một số trong những trao đổi này rất là nặng nề. Nhưng các Ngài đã giải
quyết những khác biệt của mình theo đường lối giống Chúa Kitô.
Ngày nay, cũng có những tranh cãi trong gia đình của Thiên Chúa,
nếu thánh Phêrô và Phaolô có những khác biệt, thì chúng ta cũng có thể thâý
được những tranh cãi trong tổ chức phức tạp và mở rộng toàn cầu, đó là Giáo
hội, chúng ta cũng có thể thấy những khác biệt trong chính giáo xứ chúng ta.
Bạn hãy giải quyết chung trong tinh thần của Chúa Kitô, trong tinh thần khuôn
vàng thước ngọc của Ngài.
Lạy Chúa, xin gìn giữ con khỏi tranh cãi, nhưng nếu con phải
tranh cãi, thỉ xin giúp con hành động theo tinh thần của Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
12. Hội
của những người nghèo hèn tội lỗi
LẠY THẦY, THẦY BIẾT RÕ, CON YÊU MẾN THẦY
Cũng như hai môn đệ Phêrô và Phaolô, toàn thể Hội Thánh và từng
người môn đệ của Thầy Giêsu đều chỉ có chung một trái tim. Trái tim này không
phải bằng đá, cũng không phải bằng thịt, nhưng là trái tim bằng Lửa, Lửa Thánh
Linh, Lửa Mạc Khải từ Cha. Đó là Ngọn Lửa khiến Hội Thánh và người môn đệ luôn
dám yêu, dám tin, dám tuyên xưng, dám loan báo rằng Thầy mình là Đức Ki-tô, Con
Thiên Chúa Hằng Sống. Sở dĩ người môn đệ thực sự trở nên môn đệ của Thầy Giêsu,
Hội Thánh thực sự là Hội Thánh của Thầy Giêsu, ấy là do niềm xác tín thần linh,
do tình yêu thiết tha và huyền nhiệm, do lời loan báo bền bỉ chân thành trong
Thánh Linh, rằng Đức Giêsu là Cứu Chúa của Hội Thánh, là lẽ sống của Hội Thánh,
là tình yêu của Hội Thánh, là tất cả Niềm Vui Ơn Cứu Độ của Hội Thánh. Niềm tin
đó, Tình yêu đó, lời Tuyên xưng và Loan báo đó, làm nên bản chất của Hội Thánh,
là “lý do hiện hữu” cho Hội Thánh, là Đá Tảng để đặt nền toàn bộ “cuộc đời” của
Hội Thánh.
Hội Thánh và người môn đệ không chỉ tin vào Thiên Chúa cao cả
cách “chung chung”. Anh em Phật Giáo, Nho Giáo, Lão Giáo, Hồi Giáo… và biết bao
nhiêu con người cao qúi khác vẫn tin vào một Thiên Chúa, và tin một cách rất
sâu xa, rất tha thiết, rất quyết liệt. Hội Thánh của Thầy Giêsu thì khác. Hội
Thánh đến với Thiên Chúa qua một “anh” con người. Hội Thánh giao tiếp với Thiên
Chúa qua sự giao tiếp đầy thân tình bằng hữu với một “anh” con người. Hội Thánh
tin và yêu một “anh” con người, bằng một tình yêu và một niềm tin, trước hết,
cũng rất theo thể cách con người, qua tất cả dáng vẻ tầm thường “phàm phu” của
anh ta và của Hội Thánh. Hội Thánh mở lòng ra, chìm lặn vào trong nội tâm “anh”
con người ấy, nên một với “anh” con người ấy, và qua đó, Hội Thánh dám gọi
“anh” con người ấy, bác thợ mộc làng Na-da-rét ấy, tên tử tội khốn khổ ấy, là
Đường Đi, là Sự Thật, là Sự Sống của mình. Và cũng từ “anh” con người ấy, Hội
Thánh gặp được Thiên Chúa và dám gọi Thiên Chúa bằng “Cha”.
HỘI CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ TỘI
Phải, “anh” con người ấy đã mang tất cả sự tầm thường gần gụi
như mọi con người nghèo hèn trần trụi. Anh ta không mang dáng vẻ tiên phong đạo
cốt của nhà đạo sĩ. Anh cũng chẳng có vẻ bát ngát thênh thang và uy dũng ngất
trời của bậc thiền sư. Anh càng không ung dung thư thái và nết na nề nếp của
nhà hiền triết chính nhân quân tử. Anh cô đơn, anh đau đớn, anh lúi húi lom
thom đi trong cuộc đời. Hội Thánh cảm thấy anh ấy gần mình lắm, vì Hội Thánh
cũng tầm thường và nhỏ bé nghèo hèn như vậy. Môn đệ Phêrô chỉ là bác “hai lúa”,
“bác hai vạn chài”, chân chất và nông nổi. Môn đệ Phaolô tuy là ông trí thức,
là nhà đạo đức, nhưng lại có tất cả tính hiếu thắng đến gần như điên cuồng.
Vâng, Hội Thánh là hội của những người có tội, nghèo hèn, khốn khổ, lơ láo, xơ
xác. Đó là Hội của đám dân đen, Hội của những tên buôn thúng bán mẹt, Hội của
những phường trộm cướp đĩ điếm, Hội của những con người trôi sông dạt chợ.
Nhưng, Hội của những người có tội ấy, vẫn mãi mãi là Hội Thánh, phổ quát, thánh
thiện, duy nhất, tông truyền, vì Hội Thánh luôn dám tuyên xưng, không phải chỉ
ba lần, nhưng xin được thưa mãi mãi cùng Thầy rằng: “Bỏ Thầy, con biết theo ai,
vì Thầy có Lời Ban Sự Sống”, và “Lạy Thầy, Thầy biết rõ, con yêu mến Thầy”.
Ngay lời tuyên xưng ấy cũng chẳng phải là lời “tự nhiên” phát ra
từ trái tim “tự nhiên” của người môn đệ. Người môn đệ, đã từng bắt bớ Thầy, đã
từng ngơ ngác nghi ngờ Thầy, đã từng sợ hãi chối bỏ Thầy, đã từng nuôi những
tham vọng và ảo tưởng khi đi theo Thầy. Họ cũng tranh cãi và bất hòa với nhau
nữa. Nhưng có sao đâu! Người môn đệ vẫn lê lết thân phận nghèo hèn khốn khổ của
mình như vậy, cho đến khi, Thầy chịu Khổ Nạn và Phục Sinh. Và trong lòng huyệt
mộ hoá ra không của đời Thầy, trong Anh Tịnh Quang bất diệt của Quyền Năng Tình
Yêu Phục Sinh của Thầy, họ mới biết thực sự Thầy là ai. Và cũng chỉ khi ấy, hơi
thở Thần Linh Bình An của Thầy mới khiến họ thấm thía thấu hiểu và xác tín hơn
gấp triệu lần nữa về lời tuyên xưng rằng: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Chúa Trời
hằng sống”. Đó là lời tuyên xưng không do máu huyết xác thịt phàm nhân, nhưng
do Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.
ĐỨC KI-TÔ NGHÈO, HỘI THÁNH NGHÈO, CHO ĐÁM DÂN NGHÈO.
Như Thầy Giêsu, Hội Thánh vẫn bước đi trong cuộc đời, lom thom,
nghèo hèn, yếu đuối. Hội Thánh, mang trong trái tim mình Sự Sống Thần Linh của Đấng
mình yêu thương, vẫn tiếp tục đi vào lịch sử, vì Thiên Chúa và Người yêu của
Hội Thánh luôn là Thiên Chúa đồng hành trong lịch sử. Và trong giòng lịch sử
ấy, có hằng triệu, hàng tỉ những con người nghèo hèn, kém cỏi, tầm thường, yếu
đưối, lom thom. Vì thế mà Hội Thánh càng xác tín vào Tình Yêu, vào Niềm Tin,
vào Niềm Hy Vọng của mình. Hội Thánh biết, mình đã được trao cho “chìa khóa
Nước Trời”. Hội Thánh cầm chìa khóa Nước Trời bởi vì Hội Thánh sẽ không bao giờ
có quyền hành, không bao giờ có vinh vang, không bao giờ trở nên bề thế giàu
sang chức tước, kể cả những quyền hành vinh vang về sự đạo đức và thánh thiện
theo nghĩa tự sức gò lưng nỗ lực vươn lên. Hội Thánh, cũng như xiết bao kẻ trôi
sông dạt chợ kia, biết rõ “thân phận” của mình, dù xiết bao nỗ lực, nhưng tự
sức của mình, thì vẫn thất bại, vẫn chẳng bao giờ trở nên công chính, chẳng bao
giờ trở nên vẹn toàn, chẳng bao giờ “tu thân tích đức” cho đàng hoàng được. Hội
Thánh chỉ biết trông cậy hết mình vào Đấng do Thiên Chúa sai đến, Đức Giêsu, Người
Thầy, Người Yêu, Người Bạn và Đấng Cứu Độ của Hội Thánh.
Và như vậy, niềm tin ấy, tình yêu ấy, lời loan báo ấy, chính là
chìa khóa Nước Trời cho những kẻ nghèo hèn bé mọn. Cầm chìa khóa Nước Trời,
không phải là Hội Thánh muốn làm gì thì làm, muốn cho ai điều gì thì cho, muốn
cầm buộc ai theo “ý riêng” mình thì cầm buộc. Đó là chìa khóa Yêu Thương, chìa
khóa Tôn Trọng và Nâng Niu con người cho đến tối đa, đồng hành và đồng phận với
con người cho đến tối đa, hiến mạng sống mình cho nhân loại đến tối đa. Như
Thầy Giêsu và từ Thầy Giêsu, Hội Thánh “cầm chìa khóa Nước Trời” bằng cách Hội
Thánh đặt vào trong Trái Tim Thập Giá của mình tất cả những đau thương của kiếp
người, tất cả những buồn khổ, tội lỗi, nỗi cô đơn, sự chia phôi, nỗi sinh ly tử
biệt của kiếp người. Trung tín với Thầy Giêsu, Hội Thánh mãi loan báo Tình Yêu
Tràn Đầy Trời Đất đó, thể hiện Tình Yêu vô điều kiện đó, vì Hội Thánh quá biết,
và quá kinh nghiệm rằng: Thân phận con người, tự nó, là nghèo hèn, là thất bại.
Con người nghèo hèn và thất bại ngay cả trong sự nỗ lực vươn lên tới Thiên Chúa
Đích Bình an và Hạnh phúc của cuộc đời.
“Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà Đức Ki-tô đang sống
trong tôi”. Lời tuyên xưhg ấy của môn đệ Phaolô cũng luôn là ý thức và lời tuyên
xưng của toàn thể Hội Thánh, để Hội Thánh cũng chỉ có một hành trang duy nhất
ấy, một Trái Tim duy nhất ấy, như người nữ tỳ Ma-ri-a, để đem lại niềm Vui Mừng
và Hy Vọng cho cuộc đời tang thương này.
13. Phêrô và Phaolô
Hôm nay tôi xin có ít lời về Thánh Phêrô một vị thánh mà tôi hết
lòng kính trọng.
Chẳng cần phải nói dài anh chị em cũng có thể thấy được rằng
Phêrô là một trong ba môn đệ, nói đúng hơn trong ba tông đồ được Chúa ưu ái một
cách đặc biệt hơn những tông đồ khác. Ông được Chúa cho tham dự vào hầu hết
những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa.
Tính tình ông nóng bỏng, bộc trực và đôi lúc hơi liều lĩnh
Nói về ông người ta không thể không nhắc đến cái vết thật đen
trong cuộc đời của Ông. Đó là việc ông đã chối Chúa. Alain một nhà tư tưởng lớn
của Pháp đã viết những lời như thế thật chua cay về cái biến cố này: "Tôi
hình dung ra ông ta đang ở trên Thiên đàng, đầu đội triều thiên hào quang sáng
chói nhưng mỗi khi nhớ đến 'dzụ' ấy, chắc ông còn phải đỏ mặt" Lý do, ông
viết tiếp: "Tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh lúc đó đã lẩn trốn như thỏ hay
như chuột" Lời nhận định hơi chua chát một chút nhưng nó cho chúng ta thấy
tính cách nghiêm trọng của vấn đề. Vì Phêrô là Thủ lãnh các tông đồ, thủ lãnh
nhóm 12 và nhất là trước đó Chúa đã cảnh cáo ông.
