Lời Chúa cntn 30c _ thực lòng thống hối

THỰC LÒNG THỐNG HỐI
Tinh thần thống hối đòi ta nhận ra lầm lỗi của mình, hạ mình xuống và nhất là khi ta gặp rủi ro, người khác coi thường ta, ta hãy nghĩ đó là hình phạt xứng đáng đối với tội lỗi ta...
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Trước cộng đồng Vaticanô II, thánh lễ được mở đầu bằng một mẫu nghi thức thống hối độc nhất. Đó là mọi người đều đọc kinh cáo mình: thú nhận tội lỗi trước mặt Thiên Chúa và cộng đoàn; rồi vừa đấm ngực ba lần, vừa đọc: "Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng "
Làm thế chính là đã bắt chước người thu thuế trong dụ ngôn ta vừa nghe. Người Pharisiêu kiêu hãnh, khinh miệt kẻ khác, coi thường những công việc của mình là quan trọng, coi mình là con người hoàn toàn: nên người Pharisiêu này không xứng đáng được ơn tha thứ, còn người thu thuế khiêm nhường nhìn nhận tội lỗi của mình, cúi người xuống, đấm ngực ăn năn, xin Chúa thương xót thứ tha; và Chúa đã nói rõ sự thống hối của người thu thuế xứng đáng được tha thứ mọi tội lỗi.
(Nếu trong cuộc sống giữa vộ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em, giữa các người trong một cộng đoàn, một xứ đạo, mọi người đều biết sống khiêm tốn, nhận phần lỗi về mình: thì cuộc sống sẽ trở nên êm đẹp và hạnh phúc. Sở dĩ có sự tranh trấp, cãi cọ, hiềm thù, bất hoà, buồn bực, sở dĩ có những va chạm, những đỗ vỡ là vì mỗi người đều cho mình là vô tội, là hoàn toàn và chỉ biết đổ lỗi cho người khác, khinh bỉ người khác, chỉ nhận thấy khuyết điểm của người, mà không bao giờ nhận ra ưu điểm của họ.)
Trong dụ ngôn bài tin mừng hôm nay Chúa cho ta biết thế nào là thành thực thống hối ra sao!
Sự thống hối quả thực rất quan trọng. Chúng ta đã nhiều lần nhắc tới tầm quan trọng này. Các Tiên tri trong, trong cựu ước, luôn luôn rao giảng việc thống hối; Thánh Gioan Tẩy Giả chuẩn bị dân chúng đón Chúa Cứu Thế bằng việc rao giảng thống hối; Chúa Giêsu mở đầu bài giảng của Ngài bằng việc khuyên mọi người phải thống hối. Trước khi bỏ cuộc sống trần gian để lên trời, Chúa còn canh dặn các mô đệ phải đi rao giảng sự thống hối để được ơn tha thứ (Lc 24,47). Các Tông đồ luôn luôn nhắc tới việc thống hối, và Giáo Hội cũng luôn luôn khuyên nhủ, thúc giục chúng ta phải thống hối.
Không phải chỉ có đạo ta mới đề cao việc thống hối, mà các tôn giáo khác cũng luôn luôn đề cao việc này. Câu chuyện sau đây chứng minh nhận xét trên.
Hoàng đế Harun An-Rasít, một đêm nọ cùng tể tướng Giafa hoá trang, mặc bộ đồ lái buôn, tới bờ sông Euphrat, qua đò mà không một ai biết, rồi vào kinh thành để quan sát sinh hoạt mức sống của quần chúng. Qua một chiếc cầu, hai người gặp một lão hành khất. Hoàng đế đặt vào tay lão một đồng tiền vàng. Nhưng lão nắm chặt tay hoàng đế và thưa: "Ngài đã vì Thượng Đế mà làm phúc, xin ngài thương tát vào má tôi, vì tội tôi đáng trừng phạt như vậy."
Hoàng đế nói: "Lão già ạ, ta không thể làm theo lời thỉnh cầu của lão, vì ta làm phúc, mà lại tát lão, thì còn gì là công phúc!"
Nhưng lão hành khất vội túm lấy áo nhà vua và nói "Thưa ngài, xin tha thứ cho tôi vì tôi đã cả gan làm phiền ngài. Xin ngài hãy cho tôi một cái tát tai, hoặc lấy lại đồng tiền ngài cho, vì tôi chỉ nhận của bố thí với điều kiện bị khinh bỉ."
