1. Khiêm nhường
2. Chỗ cuối
3. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
4. Khiêm tốn – ĐTGM. Ngô quang Kiệt
5. Một tình yêu mang
kích thước nhân loại -Achille Degeest
6. Sự khiêm nhường dẫn đến chỗ cao hơn -Charles E. Miller
7. Ghế Giám Mục
8. Chỗ ngồi nơi bàn tiệc - McCarthy
9. Suy niệm của William Barclay
10. Chú giải của Noel Quesson
11. Chú giải của R. Gutzwiller
12. Chú giải của Fiches Dominicales
13. Con là không,
Chúa là tất cả
14. Ai mời gọi chúng ta
15. Chọn chỗ nơi bàn tiệc
16. Ăn
17. Chọn chỗ
18. Khiêm nhường
19. Khiêm nhường
20. Khiêm nhường - Lm. Phạm Thanh Liêm
21. Suy niệm của JKN
Bào đọc thêm, từ gpcantho.com
Bào đọc thêm, từ gpcantho.com
1. Khiêm nhường
Tối hôm
ấy, ông nhà văn quyết định đem vợ và 4 đứa con của mình đi xem phim tại một rạp
hát. Khi họ đến thì trong rạp mới chỉ có sáu người. Và khi họ bước vào thì cả
sáu người trong rạp đều đứng lên vỗ tay. Ông nhà văn mỉm cười đáp lễ. Sau khi
ngồi vào chỗ, ông nhà văn bèn quay sang bà vợ và nói:
- Có lẽ họ
đã nhận ra anh vì hình ảnh của anh được đăng trên báo và những tác phẩm của anh
được quảng cáo một cách rộng rãi.
Ngay lúc
đó, có một chàng thanh niên tiến đến bắt tay ông. Ông nhà văn bèn hỏi:
- Làm sao
anh nhận ra tôi.
Thế nhưng,
chàng thanh niên đã trả lời:
- Tôi
chẳng hề biết ông là ai cả. Sở dĩ chúng tôi vỗ tay khi ông và gia đình bước vào
rạp là vì viên quản lý rạp hát đã bảo: Nếu không có thêm bốn khán giả cho đủ
mười người thì ông ta không thể chiếu xuất phim này.
Câu chuyện
trên làm cho chúng ta nhớ tới lời Chúa qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, mời gọi
chúng ta sống khiêm nhường, bởi vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ
mình xuống sẽ được nâng lên. Ông nhà văn là một người nổi tiếng, cho nên cũng
chỉ là điều thường tình, khi ông nghĩ rằng chàng thanh niên đến bắt tay ông đã
nhận ra ông là ai. Và khi hay chàng thanh niên ấy cho hay chẳng hề biết ông là
ai, thì tôi không hiểu phản ứng của ông nhà văn như thế nào? Hụt hẫng và chới
với, hay là chấp nhận giới hạn nhỏ bé và khiêm tốn của mình.
Vậy sự
khiêm tốn là gì? Chúng ta phải sống thế nào mới được gọi là người khiêm tốn?
Phải chăng khiêm tốn là tự hạ mình xuống và cho rằng mình kém cỏi? Phủ nhận
những giá trị đích thực của mình hay giảm thiểu nó đi?
Tôi xin
thưa: Không phải là như thế. Đức khiêm tốn mang một chiều kích sâu xa và tốt
đẹp hơn thế nhiều. Khiêm tốn không phải chỉ là ít nghĩ về mình, mà hơn thế nữa
còn là không nghĩ gì về mình hết. Riêng với chúng ta, những người Kitô hữu,
khiêm tốn cũng có nghĩa là trở nên giống hệt như Chúa, Đấng đã từng nói: Các
con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng… Và Con Người
đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vu và hiến mạng sống mình làm
giá cứu chuộc cho nhiều người.
Như vậy
khiêm tốn có nghĩa là bắt chước sống như Chúa, không sống cho riêng mình, nhưng
sống cho người khác, dùng tài năng của mình để phục vụ, không phải cho bản thân
và lợi ích riêng của cá nhân, mà là cho người khác và những nhu cầu của họ.
Trong mối
liên hệ với Chúa cũng như với người khác, chúng ta hãy sống khiêm tốn, từ trong
tư tưởng, lời nói đến việc làm, nhờ đó mà chúng ta sẽ được người khác yêu mến
và hơn nữa được chính Chúa chúc phúc. Bởi vì càng khiêm tốn, thì chúng ta cùng
trở nên cao cả và càng được Chúa yêu thương.
2. Chỗ cuối
Suy Niệm
Phần lớn
những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế
tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền,
chức tước.
Ai cũng
thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Người Pharisêu thích ngồi ghế danh dự
trong hội đường. Giacôbê và Gioan thích ngồi hai bên tả hữu Thầy Giêsu. Philatô
cho đóng đinh Đức Giêsu vô tội, vì ông sợ mất ghế.
Bài Tin
Mừng hôm nay cho thấy các khách dự tiệc cứ chọn ghế nhất mà ngồi.
Con người
vẫn bị ám ảnh bởi những chiếc ghế.
Chiếu
trên, chiếu dưới chẳng phải là chuyện xưa ở đình làng. Ngày nay vẫn có những
bạn trẻ cố kiếm được mảnh bằng và chỗ làm lương cao để ung dung hưởng thụ một
chỗ đứng trong xã hội.
“Ai tôn
mình lên, dù lộ liễu hay kín đáo, sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống. Ai thực tâm hạ
mình xuống qua việc phục vụ, sẽ được Thiên Chúa tôn lên.”
Đức Giêsu
mời ta vượt qua thói háo danh, để sống khiêm tốn.
Khiêm tốn
không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên.
Khiêm tốn
không phải là coi thường mình hay sợ người khác.
Khiêm tốn
không phải là rụt rè, không dám nhận trách nhiệm.
Khiêm tốn
là biết mình đã nhận tất cả từ Chúa, và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân.
Người
khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay ghế nhất.
Chiếc ghế
không phải là mục đích họ cần chiếm được, nhưng là phương tiện để phục vụ mọi
người.
Chức vụ
cho họ cơ hội cúi xuống thật gần với nỗi đau của nhân loại đang chờ họ giúp đỡ.
Người
khiêm tốn không tự tìm vinh quang cho mình, họ hồn nhiên vô tư để Thiên Chúa tự
do định liệu.
Chúng ta
dễ đánh giá người khác dựa trên ghế của họ. Nhưng một người quét đường có lương
tâm còn giá trị hơn một giám đốc tham ô lãng phí.
Đức Giêsu
nói đến việc chọn khách để mời ăn. Ngài khuyên nên mời những kẻ nghèo khó, tật
nguyền, hơn là mời những người ruột thịt, thân quen, giàu có. Ngài đưa chúng ta
vượt qua óc tính toán vụ lợi, để đi vào thế giới của những người bất hạnh.
Chúng ta
thường thích giao du với người có thế giá, có học thức, có của cải, để dễ nhờ
vả khi cần. Chính vì thế xã hội vẫn còn nhiều người bị bỏ rơi, vì nghèo túng,
kém cỏi về mọi mặt.
Hãy ra
khỏi thế giới quen thuộc của mình, để đến với những người cần chúng ta hơn.
Bao trẻ em
ở vùng xa cần giáo viên. Bao bệnh viện ở các huyện cần bác sĩ.
Ước gì
chúng ta hạnh phúc khi cho không tính toán vì thấy mình đã nhận được gấp trăm
điều mình cho.
Gợi Ý Chia
Sẻ
Theo ý
bạn, đâu là những hình thức khiêm nhường giả tạo? Một người khiêm nhường thực
sự phải là người như thế nào?
Trong môi
trường bạn sống, bạn có thấy những người bất hạnh, ít được nâng đỡ quan tâm
không? Bạn đã làm gì để giúp họ?
Cầu Nguyện
Giữa một
thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc
sống đơn sơ.
Giữa một
thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một
thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.
Giữa một
thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy Chúa
Giêsu,
xin cho
con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
xin cho
con nghe được lời mời của Chúa: “Các con hãy cho họ ăn đi.”
Ước gì
chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả
những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.
3. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
Suy Niệm
Nếu cuộc
đời là một bữa tiệc, hẳn có nhiều thực khách đã chọn chỗ nhất mà ngồi.
Tôi chọn
ngồi chỗ nhất vì tôi thấy mình quan trọng, tôi xứng đáng được hưởng vinh dự
đó...
Tiếc thay,
không có nhiều chỗ nhất trong bữa tiệc cuộc đời, nên người ta phải tranh giành
nhau bằng mọi thủ đoạn để chiếm được và giữ được chỗ nhất cho mình.
Những cuộc
tranh giành như thế đâu phải là điều xa lạ. Chúng vẫn diễn ra nơi gia đình,
trong cộng đoàn, trong nhóm, trong giáo xứ, giữa các quốc gia... Nơi nào có hai
người ở với nhau là có thể có đụng chạm, vì chỉ có một chỗ nhất.
Giữa một
thế giới tự cao tự đại, rồi xâu xé nhau, Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống tự
khiêm, tự hạ.
Nhiều khi
chúng ta hiểu sai về khiêm nhường.
Khiêm
nhường không phải là khinh rẻ bản thân, cũng không phải là thụ động, không dám
nhận trách nhiệm, trách nhiệm làm người ở đời và làm con Thiên Chúa.
Khiêm
nhường lại càng không phải là một mặt nạ để lôi kéo sự chú ý của người khác:
tôi hạ mình xuống để được tôn lên.
Abraham là
một mẫu gương khiêm nhường. Ông ý thức mình chỉ là tro bụi (Kn 18,27), nhưng
ông đã dám mạnh dạn mặc cả với Đức Chúa về số người công chính, đủ để cứu thành
Sôđôma.
Giêrêmia
đã từ chối làm ngôn sứ, lấy cớ mình còn trẻ người non dạ (Gr 1,6). Nhưng khi
ông dám nhận trách nhiệm Chúa trao, thì ông trở thành khiêm tốn và can đảm.
Nhiều
người định nghĩa khiêm nhường là chấp nhận sự thật. Nhưng chấp nhận sự thật là
điều khó biết bao, vì sự thật đòi tôi xét lại cách sống.
Khiêm
nhường là nhận biết thân phận thụ tạo của mình: những gì tôi có và cả con người
tôi, đều bởi Chúa.
Khiêm
nhường là đón nhận đời mình như quà tặng Chúa ban, và dâng lại đời mình cho
Chúa như một quà tặng.
Khiêm
nhường cũng là nhìn nhận sự thật về mình: tôi chưa hoàn hảo, tôi có nhiều giới
hạn, tôi cần được tha nhân nâng đỡ, góp ý... Tha nhân ấy không phải chỉ là
người trên tôi, mà còn có thể là người kém tôi hay chẳng ưa tôi.
Nơi lời
chỉ trích, tôi gặp được khá nhiều sự thật.
Nếu tôi
khiêm hạ trước người khác, tôi sẽ thấy được nhiều ưu điểm bất ngờ của họ. Những
ưu điểm này không phải là mối đe dọa cho tôi nhưng là quà tặng làm tôi thêm
phong phú.
“Xin cho
con biết con, xin cho con biết Chúa.”Càng biết, chúng ta càng khiêm nhường thẳm
sâu.
Thánh
Phanxicô Borgia viết: “Tôi thực tâm muốn đặt mình ở dưới Giuđa, vì tôi đã thấy
Đức Giêsu ngồi dưới chân anh ấy.”
Nếu chúng
ta chọn ngồi ở chỗ cuối, thì chỉ vì đó là chỗ ngồi quen thuộc của Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia
Sẻ
Đối với
bạn, thế nào là một người kiêu ngạo? Bạn nhận ra người đó qua những cử chỉ bên
ngoài và thái độ bên trong nào?
Theo ý
bạn, người khiêm nhường thực sự thi có những nét nào? Làm sao để tập được đức
khiêm nhường trước Thiên Chúa và tha nhân?
Cầu Nguyện
Giữa một
thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một
thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một
thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một
thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa
Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho
các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy
chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại
cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba
Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng
chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
4. Khiêm tốn – ĐTGM. Ngô quang Kiệt
1) Nhân
một bữa tiệc
Chúa Giêsu
được một thủ lãnh nhóm Pharisêu mời dùng bữa. Thời Chúa Giêsu, người Do thái
chia thành nhiều nhóm. Có nhóm của Hêrôđê. Có nhóm cách mạng chống đế quốc
La-mã. Có nhóm Essenien khắc kỷ. Có nhóm Saduce tư tế. Nhóm Pharisêu gồm các
tiến sĩ và luật sĩ chuyên giải thích lề luật. Nhóm này tự cho là mình thông
hiểu lề luật, sống đạo đức, là mẫu mực và là thày dạy của dân, nên họ tách biệt
khỏi quần chúng. Như thế thủ lãnh của nhóm Pharisêu phải là người có thế lực
rất lớn.
Được mời
dự bữa tiệc hôm nay, Chúa Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn ngồi cỗ nhất. Một
phần vì theo thói thường, ai cũng muốn tỏ mình nổi nang, được mọi người kính
trọng. Phần khác vì chủ nhà là thủ lãnh nhóm Pharisêu, là một người rất có thế
lực, nên ai cũng muốn ngồi gần ông hoặc để gây uy tín, hoặc có dịp nhờ vả ông
giúp cho một việc gì.
Vì ai cũng
muốn ngồi gần ông chủ ở chỗ nhất nên cỗ nhất thiếu chỗ. Có những bậc vị vọng
đành phải xuống cỗ dưới. Có lẽ Chúa Giêsu, vốn không muốn tranh giành, lại coi
thường những chức danh phù phiếm, nên đã tự động ngồi vào cỗ chót.
Trong tình
huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những khách không mấy quan trọng xuống
khỏi cỗ nhất. Chủ nhà mời Chúa Giêsu lên cỗ nhất, một phần vì uy tín của Người,
nhưng cũng để nghe Người nói mà dò xét, bắt bẻ.
2) Chúa
Giêsu đã dạy một chân lý trong đời sống xã hội.
Nhân hoàn
cảnh đó, Chúa Giêsu đã lên tiếng dạy ta bài học khiêm tốn.
Kiêu ngạo
là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Nổi nang hơn, giỏi
giang hơn, giàu có hơn, thế lực hơn. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không
ngần ngại tìm cách chà đạp người khác.
Kiêu ngạo
chống lại kiêu ngạo. Nên không ai ưa người kiêu ngạo. Và nhất là những người
kiêu ngạo càng không ưa nhau. Trái lại, người khiêm tốn được mọi người yêu mến.
Sách Trang tử thuật chuyện: Dương Chu sang nước Tống vào một trọ nhà kia. Chủ
nhà có hai nàng hầu, một đẹp, một xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà
ai cũng quý trọng nàng hầu xấu mà khinh rẻ nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu
hỏi thằng bé trong nhà. Chú bé nói: Người thiếu đẹp tự cho mình là đẹp nên mất
đẹp. Chẳng ai nhìn thấy cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết mình
xấu mà quên xấu. Không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu
liền gọi học trò đến dặn: Các con nhớ ghi lấy. Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho
mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu quý tôn trọng.