Tuy nhiên bên cạnh những cái không tố đó chúng ta lại thấy nơi
Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục. Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm
lu mờ đi những cái tấm thường nơi con người của ông để rồi qua đó ông đã xứng
đáng với sự tín nhiệm của Chúa khi Chúa đã đặt ông làm nền tảng Giáo Hội.
Đầu tiên chúng ta phải nói về lòng quảng đại. PA ghi thật rõ,
vừa khi được Chúa gọi ông nhanh nhẹn bỏ điều mà sau này ông 'kể công' với Chúa
là tất cả mọi sự.
Bên cạnh lòng quảng đại chúng ta còn thấy ở nơi Ông một đức tin
chân thành
Đàng khác trên con đường theo Chúa ông còn có một đức tính hiếm
hoi này mà những người khác ít ai có được đó là lòng gắn bó keo sơn với Chúa.
Sau Phép lạ bánh hóa nhiều, Chúa có giảng một bài giảng về bánh hằng sống. Bài
giảng đó đã đánh dấu một khúc quặt mới trong cuộc đời công khai của Chúa.
"Lạy thầy, bỏ thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời
ban sự sống đời đời.
Nhưng đức tính mà tôi cảm phục nhất trong cuộc đời của Ông đó là
lòng khiêm nhường. Sách Tu đức gọi đức Khiêm nhường là nền tảng mọi nhân đức.
Đôi khi người ta cũng còn gọi đức khiêm nhường là mẹ các nhân đức. Đọc trong
Kinh Thánh tôi thấy ít nhất có ba lần ông đã biểu lộ sự khiêm nhường rất cụ thể
như thế này.
Lần thứ nhất đá là khi Chúa cho các ông bắt được một mẻ cá lạ.
Trong khi các môn đệ khác chỉ có thái độ cầm chừng thì Phêrô đã đến quì trước
mặt Chúa và thưa vó Người: "Lạy Thầy, xin tránh xa con ra vì con là một
người tội lỗi" Ông ý thức được cái thân phận yếu đuối của mình trước sự
hiện diên của Chúa.
Lần thứ hai là khi Chúa quở mắng ông một cách thật nặng lời…….
Lần thứ ba được ghi ở trong sách Tông đồ công vụ. (xem Ngài đã
gọi họ)
Còn Phaolô
Tin Mừng không nói một câu nào về Ông.
Chúng ta chỉ được biết về ông sau khi Chúa Giêsu đã về trời.
Xét về con người của ông thì chúng ta thấy ông có nhiều điểm hơn
hẳn Phêrô.
Ông là một con người có học thức - Là học trò của Giáo sư Kinh
Thánh nổi tiếng Gamaliel.
Gia đình ông thuọc loại khác giả
Đặc biệt ông là người có tước Công dân La mã
Ông không thuộc nhóm 12. Ông là một tông đồ sinh sau đẻ muộn
nhưng là một tông đồ đặc biệt.
Ông xuất hiện không như một người về phe với Chúa, nhưng như một
kẻ đối đầu. Tệ hơn, như một kẻ thù: Chúng ta còn nhớ thật rõ câu truyện ông
tình nguyện đi Đamas để lùng bắt và tiêu diệt những người mang danh Kitô hữu
Thế nhưng cũng chính từ cuộc lùng bắt những người Kitô hữu này
Chúa đã chinh phục ông. Cuộc chinh phục rất đột xuất làm cho nhiều người cảm
thấy như không thể tin được. Thế nhưng đó lại là công việc của Chúa.
Chúa chọn ông để sai ông đi rao giảng TM cho dân ngoại.
Muốn hiểu cuộc đời theo Chúa của Ông như thế nào chúng ta hãy
đọc lại Sách Tông đồ công vụ và nhất là những bức thư nổi tiếng ông còn để lại.
II. Bài học
1.Uy quyền của Chúa.
- Chúa muốn làm gì làm.
+ Xét về nhiều phương diện thì Phêrô thiếu hẳn những đức tính
của một người lãnh đạo thế nhưng Chúa đã chọn ông, đặt ông làm thủ lãnh của
Giáo Hội. Đó là công việc của Chúa.
+ Phaolô cũng thế: Từ một kẻ thù Chúa đã biến ông thành một
người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những người theo Chúa mà
giết đi. Chúa đã biến ông trở thành người rao giảng về người và s8ãn sàng chết
vì người. Về phương diện trần thế chẳng khi nào chúng ta thấy được như thế.
2. Bài học về lòng yêu mến Chúa
+ Câu truyện tại bờ biển Galilêa sau khi Chúa sống lại. Phêrô đạ
tuyên xưng không phải đức tin, nhưng là lòng yêu mến của Ông.
+ Phaolô đã viết những lời thật cảm động sau đây: "Không có
gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực,
đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự
sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù
chiều cao hay ciều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách
chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức
Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Xem 2 Tm 4,6-8 Rm 8,18-19.32.33.38.39)
3. Bài học vềsự gắm bó và lòng trung thành đối với Chúa.
+ Phêrô trên con đường ra khỏi thành Roma. Quo vadis?
+ Phaolô: "Còn tôi, tôi sắp phải đỗ máu ra làm lễ tế. Đã
đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã chiến đấu trong một trận chiến cao đẹp, đã chạy
đến cùng đường và đã giữ vững được đức tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi trông vòng
hoa dành cho người công chính. Chúa là vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần
thưởng đó cho tôi trong ngày ấy và không phải chỉ cho tôi mà còn cho ta61t cả
những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện."
14. "Anh là Phêrô…
TRÊN TẢNG ĐÁ NÀY THẦY SẼ XÂY HỘI THÁNH CỦA THẦY".
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1. Từ việc phêrô tuyên xưng đức tin...
Đức Giêsu thường tìm dịp xa trách những đối phương hay sách
nhiễu Người. Lợi dụng dịp xa cách này, Đức Giêsu muốn đưa các môn đệ mình vào
một nhịp sống lần lượt có những giai đoạn rút vào thanh vắng cả về mặt thiêng
liêng lẫn mặt địa lý; những giai đoạn ấy là những cột mốc đánh dấu chặng đường
các môn đệ khám phá ra chân tính đích thực của Đức Giêsu.
Sau buổi tranh luận mới với các người Pharisêu muốn đòi hỏi Chúa
"cho họ xem một dấu lạ", lúc này Thầy trò Đức Giêsu đang ở giữa miền
đất dân ngoại, vùng đầu nguồn sông Giocđan. Các Ngài đang lưu trú tại
Xêdarê-Philipphê là một Thành phố mới, do quận vương Philipphê, con của Hêrôđê
cả, xây để kính nhớ hoàng đế Rôma, bởi đó Thành phố mới có tên là
Xêdarê-Philipphê. C.Tassin ghi nhận: "Cư dân của Thành phố là người Xiri
gốc Hylạp, và việc lo tôn thờ thần Pan cùng nữ thần sông biển tạo nên bức tranh
khác giống với môi trường Giáo hội của thánh Mátthêu" ("L'Evangile de
Matthieu", Centurion, trang 173).
Chính ở đó, trước khi lên đường đi Giêrusalem lần cuối, Đức Giêsu
đã đặt ra cho những ai đến nay vẫn đi theo Người, một câu hỏi quyết định mà Tin
Mừng Chúa Nhật nàyđề cập tới.
Trước tiên Chúa hỏi các môn đệ: "Người ta nói: Con người là
ai?".
+"Con người là một hình ảnh bí nhiệm (cf. Danien 7,13) được
Tin Mừng sử dụng tới 30 lần. Chính Đức Giêsu dùng thành ngữ đó để mặc khải về
chính mình và sứ mệnh của mình. Người là một con người thật. Tương quan của
Người với Thiên Chúa Cứu độ, Đấng Người gọi là Cha là tình phụ tử có một không
hai.
+ Trả lời câu hỏi của Đức Giêsu, các môn đệ đưa ra ý kiến nói
rộng rãi về Người.
Nói chung ai ấy đều dành cho Người một địa vị và vai trò quan
trọng: kẻ thì nói Người là Gioan Tẩy Giả sống lại từ cõi chết (x. 14,1-2;
Hêrôđê cũng có y kiến như vậy); người khác thì cho là Êlia mà người ta đang
trông đợi quay trở lại loan báo Đấng thiên sai đến; còn những người khác lại
bảo là Giêrêmia, vị ngôn sứ nổi tiếng là hay chống đối và bị người ta chống
đối; sau cùng có người cho Người là một tiên tri nào đó.
Lần này Chúa Giêsu hỏi thẳng như tra vấn các môn đệ: "Còn
anh em, anh em bảo Thầy là ai?"- "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống". Ông Phêrô đáp lời theo kiểu tuyên xưng lòng tin, và tỏ ra
không những là người phát ngôn cho các môn đệ, mà còn làm gương cho các ông về
một lòng tin Kitô giáo chính truyền.
C.Tassin gợi ý thêm: "Câu trả lời của Phêrô chắc hẳn là
được lấy lại từ một bản "kinh Tin" dùng trong phục vụ của cộng đoàn
Matthêu". Lời đó nói lên đầy đủ niềm tin Kitô giáo.
+"Thầy là Đấng Messia" (tiếng Hylạp là Christos) nghĩa
là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và được các ngôn sứ loan báo; Người đến hoàn
tất mọi lời Thiên Chúa hứa với dân Người, làm thỏa lòng mong đợi trường kỳ của
Israel.
+ "...Con" nghĩa là quan hệ của Người với Thiên Chúa
là tình phụ tử, mối tương quan có một không hai.
+ "...Thiên Chúa hằng sống" nghĩa là về mặt mặc khải:
Thiên Chúa là Đấng ban sự sống, còn đối với các Kitô hữu thì Thiên Chúa là Đấng
đã cho Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết.
"Anh thật là có phước". Đức Giêsu tiếp ngay lời tuyên
xưng của Phêrô, và chọn kiểu nói của Kinh Thánh về "mối phúc" để chào
"con ông Giona", kẻ vừa mới xưng tụng mình là Đấng Kitô, COn Thiên
Chúa hằng sống". Bởi lẽ, lời tuyên xưng này Phêrô đã không tự mình nói ra
được, theo tư cách người phàm, nghĩa là theo nguồn gốc của loài người hoàn toàn
yếu đuối mỏng giòn, nhưng chỉ do Thiên Chúa mặc khải cho ông. C.Tassin chú giải
thêm: "bản văn không cho là Phêrô có công trạng gì; ông không được tôn
danh hiệu là anh hùng đức tin, điều mà thánh sử đã mianh chứng ở đây và sau này
còn chứng tỏ nữa. Trình thuật còn muốn chứng tỏ một điều là: niềm tin của Phêrô
là chính xác, vì niềm tin ấy do Thiên Chúa mặc khải". (O.C trang 175).
2. Đến vai trò làm đá nền...
Những lời long trọng của Đức Giêsu nói với Simon-Phêrô là phần
riêng của Tin Mừng Mátthêu.
"Anh là Phêrô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này..."
Trong Kinh Thánh, việc đổi tên tỏ ra rằng sứ mệnh Chúa trao cho
ai, thì biến đổi người ấy thành một người khác. Vì thế khi Ápram được đổi tên
thành Ápraham có nghĩa là ông coi như được trao sứ mệnh làm "tảng đá duy
nhất" làm cội nguồn cho cả dân tộc (Is 51,1-2).