Hoàng đế không muốn để chậm trễ, liền tát nhẹ lão một cái rồi bỏ đi. Nhưng rồi bảo tể tướng Giafa: "Ngươi phải quay lại bảo cho lão biết ta là ai, và bảo lão ngày mai có mặt tại hoàng cung sau buổi cầu kinh trưa. Ta muốn hỏi lão hành khất này này, tại sao lại hành động kì dị như vậy?"
Ngày hôm sau lão hành khất mù vào hoàng cung, và đã tâu trình với vua Harun An-Rasít như sau: "Tâu đức vua, tôi tên là Baba Apđanla sinh ra tại Bátđa. Tuy cha mẹ tôi nghèo, không để lại gì, nhưng tôi đã siêng năng, chịu đựng mọi vất vả và tôi đã có tới 80 con lạc đà, chuyên chở hàng cho các lái buôn: do đó tôi đã thu được những khoản tiền lớn. Nhưng tôi vẫn luôn tham lam của cải, ước muốn mỗi ngày giàu có hơn.
Một hôm từ Baxôra trở về, lạc đà đi không, sau khi đã chở hàng xong cho các lái buôn. Gặp một bãi cỏ non, khá xa nơi dân cư, tôi cho đoàn lạc đà nghỉ lại gặm cỏ. Chợt có một tu sỹ đi bộ đến Banxôra, tu sĩ này đến gần tôi, nghỉ chân và nói truyện. Chúng tôi bỏ đồ ra ăn chung: tu sĩ bảo tôi là gần đây có một kho tàng, của cải nhiều tới nỗi 80 con lạc đà có chở đầy vàng bạc châu báu, lấy ở kho tàng, thì kho tàng có vẻ như chưa ai động tới; tu sĩ này lại nói là sẽ giúp tôi tới được kho tàng này, tự do lấy của cải bao nhiêu tuỳ thích, miễn là phải chia cho tu sĩ nửa số lạc đà của tôi.
Nhận thấy cơ hội trở nên giàu có mau chóng, tôi đồng ý, và rồi chúng tôi lên đường đi tới một thung lũng khá rộng, lối vào thì hẹp, vừa đủ cho từng con lạc đà qua. Nhưng rồi bên trong rộng dần, cả đoàn có thể đứng không vướng nhau. Hai quả núi lớn đứng sừng sững khép lại thành hình cánh cung tạo ra nên thung lũng đó. Tu sỹ bảo: "Hãy cho lạc đà của anh dừng lại, bắt chúng nằm xuống, để chúng ta dễ chất của cải lên, tôi sẽ bắt đầu mở cửa kho tàng."
Rồi tu sĩ đọc thần chú. Bỗng một tảng đá dựng đứng thật cao tách ra thành một cửa rộng, có hai cánh bằng đá. Qua cửa này tôi nhìn thấy bên trong có một toà lâu đài tráng lệ, chứa đầy tiền vàng và ngọc quý. Tôi mừng rỡ và đi thẳng vào đống tiền vàng, hốt vào các túi đem theo. Tu sĩ cũng làm theo tôi, nhưng ông chủ yếu lấy ngọc, nên tôi cũng theo ông dồn ngọc vào một số túi. Cuối cùng chúng tôi lấy đầy các túi xếp lên lưng lạc đà. Trước khi ra đi, tôi thấy tu sĩ vào bên trong, ở đấy có nhiều lọ lớn bằng vàng, ông cho tay vào một cái lọ lấy ra một cái hộp con làm bằng thứ gỗ quý. Sau khi cho tôi xem bên trong đựng một loại cao, tu sĩ cất vào trong người.
