Suy tư về
Sinh nhật của Đức Đồng Trinh Maria
Đây là ngày mà Đấng Sáng Tạo của thế
giới xây dựng Đền Thờ của Người; hôm nay là ngày mà, bởi một dự án kinh ngạc, một
con người trở nên nơi trú ngụ được tiến cử của Đấng Sáng Tạo.
Lịch sử nghi thức tế lễ kỷ niệm sự khai sinh của Mẹ Maria
Những Giáo hội của Constantinople (old name – A.D. 330-1930 of Istanbul)
ở Đông phương và Rome ở Tây phương kỷ niệm những nghi thức tế lễ tôn kính sự
khai sinh của Mẹ Maria từ thế kỷ thứ sáu và thứ bảy. Nguồn gốc của việc tế lễ
được truy tìm tới sự tôn vinh của giáo hội ở Jerusalem vào thế kỷ thứ sáu đã được
biết đến một cách truyền thống như Nhà thờ Thánh Ann. Nhà thờ khởi thủy xây dựng
vào thế kỷ thứ năm là nhà thờ Maria đã tọa lạc trên một vị trí được biết đến
như cánh đồng của người chăn cừu và với ý niệm là nhà của cha mẹ Maria. Sau sự
tàn phá của nó và được tái thiết vào thế kỷ thứ sáu, ngôi nhà thờ này đã được đặt
tên trong sự tôn vinh Thánh Ann.
Vào thế kỷ thứ bảy nghi thức tế lễ cũng đã được cử hành ở Rome nơi mà nó
đã được giới thiệu bởi những tu sỹ đến từ Đông phương. Từ đó, nó đã lan rộng khắp
Tây phương, vào khoảng thế kỷ thứ mười ba nghi thức tế lễ đã phát triển tới sự
trang trọng với tuần bát nhật và một đêm canh thức cầu nguyện trang nghiêm mà
đã qui định một ngày ăn chay. ĐGH Sergius I (687-701) đã tổ chức một đám rước
(a litania) từ Roman forum tới St. Mary Major để mừng lễ.
Trong thời gian cải cách của Thánh Pius X, tuần bát nhật đã được đơn giản
hóa, và vào năm 1955 Đức Pius XII đã bãi bỏ. Nghi thức hành lễ đã nhận được địa
vị đón mừng.
Ngày 8 tháng 9, được chọn là ngày thứ tám (an octave) sau Năm Mới
Byzantine (Byzantium or Eastern Roman Empire) thời xưa. Mặc dù sự khai sinh của
Maria đã được kỷ niệm vào những ngày tháng khác nhau suốt nhiều thế kỷ, ngày 8
tháng Chín đã chiếm ưu thế chi phối. Lễ kỷ niệm Ý Niệm Tuyệt Hảo của Mẹ Maria,
8 tháng Chín, (một nghi thức tế lễ đã thành lập sau đó) đã được đưa ra tương hợp
với chín tháng trước sự ra đời của Maria.
Ở Đông phương, sinh nhật của Mẹ Maria được kỷ niệm như một trong mười hai
ngày lễ trọng. Chủ đề cho ngày lễ này ở Đông phương: “Sự khai sinh Nữ Vương Cao
Cả của chúng ta, Mẹ Thiên Chúa và Maria Đồng Trinh mãi mãi.” Khoảng năm 560, bằng
tiếng Latin nhà soan nhạc đã viết một Kontakion (a form of hymn performed in
the Eastern Orthedox Church) để tôn vinh. Bài thuyết giảng còn tồn tại cho nghi
thức tế lễ được viết bởi Thánh Andrew của Crete:
Lễ mừng hiện tại tạo sự nối kết giữa Tân Ước và Cựu Ước. Nó chỉ ra rằng
Chân Lý tiếp tục những dấu hiệu và biểu tượng và rằng Giao Ước Mới thay thế
Giao Ước Cũ. Từ đây, mọi sáng tạo hát ca với niềm hân hoan, ngợi khen, và tham
gia vào sự hoan hỷ của ngày này… Thực tế, đây là ngày mà Đấng Sáng Tạo của thế
giới xây dựng Đền Thờ của Người; hôm nay là ngày mà, bởi một dự án kinh ngạc, một
con người trở nên nơi trú ngụ được tiến cử của Đấng Sáng Tạo.