Trong tiếng Do thái bình dân, từ "Kêpha" -"Tảng
đá" không phải là một biệt danh, mà chỉ là một danh từ chỉ đồ vật. Khi đặt
cho Phêrô tên mới này mà từ đây sẽ thay cho tên Simon trước đây, Đức Giêsu muốn
cho thấy sứ mệnh Ngài sắp trao cho Phêrô: ông sẽ là tảng đá làm nền, tảng đá
đảm bảo cho sự vững chắc cho tòa nhà người sắp xây dựng.
"...Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy..."
+ Trong Kinh Thánh, Từ "Hội thánh" có ý chỉ buổi họp
tôn giáo, hội họp của những kẻ Thiên Chúa đã kêu gọi, để giữa lòng nhân loại,
họ trở thành dân tộc của giao ước, dân có dấu chỉ tình yêu và lòng thương xót
của Người.
+ Lần đấu tiên trong Tin Mừng Mátthêu từ "Hội thánh"
được sử dụng ngay trên phần đất dân ngoại, nên ám chỉ sự tụ họp của tất cả
những ai Đức Giêsu sẽ quy tụ lại từ bên kia mọi biên giới, để giữa nhân loại họ
làm thành dân của giao ước mới, dân của dấu chỉ ơn cứu độ được ban cho con
người.
Nếu Hội thánh được xây dựng trên nền tảng là Phêrô thì các quyền
lực tử thần sẽ không có thể làm gì chống lại được Hội thánh ấy.
"...Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời".
+ Ta không nên nghĩ là những chìa khóa như thời nay, mà là chìa
khóc của các thành cổ và đền đài vua Chúa thời xưa. Những chìa khóa này như
những then cửa lớn phải váv trên vai. Trao chìa khóa cho một người nào mang ý
nghĩa là trao chức vụ cai quản điều hành cho người ấy.
+ Khi trao cho Phêrô những chìa khóc Nước Trời, Đức Giêsu có ý
đặt vị tông đồ này là người đứng đầu, trao phó cho ông quyền hành trong tay
Người, như sách Khải huyền 3,7 đã viết: "Đây là lời của Đấng Thánh, Đấng
Chân Thật, nắm giữ chìa khóa nhà Đavít. Người mở ra thì không ai đóng lại được,
Người đóng lại thì không ai mở ra được". (Bài đọc 1, tham chiếu Isaia 22).
Địa vị dành cho Phêrô ở đây hẳn là thuộc trần thế; Phêrô không
phải là "Người giữ cửa thiêng đàng" (C.Tassin): Ông sẽ là người diễn
giải và giữ cho sứ điệp của Đức Giêsu, Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống,
được quyền trọn vẹn.
"Dưới đất anh cầm buộc điều gì trên trời cũng sẽ cầm buộc
như vậy".
+ "Cầm buộc/tháo cởi" đều là những kiểu nói chuyên
biện mượn của Do thái giáo, để nói lên quyền hành trọn vẹn của Phêrô, đó là
quyền ấn định những quy luật, quyền nhận vào hay loại khỏi cộng đoàn.
+ Nơi Mátthêu 18,18 cũng quyền cầm buộc và tháo cởi này không
chỉ hứa riêng cho Phêrô, mà cho cả các môn đệ. Vì thế Phêrô phải chia sẽ quyền
hành đó với những người khác có trách nhiệm.
15. Thánh Phaolô Tông Đồ
Phaolô thành Tarsê không phải là vị thánh của hết mọi người.
Nhiều Kitô hữu tốt cảm thấy đối nghịch với Ngài vì thấy Ngài cứng cỏi, khô
khan, thiếu hòa giải. Những người đương thời với Ngài cũng cảm nghĩ về Ngài như
vậy. Không kể chi đến các bạn đồng liêu của Ngài. Ngay đến các thánh trong Giáo
hội như Phêrô, Marcô và Barnaba đếu có lần xích mích với Ngài. Dịu dàng như
Giacôbê mà cũng phải khuyên thánh nhân phải biết khéo léo hơn. Nhưng rồi cuối
cùng, tất cả đều phải nhìn nhận Ngài với niềm kính phục và tình thương mến. Đó
là kinh nghiệm chung đối với những ai lúc đầu cảm thấy đối nghịch với Phaolô,
rồi sau đó ngỡ ngàng khi biết rõ Ngài trong các thư tín và sách công vụ sứ đồ.
Ngài thật là một con người bất khuất, trung tín và rất thân tình với anh em.
Sớm hay muộn, sau khi cởi bỏ lớp vỏ sần sùi bên ngoài đi người ta thấy rõ tính
chất nhân bản và sự thánh thiện hàm ẩn của Ngài.
Thánh Phaolô sinh tại thành Tarse một thành phố trù phú miền nam
Tiểu Á. Cha mẹ Ngài là những người thế giá, có quyền công dân Rôma. Ngài được
giáo dục để trở thành một người biệt phái đúng nghĩa. Ngài được thày Gamaliel
dạy dỗ thần học. Người người đều kỳ vọng ở người than niên thông minh này khi
anh về Giêrusalem khoảng một năm sau khi Chúa Giêsu bị đonh đinh. Kỳ vọng ấy đã
thành sự, nhưng theo một đường lối không lường trước được. Mọi người đều biết
là anh Phaolô đã có mặt trong cuôc tử đạo thánh Stephanô và đã nghe Ngài cầu
nguyện cho những kẻ sát hại mình. Chẳng bao lâu sau trên đường về Damas, Saolê
(tên cũ của Phoalô) đã được thấy Chúa Giêsu phục sinh. Người biến đổi Phaolô từ
một kẻ bách hại thành một lãnh tụ Kitô giáo.
Ngay sau khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy, Phaolô, lui vào sa mạc
để suy nghĩ cầu nguyện trong hai năm. Sau đó Ngài trở lại Damas. Như vậy phải
đợi ba năm sau, Phaolô mớilên Giêrusalem bàn luận với các tông dồ. Và thánh
nhân lại trở về Tarsê. Trong khoảng 10 năm (34 - 44). Chúng ta không thấy
Phaolô xuất hiện. Đây phải là khoảng thời gian mà với sự trợ lực của Thiên
Chúa, trí khôn của thánh nhân xây dựng cây cầu nối giữa Do thái giáo với Kitô
giáo, giữa dân Do thái với dân ngoại. Việc nối kết này là món quà lớn lao nhất
thánh nhân đã trao tặng cho thế giới.
Dĩ nhiên thánh Phaolô không phải là người đầu tiên rửa tội cho
một lương dân. Thánh Phêrô đã rửa tội cho Cornêliô. Thánh Philipphê đã rao
giảng Tin Mừng ở Samaria và rửa tội cho hoạn quan người Ethiôpia. Nhưng việc
rao giảng có hệ thống cho những người không phải là Do thái chỉ bắt đầu ở
Antyiôkia vào đầu thập niên 40. Thánh Barnaba được các tông đồ sai đi xem xét
tình hình. Nhưng thánh nhân đã đi xa hơn. Ngài nghĩ tới Phaolô còn đang sống âm
thầm ở Rarse và đến tìm ông. Thánh Phaolô trở về Antiôkia với thánh Barbnaba.
Từ đó thánh nhân hiến trọn đời cho công cuộc truyền giáo. Ngài bỏ vai trò của
Maria và lãnh lấy vai trò của Mattha. Nhà học giả và chiêm niệm trở thành thầy
dạy và nhà giảng thuyết.
Hết cuộc hành trình này tiếp đến cuộc hành trình khác, thánh
Phaolô không ngừng bước chân đi rao giảng Tin Mừng. Ngài đã đi truyền giáo ở
Chypre, Tiểu Á và Maceđonia, Hy Lạp. Mỗi khi Ngài đi đến đâu là ở đó nổi lên
cơn giông tố nhiệt tình một bên và ghen ghét bên kia, nhốt tù, bị ném đá, đánh
đập, bị đắm tàu và yếu đau và cả đến thất vọng nữa, nhưng Ngài vẫn tiếp tục
công việc. Mỗi khi đến nói chuyện ở hội đường, Ngài trích thánh kinh, ở công
trường, Ngài trích thơ văn cổ và từ nơi đó phát sinh một trung tâm Kitô giáo.
Trong 12 năm trời, Ngài đã biến đổi cộng đoàn Do thái nhỏ bằng thành bào thai
của một tôn giáo hoàn cầu.
Năm 57, thánh Phaolô trở về Giêrusalem. Bạn bè xin Ngài đừng đi.
Họ biết rằng: hội đồng công tọa ghét Ngài, ghét cây ghét đắng mà Giáo hội nhỏ
bé không đủ sức bảo vệ cho Ngài, Ngài vẫn bất khuất ra đi và trong vòng một
tuần lễ, mọi sự xem ra đều ổn thỏa, nhưng rồi lộn xộn xảy ra, Phaolô lại được
cứu thoát khỏi bọn đấu tố, nhờ sự can thiệp của đội lính canh người Rôma. Tiếp
sau đó là hai năm tù tội (bất công vì nhà cầm quyền Rôma muốn được qùa hối lộ).
Trong thời gian này, Phaolô vẫn dùng cơ hội thuận tiện để rao giảng Tin Mừng.
Bị áp bức bởi Festô, Phaolô nại đến sự che chở của hoàng đế (đối
với công dân Rôma) và được gởi về Rôma. Con tàu bị bão đánh và bể nát ở bờ biển
Malta. Dip này cho thấy tài điều khiển bẩm sinh của Phaolô trong trường hợp
khẩn trương. Tới mùa Xuân năm 60 (hay 61) đoàn người tới thủ đô. Thánh Phêrô đã
có mặt ở đây và Phaolô lui vào bóng tối. Về những chuyến du hành của Phaolô đi
Tây Ban Nha và về cận Đông, chúng ta không có đủ tài liệu. Truyền thống nói tới
việc Ngài bị tù tội lần thứ hai dưới thời Nêrô và cho biết Ngài bị chém đầu
khoảng năm 66 ở Tre Fontane.
Khi Phaolô tới Roma, Phêrô đã có mặt, Tin Mừng đã được rao giảng,
bí tích đã được cử hành, cólẽ Phúc âm đã được Marcô khởi soạn. Vậy đâu là phần
đóng góp của Phaolô như là cột trụ Chúa Giáo hội?
Trước hết phải kể đến nhiệt tâm và gương mẫu cuộc sống của thánh
nhân. Nhưng phần chính yếu thánh nhân mang lạị là nền tảng vững chắc về tri
thức của Giáo hội giúp con thuyền của ngư phủ đương đầu với bão tố. Ngài không
thích mơ hồ, nhưng quan tâm tới từng hệ luận tàng ẩn bên trong giáo thuyết.
Thực ra nói “giáo thuyết của Phaolô” thì không chính xác lắm, Ngài không sáng nghĩ
ra giáo thuyết. Nhưng Ngài khai sáng ra những gì đã lãnh nhận được. Chẳng hạn
khi nói “ Chúa Giêsu là đức Kitô” Ngài dựa ra một giải thích hoàn toàn mới mẻ
về Cựu ước, với những ý niệm: Giáo hội là Israel mới, ơn thánh thay thế luật
Môisê. Đức Kitô là Adam mới, là “hình ảnh” hoàn hảo của Thiên Chúa. Từ lời gọi
“Saolê, Saolê, sao ngươi tìm bắt TA?” Ngài đã khai triển giáo thuyết về nhiệm
thể: “đức Kitô là tất cả mọi sự trong mọi người” (Cl 3,11). Từ dụ ngôn những
người làm vườn nho, Ngài diễn nghĩa cho thấy Israel cũ và Giêrusalem cũ bị thay
thế bởi Giêrusalem mới “nơi không còn lương dân hay Do thái, man rợ hay
Scythia, nô lệ hay tự do”
Có lẽ giáo thuyết về công giáo tính của Giáo hội là phần đóng
góp tiêu biểu nhất của Phaolô, khiến Ngài được mệnh danh là tông đồ dân ngoại.
Thánh Phêrô còn ngập ngừng chứ như thánh Phaolô thì không chịu thỏa hiệp. Chính
Ngài cho thấy rõ thế nào và tại sao Giáo hội phải là công giáo phổ quát và công
giáo tính bao hàm những gì.