Vì thế
Chúa Giêsu đã khuyên ta nên biết khiêm nhường. Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng
mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ
trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật xấu hổ.
3) Nhưng
nhắm đến thực tại Nước Trời
Lời Chúa
Giêsu dạy, không chỉ nhắm sửa đổi một lề thói xã hội, nhưng trên hết, Người
nhắm tới những sự thực về Nước Trời.
Trong bàn
tiệc Nước Trời, những ai càng khiêm tốn lại càng được nâng lên cao. Vì khiêm
tốn là đi vào con đường của Thiên Chúa, là trở nên giống Thiên Chúa.
Hãy nhìn
vào gương Chúa Giêsu. Người luôn luôn chọn chỗ cuối cùng. Là Thiên Chúa, nhưng
Người không đòi cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại, Người đã tự
huỷ mình, mặc lấy thân phận nô lệ hèn yếu như ta, trừ tội lỗi.
Hãy nhìn
vào hình ảnh bữa Tiệc Ly. Trong bàn tiệc ai là người cao trọng nhất? Thưa là
Chúa Giêsu. Thế mà Người đã quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa
đã quỳ trước mặt nhân loại. Thực là một sự khiêm tốn thẳm sâu. Trong khi con
người kiêu ngạo muôn vươn lên làm Chúa, thì Thiên Chúa lại khiêm tốn hạ mình
xuống làm người. Trong khi con người hèn hạ muốn nâng mình lên bằng cách chà
đạp người khác, thì Chúa Trời cao cả lại hạ mình xuống để nâng con người lên.
Hạ mình, đó là con đường của Thiên Chúa. Khiêm nhường, đó là khuôn mặt của
Thiên Chúa. Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Thiên Chúa, xứng đáng
ngồi đồng bàn với Thiên Chúa trên Nước Trời. Nói xứng đáng không phải là do
công phúc của ta, nhưng là do tình thương của Chúa.
Ai tự nâng
mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, giá trị có đó,
nhưng rất mong manh. Ai được Thiên Chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quý,
bền vững. Mà Chúa chỉ nâng cao những người khiêm tốn.
Khiêm tốn
như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát. Trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm
mới dám hạ mình phục vụ anh em.
Khiêm tốn
như Chúa Giêsu không phải là nô lệ. Trái lại khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ
đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quý. Khiêm tốn hạ mình phục vụ
là thoát khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của
Thiên Chúa, của Nước Trời.
Lạy Chúa
Giêsu, xin dạy con biết khiêm tốn phục vụ như Chúa đã làm gương. Amen.
KIỂM ĐIỂM
ĐỜI SỐNG
1) Có
những khiêm nhường giả tạo. Theo ý bạn, khiêm nhường thực sự phải như thế nào?
2) Bạn dễ
quan tâm phục vụ người có địa vị chức quyền, hay bạn thường quan tâm đến những
người khốn khổ, bị bỏ rơi?
3) Bạn đã
bắt đầu tập đi vào con đường khiêm nhường chưa?
4) Chúa
Giêsu nêu gương khiêm nhường thế nào?
5. Một tình yêu mang kích thước nhân loại -Achille Degeest
Bài Phúc
Âm hôm nay mô tả hai nét trong tính chất đặc trưng Kitô giáo là khiêm hạ và bất
vụ lợi. Những bộ óc rất cao siêu có thể đưa ra những lời khuyên tương tự, nhưng
họ luôn luôn thiếu kinh nghiệm sống của một người từng sống như Đức Kitô. Vì
thế muốn đọc bài Phúc Âm hôm nay với một tâm tình thích hợp, phải nhờ gương mẫu
Đức Kitô soi sáng cho. Chúng ta suy niệm vắn tắt về đức khiêm hạ và đức bất vụ
lợi của Chúa Giêsu.
1) Đức
khiêm hạ của Chúa
Một trong
những nét chung của mọi tham vọng con người là lòng ham muốn giàu sang, quyền
thế, xác định cá tính, thành đạt. Ham muốn đó thường kéo theo những thái độ mập
mờ, đi tới bất công, hà khắc, khoe khoang, người ta chấp nhận tất cả miễn là
thành công. Đức Giêsu tự đặt mình ở phía đối lập cái triết lý phàm tục ấy. Chúa
khiêm hạ, không phải vì quan niệm triết lý hoăc vì nhu nhược, đơn giản chỉ vì
bản tính Chúa khiêm hạ. Chúa không phô trương một lý tưởng nhân loại, nhưng
Người muốn ở trong sự thật đối với Chúa Cha và đối với nhân loại. Cái thước so
sánh của Người, dưới thế này không có, vì nó là nhãn quan của Thiên Chúa. Như
vậy, Thiên Chúa là AI? Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu biểu lộ tình yêu khi
Người nhập thể để gặp nhân loại. Người ta có thể nói đến sự hạ mình, nhưng thật
ra đây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm cỡ con người. Khiêm hạ là
một trong những bộ mặt tình yêu. Thiên Chúa ở bên trên con người, ở tầm cao vô
cùng, nhưng vì Người là tình yêu cho nên Người mặc lấy kích thước con người,
đối thoại với con người. Vì vậy Đức Giêsu, Người-Chúa, xuống ngang tầm những kẻ
hèn mọn, những trẻ thơ, những kẻ yếu đuối. Chúa không tìm kiếm địa vị cao sang
nổi bật, Chúa khinh chê sự kết thân với kẻ giàu mạnh. Trái lại Chúa quan tâm
chiếu cố những kẻ nghèo, những kẻ bị ruồng bỏ, những kẻ ốm yếu tật nguyền, an
ủi và chữa lành họ. Kitô hữu cũng vậy, phải quan tâm chiếu cố những bạn bè quen
thuộc, nhất là không được quên rằng căn bản mọi sự khiêm hạ là tôn trọng nhân vị
kẻ khác.
2) Đức bất
vụ lợi của Chúa
Sự khiêm
hạ đích thật khiến người ta tôn trọng bất cứ ai với một tâm tình bất vụ lợi.
Lòng đại lượng của Thiên Chúa không đòi hỏi có đi phải có lại. Thiên Chúa đi
tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn mà không làm cho họ mặc cảm vì họ chẳng có gì đền
đáp. Đức Giêsu nói đến bữa tiệc mà khách quý phải thuộc giới nghèo không có khả
năng đáp lễ. Chúa đưa ra dụ ngôn ấy vì chính Người xử sự như vậy. Đức Giêsu nói
đến bữa tiệc Thiên Chúa mời tất cả mọi người không phân biệt, nhất là những kẻ
nghèo, vì nghèo mới dễ dàng nhận lời mời gọi. Về mặt thiêng liêng, kẻ nghèo là
kẻ không khoe khoang kiến thức, đức hạnh, hoặc bất cứ một ưu điểm nào khác
trước mặt Thiên Chúa. Họ biết rõ thân phận mình, nhận ân huệ của Thiên Chúa mà
chẳng có gì để dâng hiến Thiên Chúa. Con người càng nhận dễ dàng bao nhiêu,
Thiên Chúa càng tỏ ra rộng rãi và bất vụ lợi bấy nhiêu. Chuẩn bị tâm hồn để sẵn
sàng đón nhận ân huệ, chúng ta cũng có bổn phận san sẻ cho kẻ khác một cách
rộng rãi, và không vị lợi ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng ta rất hậu và nhưng
không. Chúng ta hãy san sẻ ưu tiên cho kẻ nào không có gì tặng lại chúng ta,
nghĩa là chúng ta phải rộng rãi vì tình thương không vị lợi, vì tôn trọng nhân
phẩm kẻ khác.
6. Sự khiêm nhường dẫn đến chỗ cao hơn -Charles E. Miller
Một nghi
thức ấn tượng và đơn giản đã xảy ra trong phụng vụ ngày thứ Sáu tuần thánh. Sau
khi mọi người đã tụ họp lại, vị linh mục và những thừa tác sấp mình xuống im
lặng trước bàn thờ. Đó là sự diễn tả kính sợ và khiêm nhường trước Thiên Chúa.
Vị linh mục và các thừa tác nằm trước bàn thờ như những người đã chết. Nhưng
tiếp đó họ đã đứng lên để trình bày rằng họ đã sống lại từ cõi chết của tội lỗi
và sống một đời sống mới trong Đức Kitô.
Nghi thức
cổ xưa này đã được diễn tả một cách ít bi kịch hơn trong phần nghi thức thống
hối của Thánh Lễ. Trước Thiên Chúa và trước anh em, chúng ta đã nhận biết tội
lỗi của chúng ta và nhu cầu cần lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong tâm tình
đó, chúng ta sấp mình xuống trước mặt Thiên Chúa. Đó là phương cách đầy đủ mà
Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “Khi các con được mời đến dự tiệc cưới, hãy đi và
ngồi những chỗ rốt bét”. Chúa Giêsu đã hướng dẫn theo sự khôn ngoan mà chúng ta
đã nghe trong sách Khôn ngoan: “Hãy để cho công việc của anh em được hướng dẫn
trong sự khiêm nhường, anh em càng lớn, anh em càng khiêm nhường và anh em sẽ
được nghĩa với Thiên Chúa”.
Tìm kiếm
ơn nghĩa với Thiên Chúa mà chúng ta phải có: Nhờ Người Con dâng hiến chính mình
trên thánh giá, mà Chúa Cha đã Phục Sinh chúng ta trong sự sống mới. Khi chúng
ta hạ mình khiêm nhường trong nghi thức thống hối –sau khi chúng ta đã sấp mình
một cách thiêng liêng hoặc đã đặt mình vào chỗ rốt bét- Chúa Giêsu đã nói với
chúng ta: “Hãy đến chỗ cao hơn”. Chúng ta có thể được dẫn lên chỗ của chúng ta
với giá trị mà Đức Kitô đã mặc lên trên chúng ta. Chúng ta có thể thông dự một
cách đầy đủ vào trong hy tế và bữa tiệc cưới lớn lao của Chiên Thiên Chúa.
Có lẽ một
số người trong chúng ta vướng mắc trong vấn đề khiêm nhường này. Chúng ta có
thể nhấn mạnh về sự tội lỗi và sự bất xứng của chúng ta một cách quá độ mà quên
rằng những gì mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta để Phục Sinh chúng ta khỏi tội
lỗi. Đức Kitô đã kêu gọi chúng ta tới sự thật, không phải gian dối nhưng là sự
khiêm nhường. Nói cách khác, một số người trong chúng ta có thể có thái độ hơi
sai lệch, một chút ích kỷ, hoặc những gì giống như thế và ngay lập tức chúng ta
ngần ngại tiến đến chỗ cao nhất nơi Tiệc Cưới. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta đừng
kiêu ngạo, nhưng hãy khiêm nhường.
Sự quân
bình cần thiết khi chúng ta nghĩ rằng, dù chúng ta có giá trị hay không có giá
trị. Phụng vụ cho chúng ta môt sự quân bình bằng việc khuyến khích chúng ta một
mặt chấp nhận rằng mình tội lỗi và mặt khác bảo đảm rằng chúng ta một cách nào
đó được Đức Kitô Phục Sinh khỏi sự chết của tội lỗi.
Trong kinh
nguyện Thánh Thể thứ hai, linh mục đã thưa với Thiên Chúa nhân danh tất cả
chúng ta: “Chúng con cám ơn Chúa vì Ngài đã thương đến sự yếu hèn của chúng
con, để chúng con xứng đáng đứng trước nhan Ngài và phục vụ Ngài”. Bản Latinh
thật sự mạnh mẽ bởi đã chuyển dịch theo nghĩa chữ sẽ như thế này: “Chúng con tạ
ơn Chúa vì Ngài đã làm cho chúng con nên xứng đáng đứng trước nhan Ngài diện
đối diện”.
Những
người khiêm nhường phải cẩn thận đừng bao giờ nghĩ rằng Đức Kitô thì không làm
một việc tốt khi cứu chuộc họ. Đừng bao giờ nghĩ rằng chúng ta vẫn còn là những
tạo vật khốn khổ, những người đó thì không bao giờ làm hài lòng Thiên Chúa.
Trước khi
hiệp lễ vị linh mục tuyên bố: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian
phúc cho những ai được kêu gọi đến dự bữa tiệc Chiên Thiên Chúa”. Bữa tiệc này
không phải là bữa tối sau cùng. Đó là bữa tiệ cưới lớn lao của Chúa trên thiên
đàng (Kh 19). Quả thật, phúc cho chúng ta là những kẻ thấp hèn bởi vì chúng ta
là như thế và nhờ Thánh Thể chúng ta sẽ được dẫn tới chỗ cao hơn trên Nước Trời
và chúng ta sẽ vui hưởng tiệc cưới lớn lao của Chiên Thiên Chúa.
7. Ghế Giám Mục
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Đức Giám
Mục Helder Camera là một Giám mục nổi tiếng của Châu Mỹ La Tinh. Tên tuổi của
ngài được gắn liền với những hoạt động tích cực để bênh vực những người nghèo
khổ bị áp bức trong xã hội.
Ngày nọ,
Đức Cha Camera tiếp một số nông dân nghèo tại Tòa Giám Mục. Nhiều người không
có chỗ ngồi, phải đứng trong phòng khách. Trong khi đó thì chiếc ghế dành cho
vị Giám mục thì không ai dám động đến. Thấy có một bác nông dân cao niên đứng
gần chiếc ghế bỏ không ấy, Đức Cha Camera đến cầm tay ông ấy dìu ông ngồi xuống
chiếc ghế giám mục của mình.
Đối với
một con người sống chết cho người nghèo như Đức Cha Camera thì hẳn đây không
phải là một cử chỉ khoe khoang, có tính toán. Nhưng đó là một chọn lựa cơ bản
của một con người thực sự dấn thân phục vụ người nghèo và đồng hóa mình và
những người nghèo.
Thưa anh
chị em,
Cử chỉ của
Đức Cha Camera đối với người nghèo hoàn toàn trái ngược với cử chỉ của nhóm
Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ tranh giành ngồi vào chỗ nhất, chỗ danh
dự trong đám tiệc. Chúa Giêsu đã chứng kiến được cảnh chọn chỗ nhất nầy khi
Ngài đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh của những người Biệt phái Pharisêu. Ngài
đã kể cho khách dự tiệc một ví dụ để dạy cho họ một bài học, không chỉ là thuật
xử thế mà còn về đức khiêm tốn hoàn toàn trái ngược với cái óc tự phục, háo
danh của họ.
Bài học
thật là đơn giản: Theo Chúa Giêsu dạy, người khách tới dự tiệc không nên tự
động tìm cho mình chỗ nhất, nhất là khi không chắc rằng mình là người khách quý
nhất của đám tiệc. Chỗ nhất là để dành cho người nhất, chỗ sang trọng là để
dành cho người sang trọng. Do đó mới có sự mời người nầy lên, mời người kia
xuống. Nếu được mời lên thì càng được vinh dự trước mặt các người khác mời; còn
nếu bị mời xuống thì càng thêm xấu hổ trước mặt mọi người. Không phải cứ giành
lấy chỗ nhất, chỗ sang trọng là đương nhiên trở thành người nhất, người sang
trọng. Người nhất, người sang trọng, dù có ngồi chỗ rốt hết cũng vẫn là người
nhất, là người sang trọng, và cuối cùng vẫn được đưa về lại chỗ xứng đáng của
mình. Vì vậy, Chúa nói: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống,
sẽ được tôn lên”.