Khi đã phù phép đóng cửa lại, chúng tôi cho lạc đà đứng lên tách ra làm hai đoàn: tôi dành cho tu sĩ 40 con và tôi dắt 40 con chở đầy vàng ngọc quý. Chúng tôi mừng rỡ chia tay nhau. Tu sĩ đi về phía Banxôra còn tôi trở lại Bátđa. Nhưng vừa đi lòng tham của tôi nổi dậy, tôi đuổi theo tu sĩ và nói: "Tu sĩ à, việc chăm nuôi 40 con lạc đà rất khó khăn, tu sĩ nhường lại bớt cho tôi 10 con, vì tôi quen việc chăm sóc"
Tu sĩ đáp: "Anh nói có lý, vậy anh chọn lấy 10 con anh thích, tôi chỉ lấy 30 con thôi"
Khi đã được thêm 10 con, tôi lại tham lam đuổi theo tu sĩ mà nói: "Tu sĩ ạ, tu sĩ là người tu hành mà phải chăm sóc 30 con, theo kinh nghiệm của tôi, còn rất vất vả và khó khăn, vậy tu sỹ nên nhường bớt lại cho tôi 20 con nữa, tu sĩ chăm sóc 10 con là đủ"
Tu sĩ cũng bằng lòng ngay, cho thêm tôi 20 con nữa và bảo tôi: "Người anh em ạ. Thượng đế cho ta của cải, thì ngài có thể lấy lại những của cải ấy, nếu chúng ta không biết dùng nó để giúp đỡ những người nghèo khó. Trời sinh ra những người nghèo khó là để những người giàu, qua việc làm phúc giúp đỡ, sẽ được phần thưởng lớn lao, khi trở về thế giới bên kia..."
Tôi cảm ơn tu sĩ, vui mừng vì đã có 70 con lạc đà chở đầy vàng ngọc, tôi đã trở thành con người giàu có nhất đời... Nhưng rồi lòng tham vô đáy, tôi chợt nghĩ tới hộp cao, hẳn là vật quý báu lắm, nên tôi nói: "Tu sĩ ạ, tu sĩ giữ làm gì lọ cao nhỏ, xin tu sĩ làm quà cho tôi."
Tu sĩ lấy chiếc hộp ra, đưa cho tôi một cách nhã nhặn và nói: "Xin tặng anh, để anh vui lòng. Tác dụng của nó thật kì diệu: Nếu bôi cao này vào mắt bên trái, anh sẽ nhìn thấu suốt được mọi kho tàng giấu sâu trên trái đất, còn nếu bôi lên mắt phải, anh sẽ bị mù."
Tôi muốn thí nghiệm nên xin tu sĩ bôi cao vào mắt trái của tôi. Quả thực, thật kì diệu, tôi nhìn thấy biết bao kho tàng trên thế giới. Nhưng tôi lại dại dột nghĩ rằng chắc bôi lên mắt phải sẽ thấy những điều kì dị khác, chứ đâu có bị mù, nên tôi lại xin tu sĩ bôi cao vào mắt phải cho tôi. Tu sĩ từ chối và nói là ông nói rất thật, nếu bôi lên mắt phải thì bị mù ngay. Vì quá tham lam và tò mò, tôi cứ nài nẵng hoài, nên ông ta dành lấy cao bôi vào mắt phải tôi. Than ôi! Vừa bôi cao vào mắt phải: khi mở mắt ra, thì tôi chỉ thấy có bóng đen dày đặc, tôi trở thành con người mù loà, như đức vua thấy đây. Tôi liền la rầy tu sĩ, và xin ông chữa tôi khỏi mù. Nhưng tu sĩ lạnh lùng đáp: "Mày là đứa tham lam, xứng đáng chịu hình phạt mù loà này, đúng là ta biết được nhiều điều huyền bí, nhưng ta vẫn chưa biết cách làm cho mắt của mày sáng trở lại. Hãy cầu xin Thượng Đế và thống hối tội lỗi tham lam của mày. "
Nói rồi ông ta để tôi lại một mình và lùa 80 con lạc đà đi theo ông. Tôi đã được một đoàn lữ hành từ Banxôra, rủ lòng thương, nhận đưa tôi về Bátđa. Tôi nhận ra tội lỗi của tôi, thành thực thống hối, cầu xin Thượng Đế tha thứ cho tôi và tự bảo mình phải luôn luôn nghĩ tới tội lỗi, bằng cách đi hành khất, và nguyện rằng bất cứ ai làm phúc bố thí cho mình thì thì cũng tát vào mặt mình, tỏ lòng khinh bỉ mình, vì tội lỗi xứng đáng như vậy.
Truyện trên đây (tóm lược câu truyện trong cuốn 1001 đêm) cho ta thấy sự thống hối quả là cần thiết cho mọi người, trong mọi thời đại. Tuy câu truyện có vẻ kì dị, nực cười, nhưng ít ra nó cũng nhắc ta: tinh thần thống hối đòi ta nhận ra lầm lỗi của mình, hạ mình xuống và nhất là khi ta gặp rủi ro, người khác coi thường ta, ta hãy nghĩ đó là hình phạt xứng đáng đối với tội lỗi ta...
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
  • Đề tựa của Lm. HK