16. Thánh Phaolô
Hôm nay tôi chỉ xin được nói ít lời về Phaolô một con người đối
với tôi thật là vĩ đại và kỳ diêu.
Thú thực tôi rất sợ phải nói về những con người như thế này vì
tôi cảm thấy mình quá thấp kém. Nhưng thái độ tránh né hoàn toàn thì tôi tưởng
sẽ không phải là tốt nhất…nhất là đối với một người ở trong một cương vị như
tôi. Tôi sẽ cố gắng để nói một chút về con ngưởi đặc biệt này.
Phaolô! Ông là ai vậy?
+ Thật khó mà có được một bài trình bày đầy đủ và vắn tắt về con
người đặc biệt này. Vì ở nơi con ngưởi này có quá nhiều vấn đề và quá nhiều
điều phải nói. Ở đây tôi chỉ xin được nói về một ít đểm nổi bật trong cuộc đời
của Ông: trước - sau khi được Chúa gọi và cuộc đời truyền giáo của Ông.
1. Trước khi được Chúa kêu gọi.
Chúng ta chỉ được biết về ông sau khi Chúa Giêsu đã về trời.
+ Ông là người say mê với niềm tin vào Giavê Thiên Chúa và Đạo
của Người
+ Ông là một con người có học thức. Ông đã từng học Kinh Thánh
với Gíáo sư Gamaliel, một vị giáo sư về Kinh Thánh nổi tiếng thời đó.
+ Ông hiểu biết nhiều về thần thoại và hệ thống triết học rất
thịnh hành thời đó.
+ Chắc chắn ông đã từng nghe nói về Chúa Giêsu, một con người
theo Ông là một người có kiến thức và hiểu sâu biết rộng nhưng ông không thể
nào có thế khoan nhượng đối với một số sự việc Chúa Giêsu đã làm như là dám vi
phạm đến những luật lệ của Thiên Chúa và những tập tục của tiền nhân như: phạm
đấn ngày hưu lễ, tự cho mình có quyền tha tội, làm loạn trong đền thờ và nhất
là dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa.
Xét về con người của ông thì chúng ta thấy ông có nhiều ưu điểm
hơn hẳn Phêrô
Gia đình ông thuọc loại khá giả
Đặc biệt ông là người có tước hiệu Công dân La mã
Ông không thuộc nhóm 12. Ông là một tông đồ sinh sau đẻ muộn
nhưng là một tông đồ đặc biệt.
Ông xuất hiện không như một người về phe với Chúa, nhưng như một
kẻ đối đầu. Tệ hơn, như một kẻ thù: Chúng ta còn nhớ thật rõ câu truyện ông
tình nguyện đi Đamas để lùng bắt và tiêu diệt những người mang danh Kitô hữu
Thế nhưng cũng chính từ cuộc lùng bắt những người Kitô hữu này
Chúa đã chinh phục ông. Cuộc chinh phục rất bất ngờ và đột ngột làm cho nhiều
người cảm thấy như không thể tin được. Thế nhưng đó lại là công việc của Chúa.
Chúa chọn ông để sai ông đi rao giảng TM cho dân ngoại.
Muốn hiểu cuộc đời theo Chúa của Ông như thế nào chúng ta hãy
đọc lại Sách Tông đồ công vụ và nhất là những bức thư nổi tiếng ông còn để lại.
II. Bài học
1.Uy quyền của Chúa.
- Chúa muốn làm gì làm.
+ Xét về nhiều phương diện thì Phêrô thiếu hẳn những đức tính
của một người lãnh đạo thế nhưng Chúa đã chọn ông, đặt ông làm thủ lãnh của
Giáo Hội. Đó là công việc của Chúa.
+ Phaolô cũng thế:
Từ một kẻ thù Chúa đã biến ông thành một người bạn, một người
tình.
Từ một người đi lùng bắt những người theo Chúa mà giết đi. Chúa
đã biến ông trở thành người rao giảng về Người và sãn sàng chết vì Người. Về
phương diện trần thế chẳng khi nào chúng ta thấy được như thế.
2. Bài học về lòng yêu mến Chúa
+ Phaolô đã viết những lời thật cảm động sau đây: "Không có
gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực,
đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự
sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù
chiều cao hay ciều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách
chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức
Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Xem 2 Tm 4,6-8 Rm 8,18-19.32.33.38.39)
3. Bài học về sự gắn bó và lòng trung thành đối với Chúa.
+ Phaolô: "Còn tôi, tôi sắp phải đỗ máu ra làm lễ tế. Đã
đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã chiến đấu trong một trận chiến cao đẹp, đã chạy
đến cùng đường và đã giữ vững được đức tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi trông vòng
hoa dành cho người công chính. Chúa là vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần
thưởng đó cho tôi trong ngày ấy và không phải chỉ cho tôi mà còn cho tất cả
những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.”
17. Thánh Phêrô Tông Đồ
Phêrô là tên mà Chúa đặt cho Simon, có nghĩa là “Đá” Simon và
Anrê em ông là những dân chài chất phác ở biển Galilêa. Anrê theo làm môn đệ
của thánh Gioan tẩy giả. Lần kia, khi Chúa Giêsu đi qua, thánh Gioan đã giới
thiệu với hai môn đệ của mình là Anrê và Gioan: “Đây là Con Thiên Chúa”.
Anrê và Gioan liền theo Chúa Giêsu. Về nhà, Anrê nói lại với
Phêrô rằng: mình đã gặp Đấng thiên sai. Hai anh em dẫn nhau đến gặp Chúa Giêsu.
Nhìn họ với cặp mắt thần linh, Chúa Giêsu bảo:
- Anh là Simon, nhưng từ nay tên là Phêrô (Ga 1,35-42)
Simon Phêrô gắn bó với Chúa Giêsu mặc dầu vẫn tiếp tục nghề chài
lưới. Ông đến được tiệc cưới tại Cana và được chứng kiến phép lạ đầu tiên của
Chúa Giêsu cho thấy thiên tính của Người.
Vài tháng sau, Phêrô và Anrê giặt lưới bên bờ hồ, Chúa Giêsu lên
một chiếc thuyền để giảng dạy dân chúng. Sau đó Người nói với Phêrô:
- Ra khơi mà thả lưới đánh cá.
Sau một đêm làm việc mà không bắt được gì. Nhưng bây giờ Phêrô
vẫn mau mắn vâng lời. Kết quả thật lạ lùng, mẻ cá nhiều quá đến như muốn làm
rách lưới. Bối rối trước sự lạ và cảm thấy mình bất xứng không đáng ở gần Chúa
Giêsu, Phêrô quỳ sụp dưới chân Người mà nói:
- “Xin hãy xa tôi vì tôi là kẻ tội lỗi”.
Chúa Giêsu trả lời:
- “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ chài lưới bắt người”.
Rồi đây ông sẽ lôi kéo nhiều tâm hồn về với Chúa như số cá nhiều
vô kể ông đã lưới được. Ông đã từ bỏ tất cả: gia đình, thuyền lưới mà theo Chúa
Giêsu. Khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đặt ông đứng đầu cả nhóm, vào đầu tháng
4, sau khi hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ qua bên kia bờ
hồ. Gió nổi lên dữ dội: Chúa Giêsu đến với các ông. Mệt nhọc chèo chống ngược
gió trong đêm tối, các ông tưởng là bóng ma và lên tiếng kêu la. Chúa Giêsu
trấn an:
- “Hãy vững lòng, chính là Ta, đừng sợ”.
Phêrô liền kêu ngay:
- “Lạy Thày, xin truyền cho tôi được đi trên mặt nước mà đến với
thày”.
Người bảo:
- “Hãy đến đây”.
Và Phêrô gieo mình đến với Chúa Giêsu. Nhưng sau phút giây tin
tưởng ban đầu, thấy gió thổi mạnh, ông sợ và bắt đầu chìm xuống hốt hoảng ông
kêu cứu:
- “Lạy Chúa xin cứu tôi “.
Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông và trách ông đã yếu tin (Mt 6,22-33)
Hôm sau, Chúa Giêsu đề cập đến mầu nhiệm Thánh Thể lần đầu tiên.
Một số môn đệ bỏ đi, lúc đó Người quay lại hỏi các tông đồ xem có muốn bỏ đi
không? Phêrô trung tín đáp lời:
- “Lạy Ngài, chúng tôi sẽ bỏ đi theo ai, Ngài có những lời mang
đến sự sống đời đời” (Ga 6,67-68)
Một năm sau Chúa Giêsu đặt vấn đề với các tông đồ:
- “Còn các anh, các anh nói tôi là ai?”
Mau mắn, Phêrô đã chứng tỏ đức tin của mình:
- “Ngài là đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Đáp lại, Chúa Giêsu đã khen thưởng Phêrô và hứa hẹn:
- “ Và Ta, Ta bảo ngươi. Ngươi là đá và trên đá này. Ta sẽ xây
Hội Thánh của ta, và quyền môn Âm phủ sẽ không thắng nổi. Ta sẽ trao cho ngươi
chìa khoá nước trời, và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm
buộc trên Trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi
trên trời” (Mt 16,13-19)
Phêrô đã nhận được lời khen thưởng và lời hứa hẹn rất cao trọng.
Nhưng khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới, ông đã vội vàng can
ngăn, khiến Chúa Giêsu phải quở trách ông. Đức tin của ông chưa thực sự kiên
vững như đá. Phải còn qua nhiều thăng trầm nữa, Phêrô mới thực sự trở thành mẫu
người thủ lãnh của Giáo hội. Nhằm đào tạo ông, Chúa Giêsu đã cho ông trực tiếp
tham gia vào cuộc phục sinh cho con gái ông Giairô (Mc 5,37). Bấy giờ, Người
dẫn các ông lên núi để cho chứng kiến cuộc biến hình đầy uy nghi sáng láng như
mặt trời, áo Người với Môsê và Elia; đã nghe tiếng nói từ trời cao nhắn nhủ:
- “Ngài là con chí ái của ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy
nghe lời Người” (Mt 17,1-8).
Những săn sóc đặc biệt kia phải gây ảnh hưởng mạnh nơi tâm hồn
Phêrô. Một lần kia khi có người thanh niên giàu có đến gặp Chúa Giêsu mà không
theo Chúa được chỉ vì của cải. Phêrô đã mạnh dạn thưa:
- “Này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thày” (Mt 19,27)
Đối với ông chỉ có điều này là quan trọng. Còn nhiều điều ông
chưa hiểu được, chẳng hạn như việc Thày khiêm tốn quỳ xuống rửa chân cho các
tông đồ ngày thứ năm tuần thánh (Ga 13,7)
Tuy nhiên Phêrô vẫn xác tín vào điều kiện cấp thiết phải trung
kiên theo Chúa. Ông đã thưa với Chúa trọn cả tâm tình quả cảm của mình:
- “Tôi sẽ thí mạng sống tôi vì thày”.
Dĩ nhiện nhiệt tình còn phải được chứng nghiệm bởi việc làm.
Phêrô chưa biết, chưa lượng định nổi khả năng của mình. Đầy cảm thông Chúa
Giêsu báo trước cho ông biết rằng:
- “Quả thật, ta bảo ngươi: gà sẽ không gáy cho tới lúc ngươi sẽ
chối Ta ba lần” (Ga 13,36-38)
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu bắt đầu, Phêrô rút gươm chém đứt tai
một binh lính để mong bảo vệ Thày. Sau hành vi bộc phát ấy, Phêrô như nhụt hết
nhuệ khí cùng với lưỡi gươm, ông trút trở lại bao theo lời thày, đúng như lời
tiên tri báo trước, ba ần ông đã chối thày. Gà lên tiếng gáy, Chúa Giêsu nhìn
lại và Phêrô bừng tỉnh và hối hận nước mắt chảy dài (Ga 18,1-27)
Sau cuộc khổ nạn và tử nạn, Chúa Giêsu sống lại, hiện ra nhiều
lần. Tại bờ hồ Tibêria, Người đã hiện ra với Phêrô và các bạn khi họ đang thả
lưới đánh cá. Gioan nhận ra Người và nhắn nhủ cho Phêrô biết:
- “Chúa đó”.