Nghe
thoáng qua, xem ra Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về cách xử thế ở đời và ẩn núp
trong cung cách đó, có một chút gì là tính toán: Giả vờ ngồi chỗ cuối, để rồi
được chủ tiệc mời lên trên và khi đó sẽ được danh giá trước mặt mọi người. Đó
là khiêm tốn giả tạo, là kiêu ngạo trá hình. Cần phải lưu tâm đến câu kết luận
của Chúa: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn
lên”. Câu châm ngôn nầy đã làm sáng tỏ ý nghĩa của ví dụ: Ở đây, không còn là
cách xử thế ở đời nữa, nhưng là giáo huấn về Nước Trời được sánh ví với bữa
tiệc. Việc sắp xếp chỗ ngồi trong bữa tiệc là việc của chủ tiệc chứ không phải
của khách mời. Cũng vậy, việc tham dự vào Nước Trời không tùy thuộc vào sự đánh
giá của con người về chính mình, nhưng tùy thuộc vào lời mời gọi và đánh giá
của Thiên Chúa. Còn người trước mặt Thiên Chúa như thế nào thì chỉ là thế ấy
thôi, không hơn không kém. Do đó, để ngồi đúng chỗ của mình, mỗi người phải tự
đặt mình trước mặt Thiên Chúa, chứ không so sánh với người khác. Vì chỉ có
Thiên Chúa mới đánh giá đúng địa vị đích thực của mỗi người. Trước mặt Chúa,
con người chỉ là một tạo vật bé nhỏ, nghèo khó vô cùng. Và khi đó, khiêm nhường
chính là sự thật, giúp chúng ta hiểu đúng đắn con người của mình.
Người
khiêm nhường vì hạ mình sát đất, nên không còn có thể ngã xuống đâu được nữa,
cũng chẳng có ai tranh dành chỗ thấp ấy, nên họ luôn có sự bình an và còn được
cảm tình của nhiều người. Trái lại, người kiêu ngạo như leo lên ngọn núi cao,
dễ bị chóng mặt và té xuống tan xương nát óc. Đồng thời, vì tranh dành địa vị,
tiếng khen hơn người nên bị mọi người ghen ghét và tâm hồn không lúc nào bình
an thực sự.
Anh chị em
thân mến,
Lời Chúa
hôm nay đụng chạm đến những người Biệt phái Pharisêu tự phụ, giả hình. Họ vẫn
tự dành cho mình chỗ nhất ở mọi nơi và ngay cả trong Nước Trời. Họ dựa vào
những tước hiệu nầy nọ để bắt cả Thiên Chúa phải dành quyền ưu tiên họ vào Nước
Trời mà quên mất rằng mình phải trở nên con người xứng đáng với chỗ nhất đó.
Thực ra, chẳng những đối với người Biệt phái, mà Tin Mừng hôm nay còn đụng chạm
đến cái tôi của mỗi người chúng ta. Tuy không nói ra, nhưng thực ra ai cũng tìm
kiếm danh vọng, địa vị, thích được người khác kính nể, ca tụng, thích được nổi
bật giữa đám đông, gây được ảnh hưởng trên dân chúng.
Ngày nay,
khiêm nhường thường bị con người coi là thua kém, là yếu hèn, là nhu nhược,
nhưng lại được Thiên Chúa tôn lên. Khiêm nhường được ví như nền móng của ngôn
nhà. Nền móng càng sâu, ngôi nhà càng cao, càng vững chắc.
Chính Chúa
Giêsu, Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã bỏ chỗ nhất để ngồi vào chỗ cuối cùng
khi Ngài nhập thể làm người ở giữa loài người. Nói như Cha Huvelin: “Đức Kitô
là Ngài về chỗ đó nữa”. Và Thánh Phaolô đã nói: “Đức Kitô đã hủy mình ra không,
lãnh lấy thân phận tôi đòi… đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến
chết và là cái chết trên thập giá. Bởi vậy, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài… hầu
trước Danh hiệu của Đức Giêsu, mọi gối đều phải quỳ xuống bái lạy… và mọi miệng
lưỡi phải tuyên xưng: Giêsu Kitô là Đức Chúa” (Pl 2,6-11).
Khiêm
nhường còn là một bộ mặt của tình yêu: Vì yêu thương con người, Thiên Chúa ở
tầm cao vô biên đã hạ mình xuống ở tầm cỡ kích thước của con người. Ngài xuống
ngang tầm những kẻ hèn mọn, những trẻ thơ, những kẻ yếu đuối. Chúa không tìm
kiếm địa vị cao sang nổi bật. Chúa không kết thân với kẻ giàu có, quyền thế.
Trái lại, ngài quan tâm chiếu cố những người nghèo, những kẻ bị ruồng bỏ, những
kẻ ốm yếu tật nguyền, an ủi và chữa lành họ.
Vì vậy,
ngay trong bữa tiệc nầy, sau khi đã cho khách mời một bài học về việc chọn chỗ
chót, Chúa Giêsu cũng không quên hướng về ông chủ tiệc để nhắc nhủ ông về việc
mời khách dự tiệc. Chúa nói: khi mời khách dự tiệc, đừng mời những người giàu
sang, quyền thế. Vì như vậy chỉ là hình thức trao đổi để trục lợi. Mời người để
được người mời lại. Hãy mời những người nghèo khó, không có khả năng đáp đền.
Chúa nói như vậy, vì chính ngài đã xử sự như vậy. Thiên Chúa đi tìm kẻ nghèo
khổ để ban ơn mà không làm cho họ mặc cảm vì họ chẳng có gì đáp lễ.
Thưa anh
chị em,
Chúa Giêsu
muốn nói đến bữa tiệc Nước Trời, nơi đó mọi người đều được mời đến dự, không
phân biệt đối xử, đặc biệt mời những người nghèo, vì người nghèo dễ dàng nhận
lời mời hơn những người giàu có, quyền thế. Bữa tiệc Nước Trời Thiên Chúa đã
dọn sẵn, và chỉ những ai khiêm tốn, bé nhỏ, nghèo khó mới được vào dự tiệc.
“Chúa sẽ hạ bệ những ai quyền thế và lòng trí kiêu căng. Ngài nâng cao mọi kẻ
khiêm nhường, phận nhỏ. Người nghèo đói Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại
đuổi về tay trắng” (Lc 1,51-54).
8. Chỗ ngồi nơi bàn tiệc - McCarthy
Suy Niệm
1. NHỮNG CHỖ
NGỒI DANH DỰ
Đức Giêsu
được mời đến nhà của một người lãnh đạo nhóm Pharisêu để dùng bữa. Khi Người
đến, Người cảm thấy những người Pharisêu dò xét Người. Vì thế Người quyết định
dò xét lại họ đôi chút. Cảnh quan mà đôi mắt Người bắt gặp không có tính cách
xây dựng. Những người Pharisêu là những người rất mộ đạo, và tự coi mình là
những người gương mẫu. Tuy nhiên, ở đây họ tranh giành những chỗ ngồi danh dự,
điều đó chỉ chứng tỏ thực ra họ rất tự mãn, phù phiếm và ích kỷ. Họ không ở đó
để làm vinh dự cho chủ nhà nhưng để làm vinh dự cho chính họ. Không có đời sống
tâm linh chân thật nếu không có sự khiêm nhường. Đức Giêsu nói “Ai hạ mình
xuống sẽ được nâng cao”.
Khi chúng
ta bước vào một ngôi nhà thờ lớn, lập tức chúng ta cảm thấy phải khiêm cung.
Chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé và vô nghĩa. Chúng ta nhận thấy mình lệ thuộc vào
những điều tầm thường giả tạo. Nhưng một cách lạ lùng, chúng ta cũng được nâng
cao. Bởi lẽ khi chúng ta hạ mình xuống và buông bỏ những sự vật đã cho chúng ta
một cảm thức giả tạo về tầm quan trọng và cao siêu của mình, khiến chúng ta
cách biệt với những người khác, lúc đó chúng ta thấy mình được nâng cao. Chúng
ta bắt đầu nhận thức sự cao cả thật của chúng ta không ở trong chính mình, mà ở
trong sự kiện chúng ta là con cái của Thiên Chúa.
Mỗi Chúa
nhất, chúng ta được mời đến dự tiệc –bữa tiệc Thánh Thể. Ở đây Đức Giêsu là
chủ, còn chúng ta là khách của Người. Ở đây không có những chỗ ngồi đặc biệt-
bạn có thể ngồi vào chỗ nào mà bạn muốn. Ở đây đặc quyền, địa vị, tầng lớp
không còn ý nghĩa gì. Sự khác nhau không đáng kể. Đó là vì trước mặt Thiên Chúa
tất cả chúng ta đều bình đẳng.
Không phải
vì chúng ta đã bị hoá đồng mẫu số. Đúng hơn vì tất cả chúng ta đều được nâng
cao. Chúng ta giống những người đang ở trên đỉnh núi. Trên đỉnh núi mà nói chỗ
đầu, chỗ cuối hoặc chỗ cao hơn, chỗ thấp hơn thì thật là ngớ ngẩn. Điều đó cũng
được áp dụng cho ngôi nhà của Thiên Chúa. Ở đây, mọi chỗ đều là chỗ danh dự.
Bước vào đây làm cho mọi người được bình đẳng. Khi chúng ta bước qua ngưỡng cửa
này, mọi đặc quyền bay đi như làn khói, và tất cả chúng ta đều trở nên khiêm hạ
nhưng cũng được nâng cao lên. Trước hết, chúng ta phải hạ mình xuống để được
tôn lên. Sau đó chúng ta phải mang theo tinh thần này vào đời sống với chúng
ta.
Một lần
nọ, ông thị trưởng của một thành phố mời tất cả dân chúng của thành phố đến dự
tiệc. Trong số những người đến dự, có một người rất lỗi lạc có tên là Daniel.
Ông Daniel là một học giả lớn và là một người khôn ngoan. Dĩ nhiên, ông rất
khiêm nhường và không thích được tôn vinh khi ông đến, dĩ nhiên ông thị trưởng
mời ông ngồi ở đầu bàn. Ông Daniel cám ơn ông thị trưởng và nói rằng ông thích
ngồi ở giữa những người nghèo ở cái bàn gần cửa nhất. Và ông đã làm như thế.
Khi những
người khách mời danh giá khác đến, ông thị trưởng mời họ ngồi bất cứ nơi nào họ
thích. Dĩ nhiên họ đã chọn ngồi ở bàn đầu. Phòng tiệc đã đầy ắp và tình cờ chỗ
duy nhất còn lại ở bàn cuối. Thế mà vào phút chót con người danh giá ấy đến.
Ông thị trưởng không có chọn lựa nào khác hơn là dẫn ông này đến chỗ trống.
“Nhưng đây
là chỗ ở bàn cuối” người khách phản đối,
“Không,
đây là chỗ bàn đầu”, ông thị trưởng đáp.
“Tôi không
hiểu” người khách nói.
“Nơi nào
có ông Daniel ngồi thì chỗ ấy là bàn đầu”. Ông thị trưởng đáp.
Bài học
luân lý của câu chuyện: không phải chỗ ngồi làm vinh dự cho người khách, nhưng
người khách làm vinh dự cho chỗ ngồi. Chúng ta không biết Chúa Giêsu ngồi ở chỗ
nào trong suốt bữa ăn, nhưng dù Người ở nơi nào thì nơi ấy là một chỗ vinh dự.
Bữa tiệc
là một biểu tượng của Nước Trời. Chúng ta không nên quan tâm đến việc tìm kiếm
chỗ ngồi vinh dự trong Vương Quốc. Chúng ta hãy coi việc mọi người chúng ta đều
được mời là một đặc ân. Dù trong tình huống nào, mọi chỗ trong Vương Quốc đều
là một chỗ danh dự.
Suy Niệm 2. SỰ CHO CHÂN THẬT
Sự ban cho
hoặc dâng tặng là tâm điểm của Tin Mừng, và thuộc về bản chất của đời sống Kitô
hữu. Nhưng không phải mọi sự cho đều chân thật.
Nicholas
là một người nổi tiếng về lòng quảng đại vì đã dùng rất nhiều của cải để cho
rất nhiều người. Ông chết và được dẫn tới cửa thiên đàng.
Thánh Phêrô
chỉ cho ông thấy hai đống vàng, một đống to và một đống nhỏ, đống nào cũng gồm
nhiều cục vàng có kích cỡ khác nhau. Nicholas hỏi:
- Những
cục vàng kia để làm gì thế?
Thánh
Phêrô giải thích:
- Đó là
phần thưởng dành cho những người có lòng quảng đại. Mỗi cục vàng tương đương
với một lần cho đi mà con người thực hiện khi còn sống.
Nicholas
phấn khởi trong lòng, tin chắc mình sẽ được thưởng rất nhiều. Nhưng ngay lúc đó
Thánh Phêrô nói tiếp:
- Tuy
nhiên không phải lần nào người ta cho cũng đều là thật lòng cả đâu. Đa số những
lần cho đều do tính toán vụ lợi. Chúng là những cục trong đống vàng lớn này,
không được kể.
- Sao vậy?
- Đống
vàng lớn tượng trưng cho những thứ mà người ta cho bà con, bạn bè thân thích.
Chúng chẳng có giá trị gì cả, vì ngay cả những tên trộm cướp cũng biết cho
những người thân của mình như thế.
Thánh
Phêrô vừa nói xong thì đống vàng lớn tan thành bụi.
Tiếp đến,
thánh Phêrô lấy một cái sàng có những lỗ khá to. Rồi Ngài lấy những cục vàng
trong đống còn lại để lên sàng mà sàng. Rất nhiều cục vàng bị lọt xuống. Và
Thánh Phêrô giải thích:
- Những
cục vàng bị lọt xuống ấy là những của người ta cho đi với tính toán sẽ được cho
lại. Đó không thực sự là cho, mà là đầu tư, vì thế cũng không kể.
Thế là
những cục vàng ấy trở thành bụi.
Thánh
Phêrô chỉnh các lỗ sàng cho rộng thêm một chút. Ngài lấy những cục vàng còn lại
đặt lên sàng và sàng lần nữa. Lại một số lọt xuống:
- Đây là
những của người ta cho đi để được người khác khen ngợi. Cũng là một hình thức
mua bán, cho nên cũng không kể.
Mớ vàng ấy
lại tan thành bụi.
Thánh
Phêrô lại chỉnh những lỗ sàng cho rộng hơn nữa và lại sàng mớ vàng còn lại. Một
số lại lọt xuống:
- Đây là
những của người ta cho đi để được cảm giác mình đã làm một việc tốt. Chúng cũng
không được kể.
Và mớ vàng
đó cũng lập tức tan thành bụi.
Sau lần
sàng thứ tư, thánh Phêrô nói:
- Đây là
những của người ta cho vì bổn phận. Cũng không được kể. Và chúng cũng tan thành
bụi.
