Lời Chúa cnmc 3a _ giáo lý Phúc Âm

GIÁO LÝ PHÚC ÂM
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY NĂM A
 Xh 17,3-7; Rm 5,1-2.5-8; Ga 4,5-42
I. Giáo Huấn Phúc Âm
 Chúa Giêsu là Nước hằng sống, chỉ có Ngài mới có thể thoả đáp mọi khát vọng đời người. “Ai uống nước tôi cho sẽ không còn khát nữa!”
Chúa khao khát ban phát nước hằng sống, tức ban phát chính Chúa là Đấng Cứu Độ cho muôn người “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn Đấng đã sai Thầy.”
Chúa Giêsu đến để thiết lập một nền phượng tự không tuỳ thuộc vào nơi chốn đền thờ, nhưng trong tâm hồn mỗi người. Tin thờ Thiên Chúa từ tâm hồn với sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần.
II. Vấn nạn Phúc Âm
 Miền Samaria, hay Shomron trong tiếng Do Thái đã là thủ đô của Do Thái thời vua Omri vào khoảng năm 884 trước Chúa Giáng Sinh. Đây là phần đất trước đó mang tên Shemer mà Omri đã mua lại với giá hai nén bạc như được ghi lại torng Sách Các Vua quyển I chương 16, 23-24.
Dưới thời vua Hôsêa được ghi trong sách các Vua quyển II, năm 721 trước Công nguyên quân đội Assyria dưới thời hoàng đế Shalmaneser V đã đánh chiếm Israel và bắt dân cư miền Samaria đi lưu đầy Babylon. Dân cũ bị đi lưu đày. Dân mới từ những vùng phụ cận được mang vào định cư trên đất Samaria. Họ cũng được gọi là người Samaria hay Cuthim. Kể từ đó, Người Do Thái coi Samaria như phần đất của Dân ngoại. Những hiềm khích vì tôn giáo thường xảy ra giữa người dân Samaria và người Do Thái định cư ở Miền Bắc Galilê và Miền Nam Giuđêa.
Trong Tân Ước, có nhiều tường thuật liên quan đến Samaria:
Phúc Âm Thánh Luca 17. 11-20 tường thuật phép lạ chữa lành 10 người phong cùi xảy ra ở biên giới Samaria và Galilê.
Phúc Âm Thánh Luca 9, 51-62 tường thuật việc Dân Thành Samaria không tiếp đón Chúa đến nỗi Giacôbê và Gioan, hai người con của sấm sét muốn xin lửa từ trời xuống tiêu diệt họ.
Trong Phúc Âm Thánh Gioan 4, 4-42 tường thuật việc Chúa gặp người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp làng Sychar trên đường từ Giêrusalem về Galilê. Ngài đã mạc khải cho bà ta biết Ngài là Đấng Messia.
Trong sách Tông Đồ Công Vụ 8, 5-11 tông đồ Philipphê đã đến giảng đạo ở những thành phố của Samaria.
 Bản đồ giao thông đường bộ của Do Thái thời Chúa Giêsu cho chúng ta khái niệm về địa dư Do Thái thời Chúa Giêsu. Đường đi bộ từ Galilêa xuống Giuđêa, nếu đi qua Samaria sẽ mất 3 ngày, nếu đi lối khác không qua Samaria, sẽ mất 6 ngày, vì phải đi vòng qua sông Giorđan. Phần đất nhỏ bé nầy được chia thành ba miền: Miền Bắc tên Galilêa, Miền Trung tên Samaria và Miền nam tên Giusđêa. Phương tiện di chuyển duy nhất là đường bộ. Người dân Samaria gần như đã không bị lưu đầy trong khi dân Miền Nam và Miền Bắc đã bị lưu đày Babylon. Khi người Dân Do Thái Miền Bắc và Miền Nam hồi hương, đã không chấp nhận người dân Samaria là thành phần của Dân Tộc Do Thái có chung tổ phụ Abraham. Người dân Samaria xây dựng đền thờ riêng thờ Chúa ở núi Gerizim. Còn trung tâm phượng tư của Miền Bắc và Miền Nam được thiết lập ở Giêrusalem và đền thờ Giêrusalem. Người Samaria chỉ chấp nhận Ngũ Kinh, tức năm quyển sách đầu trong Cựu Ước: sáng thế Ký, Xuất Hành, Dân Số, Lêvi và Đệ Nhị Luật.
 Một thành xứ Samaria tên là Xy-kha: Ngtười ta nghĩ đây chính là thành Sikhem cổ kính, vì gần với phần đất mà theo sách Sáng Thế 48, 22 tổ phụ Gia cóp đã ban cho ông Giu se. Chữ Sychar có nghĩa là người say rượu và dối trá mà người Do Thái dùngg để chế nhạo dân làng Sychar.
 Có Giếng của ông Gia cóp: Giếng nầy vẫn còn, không lớn lắm, đường kính khoảng hai thước rưởi và sâu khoảng 35 thước nhưng không có nước. Không ai có thể quyết đoán là chính tổ phụ Giacóp đã đào giếng nầy và tại sao, vì chung quanh vùng có nhiều suối nước nhỏ. Tuy nhiên truyền thống tin rằng: giếng nước ngọt nầy được Gia cóp trối lại như di sản là hình ảnh sự sống mà người Israel đã lãnh nhận từ đức tin các Tổ phụ. Hơn nữa, trong truyền thống Thánh Kinh, giếng nước là nơi gặp gỡ có tính cách như hứa hôn, như giữa Giacóp và Rachel được ghi lại trong Sáng Thế Ký Chương 29, như giữa Môsê và các con gái của Yêthrô được ghi ntrong Xuất Hành 2,15-22. Ở đây, chính Chúa Giê su như vị Tân lang đến gặp gỡ nhân loại tội lỗi, mà người phụ nữ Samari là hình ảnh để lắp đầy khát vọng cuộc sống con người.