Với một nhiệt tình xưa, Phêrô vội cuốn áo gieo mình xuống biển
đến gặp thầy. Ba lần Chúa Giêsu đã hỏi ông:
- Con có mến Thày không?
Phêrô trả lời:
- Lạy Chúa, Chúa thông biết mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa.
Ba lần xác quyết tình yêu xóa bỏ ba lần chối Chúa. Lúc ấy Chúa
Giêsu trao phó sứ mệnh cho ông:
- “Hãy chăn dắt đoàn chiên Ta”.
Và Người thêm:
- “Khi ngươi còn trẻ, ngươi tự thắt lưng mình và đi đâu tuỳ ý,
nhưng khi đã về già, ngươi sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho và
lôi đi nơi ngươi không muốn” (Ga 21,15-18)
Từ đây Phêrô lãnh nhiệm vụ điều khiển cộng đoàn. Ngài đã đề nghị
chọn một tông đồ thế chân cho Giuda. Ngày lễ Hiện xuống, Ngài là tông đồ đầu
tiên công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Kitô phục sinh 3000 người trở lại sau
bài giảng ấy. Thật là một mẻ lưới lạ lùng.
Tại cửa đền thờ, Phêrô thấy một người què từ lúc mới sinh, Ngài
nói với hắn:
- “Vàng bạc tôi không có, song có gì tôi cho anh: nhân danh đức
Giêsu Kitô người Nazareth, anh hãy bước đi.
Người què liền khỏi bệnh và nhảy lên vì vui sướng. Sau phép lạ
này, thánh Phêrô giảng lần thứ hai cho dân. Lần này số người trở lại lên tới
5000 người. Thành công lớn lao này một cho các đầu mục trong dân bực tức. Họ
cấm các tông đồ không được rao giảng về Chúa Kitô nữa. Nhưng đầy can đảm thánh
Phêrô trả lời:
- Vâng lời các ông hơn là vâng lời Thiên Chúa có phải lẽ không?
Các tín hữu quây quần bên các thánh tông đồ, họ mang của cải đặt
dưới chân các Ngài để mưu ích chung cho mọi người. Annaya và Saphira tiếc của
còn muốn nên danh giá. Vợ chồng hắn nói dối là đã dâng hết, khiến lần lượt họ
ngã chết ngay dưới chân Phêrô (Cv 5,1-11). Các phép lạ Ngài thực hiện ngày càng
nhiều: tại Lyda, Ênêa liệt giường được lành mạnh, tại Giophê, chị Tabihta đã
chết hai ngày được sống lại. Bóng của Ngài cũng chữa lành các bệnh nhân.
Thánh Phêrô rảo khắp xứ Giudea rao giảng nước Chúa. Ngài bị
Hêrôđê ra lệnh tống giam, nhưng đã được cứu thoát cách lạ lùng. Ngài chủ tọa
công đồng Gierusalem, quyết định rằng: các lương dân gia nhập Kitô giáo không
phải giữ luật cắt bì.
Thánh Phêrô còn đi rao giảng bên ngoài đất Palestina, Ngài tới
Antiôkia, xây dựng Giáo hội tại đây. Sau đó Ngài đi Rôma và biến nơi này thành
trung tâm của Kitô giáo. Thời Nêrô cầm quyền, Giáo hội bắt đầu bị bách hại.
Thánh Phêrô bị tù và được giải cứu bởi các lính gác trở lại đạo. Ngài trốn đi
khỏi thành.
Nhưng vừa tới cửa, Ngài gặp thấy Chúa Giêsu vác thập giá tiến
vào, thánh tông đồ hỏi Chúa:
- Thày đi đâu dây?
- Ta vào Roma để chịu đóng đinh một lần nưã.
Thánh tông đồ đã hiểu, Ngài trở vào thành để lãnh nhận án đóng
đinh thập giá. Theo chứng của Ôrigênê, thánh Phêrô đã xin được đóng đinh lộn
đầu xuống đất vì thấy mình không đáng được chết cùng một cách như Thày.
+ Mộ Ngài được tìm thấy tại chính đền thờ thánh Phêrô ở Rôma
ngày nay.
18. Mến
Chúa
Mẫu gương chúng ta tìm hiểu hôm nay về hai thánh Phêrô và Phaolô
tông đồ, đó là lòng mến Chúa.
Hẳn chúng ta còn nhớ lời thánh Giacôbê tông đồ:
- Đức tin không có việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết.
Và theo theo mẹ Têrêsa thành Calcutta:
- Hoa trái của đức tin là tình yêu. Hoa trái của tình yêu là
phục vụ. Hoa trái của phục vụ là bình an.
Như vậy, đức ái vừa là dấu chỉ, vừa là kết quả của đức tin. Giữa
đức tin và đức ái luôn có một sợi dây liên kết chặt chẽ. Càng có một đức tin
bền vững, thì càng phải có những hành động yêu mến để chứng tỏ đức tin của
mình.
Hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, chắc chắn đã có một niềm tin
kiên vững, thì cũng phải có một tình mến sâu xa.
Trước hết là đối với thánh Phêrô. Sau lời kêu gọi đầu tiên của
Chúa Giêsu bên bờ hồ Tibêriat, Phêrô đã từ bỏ tất cả mà đi theo Chúa. Khi Chúa
loan báo mình phải lên Giêrusalem để chịu đau khổ và chịu chết treo trên thập
giá, Phêrô đã không chấp nhận được sự thật phũ phàng ấy, nên đã kéo Chúa ra một
góc mà can ngăn:
- Ước gì điều đó đừng xảy ra cho Thày.
Và rồi Phêrô đã bị Chúa quở trách nặng lời về một tình yêu chưa
được soi sáng ấy.
Với một trái tim nóng bỏng, đôi lúc Phêrô đã đi tới chỗ quá
khích. Tại phòng tiệc ly, Phêrô đã thề thốt cùng Chúa:
- Dù phải chết cùng thày, con cũng sẵn sàng…Dù mọi người có bỏ
Thày, thì phần con sẽ không bao giờ.
Và rồi, Phêrô, vị giáo hoàng tiên khởi, đã chối Chúa ba lần.
Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải ghi nhận: sau đó là tâm tình sám hối của
Phêrô. Phúc âm đã ghi lại:
- Phêrô đã ăn n ăn khóc lóc về tội lỗi của mình.
Sau ngày phục sinh, Chúa Giêsu đã đòi hỏi ở Phêrô, vị tông đồ đã
phản bội, điều gì nếu không phải là một tình mến chân thành:
- Phêrô, con có yêu mến Thày hơn những người này không?
Và Phêrô đã ba lần xác quyết về tình yêu của mình bằng một câu
trả lời đầy khiêm tốn:
- Lạy Thày, Thày biết con yêu mến Thày.
Thánh Augustinô đã diễn tả như sau:
- Gioan có thể đã yêu mến Chúa một cách tha thiết hơn, nhưng
tình yêu của Phêrô lại là một tình yêu mãnh liệt. Lòng mến của Gioan nghiêng về
tình cảm, còn lòng mến của Phêrô thì quảng đại và chân thành. Và như vậy, Gioan
không có một tình mến đối với Chúa vừa dứt khoát, lại vừa sâu xa cho bằng tình
mến của Phêrô.
Tiếp đến là đối với thánh Phaolô. Ngoài mười hai thánh tông đồ,
chúng ta không thể tìm thấy một trái tim nào nhiệt thành cùng Chúa cho bằng
trái tim của Phaolô, vị tông đồ dân ngoại.
Thực vậy, chính Phaolô đã kêu lên:
- Ai có thể chia lìa chúng ta ra khỏi tình mến của Đức Kitô.
Bách hại ư? Đói khát ư? Đau khổ ư? Gươm giáo ư?
Rồi Phaolô còn viết thêm:
- Vì đức tin, chúng ta bị bắt bớ và bị dẫn tới lò sát sinh như
một con chiên. Tuy nhiên, chúng ta chiến thắng tất cả nhờ Đấng đã yêu thương
chúng ta.
Nơi khác thánh nhân cũng bảo:
- Dù tôi nói được mọi ngôn ngữ của loài người và các thiên thần,
nhưng nếu không có đức ái, thì tôi cũng chỉ là như não bạt ầm vang. Dù tôi có
ơn nói tiên tri và thấu hiểu mọi mầu nhiệm của khoa học, nhưng nếu không có đức
ái, thì tôi cũng chẳng là gì cả. Dù tôi có được một đức tin chuyển núi dời
sông, dù tôi phân phát hết mọi của cải, nhưng nếu không có tình mến, thì tôi
cũng chẳng là gì cả.
Cũng chính vì tình mến dành cho Chúa mà thánh nhân hăng say rao
giảng Tin mừng và phục vụ các linh hồn, dù có phải chịu đựng đòn vọt, tù ngục
và muôn vàn khó khăn và thử thách khác nữa.
Sau cùng, đối với thánh Phaolô, cái chết sẽ là một triều thiên
vinh quang xứng đáng dành cho một cuộc đời bừng cháy lửa yêu mến.
Thánh Phêrô đã trung thành với Chúa cho đến khi bị đóng đanh vào
thập giá trên đỉnh đồi Vatican dưới thời bạo vương Nêron. Còn thánh Phaolô cũng
không thua kém thánh Phêtô về phương diện đức tin cũng như tình mến. Thực vậy,
sau nhiều năm bị bị tù đày, thánh nhân vẫn không ngừng rao giảng Đức Kitô và
sau cùng đã bị chém đầu trên đường Ostie, gần Rôma.
Thánh Phêrô và thánh Phaolô đều là cha đẻ của chúng ta trong đức
tin đồng thời đều là thày dạy của chúng ta trong tình mến.
Bởi đó, hãy bước theo hai đấng và xin hai đấng giúp đỡ chúng ta
trên bước đường tiến về quê trời.
19. Lễ
Thánh Phêrô và Phaolô – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Biến cố xảy ra gần thành Xêsarê thật quan trọng, chúng ta được
mời gọi chiêm ngắm thêm một lần nữa nhân dịp Lễ Kính hai Thánh Phêrô và Phaolô
Tông Đồ hôm nay. Đây không phải chỉ có một lời tuyên xưng của Phêrô mà thôi,
nhưng là hai lời tuyên xưng, đó là của Phêrô và của Chúa Giêsu.
Lời tuyên xưng thứ nhất của Phêrô: "Thầy là Đức Kitô Con
Thiên Chúa Hằng Sống". Thiên Chúa yêu thương con người đến độ sai Con Một
Người xuống thế để cứu rỗi nhân loại. Lời tuyên xưng của Phêrô nhìn nhận chương
trình của Thiên Chúa đang diễn ra trong lịch sử con người: "Thầy là Đức
Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống".
Đáp lại lời tuyên xưng này, có thể nói dựa vào lời tuyên xưng
Chúa Giêsu tuyên bố vinh hạnh của Phêrô, đồng thời cũng là vinh hạnh của con
người, của tất cả mọi người được qui tụ trong đại gia đình của Thiên Chúa,
trong một cộng đoàn con cái Thiên Chúa: "Này Simon Phêrô, trên tảng đá này
Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy".
Phêrô tuyên xưng vinh quang của Thiên Chúa, Chúa Giêsu tuyên
xưng vinh quang của Phêrô. Phêrô được chọn làm đá tảng và sự lựa chọn đó bền
vững muôn đời, cho dù Phêrô có thế nào đi nữa thì Thiên Chúa vẫn không thay đổi
chương trình, không hủy bỏ sự lựa chọn: "Phêrô con là đá, trên đá này Thầy
sẽ xây Giáo Hội của Thầy". Vinh quang của Phêrô được Chúa Giêsu tuyên bố
ra đây không phải là để Phêrô khoe khoang vinh quang hay hưởng thụ quyền lực và
danh vọng, mà là vinh quang của thập giá, của hy sinh chiến đấu, của sự từ bỏ
mọi sự cho đến cả mạng sống mình, và chúng ta biết rõ con đường vinh quang thập
giá mà Phêrô đã trải qua.