Thánh
Phêrô chuẩn bị sàng lần thứ năm thì Nicholas đưa tay chặn lại: “Thôi thôi, xin
Ngài đừng sàng nữa, vì nếu cứ tiếp tục thì tôi sẽ chẳng còn gì cả”. Thánh Phêrô
ôn tồn đáp:
- Đúng
thế, những của cho thực sự thì rất ít, cũng như vàng nguyên chất thì rất ít
vậy. Tuy nhiên anh đừng nản lòng, tôi có một tin vui cho anh.
- Tin vui
gì?
- Thiên
Chúa là người quảng đại thật lòng nhất. Nào chúng ta hãy đến gặp Ngài.
- Nhưng mà
hai bàn tay của tôi rỗng không, con không có gì cả.
- Nghĩa là
anh nghèo chứ gì! Thì càng tốt, bởi vì Thiên Chúa đối xử quảng đại hào phóng
nhất đối với những người nghèo mà tự biết mình nghèo. Thôi, đi nào”.
9. Suy niệm của William Barclay
Luca không
tả về Chúa Giêsu như một nhà khổ tu nghiêm nhặt mà như một người với những tình
cảm nhân bản, có khuynh hướng đoàn thể. Ngài sống chung với các người khác một
cách tự nhiên, thờ phượng với họ trong nhà hội, ăn uống với họ trong gia đình.
Không có một cảnh thân mật nào trong đời sống của Chúa được thánh ký phác họa
tỷ mỷ bằng một bữa tiệc ngày sa bát tại nhà một người biệt phái. Luca thấy Chúa
tiến vào nhà cùng với các khách dự tiệc, để ý thấy những giai cấp xã hội của
họ, và ngài dẫn đầu trong một cuộc đàm luận. Nhưng Ngài không bao giờ quên sứ
mạng của Ngài, Ngài nắm lấy cơ hội để nghiêm khắc khác thường, bởi vì Ngài đang
ở giữa những kẻ bên ngoài thì tỏ vẻ lịch sự, nhưng trong lòng thì thù ghét Ngài.
Nhưng Ngài đã tỏ cho mọi người ân huệ không suy giảm của Ngài về lòng Ngài ước
muốn cho họ nhận được phúc tốt nhất.
Khi thấy
khách được mời cứ tìm những chỗ danh dự, Ngài quở trách tính ham danh và dạy
một bài học về lòng khiêm nhường. Khi Chúa Giêsu khuyên khách dự tiệc: “Hãy
ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải nói: mời ông lên trên cho” thì
không phải Ngài chỉ dạy họ giữ phong thái tốt đẹp hay sự khôn ngoan trần thế,
cũng không phải khuyên nên ngụy trang sự kiêu hãnh bằng vẻ khiêm nhường. Ngài
đã đưa ra luật cao cả rằng trong những kẻ theo Ngài, sự hạ mình và cảm biết
mình vô giá trị trước mặt Chúa là điều kiện cốt yếu để được vinh dự: vì phàm ai
tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Ngài cũng
lợi dụng bữa tiệc để ban bố một thông điệp về lòng bác ái. Trong giọng nói đượm
vẻ hài hước, Ngài bảo chủ nhà khi mời khách thì đừng chỉ nhắm vào người giàu,
kẻo rồi mai họ mời lại, nhưng phải nhắm mời cả những người nghèo là những người
không có điều kiện mời lại. Lại một lần nữa, không phải Chúa chỉ dạy về những
luật theo truyền thống xã hội, nhưng minh định cái nguyên tắc thuộc linh cao
cả, cái động lực vô vị lợi cho các hành vi thiện đức: đừng bao giờ ban ơn để
rồi được nhận lại. Ngài không bảo đừng bao giờ mời người giàu hay chỉ mời người
nghèo, nhưng đừng phục vụ với hậu ý kiếm lợi. Nếu chỉ phục vụ với chủ ý mưu lợi
cho tha nhân mà không nghĩ tới mình được trả trong đời này hay đời sau, thì
hành vi đó lại chắc chắn được thưởng trong ngày Chúa quang lâm vinh hiển.
Qua đoạn Kinh
Thánh này Chúa dạy ta về khiêm nhường và bác ái.
Chúa Giêsu
đã chọn một hình ảnh quen thuộc để diễn tả chân lý vĩnh cửu. Nếu một người
khách tầm thường đến sớm và chiếm chỗ ngồi cao nhất, sau đó có một người khách
trọng hơn đến, và người chủ tiệc đề nghị người đã chiếm ghế nhất kia lùi xuống
sau thì thật mất mặt cho người ấy. Nhưng nếu có người tình nguyện ngồi ghế cuối
cùng, sau đó được mời lên ghế cao trọng hơn, thì thái độ khiêm tốn ấy lại đem
đến vinh dự.
Khiêm
nhường vốn là một trọng những đặc tính tất yếu của các vĩ nhân. Khi Thomas
Hardy được nổi tiếng đến nỗi tờ báo nào cũng sẵn sàng trả tiền nhuận bút hậu
hĩnh cho ông, thế mà khi gởi một bài thơ cho một tờ báo nào đó, ông vẫn kèm
theo phong bì dán tem và địa chỉ sẵn để tiện việc trả lại bản thảo cho ông nếu
bài bị loại. Dầu đã là vĩ nhân, ông vẫn khiêm nhường để nghĩ rằng bài của mình
có thể bị loại. Trong ngày đăng quang của Đức Piô X, lúc kiệu của Đức Tân Giáo
Hoàng vừa tiến vào đền thờ thánh Phêrô, toàn dân nhiệt liệt chào rằng “Viva
Papa”. Nét mặt Đức Thánh Cha sụ lại, mắt Ngài ngấn lệ: “Đừng hoan hô người đầy
tớ trong nhà ông chủ”. Ngài nghĩ rằng không bao giờ sự hoan hô đó lại có thể
dành cho Ngài. Chỉ có kẻ tiểu nhân mới tự tôn tự đại. Nhưng làm sao chúng ta có
thể giữ được sự khiêm tốn:
1. Chúng ta có thể giữ được mình khiêm nhường bằng sự nhận biết
thực tế. Dầu chúng ta
biết nhiều đến đâu cũng vẫn còn là ít nếu so sánh với toàn bộ tri thức. Dầu
chúng ta thành công đến đâu cũng vẫn còn rất ít. Dầu chúng ta tưởng mình quan
trọng đến đâu thì cũng cần nhớ rằng khi chúng ta chết, hoặc khi chúng ta hưu
hạ, cuộc đời và công việc cứ tiến hành như trước kia.
2. Chúng ta có thể giữ đức khiêm nhường bằng cách so sánh chính
mình với những người toàn vẹn. Khi chúng ta đã đi đây đó, đã được mắt thấy tai nghe những nhà
chuyên môn, những nhà thông thái, ta sẽ nhận mình kém cỏi biết bao. “Ở nhà nhất
mẹ nhì con. Ra đường nhiều kẻ còn dòn hơn mẹ con ta”. Nhiều người không có ý
được bước lên sân khấu nữa sau khi được nghe một nhạc sĩ đại tài trình diễn.
Nhiều diễn giả phải tự hạ mình đến chỗ hầu như tuyệt vọng sau khi nghe lời
giảng của một đầy tớ thánh của Chúa.
Và nếu
chúng ta đem đặt mình bên cạnh đời sống của Chúa Giêsu vô cùng thánh thiện, và
nếu chúng ta ý thức được sự bất xứng của mình trước ánh sáng rực rỡ chói lọi
bởi đời sống tinh tuyền trọn vẹn của Ngài, thì tính kiêu ngạo trong chúng ta sẽ
phải chết tức thì và lòng tự mãn cũng héo tàn ngay.
Ngài dạy
chúng ta về lòng bác ái. Đối chiếu với lời Chúa, chúng ta phải xét lại các lý
do ẩn đằng sau tất cả những gì có liên quan đến lòng bác ái của chúng ta.
1. Người
ta có thể ban cho vì bổn phận. Chúng ta dâng cho Thiên Chúa và cho loài người
có thể như cách chúng ta trả thuế lợi tức, như phải thanh toán một bổn phận
không thể trốn tránh được, lòng không vui chút nào.
2. Ngừơi
ta có thể cho hoàn toàn vì động cơ tư lợi. Dầu có ý thức hay không, người đó có
thể coi của mình cho như một thứ vốn đầu tư. Họ kể mỗi món tiền cho đi ghi thêm
một con số vào trương mục của mình trong ngân hàng của Chúa. Cho cách này không
phải do lòng rộng rãi, mà chỉ là sự ích kỷ có tính toán.
3. Có
người cho để cảm thấy mình là người trên. Cho như thế có thể là một sự độc ác.
Việc đó làm tổn thương người nhận hơn là từ chối thẳng thừng. Làm như vậy,
người ban cho đứng trên bậc cao của mình để nhìn xuống người thọ nhận. Người đó
có thể vừa cho vừa thuyết giáo trên đầu kẻ nhận một bài giảng vắn tắt và đầy tự
mãn. Thà không cho gì hết còn tốt hơn là chỉ cho để thỏa mãn tính khoe khoang
và tính thích cậy quyền. Các rabi Do thái có câu nói rằng cách cho tốt nhất là
khi kẻ ban không biết mình cho ai và kẻ nhận cũng không biết mình nhận từ đâu.
4. Có
người cho vì không thể không làm thế. Đó là cách cho duy nhất thành luật. Luật
của Nước Trời là kẻ nào ban cho để được thưởng công, kẻ đó sẽ được phần thưởng,
nhưng kẻ nào ban cho mà không nghĩ đến phần thưởng thì phần thưởng của kẻ ấy sẽ
chắc chắn. Chỉ có một sự ban cho đích thực là cho vì sức mạnh của tình yêu tràn
ra không thể kìm chế. Thiên Chúa ban cho chỉ vì Ngài yêu thương thế gian và
chúng ta cũng phải làm như vậy.
10. Chú giải của Noel Quesson
Một ngày sa-bát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm
Pha-ri-sêu để dùng bữa
Luca, môn
đệ của Phaolô nguyên là một người Pharisêu nên ngài dễ dàng phá bỏ hình ảnh quá
đơn giản của một Đức Giêsu được trình bày một cách có hệ thống như người chống
lại nhóm Pharisêu. Một cách tiên thiên, Đức Giêsu không chống lại một ai: Người
là Người tự do, có thể giao du với tất cả mọi người: Các người thu thuế
Pharisêu (Lc 7,36; 11,37; 14,1). Ở đây, chúng ta thấy Người được mời đến nhà
“một thủ lãnh nhóm Pharisêu”, một trong các vị thân hào này đóng vai trò lãnh
đạo trong đảng của những người công chính. Nhóm này thường chống đối Đức Giêsu
mạnh nhất.
Luca ghi
nhận đó là một ngày Sabát. Ngày này, các bữa ăn có một sự quan trọng đăc biệt.
Bữa ăn trưa liền sau thánh vụ ở Hội Đồng. Sau một kinh cộng đoàn dài, bữa ăn
mang một tính cách sang trọng hơn, vui vẻ hơn bữa ăn của các ngày làm việc.
Thật vậy, vì thời gian nghỉ ngơi trong ngày Sabát phải rất chuẩn xác nên mọi món
ăn phải được chuẩn bị vào tối ngày thứ sáu, đây là ngày “chuẩn bị” (Máccô
15,42). Như thế, tách khỏi mọi lo lắng về vật chất, những ai tiếp đãi bạn bè
hoặc gia đình họ có thể hoàn toàn sống cho tình bằng hữu, cho việc trao đổi đối
thoại. Ngày Sabát, người ta sẵn sàng mời khách. Và những “câu chuyện ở bàn ăn”
là một cơ hội để vui vẻ và để suy tư.
Những ngày
Chúa nhật của chúng ta chẳng phải đã đánh mất một cái gì đó sao?
Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói
với họ dụ ngôn này: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất,
kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả
anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị
này.’ Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.
Vậy Đức
Giêsu đã quan sát. Người đã thấy có những người khéo luồn lách để được ngồi vào
chỗ tốt. Trong mọi xã hội, người ta thừa nhận cuộc chạy đua để dành các chỗ
nhất đó. Ngày nay có hàng ngàn dấu hiệu phân biệt, và không chỉ ở bàn ăn, để tôn
cao giá trị. Từ cách trang phục cho đến xe ôtô của một địa vị xã hội nào đó,
rồi đến thói bọc làm sang trọng các đề tài phải đề cập khi trao đổi câu chuyện
vì đó là thời thượng!
Trước
tiên, rõ ràng Đức Giêsu không kể lại dụ ngôn để khuyến khích chúng ta tôn trọng
các quy tắc thế tục của sự tương xứng về xã hội và cấp bậc.
Người muốn
khuyến khích chúng ta phải hạ mình, khiêm tốn. Nhưng trước hết, như thường lệ,
Người nói với chúng ta về “Thiên Chúa”: Điều kiện nào là chủ yếu để được nhận
vào Nước Thiên Chúa?
Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho
người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ
được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn
Vâng, để
được nhận vào Nước Chúa, điều kiện căn bản chính là phải đón nhận, phải tiếp
đón Nước Trời, phải làm cho mình trở nên hoàn toàn bé nhỏ: Chính người “Chủ
tiệc” sẽ có sáng kiến và nói “hãy đến, hãy tiến lên cao hơn”. Và thật nghịch
lý, người nào coi mình là “người sau rốt” sẽ sẵn sàng hơn người kiêu ngạo, để
nhờ ân sủng, đón nhận ơn mà mình nghĩ rằng mình không xứng đáng được hưởng.
Chính những tội lỗi của chúng ta làm chúng ta cảm nhận sâu sắc sự kém cỏi triệt
để của mình: Người “tội lỗi” trở về nhà và được “công chính hóa”, trong lúc kẻ
tự phụ công chính tiếp tục đứng thẳng trước mặt Thiên Chúa kể lể những hành
động tốt của mình; “Chúa thấy đó, con không cần đến Ngài, con không phạm tội,
không trộm cắp, bất chính, ngoại tình... con làm điều lành, con ăn chay và bố
thí...” (Lc 18,9-14).
Không phải
tội lỗi chống lại ơn cứu độ nhiều nhất mà chính là tình cảm về sự “công chính
của bản thân”: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa
trước các ông” (Mt 21,31). Thánh Phao lô, lấy lại mạc khải này của Đức Giêsu,
sẽ chứng minh rằng không một ai có thể đòi hỏi sự cứu độ đời đời như một quyền
lợi căn cứ vào các công nghiệp của riêng mình qua việc hoàn thành Luật (Rm
3,21-31; Gl 2,16-21).
“Anh hãy
ngồi vào chỗ cuối!” Đức Giêsu không nặng lặp lại điều đó; trước thánh Phaolô.
Trước mặt Thiên Chúa phải biết mình “yếu đuối” “nhỏ bé” và “ở chỗ cuối”, để
hoàn toàn trông cậy vào Người, đồng thời hoàn toàn từ bỏ niềm cậy trông vào sức
lực của riêng mình (Lc 17,10; 18,10-14).