Sự hưởng ứng cho hình thức tế lễ tuyên xưng:
Sự khai sinh của Mẹ, Mẹ của Thiên Chúa, đã loan báo tin vui đến toàn thế
giới. Từ Mẹ đã xuất hiện Mặt Trời Công chính, Đức Ki-tô Chúa chúng con. Người
đã giải thoát tai họa và ban ơn phúc.
Niềm kính trọng truyền thống tôn giáo sự về ra đời của Mẹ
Maria
Thánh Thư không ghi chép ngày khai sinh của Mẹ Maria. Bài viết được xem
như sớm nhất về sự khai sinh của Mẹ Maria được tìm thấy trong Tin Mừng của
James (5: 2), là một bài viết không hợp với qui tắc Giáo Hội từ cuối thế kỷ thứ
hai. Những vấn đề mà không phải tính chất lịch sử về tầm quan trọng, nhưng tầm
quan trọng sự khai sinh của Maria và sự khai sinh của mỗi người. Đối với trường
hợp của Maria, giáo Hội ban sơ trưởng thành ngày càng chú ý đến hoàn cảnh xung
quanh về nguồn gốc của Đức Ki-tô. Sự thảo luận về Mẹ Maria đưa ra ánh sáng đồng
nhất hóa cuộc thảo luận về Đức Giê-su Ki-tô.
Giáo Hội luôn kỷ niệm về sự qua đời của một người, đó là, sự trở về cõi
vĩnh hằng của người đó. Bên cạnh sự khai sinh của Chúa Giê-su, nghi lễ Ki-tô
giáo chỉ kỷ niệm hai ngày sinh nhật khác: đó là của Thánh Gio-an Tẩy giả và của
Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giê-su. Đó không phải là sự cao trọng cá nhân của các vị
thánh này mà Giáo hội kỷ niệm, mà là vai trò của họ trong lịch sử cứu rỗi, một
vai trò đã liên kết trực tiếp tới việc nhập thế của bản thân Đấng Cứu Chuộc.
Sự khai sinh của Mẹ Maria nằm tại giao điểm của hai Giao Ước – mang đến
sự kết thúc giai đoạn của chờ mong và những hứa hẹn và khai mạc thời đại mới của
ân sủng và cứu rỗi trong Chúa Giê-su Ki-tô. Maria, con Gái của Zion (a
Canaanite fortress in Jerusalem captured by David and called in the Bible “City
of David”) và là hiện thân lý tưởng của Do Thái, là người cuối cùng và giá trị
nhất tiêu biểu của dân chúng thời Cựu Ước, nhưng đồng thời cũng là “nguồn hy vọng
và bình minh của toàn thế giới.” Với Mẹ, người Con Gái cao trọng của Zion, sau
thời gian chờ mong đằng đẵng của những hứa hẹn, thời đại được hoàn tất và một
cơ cấu tổ chức mới được thiết lập. (Lumen Gentium 15)
Những thể hiện sự khai sinh của Maria trong nghệ thuật
Sự ra đời của Maria luôn được tựu trung vì một nhóm người tham gia trong
một chuỗi nghệ thuật về chuyện đời của Mẹ; tuy nhiên, nó cũng chỉ là một đề tài
thể hiện dưới hình thức đường nét và màu sắc bởi chính nó. Sự diễn đạt được biết
đến xưa nhất là bức họa bộ đôi(diptych) vào thế kỷ thứ sáu ở Leningrad. Từ lúc
sơ khai, những bức họa đã được tạo dáng về mẫu dùng cho sự ra đời của chúa
Ki-tô, nơi mà người mẹ ở tư thế không đúng. Thay vì phong cảnh, một cái hang hoặc
một cái chuồng như sự chào đời của Chúa Ki- tô, những mẫu khác về những bố cục
thiết kế được miêu tả mà nó thể hiện phía bên trong chỗ ở. Ann, mẹ của Maria,
đang nằm trên một chiếc trường kỷ hay chiếc giường. Những đầy tớ đang bận rộn tắm
cho đứa trẻ. Bắt đầu vào khoảng năm 980 những sáng tác miêu tả ba phụ nữ. Một bức
họa rất mộc mạc, được gọi là bức họa bộ đôi Berlin từ đầu thế kỷ thứ mười hai,
trình bày một người tớ mang đến cho Ann một cái bát trong khi đứa trẻ nằm quấn
chăn trong một chiếc giường nhỏ. Những biểu đạt này chứng tỏ sự kiện vui mừng
và tự nhiên về sự ra đời của Maria.