Phêrô vừa mới tuyên xưng một sự thật: "Thầy là Đức Kitô Con
Thiên Chúa Hằng Sống", tiếp đó Chúa Giêsu tuyên bố một sự thật
khác:"Trên đá tảng là chính con đây, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy".
Phêrô mới nhìn nhận mầu nhiệm Con Thiên Chúa nơi chính con người Giêsu thành
Nazareth đang đứng trước mặt mình, thì Chúa Giêsu liền mạc khải thêm mầu nhiệm
Nhập Thể thường hằng mãi mãi trong lịch sử, không phải cho một người mà cho
nhiều người được qui tụ lại làm con Thiên Chúa trong một cộng đoàn, một Giáo
Hội của Người. Giáo Hội là một mầu nhiệm nhập thể kéo dài mãi mãi của Con Thiên
Chúa, đó là Giáo Hội mà chúng ta đang là phần tử và đó cũng chính là Giáo Hội
mà Chúa Giêsu muốn thiết lập.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến với Ngài trong Giáo Hội, để
chúng ta được biến đổi thành con cái Thiên Chúa, sống trong sự hiệp thông với
Chúa và với nhau. Tất cả mọi sinh hoạt của người đồ đệ Chúa đều được diễn ra
trong Giáo Hội của Ngài, và mọi Kitô hữu đều được qui tụ lại với nhau trong
Chúa, trong một thân thể huyền nhiệm của Chúa. Đây là Giáo Hội của Thầy, trên
tảng đá Phêrô, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa hỏa ngục sẽ không thắng
được.
Giáo Hội yếu hèn vì gồm những con người tội lỗi, nhưng Giáo Hội
cũng rất thánh thiện, tràn đầy thánh sủng của Chúa và được gìn giữ đến tận
cùng: "Con là Phêrô nghĩa là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy
và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được". Lời công bố long trọng của Chúa
Giêsu đã trấn an các Tông Đồ, đồng thời mạc khải tính cách thường hằng mãi mãi.
Giáo Hội sẽ hiện diện mãi mãi trong lịch sử cho đến tận thế, dù cửa hỏa ngục,
tức quyền lực của hỏa ngục tấn công vào Giáo Hội, nhưng hỏa ngục sẽ không thắng
được. Chúng ta hãy tin tưởng vào Giáo Hội cho đến cùng, chúng ta hãy chiến đấu
với chính sự dữ nằm trong bản thân để giúp Giáo Hội chiến thắng trên mọi sự dữ.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trên đường về cùng Chúa, xin tăng
triển nơi con tình yêu thương và tin tưởng vào Giáo Hội, xin củng cố đức tin và
củng cố sự hiệp nhất giữa chúng con trong Chúa và trong Giáo Hội của Chúa. Amen.
20. Giáo Hội
Mừng kính lễ hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, hai cột trụ vững
chắc, chống đỡ cho tòa nhà Giáo hội, chúng ta cùng nhau nhìn vào tình trạng
hiện nay, để rồi từ đó rút ra những kết luận thực hành. Nhìn vào Giáo hội hiện
nay, chúng ta phải ghi nhận ba sự kiện đáng buồn sau đây:
Sự kiện thứ nhất, đó là người ta giảm sút lòng tôn trọng và vâng
phục quyền bính trong Giáo hội.
Thực vậy, nếu theo dõi báo chí, ngay cả những tờ báo công giáo,
chúng ta thấy xuất hiện một khuynh hướng cấp tiến nguy hiểm. Khuynh hướng này
nhằm đả phá phẩm trật trong Giáo hội, bôi nhọ Đức Thánh Cha và nhất là phê bình
những quyết định của Giáo hội. Tôi xin đan cử một trường hợp gần đây nhất, để
cho thấy sự sút giảm đã đến hồi trầm trọng. Ai cũng biết Giáo hội Ý là một Giáo
hội được coi như toàn tòng công giáo và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là một vị
Giáo Hoàng được cảm tình của nhiều người. Khi ngài bị ám sát hụt tại công
trường thánh Phêrô, ai cũng cảm thấy xót thương. Thế nhưng, hầu hết người dân Ý
vẫn đi bỏ phiếu để chấp thuận luật phá thai, một vấn đề đã được ngài từng lên
tiếng phản đối nhiều lần.
Đi xuống một lãnh vực nhỏ bé hơn, trong những câu chuyện thường
ngày, tôi được nghe rất nhiều những lời chỉ trích, hạ nhục uy tín các linh mục.
Tôi cũng được biết đến rất nhiều vụ kiện về cha này hay cha khác. Kéo nhau ra
cha quản hạt hay lên Tòa giám mục mà thôi chưa đủ, họ còn mượn tay chính quyền
để phân xử.
Sự kiện thứ hai, đó là người ta đòi hỏi Giáo hội hơn là đòi hỏi
chính bản thân mình.
Thực vậy, người ta luôn đặt quyền lời của cá nhân hay gia đình
lên trên quyền lợi của Giáo hội. Người ta đòi hỏi các cha, các thày, các dì
phải thế nọ, phải thế kia, nhưng lại chẳng bao giờ tự hỏi lòng mình: Tôi đã làm
được gì cho Giáo hội?
Rồi từ đó, người ta đi tới một thái độ cực đoan, muốn kiểm soát
cả những vị bề trên của mình. Không thiếu gì những cặp mắt soi mói, luôn dò xét
nhà thờ, nhà xứ, không phải để nâng đỡ, mà để bới móc. Và nếu chẳng may có một
sự việc gì không được vừa ý là thổi phồng và bàn tán xôn xao.
Có nơi, ban hành giáo muốn kiểm soát cả sự chi tiêu của cha sở.
Muốn làm bất cứ việc gì cũng phải trình qua ban hành giáo, bằng không thì sẽ có
chuyện đôi co, chẳng lành. Hành động như thế là đi ngược lại với nguyên tắc
quyền bính trong Giáo hội. Thực vậy, quyền bính trong Giáo hội phải từ trên đi
xuống, chú không phải từ dưới đi lên.
Sau cùng, sự kiện thứ ba đó là người quá lo lắng cho bản thân,
quá vun quén cho gia đình, mà quên đi lợi ích chung của giáo xứ, của giáo phận,
cũng như của Giáo hội. Chẳng hạn việc bàu ban hành giáo. Mặc dù được
nhắc đi nhắc lại chẳng biết bao nhiêu lần, thế mà số người ra ứng cử vào ban
hành giáo chẳng được bao nhiêu. Hình như người ta ngại gánh vác những công việc
chung. Ai cũng than là gia đình mình quá bận rộn và thiếu thốn. Tuy nhiên, xét
cho cùng phải chăng là chúng ta thiếu tinh thần chung và chúng ta ngại hy sinh
cho giáo xứ? Đã thế, khi có người thiện chí, dám hy sinh ra gánh vác công việc
chung, thì chúng ta lại tìm cách ngăn cản, hay gièm pha thế này thế khác..
Chúng ta nói rằng mình yêu mến Giáo hội, thì hãy chứng minh lòng yêu mến ấy
bằng những việc làm cụ thể. Đừng tưởng rằng mỗi năm mình đóng góp dăm ba chục
ngàn hay một vài trăm ngàn là đã làm tròn phận sự, là đã yên lương tâm, để rồi
có quyền đòi hỏi và hạch sách. Chúng ta thử nghĩ xem sự đóng góp ấy được là bao
so với những chi phí cần thiết cho việc sinh hoạt cũng như cho việc duy trì và
kiến thiết của giáo xứ.
Chẳng hạn việc học hỏi giáo lý. Mỗi năm mới có một kỳ hè. Đây là
thời gian thuận tiện để mở những khóa giáo lý. Chính các Đức Giám mục cũng muốn
như vậy. Không phải chỉ mình giáo xứ của chúng ta, mà hầu như tất cả các giáo
xứ đều mở. Khi mở những khóa giáo lý như vậy, chúng tôi vừa hao tốn tiền bạc,
vừa hao tốn thời giờ, lại vừa hao tốn công sức…Thế nhưng, chúng tôi sẵn sàng
chấp nhận để con em chúng ta được bồi dưỡng về đạo đức, được giáo dục về đức
tin. Tuy nhiên, tôi thấy có những người đã phát biểu nghe nó chua chát làm sao:
Con tôi không phải để đi chơi, nhưng phải tập cho nó biết làm ăn… Nghỉ giáo lý
một ngày thì không sao, chứ nghỉ ăn một ngày thì chết…
Từ những sự việc trên, chúng ta đi vào ngày lễ hôm nay: hai
thánh Phêrô và Phaolô tông đồ đã chết để tuyên xưng đức tin và đã trở thành nền
móng cho Giáo hội công giáo.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có dám sống và dám chết cho
Giáo hội hay không? Chúng ta có dám lên tiếng để bênh vực những quyền lợi chính
đáng Giáo hội hay không? Mỗi người chúng ta phải là một viên gạch, góp phần vào
việc xây dựng Giáo hội. Vậy chúng ta cần phải làm gì?
Trước hết, chúng ta hãy tôn trọng và vâng phục quyền bính
trong Giáo hội. Nhiều khi, trong những lúc vui đùa bên mâm cơm hay bên
tiệc rượu, chúng ta đã kể những mẩu chuyện tiếu lâm liên quan tới tôn giáo. Làm
như vậy, chúng ta đã vô tình coi thường những chức vụ trong Giáo hội, để dẫn
tới những thái độ bất kính.
Tiếp đến, chúng ta hãy dùng lời nói và việc làm để góp
phần xây dựng cho giáo xứ của mình, cũng như cho những giáo xứ khác, trong một
tầm nhìn rộng lớn hơn và tổng quát hơn.
Đừng bao giờ hỏi rằng: Giáo hội đã làm gì cho tôi? Nhưng hãy tự
vấn lương tâm xem: Tôi đã làm gì cho Giáo hội?
21. Suy niệm
của JKN
ÔNG PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC GIÊSU LÀ CON THIÊN CHÚA
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu Đức Giêsu hỏi bạn: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”,
thì bạn trả lời theo những gì bạn chứng nghiệm về Ngài, hay theo sự hiểu biết
học được từ người khác?
2. Là Kitô hữu, bạn đã có những cảm nghiệm thực tế và cụ thể về
Đức Giêsu chưa, hay chỉ có một mớ những hiểu biết lý thuyết về Ngài, dù rất
uyên bác sâu rộng?
3. Bạn có muốn thật sự cảm nghiệm về Ngài không? Bạn đã từng nỗ
lực làm điều này chưa? Theo bạn, phải làm sao để cảm nghiệm được Ngài?
Suy tư gợi ý:
1. “Người ta nói…”, nhưng “còn anh em…” thì sao?
Khi trình bày về Thiên Chúa, về Đức Giêsu, chúng ta thường trình
bày một cách lý thuyết, dựa trên những bài bản có sẵn, do người khác soạn sẵn,
suy nghĩ sẵn, chúng ta chỉ việc nói theo đó. Điều đó cũng phần nào hợp lý, vì
có dựa trên những bài bản có sẵn đó, thì những người nói về Thiên Chúa hay Đức
Giêsu mới có sự đồng nhất với nhau. Nếu mỗi người đều nói theo quan niệm hay
suy tư riêng của mình, thì sẽ thành ra mỗi người nói một kiểu, người nghe biết
tin theo ai. Nhưng lý thuyết vẫn luôn luôn là lý thuyết, là cái gì ở ngoài
mình, và được áp đặt xuống cho mình. Xét cho cùng đó chỉ là cái “người ta nói”,
còn ta chỉ là người nói theo thôi. Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Đức
Giêsu hỏi các môn đệ hai câu khác hẳn nhau: “Người ta nói Con Người là ai?” và
“còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Rõ ràng trong hai câu hỏi, Đức Giêsu coi
câu sau quan trọng hơn câu trước rất nhiều. Ngài chỉ dựa vào câu trả lời cho
câu hỏi sau để xem ai là người đáng Ngài tin cậy nhất.