Phải nhỏ
bé như một trẻ thơ để có chỗ trong Nước Trời (Lc 9,48). Bạn hãy đặt mình vào
chỗ cuối? ông chủ sẽ cho mời bạn lên chỗ cao hơn.
Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ
được tôn lên
Tính kiêu
ngạo là tội nặng nhất trước mặt Thiên Chúa. Ai tưởng rằng mình xứng đáng không
thế có chỗ trong Nước Thiên Chúa. Kinh nghiệm lịch sử của Israel rõ ràng là sự
lật ngược các giá trị của trần gian này: Thiên Chúa đã chọn dân tộc nhỏ bé
nhất, yếu đuối nhất trong các dân tộc trên mặt đất... “Không phải vì anh em
công chính hay vì lòng anh em Ngay thẳng mà anh em sắp được vào chiếm hữu đất
ấy đã hứa cho anh em, bởi vì anh em là một dân cứng cổ... (Đệ nhị luật 9,5~ -
4,37-38; Edêkien 21,31; Thánh Vịnh 147,6). Hạ mình xuống ư. Thế giới hiện đại
không chấp nhận thái độ ấy. Ngày nay, người ta diễn tả, thái độ ấy bằng không
từ ngữ có nghĩa xấu? Nằm bẹp xuống... đào nhiệm... bò lết... nhượng bộ... đầu
hàng... Trái lại người ta ca ngợi sự phát triển, mở mang, thăng tiến.... Tuy
nhiên, sự hạ mình phải là một điều rất cao cả để Đức Giêsu khuyên chúng ta làm
và trước hết chính Người đã sống sự hạ mình ấy như thái độ của chính Thiên Chúa
ở giữa chúng ta! “Người đã chọn chỗ sau rốt đến nỗi không bao giờ và không một
ai có thể cướp lấy của Người”. Đó chính là ý nghĩa của Nhập thể: “Đức Giêsu
Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang
hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ
trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế: Người lại còn hạ mình vâng lời
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Nhưng để
nhổ bỏ mọi xu hướng khỏi thái độ ấy, chúng ta phải biết rằng khi đặt mình vào
chỗ sau rốt, chỗ của người bị đóng đinh, Đức Giêsu không giảm giá trị của minh,
Người không thua kém chính mình. Trái lại, bằng sự hạ mình ấy, Người đã biểu lộ
trọn vẹn sự cao cả tối thượng của Người. Người đã trở thành Tình Yêu Tuyệt Đối?
Người đã trở thành “con người vì những người khác!” “con người vì Chúa Cha”.
Chính trong ý nghĩa ấy, sự sống lại trong vinh quang không còn là điều trái
ngược với thập giá. Sự quên mình hoàn toàn của Người đã trở thành vinh quang
của Người. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên!
Chúng ta
không chứng kiến những nguyên tắc về lễ độ nơi bàn ăn! Chúng ta được mời gọi
đến được Nước Thiên Chúa, bằng cách noi gương Thiên Chúa, Đấng kín nhiệm, ẩn
giấu, khiêm hạ; Đấng đã làm mình thành người sau rốt, người phục vụ cho mọi
người! Không có sự đào nhiệm nào trong thái độ thánh thiêng ấy. Đó là sự cao cả
của Người. Trái lại, chính nhu cầu khẳng định mình chống lại những người khác,
thống trị họ bằng sức mạnh hoặc bằng sự mua chuộc, thúc cùi chỏ vào họ để được
đứng ở hàng đầu tiên; chính bản năng sinh vật ấy muốn là kẻ mạnh nhất thể hiện
sự yếu đuối nguyên thủy của chúng ta, tội nguyên tổ của chúng ta: Muốn được như
các thần linh... như Thiên Chúa giả hiệu ấy; ở đó chúng ta quy chiếu bản năng
chúng ta.
Trong bữa
ăn cuối cùng để chia tay ở nhà Tiệc ly, những khách mời của Đức Giêsu vẫn chưa
hiểu: “Các ông còn cãi, nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn
nhất. Đức Giêsu bảo các ông: “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị dân...
Anh em thì không như thế, trái lại ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như
người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ... Thầy đây
Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ (Lc 22,24-27).
Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi
khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng
giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi
Xung quanh
đề tài về “bàn ăn” đây là một dụ ngôn mới. Dụ ngôn này mời gọi chúng ta có thái
độ vô tư, phải cho và phục vụ không chờ đền đáp lại. “Nếu anh em yêu thương kẻ
yêu thương mình, thì có ân nghĩa gì đâu? Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và
cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. (Lc 6,32-35).
Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn
tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ
Đây cũng
là một trong các nghịch lý của Tin Mừng đi ngược nhiều với thế gian. Những lời
này thật sự là cách mạng. Thật vậy ở đây, phải hiểu rằng Đức Giêsu kể ra những
hạng người bấy giờ bị coi là những hạng người ô nhục. Một cấm kỵ lâu đời trong
nghi lễ cấm những người dị dạng tham dự các buổi lễ ở Đền Thờ (2 Samuen 5,8; Lê
vi 21,18). “Luật Qumram”, thời Đức Kitô quy định như sau: “Không một người mắc
phải sự ô uế của con người được vào trong Hội đường của Thiên Chúa! Mọi người
bị tì vết trong da thịt mà người ta có thể nhìn thấy, bị liệt ở bàn chân, bàn
tay, bị thọt, mù hoặc điếc, hoặc câm. Những người này không được vào để tham dự
ở giữa Hội đoàn của những con người danh tiếng!”. Vả lại, theo Đức Giêsu, chính
những con người bị khinh miệt ấy, những người tàn tật ấy lại là đối tượng của
các ơn huệ thiêng liêng và được mời đến Bàn Tiệc của Người (Lc 14,21). Bệnh
nhân, người đau khổ, nghèo khó, bị nhục mạ, xấu hổ, đáng thương, thương tích,
đựng sau rốt, bạn đang được Chúa yêu thương. Tấm lòng của Thiên Chúa chúng ta
lớn hơn tấm lòng của chúng ta. Sự yếu đuối của Đức Kitô còn mạnh mẽ hơn sự mạnh
mẽ của chúng ta! Khôn ngoan của Nước Thiên Chúa là sự điên rồ đối với con người.
Ai khiêm nhường ấy là phúc thật, họ sẽ được đất Đức Chúa Trời làm của mình vậy…
Như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày
các kẻ lành sống lại
Người ta
thấy rằng bởi việc nhắc đến ngày sống lại sau cùng, những lời nói về bàn ăn của
Đức Giêsu đi xa hơn những lời khuyên tầm thường khi mời khách. Nhưng điều đó
không có nghĩa là không được áp dụng vào các bình diện cụ thể hơn. Thật vậy,
những lời của Đức Giêsu nhắm đến ba loại bữa ăn:
Trước tiên
những bữa ăn của bàn ăn con người: phải chăng là điều Đức Giêsu nói với chúng
ta?
Kế đó là
bữa ăn Thánh Thể: có phải là không phân biệt ngôi thứ, mở ra cho tất cả mọi
người?
Sau cùng,
bữa ăn thời thế mạt: Thiên Chúa đã dự trù sự no nê cho những lũ tội lỗi, với
điều kiện duy nhất là họ noi gương Thiên Chúa để sống yêu thướng mà không chờ
đền đáp lại.
11. Chú giải của R. Gutzwiller
KHIÊM
NHƯỜNG (14, 7-11)
Lời khuyến
dụ thứ hai của Đức Giêsu trong bữa tiệc có nhiều điểm khác lạ. Bề ngoài đó chỉ
là vấn đề lịch sự. Ở đây Ngài còn nhận định trong phạm vi hoàn toàn tự nhiên.
Ngài thấy khách dự tiệc chọn chỗ tốt nhất, nên mới lên tiếng nhắn nhủ: ‘khi có
ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, nhưng hãy đi ngồi vào
chỗ rốt hết. Trong trường hợp này, gia chủ sẽ đến và nói: ‘này bạn, xin mời bạn
lên trên’.
Theo phép
lịch sự, không nên ngồi trên mà trái lại nên tế nhị kín đáo tìm chỗ thấp. Sắp
xếp chỗ ngồi là phận sự của gia chủ chứ không phải khách tiệc. Khi nhấn mạnh về
xã giao, Đức Giêsu đã xử sự khác thường: người ta cũng có thể nói Ngài giả hình
vì Ngài khuyên thực khách mưu mô ở dưới để được đưa lên hàn trên: ‘Khi người
mời ngươi đến nói với ngươi rằng: ‘này bạn, xin mời bạn lên trên’. Bấy giờ
ngươi sẽ được vinh dự trước mặt những người dự tiệc’.
Tuy nhiên
nếu tìm chỗ dưới với hậu ý hay hy vọng được lên cao, đó chẳng phải là khiêm tốn
giả tạo và nhún nhường một cách tinh vi sao?
Tự cao là điều không nên có nơi Kitô hữu.
Thực sự
đối với Đức Kitô thì hoàn toàn khác. Chắc chắn lời cảnh cáo những người biệt
phái của Ngài hoàn toàn có tính cách tự nhiên, nhưng còn tiềm ẩn trong đó một ý
nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Đối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng nước Thiên Chúa,
một đề tài đã được Thánh Luca nói đến trong đoạn trước. Thực vậy, Thánh Luca đã
viết: ‘và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước
Thiên Chúa’. Lời đó cũng ám chỉ những người sau hết sẽ trở thành trước hết và
ngược lại.
Chúng ta
phải hiểu lời đó của Đức Giêsu trong tương quan với ý tưởng này: ‘Vì hễ ai nhắc
mình lên sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên’. Trong tương
giao giữa người với người, khiêm nhường thường quá chịu ảnh hưởng phức tạp của
mặc cảm thua kém, yếu hèn tự nhiên, ảo tưởng sai lầm và nhận định thiếu thực
tế. Không thể ngây ngô nghĩ rằng mình thua kém tha nhân. Có thể người này hơn
người kia về sức mạnh thể xác, sắc đẹp, thông minh, năng lực, ưu điểm, tinh
thần, và các đức tính luân lý. Dẫu thế họ vẫn phải đối đáp với người khác với
tinh thần khiêm nhu.
Thái độ đó
chỉ có ý nghĩa –ý nghĩa đích thực- khi ta biết đối chiếu không phải giữa người
này với người kia, nhưng là giữa Thiên Chúa với con người và rút ra những qui
tắc cho mối tương quan đó. Khi đó khiêm nhượng trở thành chân lý và giúp ta
hiểu đứng đắn con người mình.
Trước nhan
Thiên Chúa, con người là tạo vật sánh với Đấng Tạo hoá, tạm thời với Vĩnh cửu,
tương đối với Tuyệt đối, bất tất đối với tất yếu, hữu hạn đối với Vô hạn, cho
nên dưới mọi khía cạnh vẫn là bé nhỏ trước vĩ đại. Hơn thế, con người còn khiếm
khuyết nữa và đã mang thân phận tội lỗi, con người như tội nhân ra trước quan
toà, con nợ đứng trước chủ nợ, dơ bẩn trước vẹn sạch, tội nhân trước Đấng
Thánh.
Xét như
thế –và như thế mới là cái nhìn chính xác- khiêm nhường là một thái độ tất yếu
duy nhất. Ước mong con người, dù có khiếm khuyết cũng được mời tham dự bàn tiệc
nước trời với sự khoan hồng đặc biệt. Và với tâm tình tri ân, hẳn họ sẽ hoan hỷ
chấp nhận chỗ kém.
Nếu Thiên
Chúa mời gọi họ đến với Ngài, thì hẳn Ngài sẽ cho họ chỗ trọng hơn. Đó là một
ân xá mà không thể không ngạc nhiên. Đấy là một vinh dự mà Thiên Chúa ban, lẽ
ra họ không đáng được. Chỉ có ai tự hạ với ý thức mình là hư vô mới có thái độ
chân chính, mới biết rõ lời mời gọi là ân sủng. Như thế, họ mới ở trong tình
trạng sẵn sàng nhận ân sủng đó, ân sủng sẽ nâng họ lên cao.
Trái lại,
ai tưởng mình cao trọng –họ nghĩ như thế vì ảo tưởng nào không rõ- thì chiếm
lấy cho mình những điều thuộc về Thiên Chúa, thiếu ý thức về tính nhưng không
của việc tuyển chọn, thiếu tư cách và thiếu chuẩn bị tư tưởng để đón nhận ân
sủng.
Như thế,
trong nước Thiên Chúa, khiêm nhường là điều kiện tiên quyết và cơ bản, là nhân
đức chính danh Kitô giáo, bắt nguồn từ tinh tuý sâu xa nhất của cử chỉ đạo đức.
Lời nói
của Đức Giêsu vượt ra ngoài tầm yêu sách của phép lịch sự và cách xử thế bên
ngoài, nó đem lại cho nhân loại đi xuống chiều sâu khôn dò của lòng khiêm hạ,
và tiến lên chiều cao thăm thẳm của ân sủng Thiên Chúa.
VÔ VỊ LỢI (14, 12-14)
Đức Kitô
đòi hỏi gia chủ phải vô vị lợi. Ông không nên mời bằng hữu và những người giàu
có quen biết để họ sẽ đãi lại hay dễ dàng lợi dụng cho mình: Không: ông ta nên
mời những người không hy vọng đền đáp hay không thể đối xử lịch thiệp với mình:
người ăn xin, què quặt, tàn tật và mù loà.
Ngay lúc
đó Đức Giêsu đã quy hướng về đời sau: ‘Vì chưng, khi những người công chính
sống lại, ông sẽ được đền ơn’. Ở đây có hai điểm nổi bật:
Trước hết,
quan điểm của Đức Giêsu về đời sau. Đang lúc dự tiệc trần gian, Ngài liên tưởng
đến bữa tiệc trong nước Thiên Chúa sẽ thành tựu hoàn toàn trong vinh quang của
Ngài.
Tiến về
thành thánh Giêrusalem thiên quốc. Sự viên mãn trần gian là mục tiêu viên mãn
của siêu nhiên. Thế nên, Ngài để hết tâm tư vào thời sau hết, điểm này cho thấy
lý do những điểm khai triển của Ngài trong suốt bữa tiệc.
Khi nói về
việc chữa lành trong ngày Sabat và về luật nghỉ lễ, Ngài đã nghĩ đến ngày Sabat
vĩnh cửu, trong ngày đó, mọi người sẽ được lành mạnh và được nghỉ ngơi trong
Chúa. Ngày Sabat phàm trần có lẽ chỉ là sự tiền dự, là ánh chớp ngắn ngủi của
ngày Sabat vĩnh cửu. Đó là lý do tại sao được phép chữa lành và sự chữa lành
đáp ứng tinh thần của ngày này.
Khi đề cập
đến vấn đề chỗ hơn chỗ kém, điều này chính yếu ám chỉ môt cuộc đảo ngược giá
trị và địa vị trong thế giới bên kia.
Những
người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế phải hạ xuống. Người giầu có trở về
tay trắng và kẻ nghèo nàn sẽ được giầu sang. Quyền thế trần gian đối với Thiên
Chúa chỉ là yếu hèn, và Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài mà ban sức mạnh cho
người yếu đuối.