Những tác phẩm khác đặt trọng tâm đến số phận của đứa trẻ và những lời
giáo huấn về đức tin. Pietro Lorenzetti (1342, Siena, Museum dell’ Opera del
Duomo) sắp xếp sự khai sinh trong một phòng bên cạnh của một ngôi nhà thờ trên
bàn thờ Church Field của Golf Huber, các thiên thần cùng tham gia trong sự ra đời
qua một cửa mở nước trời. Albrecht Altdorfer đặt vị trí khai sinh của Maria
trong một nhà thờ với những cây cột bởi những thiên thần (1525, Munich, Alte Pinakothek).
Trong những giai đoạn của phong cách “baroque” và trường phái “rococo”, thiên
đàng và thế gian liên kết trong những bức họa tràn trề vui sướng lúc sinh
Maria.
Trong những giai đoạn sau đó, đặc biệt sau thế kỷ mười lăm, những biểu đạt
về sự khai sinh của Maria nổi bật định mệnh của Mẹ vì sự đồng trinh tuyệt hảo,
hài nhi này đã tiên đoán bởi sự chọn lựa của Thiên Chúa để thai sinh người của
Chúa, Chúa Giê-su Ki-tô. Những lời của người thần bí, Mary của Agreda
(1602-1665) miêu tả tài tình phương thức nghê thuật để phô diễn sự khai sinh
này. Mary của Agreda đã viết, “Không chỉ là Ngôi Lời đã suy tưởng trước tất cả
những điều này bởi thế hệ vĩnh hằng từ Chúa Cha, mà thế hệ trần tục của Người từ
Mẹ Đồng Trinh đầy ơn phúc, đã được lệnh và đã suy tưởng trong trí tuệ thiêng
liêng. Bởi vì không mệnh lệnh nào hoàn toàn và hiệu nghiệm về thế hệ trần tục
này có thể tồn tại mà không cùng lúc bao gồm cả mẹ của mình, vì một người Mẹ,
Maria linh thiêng khôn ví, thế rồi và ở đó đã được suy tưởng trong mênh mông diễm
lệ, và tiền sự vĩnh hằng của Mẹ đã được ghi trong lòng của Thần Thánh, để tất cả
mọi thời đại nó không bao giờ bị phôi phai. Mẹ đã được in dấu và phác họa chân
dung trong tâm trí của Người Thợ muôn đời và chiếm lĩnh những ấp ủ không rời của
tình yêu ấy.”
(Nguồn:
Christopher O’ Donnel, At Worship with Mary; E. Sebald, “Kunstgeschichte,” and
L. Heiser, “Liturgie Ost,” and Th. Mass-Ewerd, “Liturgie West,” in Marienlexikon
2; A. Valentini, Dictionary of Mary; Jean Guitton, The Madonna.)