2. Điều quan trọng là cảm nghiệm thực tế về Đức Giêsu
Điều quan trọng không phải là những điều chúng ta nghe biết về
Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Đó là những điều chúng ta học được trong sách giáo
lý, hay đọc được từ những tác phẩm thần học… Đó toàn là những điều “người ta
nói” về Ngài, chứ không phải là những điều chính bản thân ta cảm nghiệm được về
Ngài. Chính những cảm nghiệm đích thực về Ngài mới có khả năng làm ta yêu mến
Ngài và dám dấn thân sống chết cho Ngài. Thật vậy, làm sao có thể yêu mến và
dấn thân cho một người mà mình chỉ biết trên lý thuyết, chứ chưa từng gặp mặt,
chưa từng có một quan hệ ngoại giao hay tình cảm nào? Nhưng làm sao có được
những cảm nghiệm về Thiên Chúa hay Đức Giêsu? làm sao có được quan hệ tình cảm
riêng tư với Ngài, khi mà Ngài vô hình, ta chẳng hề thấy hay gặp bao giờ?
3. Làm sao cảm nghiệm được Ngài?
Vấn đề rất quan trọng trong đời sống Kitô hữu đích thực là phải
cảm nghiệm được sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong đời sống của ta, và có
được một quan hệ riêng tư và tình cảm với Ngài. Nếu không có được cảm nghiệm và
quan hệ này, Thiên Chúa hay Đức Giêsu vẫn chỉ là một ý niệm trong đầu óc ta
không hơn không kém. Ý niệm ấy chẳng khác gì ý niệm về ánh sáng hay mầu sắc của
một người mù bẩm sinh, sở dĩ có được là do nghe người khác nói.
a) Cần thường xuyên ý thức Ngài hiện diện trong bản thân ta
Cảm nghiệm về Thiên Chúa hay Đức Giêsu phải khởi đi từ niềm tin
này, là tin Ngài thật sự hiện diện trong tâm hồn ta. Đây là sự thật làm nền
tảng cho đời sống tâm linh của ta, và là một tiêu chuẩn để biết mình có đức tin
Kitô hữu hay không. Thật vậy, thánh Phaolô nói: “Anh em hãy tự xét xem mình có
còn sống trong đức tin hay không. Hãy tự kiểm điểm xem: anh em chẳng nhận thấy
có Đức Giêsu Kitô ở trong anh em sao?” (2Cr 13,5). Chúng ta không có may mắn
gặp hay cảm nghiệm được Ngài bằng xương bằng thịt cách hữu hình như các tông đồ
xưa. Tuy nhiên, dẫu có may mắn đó, chưa chắc ta đã “gặp” được Ngài thật sự.
Biết bao người sống vào thời Đức Giêsu - chẳng hạn những người Pharisiêu hay
các kinh sư Do-thái - đã từng thấy Ngài, nói chuyện với Ngài, nhưng đâu có
“gặp” được Ngài, đâu có quan hệ riêng tư và tình cảm với Ngài! Vì sao? Vì “hữu
duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng” (có duyên với
nhau thì dù xa cách ngàn dặm cũng vẫn có thể gặp nhau, còn không có duyên với
nhau thì có mặt chạm mặt cũng không thể gặp nhau). Hễ có duyên với Ngài thì sẽ
khao khát muốn gặp Ngài và sẽ đi tìm Ngài. Mà hễ đã thật sự đi tìm thì ắt nhiên
sẽ gặp, vì “ai tìm sẽ thấy” (Mt 7,8).
Sự hiện diện của Ngài trong bản thân ta đã được chính Ngài xác
nhận: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Thánh Phaolô cũng nói: “Chỉ có
Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người” (Cl 3,11); “Thiên Chúa đã sai Thần Khí
của Con mình đến ngự trong lòng anh em” (Gl 4,6).
Vấn đề hết sức quan trọng là ta phải thường xuyên ý thức sự hiện
diện ấy, đồng thời tin tưởng rằng Ngài là nguồn sức mạnh, nguồn yêu thương; và
với Ngài, ta có thể làm được tất cả mọi sự (x. Pl 4,13).
b) Cần tạo điều kiện để Ngài tự do hoạt động trong ta
Điều quan trọng thứ hai để Ngài có thể hoạt động hữu hiệu trong
ta là phải để cho Ngài được tự do hoạt động. Điều làm cho Ngài không thể tự do
hoạt động trong ta chính là ý riêng của ta và sự thiếu cộng tác của ta. Nếu ta
coi nhẹ ý riêng mình để lúc nào cũng sẵn sàng cộng tác với Ngài thực hiện những
gì Ngài muốn làm trong ta, thì ta sẽ thấy Ngài dần dần thực hiện được trong ta
những thay đổi lớn lao. Chính Đức Giêsu cũng coi nhẹ ý riêng của Ngài, và luôn
cộng tác với thánh ý Chúa Cha: “Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý
tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38); “Tôi không tìm cách làm
theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5,30); “Lương thực của Thầy
là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34). - Nhưng làm sao biết được ý
của Ngài thế nào?
Ý của Ngài được biểu lộ:
(1) trước hết và đặc biệt trong lời của Ngài, được ghi chép
trong Kinh Thánh,
(2) trong luật của Ngài (được tóm lại trong hai chữ yêu thương),
(3) trong tiếng lương tâm của ta,
(4) trong các bổn phận và trách nhiệm của ta đối với Thiên Chúa,
bản thân, tha nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội,
(5) trong các biến cố khách quan - tức xảy ra độc lập với ý muốn
của ta - trong đời sống. Ngài dùng những biến cố này để thánh hóa ta.
Chỉ cần thực hiện được hai điều quan trọng trên thì tự nhiên
giữa ta với Đức Giêsu càng ngày càng có một quan hệ mật thiết hơn. Dần dần, ta
nhận ra Ngài đúng là một nhân vật, tuy vô hình nhưng rất “cụ thể”, có thể cảm nghiệm được cách sống động và rõ
rệt. Ngài đóng một vai trò quan trọng trong đời sống ta, ảnh hưởng và biến đổi
đời sống ta một cách mạnh mẽ, hữu hiệu.
4. Người có đức tin sống động là nền tảng của Giáo Hội
Có cảm nghiệm được Ngài, ta mới có thể trả lời đúng ý Ngài câu
hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ngài muốn ta trả lời dựa trên chính
kinh nghiệm của ta chứ không phải dựa trên những bài bản, trên những gì ta chỉ
được nghe và ép lòng mình phải tin. Chỉ lúc đó, đức tin của ta mới trở thành
đức tin đích thực, đến từ cảm nghiệm thực tế, chứ không chỉ đến từ một chấp
nhận xuông của lý trí với tác động của ý chí. Chỉ đức tin ấy mới đủ sức mạnh để
thúc đẩy ta thật sự dấn thân cho Thiên Chúa và tha nhân. Ta phải làm sao nói
được như những người Samari xưa: “Không phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin, mà
vì chính chúng tôi đã đích thân nghe Người nói và nhận ra rằng Người thật là Đấng
cứu độ trần gian” (Ga 4,41).
Chỉ lúc đó, Đức Giêsu mới có thể nói với ta như đã nói với
Phêrô: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh
của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Theo ngữ cảnh của bài Tin
Mừng này, Đức Giêsu nói với Phêrô câu ấy vì ông là người có đức tin mạnh mẽ,
chứ không phải vì ông là trưởng nhóm các tông đồ. Thật vậy, trong thực tế từ
xưa đến nay, Giáo Hội được xây dựng và tồn tại trên những đá tảng vững chắc là
những người có đức tin sống động, dù họ là giáo dân, tu sĩ hay giáo sĩ. Chứ
Giáo Hội không được xây trên những người đạt được những quyền cao chức trọng
trong Giáo Hội nhưng lại không có đủ đức tin và tình yêu, không có một tương
quan thật sự với Đức Giêsu. Lịch sử Giáo Hội đã chứng tỏ những người này chẳng
những không làm vững chắc mà còn làm lung lay tòa nhà Giáo Hội nữa.
Ước gì mỗi người chúng ta có thể nói tương tự như Phêrô, nghĩa
là nói bằng chính cảm nghiệm của mình, chứ không phải lập lại một cách máy móc
lời của một người khác: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức
Giêsu mong muốn chúng ta nói được như thế!
Cầu nguyện
Lạy Cha, đức tin và tình yêu đích thực không hề đến từ những
hiểu biết có tính lý thuyết, mà đến từ khát vọng muốn cảm nghiệm được Cha và
lòng quyết tâm đi tìm cảm nghiệm ấy. Xin đừng để con thỏa mãn và dừng lại nơi
những hiểu biết về Cha, mà quyết tâm tìm cách cảm nghiệm Cha. Đừng để con giống
như kẻ “ăn bã mía”, thấy người ta ăn mía khen ngọt, mình cũng nhai lại những bã
ấy và bắt chước họ khen ngọt. Xin cho con cảm nếm được Cha, thưởng thức được sự
ngọt ngào của tình yêu Cha dành cho con.
22. Bài giảng
của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
… “Phần các con, các con nghĩ Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa
rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Anh chị em thân mến,
Có thể nói Chúa Giêsu không quan tâm đến dư luận nghĩ như thế
nào về Ngài: Là Gioan Tẩy Giả mà Hêrôđê giết chết nay sống lại, là Elia,
Giêrêmia, một tiên tri nào đó … điều đó không quan trọng. Người đời tự do nhận
hay khước từ Chúa Giêsu, việc đó từ khi Ngài xuống thế gian cho đến bây giờ vẫn
luôn xảy ra, chẳng những thế người ta còn gán cho Ngài những danh xưng, những
đức tính hay những tật xấu … việc đó cũng không quan trọng.
Quan trọng là chúng ta, những người Ngài đã kêu gọi và được
thanh tẩy trong Bí Tích Rửa Tội, Ngài đã ban cho Thần Khí của Ngài, Ngài đã
dùng Lời và Mình Máu Thánh Ngài để nuôi dưỡng, Ngài đã không ngớt yêu thương và
chăm sóc … Chúa sẽ hỏi chúng ta: “Còn con, con nghĩ Thầy là ai?”
Qua bài Tin Mừng Mt 16, 13 – 19: Hỏi về dư luận chỉ là cớ để
Chúa Giêsu bắt vào câu chuyện, còn vấn đề chính là dành cho các tông đồ: “Chúng
con nghĩ Thầy là ai?” sau khi Phêrô trả lời, Chúa Giêsu nói ngay: “Chẳng phải
(điều con tuyên xưng) do xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha
Thầy, Đấng ngự trên trời”. Chính Chúa Cha đã mạc khải, đã chọn, đã tỏ cho thấy
con có đức tin đó, cho nên Thầy chọn con, con trở nên tảng đá vững chắc, Thầy
sẽ xây dựng Giáo Hội của Thầy trên con và Giáo Hội sẽ không bao giờ lay chuyển…
Thưa anh chị em,
Kể từ giây phút đó, dường như Chúa Giêsu bắt đầu đổi hướng trong
việc rao giảng và giáo huấn. Ngài dành nhiều thì giờ cho nhóm Mười Hai, Ngài
dạy dỗ, chỉ bảo cho các ông, vì Ngài biết rằng đây là nhóm người mà Chúa Cha đã
chọn, đã trao cho Ngài và từ những con người này (những con người còn đầy dẫy
những khuyết điểm, yếu đuối…) Ngài xây dựng làm nền tảng cho Hội Thánh. Trải
qua bao nhiêu thử thách, không quyền lực nào có thể lay chuyển được Hội Thánh
mà Ngài đã xây dựng. Chúng ta chính là Hội Thánh đó, là những con người Ngài
xây dựng và luôn gìn giữ.