Những
người mù loà và bất toại trong tiệc cưới cũng được như vậy. Xét theo bề ngoài
họ là những người có vẻ tàn tật và bạc phận, nhưng đối với Thiên Chúa, trong
tâm hồn, họ có thể là một người giàu có, một kẻ mạnh mẽ tiến đến Thiên Chúa,
một người tinh mắt được cái nhìn của đức tin soi chiếu. Họ đúng là một thực
khách được mời dự tiệc của Chúa.
Trái lại,
một người lân cận ‘tư sản’, một người bạn (có thể là bạn đãi bôi), một thân
nhân, có thể thực sự lại là người xa cách Thiên Chúa; nói theo lối tu đức, có
lẽ giao du với họ cũng chẳng được ích lợi gì.
Thứ nữa,
người ta có thể tự hỏi xem việc ám chỉ về đời sau là thời mà ‘khi những người
công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn’ đã không che dấu tâm trạng ích kỷ, đạo
đức hơn lòng vô vị lời chân thành sao? Phần thưởng hứa ban là gì nếu không phải
là việc chiếm hữu Thiên Chúa.
Con người
có thể và phải ao ước đến gần Ngài bao nhiêu có thể, kết hợp với Ngài một cách
sâu xa để được nhận biết Ngài một cách sâu thẳm nhất trong cuộc sống mai hậu.
Con người
được sáng tạo vì Thiên Chúa và sống bởi Thiên Chúa, khát khao Ngài mãnh liệt.
Vì niềm vui và hạnh phúc là hiện thân của Thiên Chúa mà tâm tư con người luôn
khát khao những thứ này.
Đức Kitô
đề cập đến điều đó. Chính Thiên Chúa ấn định những ước vọng đó trong bản tính
nhân loại. Con của Ngài còn củng cố và khai triển thêm. Vinh danh Thiên Chúa và
hạnh phúc của thụ tạo đều hợp với nhau và biến nên một trong thế giới bên kia.
Cho nên,
ước vọng đó của con người thật chính đáng. Trong bàn tiệc vĩnh cửu, niềm vui sẽ
ngự trị mà không bị hạn hẹp. Do đó, con người có thể và phải mong ước được tham
dự bàn tiệc đó và ở đây sẽ nhận được phần thưởng mà Đức Kitô luôn nhắc nhở và
mới thực là mục tiêu chi phối hành vi cuả chúng ta.
12. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU
ĐÃ ĐẢO LỘN TẤT CẢ
VÀI ĐIỂM
CHÚ GIẢI
1. Từ chuyện ăn uống
“Trên
đường lên Giêrusalem” (l3,22), nơi Người sẽ bị “hạ xuống chỗ thấp nhất”, trên
thập giá, “giữa hai tên gian phi” (23,33), Đức Giêsu được mời dùng bữa, “vào
một ngày Sabát”, “nơi nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu”. Một bữa ăn như thế
cũng thường là dịp nổ ra những tranh luận tôn giáo.
Chuyện mời
Chúa dùng bữa này chức không phải là không có dụng ý, bởi Luca ghi nhận: “họ cố
ý dò xét Người” (14,1).
Vừa vào
bàn, Đức Giêsu đã gặp ngay “một người mắc bệnh phù thũng”, và Người không ngần
ngại chữa lành nạn nhân, dù hôm đó là “ngày Sabát”, vậy mà các nhà thông luật
và những người Pharisêu có mặt “không thể đáp lại lời nào” (14,6).
2. Mọi quy tắc về ngôi thứ bị đảo lộn:
Đến lúc
vào bàn ăn, Người lại bỡ ngỡ trước cảnh những khách mời cứ lo tranh dành nhau
“cỗ nhất mà ngồi”. Thực ra phải nói là gối nhất mà nằm, bởi vào thời đó, trong
các bữa tiệc, người ta nằm mà ăn trên những bộ ghế dài. Nhưng chỗ nhất đó, theo
lời giải thích của A. Stoger, là những chỗ gần chủ nhà nhất. Các gối nằm được
xếp theo ba nhóm. Ví trí danh dự ở vào phía trước hay ở chính giữa. Vào thời
Đức Giêsu, ngôi thứ trong bàn tiệc được ấn định tuỳ tầm cỡ danh giá của thực
khách, tức là phụ thuộc vào chức vị và tài sản của người đó.
Sử dụng
lời nói dạy khôn ở đời, nói mà không gây tổn thương hay xúc phạm đến ai, Đức
Giêsu ngỏ lời trước hết với những khách được mời: “Khi anh được mời đi ăn cưới,
thì đừng ngồi vào cỗ nhất”.
Chúng ta
đừng vội lầm! Ở đây Đức Giêsu không có ý dạy một bài học về nghệ thuật ứng xử ở
đời để nhằm thành đạt nhờ những thủ đoạn khéo léo. Đàng khác, để loại bỏ mọi
hàm hồ, Luca xác định rõ Đức Giêsu diễn tả bằng “dụ ngôn” (c.7) và Người đề cập
đến “những bữa tiệc cưới “ (c.8), một đề tài lớn trong truyền thống Kinh Thánh,
gợi lên bữa tiệc cưới giữa Thiên Chúa và loài người. Thực thế, dựa vào một câu
trong sách Châm Ngôn (“Chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta
bảo: “Xin mời ông lên trên!” còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức
trọng”) (Cn 25,6), Người cho thấy việc hình thành Nước Thiên Chúa gây nên một
sự đảo lộn như thế nào trong thái độ sống của con người – ngược lại với thói
thích ăn trên ngồi trước trong xã hội Do Thái: “Trái lại, khi anh được mời, thì
hãy ngồi vào chỗi cuối...”
Trong suốt
lịch sử dân Do Thái, sự thực cho thấy Thiên Chúa luôn đứng về phía những thành
phần bé nhỏ và khiêm tốn: “Người thấp hèn sẽ được Chúa nâng lên, kẻ quyền thế
sẽ bị Người hạ xuống”, ngôn sứ Êdêkien xưa đã loan báo như thế. Hôm nay, đến
lượt Đức Giêsu cũng công bố: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ
mình xuống sẽ được tôn lên”. Và con đường mà chính Người đường bước đi để tiến
về Giêrusalem không gsì khác hơn là con đường của sự khiêm nhường và hạ mình.
N. Quesson
đưa ra nhận xét: “Chúng ta thấy, đây chẳng đơn giản chỉ là những lời dạy về
phép lịch sự ở bàn ăn. Chúng ta đang được mời gọi đến với Nước Thiên Chúa bằng
cách noi gương Chúa là Đấng âm thầm, ẩn mình; khiêm tốn. Người đã tự nguyện làm
kẻ cuối hết, làm đầy tớ phục vụ mọi người! Sự cao cả của Chúa là ở chỗ đó”
3. Thành phần được mời cũng bị xáo trộn.
Sau khi
ngỏ lời với những khách được mời, giờ đây, câu chuyện của Đức Giêsu quay sang
nói với những người đứng ra đãi tiệc. Cũng vẫn với kiểu nói dạy lẽ khôn ngoan:
“Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối...”. Và nhân danh tính chất mới mẻ
của Nước Trời, luôn luôn nhằm mời gọi phải có một cách sống ngược lại với lề
lối thông thường của loài người chúng ta.
Theo lẽ
thường, ai trong chúng ta cũng chỉ mời những người có liên hệ với mình cách nào
đó: bà con họ hàng, thân hữu, những người gần gũi do yếu tố tinh thần, tư
tưởng, hay một cái gì đó; và những người này đến lượt họ lại phải mời lại chúng
ta để “đáp lễ”. Trái lại, theo lời kêu gọi của Đức Giêsu, chúng ta hãy mở rộng
bàn tiệc cho tất cả những ai không có khả năng đáp lễ: người nghèo, kẻ bị loại
trừ, thành phần bị con như đồ bỏ. Tại sao? Bởi vì đó chính là cách xử sự của
chính Thiên Chúa. Người tỏ lòng thương yêu đặc biệt đối với những người phận
nhỏ, thấp hèn, và sẵn sàng mời vào bàn tiệc của Người những kẻ “tàn tật, đui
mù, què quặt” (Lc 14,15-24). Những người này từng thuộc diện bị Lề Luật khai
trừ khỏi sinh hoạt tế tự ở Đền Thờ (2 Sm 5,8 và Lv 21,l8)
Khi thuật
lại những lời này của Chúa, Luca có ý nhắc nhở cho mọi anh chị em Kitô hữu xưa
cũng như nay – phải cử hành nghi lễ Bẻ Bánh trong Ngày của Chúa với tinh thần
nào. Với cung cách của chính Đức tin, Đấng đã muốn sống giữa anh em như “một
người phục vụ” (Lc 22,24-27). Bữa Tiệc của Chúa dứt khoát không chấp nhận những
tranh dành ngôi thứ, nhưng ngược lại đòi hỏi thái độ phục vụ lẫn nhau vô vị lợi
(x. 1Cr 11,17-22. 33-34).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Một lô-gic mới không ai ngờ.
“Những ai
mong sẽ tìm thấy nơi giáo huấn của Đức Giêsu một nền đạo lý bay bổng, sẽ phải
thất vọng thôi. Điều Người dạy xem ra rất thường. Nó còn có vẻ như phát xuất từ
một sự tính toán hơi vị kỷ: giả bộ ngồi vào chỗ cuối để cho thiên hạ chú ý, mà
trong bụng thì nhắm chỗ khác ngon hơn”.
Lời Đức
Giêsu dạy, bao giờ cũng vậy. rất tinh tế. Nó mang nhiều tầng lớp ý nghĩa khác
nhau. Có thể hiểu như là một lời khuyên về cách xử thế, theo kinh nghiệm khôn
ngoan về mối giao tiếp giữa người với người. Có thể hiểu như là lời mời gọi
phải tránh thói thổi phồng chính mình, phải tập luôn luôn ăn ở khiêm tốn. Nhưng
coi chừng! Ở đây đang nói về những bữa tiệc cho những đầu óc thấm nhuần Kinh
Thánh và quen với tính chất ẩn dụ trong ngôn ngữ của Đức Giêsu. Đây cũng chính
là bữa tiệc cưới của Thiên Chúa với loài người, “Bữa Tiệc Nước Trời”, biến cố
Thiên Chúa can thiệp để đổi mới địa cầu như hằng được mong đợi.
Một cách
kín đáo, Đức Giêsu xác nhận lại điều Người đã từng nói: đối với Thiên Chúa, kẻ
cuối hết là người trước hết. Bài Magnificat đã hát lên rằng: “ Chúa hạ bệ những
ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Qua toàn bộ cách sống của
mình, Người Thợ Mộc làng Nadarét kia đã chứng tỏ một sự quan tâm đặc biệt tới
những người bệnh hoạn, tật nguyền, những người “nghèo” nhất trong số những
người nghèo.
Theo cái
logic đó, Đức Giêsu bồi thêm một câu kết luận bất ngờ và khiến ai nấy kinh
ngạc. Người quay sang phía chủ nhà và trách ông ta chỉ biết mời có bạn bè, bà
con và láng giềng giàu có. Người ta có thể tưởng tượng những khách được mời sẽ
phản ứng thế nào! Không lẽ phải rút lui hết để nhường chỗ cho hạng “tàn tật,
què quặt, đui mù?”. Tiệc tùng như thế còn ra cái gì nữa?
Vẫn cứ mãi
“hôm nay”, lời của Đức Giêsu tiếp tục giải phóng, mở rộng, mời gọi con người đi
tới. Lời đó được gởi đến mỗi người, được gởi đến mọi người. Ai sẽ là người biết
mời những kẻ không thể có khả năng đáp lễ lại? Cho đến bao giờ các dân tộc giàu
có cứ ăn uống dư thừa trong lúc những dân tộc khác đang chết đói? Biết lúc nào
chúng ta mới bắt đầu cử hành ‘tiệc cưới’, ‘bữa tiệc của Thiên Chúa’, ‘bữa tiệc
của mọi người’? và ‘sống ngay từ trần thế này cuộc phục sinh của các kẻ lành?’.
2. Thiên Chúa tự tỏ ra trong sự ẩn mình
(“Missel
Emmaus des dimanches”, trg l091).
“Không gì
ngăn cách con người khỏi Thiên Chúa cho bằng sự kiêu căng tự phụ, khi con người
chỉ biết tìm kiếm vinh dự cho chính mình. Thói kiêu căng chỉ giam hãm con người
trong những giới hạn của riêng mình, đồng thời chỉ mưu vùi dập người khác
xuống. Nó ngược hẳn với cung cách của Thiên Chúa: Người biểu dương vinh quang
của Người, tức là chính tình yêu, bằng cách tự xoá mình đi. Chính trong sự ẩn
mình của Thiên Chúa, chúng ta lại càng khám phá ra được vẻ cao cả đích thực của
Người. Đó là điều Đức Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy khi Người hạ mình làm đầy
tớ phục vụ loài người, khi Người vui lòng chịu đóng đinh vào thập giá. Đó cũng
là điều Người mời gọi chúng ta nhận ra qua Bữa Tiệc Thánh Thể. Tuy nhiên, khiêm
nhường thật không phải là chuyện dễ. Đôi khi chúng ta làm ta vẻ khiêm tốn chẳng
qua để được thêm vinh quang danh dự mà thôi. Chỉ mình Thiên Chúa có thể giải gỡ
chúng ta khỏi vòng vây của thói kiêu căng tự mãn”.
13. Con là không, Chúa là tất cả
(Trích
trong ‘Sợi Chỉ Đỏ’)
Một hôm
Dương Chư sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu,
một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý
trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi
cậu bé giúp việc.
Cậu bé
tiết lộ:
- Người
thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn
nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn
nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu
liền gọi học trò đến dặn:
- Các con
hãy ghi nhớ lời này: Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi, thì đâu mà
chẳng được người yêu quý tôn trọng.
“Ai tôn
mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Đức
Giêsu rất ưa thích sự khiêm nhường mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một
vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã khiêm hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là
bậc thầy trong thiên hạ, lại quỳ xuống rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là
“chỗ nhất” trên trời cao, nhưng lại chọn “chỗ cuối” dưới chân con người.
Đức Giêsu
tự hạ mình xuống như thế không phải là để được tôn lên, vì dưới vòm trời này
ngôi báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự huỷ như thế cũng
là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế,
khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm
phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có thể
nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là “tự nhận mình là không và Chúa là tất
cả”, nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người.
Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên.
Thánh
Giuse đã khiêm nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo
Nadarét, nên đã được tôn làm cha nuôi Chúa Cứu Thế.
Đức Maria
đã khiêm nhường nhận mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, nên đã được tôn làm Mẹ Thiên
Chúa.
Noi gương
Chúa, biết bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm nhường
làm những công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở
loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt đưọc từ đường
phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc hậu.