 Có một người phụ nữ Samaria đến lấy nước: Rất bất thường và khó coi trong cuộc gặp gỡ bên bờ Giếng Giacóp nầy: một là Chúa Giêsu nói với một người phụ nữ nơi công cộng, hai là người phụ nữ ấy lại là người Samaria. Tuy nhiên, như đã nói, Chúa Giê su như một tân lang đi tìm kiếm người vợ phản bội. Đấng Cứu thế đi tìm kiếm và cứu giúp nhân loại tội lỗi. Ngài đi từ thứ nước tự nhiên hằng ngày để hướng con người đến nước hằng sống, là chính Ngài, Đấng thoả đáp mọi khát vọng đời người. Thiên Chúa là Đấng con người phải tôn thờ. Con người mkhổ công đi tìm nước tự nhiên tạm thời giải khát, nhưng không bao giờ hết khát. Con người lặn lội trong những cuộc tình, nhiều chồng hay nhiều vợ, hy vọng rằng sẽ làm thoả mãn chính mình. Nhưng khát vọng không bao giờ được lấp đầy.
Nước giếng chỉ là một hình ảnh. Còn nước hằng sống mà Ngài ban cho, vượt hẳn sự thoả mãn về phần vật chất. Nước giếng Gia cóp là hình ảnh chỉ sự phong phú của Cựu Ước, tuy nhiên cơn khát vẫn còn. Trái lại, Chúa Giê su nhấn mạnh đến nguồn nước mà Ngài ban trở thành một thoả mãn hoàn toàn cho khát vọngt đời người.
 Chị hãy gọi chồng chị …. Tôi không có chồng Một thú nhận về đời sống thiếu luân lý nhưng cũng bày tỏ thực tế đời mình: Chị đi tìm hạnh phúc qua những cuộc tình với nhiều đàn ông. Thánh Gioan dùng người phụ nữ Samaria thiếu luân lý nầy như một đại diện cho nhân loại tội lỗi: Không có chồng nào là chính thức cả, nhưng thực tế có nhiều đàn ông đến trong đời. Người tội lỗi là người đa thần: thần tài, thần tình, thần tham vọng… và không có một thần nào đúng là Thiên Chúa đích thực để mang lại hạnh phúc đích thật.
 III. Thực hành Phúc Âm
Xin đừng làm chuyện khó tin, khó coi và vô ích
 Trong một lần giảng tĩnh tâm, người tham dự hỏi tôi: Có một linh mục tường thuật lại rằng: Thời buổi nầy linh mục, tu sĩ chúng tôi phải sống thật gần gũi dân chúng mới hy vọng hiểu được họ và hoán cải họ. Chính tôi đây đã về VN đôi lần. Tôi không trọ ở trụ sở nhà dòng. Đêm đến tôi đi ngủ ở gầm cầu hay vĩa hè với người vô gia cư. Tôi đã từng mướn phòng ngủ và đưa những cô gái điếm vào đó, nhưng không hề đụng chạm đến cô. Tôi muốn hoán cải và cho các cô gái điếm thấy rằng: Ở đời không phải sống chỉ để thoả mãn xác thịt, nhưng còn có cái gì cao hơn! Đó chính là Thiên Chúa, Đấng có thể thoả đáp mọi khát vọng con người.
 Tôi đã trả lời: Nếu lần sau nghe một linh mục nào nói như thế, xin hãy khuyên Ngài rằng: Đừng nên làm chuyện khó tin, khó coi và vô ích đó.
 Thật vậy, ai có thể tin được là một người đàn ông bốn mươi tuổi đi với một người đàn bà vào phòng riêng, đóng cửa lại và nói chuyện đạo đức, chuyện đời sau và chuyện hoán cải đời sống?
 Bất cứ ai, dù có đạo hay không có đạo nếu biết một linh mục đi ngủ gầm cầu với người vô gia cư hay đi vào động điếm thì thử hỏi: Họ có chấp nhận được không? Họ có khâm phục linh mục đó không hay hành động của linh mục đó đã đẩy họ đến những thắc mắc đầy nghi ngờ và mất tin tưởng.
 Xin hỏi những ai truyền giáo theo kiểu sống gần gũi với người nghèo đến độ khó tin và khó coi đó có mang được ích lợi nào cho những người vô gia cư hay đĩ điếm nầy chăng? Những vị Giáo Hoàng đạo đức, những Giám Mục thánh thiện, những linh mục chuyên lo truyền giáo có làm những chuyện mà những linh mục nầy đang làm không?
 Phong trào linh mục thợ bắt đầu với Cha Jacques Loew năm 1941 khi ngài đi làm công nhân cầu đường ở Marseille. Năm 1944, phong trào linh mục thợ truyền giáo được thiết lập ở Paris, Marseille và Lyon. Tuy nhiên, phong trào không kéo dài lâu, vì kết quả truyền giáo hay hoán cải con người không có gì khả quan. Trái lại, số linh mục đi làm thợ càng ngày càng không thấy trở về. Họ đã bị giòng đời, như những làn sóng mạnh cuống mất và nhận họ chết chìm trong những tình cảm nam nữ và trong những cuộc săn tìm vật chất. Đúng là kiểu bắt cá mà bị mất cả chì lẫn chài.
 Tôi bằng lòng sống đời linh mục bình thường và chu toàn bổn phận hằng ngày. Như vậy tạm đủ để chứng minh Chúa là nước hằng sống có thể thoả đáp khát vọng con người rồi.