Trở lại với bài sách Công Vụ (Cv 12, 1 – 11), tôi nghĩ rằng dù
trình bày như thế nào, chúng ta cũng không quên trọng tâm của câu chuyện: Thiên
Chúa giữ lời Ngài nói qua miệng Chúa Giêsu “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho
đến tận thế”.
Lời Ngài được thực hiện khi thiên thần giải thoát Phêrô khỏi ngục tù cách lạ
lùng (Phêrô được Chúa tuyển chọn và Phêrô được Chúa trao cho quyền tha - buộc
tội lỗi, và trong chức năng đó, Chúa gìn giữ Phêrô…). Giáo Hội trải qua 2000 năm
với bao nhiêu thử thách nhưng vẫn là Giáo Hội của Đức Kitô, ngày hôm nay có thể
mang nhiều sắc thái khác nhau, những vị Giáo Hoàng khác nhau, nhưng vẫn là một
Giáo Hội duy nhất, Giáo Hội mà Chúa Giêsu đã thiết lập trên nền tảng Phêrô.
Chúng ta thấy Lời Chúa vẫn luôn được thực hiện,
Chương trình của Thiên Chúa rất mầu nhiệm, phong phú và đa dạng.
Chúng ta nghĩ rằng với thánh Phêrô, với đoàn tông đồ như thế là đã đủ và từ đó
cứ tiếp nối để Giáo Hội trường tồn, nhưng không, bên cạnh đó Chúa đã tuyển chọn
Phaolô cách rất đặc biệt: Từ con người hăng hái bắt đạo, Chúa đã biến đổi lòng
dạ và làm cho Phaolô trở nên tông đồ nhiệt thành.
Vậy vai trò của Phaolô trong Hội Thánh lúc bấy giờ là gì? (Đọc
trong những đoạn kinh Phụng Vụ để thấy Thiên Chúa nhiệm mầu trong chương trình
của Ngài) Phêrô là người tuyên xưng đức tin, trên Phêrô đức tin được xây dựng;
Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, là người đem đức tin đó gieo trồng khắp
mọi nơi. Hai khía cạnh đó luôn có Trong Hội Thánh, sứ mạng củng cố đức tin, xây
dựng nội bộ và sứ mạng truyền giáo, sứ vụ đến với muôn dân … Ngày hôm nay chẳng
những trong lòng Giáo Hội, chẳng những ở Giáo Hội địa phương mà ngay mỗi Giáo
Xứ, mỗi cộng đoàn và mỗi người luôn phải sống hai khía cạnh đó: một đàng phải
luôn đào sâu đức tin, sống gắn bó với Chúa nhiều hơn, đàng khác chúng ta không
chỉ được sống cho mình mà phải biết chia sẻ đức tin cho anh em, càng biết đến
với anh em, càng biết chia sẻ đức tin, biết loan báo Tin Mừng thì đức tin chúng
ta càng vững chắc. Đó là chương trình của Thiên Chúa trao ban cho mỗi người
chúng ta. Có thể chúng ta nói mình yếu đuối, tọi lỗi, nhưng thành thật mà nói,
chắc chúng ta không tội lỗi hơn thánh Phaolô, cũng không tội lỗi hơn thánh
Phêrô; còn nếu nói chúng ta yếu đuối thì tôi nghĩ rằng thánh Phaolô và thánh
Phêrô còn có lúc yếu đuối hơn chúng ta. Thiên Chúa đã tuyển chọn và làm những
việc lạ lùng với những con người tội lỗi, yếu đuối đó. Chúng ta cũng được Chúa
tuyển chọn và ban Thánh Thần của Ngài, thế thì tại sao chúng ta lại không đi
trên con đường đó và không can đảm nhận lấy trách nhiệm và sứ vụ đó?
Cử hành trọng thể lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, chúng ta
cám ơn Chúa đã yêu thương và xây dựng Hội Thánh để Ngài luôn hiện diện giữa thế
gian. Nhờ có Hội Thánh, chúng ta được tiếp xúc với Thiên Chúa và được dạy dỗ để
đi trên con đường của Ngài. Tin vào điều đó nhưng đồng thời cũng tin Chúa trao
cho chúng ta (ở trong Hội Thánh) sứ vụ làm chứng cho Ngài, vì Ngài không chỉ
muốn cứu độ một nhóm người, nhưng Ngài muốn tình yêu cứu độ của Ngài phải được
loan báo cho muôn dân. Chúng ta là những người mà Ngài đang cần đến, là những
người mà Ngài tuyển chọn để thi hành sứ mạng đó.
Mừng lễ hai thánh tông đồ, chắc chắn chúng ta thêm niềm tin
trong Hội Thánh, thêm niềm tin trong sứ vụ mà Chúa đã trao cho Hội Thánh. Noi
theo gương hai Ngài, chúng ta luôn tuyên xưng cách vững chắc “ Ngài là Đức
Kitô, là Con Thiên Chúa hằng sống”, Ngài là Đấng đã đến trong thế gian để cứu
chuộc nhân loại, Ngài đã xây dựng và đã sai Hội Thánh tiếp nối công việc của
Ngài. Hiểu và tin được điều đó, chúng ta đã góp phần xây dựng Hội Thánh trường
tồn và lan rộng cho đến tận cùng thế giới.
23. Lễ
Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Khi đọc lại lịch sử của hai vị thánh Phêrô và Phaolô, nhân loại
không khỏi ngạc nhiên vì hai con người này hai tính khí khác nhau, hai nền giáo
dục khác nhau, nhưng đã bổ túc cho nhau khiến hai Đấng trở nên cột trụ vững
chắc cho Giáo Hội của Chúa Kitô ở trần thế. Thánh Phêrô,vị tông đồ trưởng đã
bộc trực thưa với Chúa Giêsu ba lần “Ngài yêu mến Chúa”, nhưng sau đó lại chối
Chúa ba lần. Còn thánh Phaolô, một con người bắt bớ Giáo Hội của Chúa, đã bị
Chúa làm cho tan nát trên đường đi Đamas.
HAI KHUÔN MẶT - MỘT NIỀM TIN
Tin mừng Matthêu thuật lại, các môn đệ sau khi theo Chúa một
thời gian khá dài, có nhiều dư luận nói về Chúa Giêsu, người thì bảo là Êlia,
người bảo là Giêrêmia hay là một ngôn sứ nào đó, còn các môn đồ nghĩ sao? Chúa
Giêsu muốn biết tấm lòng và sự hiểu biết của các tông đồ đối với Chúa Giêsu như
thế nào và đây là điều Ngài muốn biết. Ông Simon Phêrô vẫn nhanh nhảu, nóng
nảy, bộc trực đã thưa với Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống” (Mt 16, 16). Chúa Giêsu đã rất hài lòng về câu trả lời của Phêrô và đây
là câu trả lời Chúa Giêsu muốn biết. Đức Giêsu nói với Simon Phêrô: “Này anh
Simon, con ông Gio-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc
khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16,17).
Đức tin của Phêrô đã giúp Ông thốt lên và tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên
Chúa. Chính nhờ đức tin, sự xác tín và sự tuyên xưng của Simon Phêrô, Chúa
Giêsu đã đặt thánh Phêrô làm đầu Hội Thánh (Mt 16,18). Còn Phaolô, sau khi bị
Chúa đánh cho ngã ngựa trên đường Đamas đang khi thực hiện ý đồ triệt hạ các
môn đệ và Giáo Hội của Chúa, Phaolô đã nghe tiếng Chúa nói: “Sa-un, Sa-un, tại
sao ngươi bắt bớ Ta? Ông nói: “Thưa Ngài, Ngài là ai? Người đáp: “Ta là Giêsu
mà ngươi đang bắt bớ.” (Cv 9, 4-5). Sao-lô tức Sa-un đã được Khanania đặt tay
chữa lành và làm cho Sa-un được sáng mắt do quyền năng của Chúa và Ông đã lại
thấy được, Ông đứng dậy và lãnh nhận phép rửa (Cv 9,17-19). Từ hôm đó Ông đã
mạnh dạn rao giảng về Chúa khiến nhiều người Do Thái ngạc nhiên tự hỏi: “Ông
này chẳng phải là người ở Giêrusalem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu danh Giêsu
sao? Chẳng phải ông đã đến đây với mục đích bắt trói họ giải về cho các thượng
tế sao?” (Cv 9,21). Phaolô đã làm bẽ mặt những người Do Thái ở Đamát, khi minh
chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Cv 9, 22).
Thánh Phaolô đã được các tông đồ tin tưởng nhờ đó Ông và các
tông đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa
(Cv 9,28). Thánh Phêrô và thánh Phaolô mỗi người một cách suy nghĩ, mỗi người
một tính khí nhưng dưới ánh sáng của Tin Mừng, dưới sự tác động của Chúa Thánh
Thần, hai Ngài đã trở thành hai cột trụ vững chắc cho Giáo Hội nhờ đức tin của
các Ngài được Chúa củng cố.
THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ NÊU GƯƠNG TÔNG ĐỒ CHO TA:
Dù thánh Phêrô đã chối Chúa tới ba lần, dù trước đó Ngài đã
cương quyết theo Thầy tới cùng, nhưng khi nghe Chúa loan báo cuộc thương khó
Ngài phải chịu để cứu độ nhân loại, Phêrô không thể hiểu được Thầy mình, Ông đã
cản ngăn đường Chúa đi, Chúa đã khiển trách Phêrô rất nặng lời, cho ông là
Satan, ma quỉ. Nhưng Phêrô đã nhận ra con người của Chúa sau ba lần chối Thầy.
Phêrô cũng chỉ nhận ra tình yêu và lòng xót thương của Chúa sau những giọt nước
mắt tang thương, ăn năn, sám hối. Còn Phaolô chỉ nhận ra Chúa khi Ông hăm hở,
lấc cấc, hăng say truy lùng, bắt bớ các môn đệ của Chúa. Ông chỉ hiểu được lòng
tha thứ và tình thương của Chúa khi Ông ngã ngựa và đôi mắt bị mù lòa trên
đường Đamas. Hai thánh nhân đều ý thức việc quay trở lại với Chúa, đều cảm
nghiệm tình thương xót hải hà của Chúa. Hai Ngài đã rất thực, sống hoàn toàn
như mình nghĩ và cũng hồi sinh mau chóng khi hiểu được con người đầy xót thương
của Chúa Giêsu. Nên, dù hai tính khí, hai nền giáo dục, hai khả năng, hai cách
làm việc khác nhau, thánh Phêrô và thánh Phaolô đã bổ túc cho nhau để xây dựng
Giáo Hội của Chúa vững chắc ở trần gian này. Hai vị thánh tông đồ đã nêu gương
sáng cho nhân loại, cho Hội Thánh, cho từng người về lòng nhiệt thành, sự can
đảm và sự say mê truyền giáo của các Ngài. Hai Ngài còn cho nhân loại thấy dù
yếu hèn, dù tội lỗi, dù kém tài, Chúa vẫn luôn dùng tới nếu con người biết tin,
cậy và quay trở về với Chúa. Mỗi một con người đều có chỗ đứng trong trái tim
Chúa. Chúa thương yêu con người không chung chung, có lệ, nhưng Chúa gọi tên
từng người một vì “Ta biết chiên và chiên biết Ta”. Chúa dùng mọi người, dùng
mỗi người với tất cả những gì đang có, những khuyết điểm, những hạn hẹp của con
người, Chúa xử dụng tất cả để làm phong phú, đa dạng và làm nổi bật quyền năng,
uy dũng của Ngài. Lễ hai thánh Phêrô và Phaolô là lễ kính mầu nhiệm Hội Thánh
đặt nền tảng trên các Ngài. “Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con được vui
mừng hoan hỷ nhân ngày đại lễ kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Chính nhờ
các Ngài, Hội Thánh đã bắt đầu đón nhận đức tin, xin cho Hội Thánh cũng luôn
trung thành tuân giữ lời các Ngài giảng dạy”.