Chính khi
yêu thương vô vị lợi, chính khi chúng ta “đãi tiẹc những kẻ nghèo khó, tàn tật,
què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại”, thì chúng ta “mới thật
có phúc”, vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta. Người không có ý phân
biệt giàu nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là anh em. Nhưng
Người muốn lưu ý chúng ta rằng: dù người được mời giàu hay nghèo, thân hay
không thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại theo kiểu “ăn miếng trả
miếng”. Đó là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có thể
chúng ta thực thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì muốn
hơn người, vì trách nhiệm, hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực
chính là trao ban vì yêu thương. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thương thế
gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người” (Ga 3,16). Chỉ những ai trao ban vô vị
lợi, mới trở nên giống Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
Chúa thương những kẻ khiêm nhường, vì họ luôn nhận mình yếu hèn và chỉ cậy dựa
vào Chúa mà thôi.
Xin Chúa
dạy chúng con biết khiêm nhường mà phục vụ, dấn thân và trao ban mà không mảy
may tính toán, vì Chúa sẽ yêu thương chúng con nhiều hơn. Amen.
14. Ai mời gọi chúng ta
“Rồi Chúa
Giêsu nói…”. Tiếng ‘rồi’ đưa vào một bài học thứ hai thường bị che giấu bởi vì
người ta không thích theo dõi lắm.
Được mời
dự một bữa tiệc xa hoa, được chuẩn bị kỹ lưỡng cho tới cả những chỗ ngồi nơi
bàn tiệc, Chúa Giêsu quan sát, nói đùa và lưu ý sắc bén đến quyền ngồi trên:
“Chớ ngồi chỗ cao nhất”.
Bữa tiệc
tiếp tục, Chúa Giêsu buồn phiền và không có gì tốt hơn nên Ngài tiếp tục quan
sát. Người ta ở vào số những người ‘lành’, Ngài hơi ngột ngạt trong cái thế
giới quá được chọn lựa này. Đâu là những người không được yêu thương mà Ngài
luôn luôn lo lắng đến? Ngài đưa ra một ý tưởng chấn động: “Khi muốn tổ chức một
bữa ăn ngon, ngươi đừng nghĩ đến người bạn này, người bà con nọ hoặc người láng
giềng kia làm bạn quan tâm. Tốt là ngươi hãy mỡi những người nghèo, những kẻ
tàn tật”.
Đây là
điều khó nuốt. Bạn thấy mình đang xáo trộn việc mời khác theo kiểu này phải
không? Nhưng điều tiếp theo có lẽ còn khó chịu hơn nữa: “Ngươi sẽ được trả công
trên trời”. Nào tốt lắm! Đây cũng vẫn là đức tính khéo léo. Lời khuyên vào đầu
bữa tiệc là: “Hãy chọn chỗ thấp, người ta sẽ mời ngươi lên trên”. Bây giờ là
tới tư tưởng mới: “Ngươi hãy mời những người không có khả năng đáp lễ, họ sẽ
nhờ Chúa trả công cho ngươi”. Đây là những lời khuyên lạ lùng.
Họ yêu cầu
được lắng nghe trong một ánh sáng nào đó: đối với Chúa Giêsu, bữa tiệc luôn
luôn là một biểu tượng của cuộc sống với Thiên Chúa. Ở đây, Chúa Giêsu khởi đi
từ hai thái độ rất con người. Đây là những phản xạ của người được mời: “Miễn là
tôi không ngồi ở cuối bàn… Người ta có đặt tôi ngồi bên phải ông chủ tịch hay
không? … “Và đây là những phản xạ của người mời: tổ chức những bữa tiệc hấp dẫn
và có ích.
Nhưng
trong khi rút chúng ta ra khỏi những lo lắng của chúng ta, Chúa Giêsu đột ngột
khai mở cho chúng ta ý nghĩ có thể có trong đó: Khi ngươi hành động như
vậy, ngươi là người nào trước mặt Thiên Chúa?
Bạn lo
lắng đến việc xã hội đánh giá bạn, bạn đo lường sự đánh giá đó và hơi băn khoăn
đối với việc người ta tiếp đón bạn trong các buổi tiếp tân. Không phải loại bỏ
cũng như phóng đại điều đó, đó không phải là điều quan trọng. Bạn hãy đi xa hơn
nữa! Cho đến giá trị của bạn trước mặt Thiên Chúa. Chính việc bạn
là như thế nào trước mặt Ngài với một ngày kia tạo nên giá trị thực và quyết định
của bạn. Đây là điều sẽ được tất cả mọi người ca ngợi hoặc xét như là điều tệ
hại nhất trong các điều thất bại.
Và những
bữa tiệc trứ danh, những lo lắng của bạn về những khách mời thì sao? Tôi đã làm
bạn hơi xúc động khi nói bạn đừng mời những người bạn quan tâm. Đó là để bạn
nới lỏng những lãnh vực có ích và thân thiết với bạn để nhìn vào tâm lòng của
bạn là người mời dự tiệc. Đứng trước tâm lòng của Thiên Chúa! Đôi khi bạn có
mời một cách trong sáng, chỉ với ý tưởng làm cho một người được hạnh phúc hay
không? Người hạnh phúc đó sẽ không đáp lễ bạn gì cả.
Cái được
thua là rất to lớn, phải đọc kỹ những lời cuối cùng này: “Ngươi sẽ được
hạnh phúc. Và ngươi sẽ được báo đáp trong cuộc sống vĩnh cửu”. Chúa
Giêsu đi ngay đến kết quả cuối cùng, nhưng “ngươi sẽ được hạnh phúc” là một
hạnh phúc tức khắc: ngươi hạnh phúc vì mời những người như thế. Một ngày kia
bạn sẽ được ngồi cùng bàn với Thiên Chúa bởi vì ngay từ bây giờ, bàn tiệc của
ngươi là bàn tiệc của Thiên Chúa.
Do đó đây
không phải là việc mời gọi người khuyết tật cô đơn này hoặc bà quả phụ kia để
chiếm được một chỗ tốt trên thiên đàng. Phải, và đây là điều khó khăn khác, là
người bình thường thực hiện những cử chỉ đó đến độ người ta có thể nói chúng
ta: “Tại nhà người ấy, người ta cảm thấy như tại nhà của Chúa”.
15. Chọn chỗ nơi bàn tiệc
Một học
giả người Mỹ tên là Tom Roberson đã kể về một cầu thang dài ở nơi hành hương
bên Trung Quốc. Cầu thang này là giai đoạn cuối cùng của con đường leo lên núi
hành hương, vì đã hơn cả 1000 năm dòng người hành hương đã làm những bậc cầu
thang bị mòn và thậm chí nguy hiểm.
Trên thực
tế, đã có rất nhiều người hành hương bị trợt té và bị tai nạn. Những người ở
trong vùng đã đề nghị các vị tăng ni ở đó nên sửa chữa lại những bậc cầu thang,
vì e rằng họ có thể bị mất khách hành hương và đó cũng là nguồn trợ cấp cho
thiền viện. Nhưng vị sư chủ trì đã từ chối và nói rằng, thật đáng tiếc cho
những khách hành hương bị tai nạn, nhưng điều này có thể là vì họ ngẩng đầu quá
cao. Tuy nhiên, họ chỉ là số ít trong số những cả triệu người nhận biết rằng,
trong cuộc sống người ta phải bước đi cẩn thận. Ngẩng đầu cao nhưng không quá
cao không đến nỗi không thấy cái hố cao trước mặt.
Chương 14
Tin Mừng thánh Luca đã đưa vào vài câu chuyện và lời dạy của Chúa Giêsu, đặc
biệt trong đoạn văn nói về tiệc cưới. Chúa Giêsu không lạm dụng sự quảng đại
của chủ nhà mà lấy lời giảng dạy để chỉ trích họ, nhưng thánh Luca đã biến bữa
ăn thành cơ hội để Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có thái độ thích hợp đối với
bàn tiệc cứu độ của Thiên Chúa mà Ngài đã dọn sẵn cho chúng ta là dân của Ngài.
Như thế,
chúng ta phải đón tiếp nước Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta như thế nào?
Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn để dạy những người thích chọn
chỗ vinh dự nơi bàn tiệc. Không nên làm như vậy, mặc dù mình là nhân vật quan
trọng, kẻo phải nhường lại chỗ đã chọn cho những khách đặc biệt khác quan trọng
hơn mình, lúc đó mình sẽ bị xấu hổ.
Chúa Giêsu
dùng dụ ngôn này để phá đổ sự kiêu căng lố bịch và dạy một bài học về khiêm
tốn. Ngài đã tuyên bố: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ
được nâng lên”. Và ngay trong bài đọc I sách Huấn Ca cũng đã khuyên nhủ: “Hỡi
con, con hãy thi hành công việc của con cách hiền hòa. Càng làm lớn con càng
phải hạ mình khiêm tốn trong mọi sự thì con sẽ được đẹp lòng Chúa”.
Hình như
lòng khiêm tốn không còn chỗ đứng trong một xã hội đầy cạnh tranh gay gắt, và
xem ra khiêm tốn chỉ là một thứ mặt nạ để người ta chú ý đến mình nhiều hơn.
Điều này rất dễ được nhận thấy khi được người ta khen ngợi và ca tụng. Nhưng
trái lại, khiêm tốn Kitô hữu đích thực là chân thành nhìn nhận tình trạng thực
tế trong thân phận của chính mình trước mặt người khác và trước mặt Thiên Chúa,
qua một thân phận yếu kém và bất toàn, một thân phận yếu đuối và cả tội lỗi
nữa. Một khi chân thành biết sự giới hạn của mình thì càng trở nên khiêm tốn
hơn và đón nhận tình thương của Thiên Chúa nhiều hơn.
Trong câu
chuyện hai người vào đền thờ cầu nguyện, một người kể công và khoe khoang những
việc mình làm, và một người đứng xa xa chỉ biết đấm ngực xin Chúa thương xót,
Chúa đã chiếu cố đến người khiêm tốn này. Khiêm tốn là bài học đầu tiên cho
lòng hối cải và sự tha thứ. Khiêm tốn là cửa ngõ để ta bắt đầu bước vào nhìn
nhận và thông cảm với anh chị em xung quanh chúng ta. Và khiêm tốn chính là chỗ
ngồi trong bàn tiệc cứu độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho mỗi người.
Trong tu
đức, trái ngược với khiêm tốn là kiêu ngạo và người ta xếp kiêu ngạo vào hàng
thứ nhất của bảy mối tội đầu. Thánh Augustinô cũng đã dạy rằng: “Trước tiên con
phải có lòng khiêm tốn, nếu không, dù có làm việc đạo đức tốt lành đi nữa thì
chính tính kiêu ngạo cũng xen vào làm cho hư mất”.
Chúa Giêsu
đã đưa ra cho chúng ta một mẫu gương để noi theo học tập, và sau bài học yêu
thương đó là bài học khiêm tốn: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm
nhường trong lòng”.
Hãy ngẩng
đầu để thấy trời cao đẹp đẽ và đầy hy vọng, nhưng cũng hãy nhìn xuống đất để
biết đôi chân của mình đang đi mà vững bước trên đường. Hãy yêu thương để sống
quảng đại và hãy khiêm tốn để sống biết đón nhận, đó là thái độ của người Kitô
hữu chúng ta. Giờ đây chúng ta cùng tuyên xưng đức tin.
16. Ăn
Người Việt
Nam chúng ta rất coi trọng cái ăn. Chữ ăn có thể được ghép với bấy kỳ chữ nào
trong tiếng Việt: từ an chơi, ăn tiệc, ăn cưới đến ăn đòn, ăn gian, ăn năn. Chữ
ăn dường như bao trùm bàng bạc trong suốt cả cuộc sống.
Ăn không
phải chỉ là một nhu cầu của thân xác, mà còn là một sinh hoạt biểu lộ nhân
cách, biểu lộ tính người của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải biết giữ phép lịch
sự trong khi ăn như tục ngữ đã bảo:
- Ăn trông
nồi, ngồi trông hướng.
Cũng như
phải tránh đi những căng thẳng làm mất đi bầu khí thân mật của bữa ăn:
- Trời
đánh còn tránh bữa ăn.
Và nhất là
đừng để cho miếng ăn trở thành miếng nhục khi con người không còn thể hiện được
nhân cách, không còn thể hiện được tính người của mình trong cái ăn. Đó là
trường hợp của những bon chen vàdành giật, như ăn tham, ăn hối lộ…
Ăn đối với
con người thiết yếu là ăn cùng, ăn với, nghĩa là phải thể hiện được đòi hỏi cao
quí nhất trong tình người, đó là sự chia sẻ và tình liên đới với người khác.
Hiểu như
thế, chúng ta mới thấy được tại sao Chúa Giêsu đã dành một chỗ đứng quan trọng
cho cái ăn trong cuộc sống công khai của Ngài.
Thực vậy,
Tin mừng đã ghi lại rất nhiều sinh hoạt của Chúa Giêsu về cái ăn.
Ngài đã đi
ăn cưới tại Cana. Ngài đã tới ăn tiệc do người biệt phái khoản đãi. Ngài đã ăn
những bữa cơm thân mật tại Bêtania. Ngài đã cùng ngồi ăn với những người thu
thuế và tội lỗi, chẳng hạn tại nhà ông Matthêu và tại nhà ông Giakêu.
Sau khi
sống lại, Ngài đã hiện ra với các môn đệ trong lúc ăn uống. Và quan trọng hơn
cả, Ngài đã thiết lập giao ước mới trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ.
Hơn thế
nữa, Ngài lại còn thường dùng hình ảnh bữa ăn trong những lời rao giảng của
mình. Biết bao nhiêu lần, Ngài đã sánh ví Nước trời như một tiệc cưới,trong đó
Thiên Chúa mời gọi tất cả, không trừ một ai.
Dưới mắt
Thiên Chúa, điều làm nên giá trị cho con người không phải là tài năng hay sự
thành đạt trong xã hội, mà chính là tình yêu phục vụ.
Chúa Giêsu
không kết án những người chiếm địa vị cao ngoài xã hội. Nhưng theo quan điểm
của Ngài, càng có quyền thế, thì lại càng phải hy sinh và phục vụ nhiều hơn.
Giá trị đích thực của con người chính là phục vụ và phục vụ một cách vô vị lợi.
Người
nghèo nhất trong xã hội sẽ được coi là người cao trọng nhất trong Nước trời,
nếu người đó biết thực sự sống yêu thương và phục vụ.
Chính Chúa
Giêsu cũng đã sống trọn vẹn cho yêu thương và phục vụ trong suốt cuộc đời trần
thế. Thực vậy, là Thiên Chúa, Ngài đã tự hạ đến chỗ cuối cùng, để có thể yêu
thương và phục vụ những người kém may mắn nhất. Tình yêu thương và tinh thần
phục vụ đã đưa Ngài tới chỗ hèn kém nhất của xã hội, đó là chịu chết trên thập
giá như một tội nhân bị bêu xấu.
Ngoài ra,
Ngài còn mời gọi chúng ta cũng phải biết noi gương Ngài để yêu thương và phục
vụ lẫn nhau, nhờ đó kéo dài tình thương của Thiên Chúa cũng như tung vãi hồng
ân của Ngài cho anh em đồng loại.
Ngài nói
với chúng ta:
- Khi dọn
bữa trưa hay bữa tối, các ngươi đừng mời bạn bè, anh em bà con hay láng giềng
giàu có, mà hãy mời những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù…vì họ không
có gì để mời lại các ngươi.
Và trong
bữa tiệc ly, Ngài cũng nói với các môn đệ:
- Nếu Ta
vừa là Thầy vừa là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng hãy rửa
chân cho nhau.
Thể hiện
tình yêu thương của Thiên Chúa là thương yêu không biên giới, là thương yêu
không so đo, không tính toánh.
Đức Kitô
đã không giam mình trong một giai cấp nào cả, tình yêu thương của Ngài đã trải
rộng trên mọi người. Mặc dù Ngài đã dành ưu tiên cho những người nghèo hèn,
nhưng đồng thời cũng không bỏ rơi những kẻ giàu có. Ngài đã ngồi ăn với những
người thu thuế và tội lỗi, nhưng vẫn nhận lời mời đến dự tiệc do một người biệt
phái khoản đãi. Người không phân biệt đối xử và không loại trừ một ai.
Hãy yêu
thương và biểu lộ tình yêu thương ấy bằng những công việc phục vụ cụ thể, bởi
vì yêu thương chính là cho đi.
17. Chọn chỗ
“Phàm ai
nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Đó là lệnh
truyền của Chúa Giêsu cho tất cả những ai muốn theo Ngài. Giới luật này xem ra
thật đơn giản, nhưng trong thực tế ai trong chúng ta cũng phải nhận đức khiêm
nhường là một nhân đức phức tạp khó lường. Khiêm nhường là nhìn nhận sự thật.
Sau khi đã sáng chế ra điện tính, ông Samuel đã lãnh nhận được rất nhiều giải
thưởng, nhưng ông luôn cho mình bất xứng với những lời khen tặng đó, ông đã
nói: “Tôi được hân hạnh đóng góp vào nền văn minh của nhân loại, nhưng không
phải vì tôi tài giỏi hơn kẻ khác, mà chỉ là vì Thiên Chúa muốn ban quà tặng này
cho nhân loại, nên khi đã đến lúc Ngài muốn tỏ bí mật này cho con người, Ngài
đã thương bày tỏ cho tôi”.
Biết nhìn
nhận tất cả những gì mình có là do Thiên Chúa ban chứ không phải do công lao
tài ba của mình, đó mới là người khiêm nhường. Chính vì vậy, khi được lãnh nhận
ân phúc Chúa ban, họ luôn qui hướng tất cả về Thiên Chúa. Thế nhưng trong thế
giới này có nhiều người dù được lãnh nhận tất cả từ Thiên Chúa, nhưng lại lợi
dụng ân phúc của Chúa để kéo những danh dự về cho mình.
Chuyện kể
rằng, tại một sở thú nọ, trong khi một con công đang từ từ xòe đuôi, giương
cánh ra vẻ oai phong xinh đẹp của nó cho mọi người thưởng thức, thì có một con
vịt già từ đâu lệ khệ bước đến, trong phút chốc, con công trở nên hung bạo, dữ
tợn đánh đuổi con vịt đi. Con vịt trở lại hồ nước và bơi lội nhẹ nhàng uyển
chuyển trên nước, lôi cuốn được sự chú ý của mọi người.
Người tự
kiêu cũng tương tự như thế, không những không biết ơn Chúa ban mà còn dùng ơn
Chúa ban để coi thường kẻ khác. Cũng có những người bề ngoài tỏ ra khiêm nhường,
nhưng trong lòng lại chẳng khiêm nhường chút nào. Bác sĩ Henry thường bị các
bạn chỉ trích vì tính kiêu kỳ của ông. Để giúp ông sống khiêm nhu hơn, họ đề
nghị ông ra đường, trước ngực có đeo tấm bảng có ghi một câu Kinh thánh và lớn
tiếng đọc Phúc âm cho những người chung quanh nghe.
Sau một
buổi trên đường phố, ông trở về với vẻ mặt kiêu hãnh tuyên bố: “Tôi dám cá với
các ông là không ai trong thành phố này dám làm như tôi đã làm”. Cũng có người
bề ngoài nói rằng mình không xứng đáng, đáng mọi người ghét bỏ, nhưng nếu bị
người khác đối xử đúng như lời họ nói thì họ lại tức giận khó chịu. Có những
người cố tình lẩn tránh để bắt kẻ khác tìm kiếm, mời mọc mới chịu xuất đầu lộ
diện.
Khiêm
nhường là sự thật, nên trong đức khiêm nhường không thể có những sự giả hình,
giả tạo như vậy. Vì vậy, cho dù Chúa Giêsu đã dạy trong bài Phúc âm hôm nay:
“Hãy chọn chỗ rốt hết, để khi được mời lên chỗ cao hơn thì sẽ được vinh dự
trước mặt mọi người”. Nếu người đó làm như vậy với ước mong là sẽ được vinh dự
trước mặt mọi người, thì đó cũng chẳng phải là khiêm nhường thật. Đức khiêm
nhường thật phải xuất phát từ một tâm hồn nhìn nhận sự thật. Chúng ta có một
mẫu gương trọn vẹn là Chúa Giêsu. Dù là Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã nhận thân
phận của một người bình thường, sống giữa những người bình thường. Chúa đã tuân
theo những định luật của người Rôma, những chỉ thị của những người làm đầu
trong dân và Chúa đã vâng lời cho đến chết. Chúa đã hạ mình rửa chân cho các
môn đệ. Gương khiêm nhường của Chúa là một mẫu gương đáng chúng ta noi gương
bắt chước trong cuộc sống hằng ngày.
18. Khiêm nhường
Thiên Chúa
thật kỳ diệu trong việc tạo dựng con người: mỗi người là một cá biệt, không ai
giống ai, không một người nào giống người nào, xét trên mọi phương diện. Đặc
biệt hơn nữa, về điều kiện và hoàn cảnh sinh sống, mỗi người có một vị trí
riêng của mình và không giống với bất cứ ai. Đây là nhận xét căn bản sẽ giúp
chúng ta dễ ý thức về một thái độ sống là điểm chính của đoạn Tin Mừng Chúa
Giêsu dạy: Hãy sống khiêm nhường.
Tục ngữ
Việt Nam có câu: “Nhìn lên mình chẳng bằng ai. Nhìn xuống lại chẳng thấy ai
bằng mình”. Sự “Nhìn lên, nhìn xuống” đó không phải chỉ so sánh giữa mình và
người khác trong phạm vi của cải, tài năng… mà còn có thể áp dụng rất bao quát
và toàn diện cho con người với tất cả những thứ con người “là” và con người
“có”. Thật vậy, những thứ tôi “là” và tôi “có” không bằng ai hay giống ai hết,
và cũng chẳng ai bằng tôi hay giống tôi cả. Biết chân nhận cái tôi cũng như
biết về người khác, tôn trọng sự khác biệt và giữ đúng tương quan, liên hệ giữa
mình và mọi người, suy nghĩ và cư xử đúng chính là thái độ sống khiêm nhường
đúng nghĩa nhất.
Ngược lại,
không nhận thức được những điều trên, tức không nhận chân được thực tế, không
nhìn ra chỗ đứng của mình, con người dễ rơi vào cách suy nghĩ và sống ở hai
thái cực: hoặc băn khoăn bực bội, tự ti hoặc vênh vang tự đắc, vì tự xếp loại
mình vào hai trạng thái: “Mình chẳng bằng ai” hay “Không ai bằng mình”. Vì thế,
khiêm nhường tất nhiên trái ngược với tự tôn tự đắc tự cao tự đại; nhưng cũng
không phải là tự ti mặc cảm, luôn bị ám ảnh thua kém, khiến sinh ra nhu nhược,
nhút nhát, luôn cắn răng chịu đựng, không dám có ý kiến, dễ bị khuất phục trước
đe dọa dù là phi lý. Không dám có thái độ bênh vực sự thật thì không còn là
khiêm nhường nữa mà là nhu nhược, hèn nhát. Người khiêm nhường cộng thêm sự
khéo léo, tế nhị sẽ biết kiên nhẫn, nhường nhịn vừa phải, đúng lúc, biết tùy cơ
ứng biến, đối chất để thuyết phục, giảng hòa.
Trái lại,
người kiêu ngạo tự cho mình là “trung tâm vũ trụ”, lên mặt vênh váo và coi
thường mọi người, biểu lộ qua hai thái độ “vơ vào”hoặc “tránh né”. Chẳng hạn:
khi thấy những ai khác được vinh dự, may mắn thì tự hỏi: “Tại sao không phải là
tôi mà lại người kia người nọ?”; “tại sao không hỏi ý kiến tôi mà lại hỏi người
ấy?”. Ngược lại, khi gặp điều không may hoặc bị trách cứ, dù là chính mình gây
lầm lỗi, thì người kiêu ngạo lại tránh né, đổ thừa: “Tại sao không trách người
khác mà lại trách tôi?”. Hai trường hợp trên đây đã diễn tả được hết cái gian
manh, xảo trá, lừa lọc đi đôi với lòng kiêu ngạo, tự cho mình là tất cả, không
chấp nhận tương quan nào ở trên mình. Trái lại, lòng khiêm nhường là chấp nhận
sự thật, chấp nhận tương quan trên dưới mà sống cho hài hòa, tốt đẹp. Vì biết
rõ vị trí, biết nhận cái hay cái dở của mình, đồng thời tôn trọng những phạm vi
của người khác, người khiêm nhường sẽ tự chủ được những công việc, hoạt động
của mình mà không va chạm, xúc phạm đến người khác. Tóm lại, dù chúng ta là ai,
ở cương vị nào, chúng ta cũng đừng bao giờ vênh vang tự đắc cũng đừng tự ti mặc
cảm. Chúng ta hãy sống khiêm nhường thật sự để tương quan cư xử, giao tiếp luôn
được hài hòa, tốt đẹp với mọi người, và như thế cũng đẹp lòng Chúa, vì Chúa chỉ
chúc lành và ban ơn cho người khiêm nhường.
Ai dám bảo
đảm là mình luôn luôn có sẵn một thái độ từ tốn, khiêm nhường trước mặt Chúa và
trước mặt anh em? Đó đây trong ngõ ngách tâm tư, một lúc nào đó, cái tư tưởng
kiêu căng, tự phụ, tự cao, tự đại có thể xuất đầu lộ diện và chi phối suy nghĩ,
hành động của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và cố gắng
tập luyện khiêm nhường luôn mãi.
Chúng ta
hãy luôn tự nhủ: con người từ hư vô, từ tro bụi và sẽ trở về tro bụi, mình có
chút tài năng gì thì cũng do Chúa ban. So sánh với người khác, mình có hơn cũng
chẳng hơn bao nhiêu, hoặc hơn về điểm này nhưng lại kém ở điểm khác. Có tập
luyện được chút khả năng tài khéo gì, có học hỏi được gì cũng do ơn Chúa trợ
giúp và chắc chắn còn muôn vàn điều không biết. Con người ta bị giới hạn tứ
phía: tâm linh, trí tuệ, thể xác… cần cố gắng thêm mãi.
Càng biết
Chúa, biết mình, biết người, biết đời rõ bao nhiêu càng bớt tự phụ kiêu căng
bấy nhiêu. Do đó, chúng ta có thể nói: càng giỏi, càng có nhiều càng phải khiêm
nhường, chỉ có những ai dốt nát, dại dột mới cậy mình, khoe mình và kiêu ngạo.
19. Khiêm nhường
Cuộc sống
của chúng ta có thể sánh ví như một bữa tiệc, mà nơi đó người ta đang tranh
nhau để chiếm cho mình một chỗ nhất. Quả thật, “Danh-Lợi” vốn luôn là một cám
dỗ đầy hấp dẫn đối với con người qua mọi thời đại. Dù không nói ra, nhưng ai
trong chúng ta cũng thích được người khác ca tụng, thích được kính nể, ai cũng
lo tìm kiếm danh vọng, địa vị, chức quyền. Dân gian Việt Nam có câu: “Cọp chết
để da, người chết để tiếng”. “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Câu
tục ngữ này phản ánh rất trung thực tâm lý của những người dự tiệc trong bài
Tin Mừng hôm nay và qua đó Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta một giáo huấn về sự
khiêm nhường. Vậy, theo bài Tin Mừng, thế nào là khiêm nhường, một sự khiêm
nhường đích thực để chúng ta có thể thi hành trong đời sống Kitô hữu mình?
Trước hết,
nhìn qua bài dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy, giáo huấn về sự khiêm
nhường của Chúa Giêsu dường như chỉ là một bài học về cách đối nhân xử thế theo
kiểu “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Thậm chí sự khiêm nhường ở đây còn hàm
chứa một sự tính toán vị kỷ, ra vẻ khiêm nhường để tạo sự chú ý nơi người khác,
để được mời lên chỗ cao hơn và như thế đó chẳng qua chỉ là một sự kiêu ngạo
tinh tế.
Đàng khác,
cũng có quan niệm coi khiêm nhường như một hình thức an phận thủ thường, một sự
yếm thế, khinh rẻ bản thân hay tự ti mặc cảm, thiếu ý chí vươn lên và thoái
thác trách nhiệm trong cuộc sống. Chắc hẳn đó không phải là sự khiêm nhường mà
Chúa Giêsu muốn nói cho chúng ta? Trong cuốn “Rèn nhân cách” tác giả Hoàng Xuân
Việt đã viết như sau: “người khiêm nhường không phải là người tự ti mặc cảm,
thiếu tự tin, khinh rẻ mình một cách vô lý đến nỗi không sử dụng tài năng của
mình. Người khiêm tốn là người sáng suốt nhìn nhận mình có khuyết điểm, có ưu
điểm, có tài đức, có trật tự…”
Vâng,
khiêm nhường là ý thức cách sâu xa về chính mình, là nhận ra sự thật về con
người mình để thấy rằng, tôi là gì? Là ai? Là con người thế nào trong tương
quan với kẻ khác? Để từ đó biết chọn cho mình một vị trí, một chỗ ngồi xứng hợp
trong bữa tiệc cuộc đời này. Người ta định nghĩa cách vắn tắt như sau: “Khiêm
nhường là chấp nhận sự thật, sự thật về chính mình, về những ưu khuyết điểm, về
tài năng đức độ và cả giá trị của mình đối với người xung quanh”.
Cicêrô nhà
hùng biện nổi tiếng của Rôma đã nói: “Khi người ta bảo một người rằng: bạn hãy
tự biết mình, thì đó không phải chỉ để hạ lòng kiêu căng của kẻ ấy, mà còn để
cho họ biết giá trị của họ nữa”.
Như vậy,
khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình trong tương quan rộng mở với
người khác. Bài học khiêm nhường không chỉ dừng lại ở đây, nhưng Tin Mừng còn
hướng chúng ta lên cao hơn, khiêm nhường là nhận biết chính mình trong tương
quan với Thiên Chúa, là ý thức thân phận thụ tạo tội lỗi của mình trước mặt
Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và cứu độ. Việc những người dự tiệc tranh giành và tự
ý chọn cho mình một chỗ nhất là phản ánh tâm lý của các luật sĩ và biệt phái
cũng như của con người thời đại hôm nay, họ muốn chối bỏ Thiên Chúa, muốn chiếm
đoạt quyền hạn của Ngài, và với thái độ kiêu căng tự mãn, họ cho rằng chỉ mình
họ là xứng đáng chiếm hữu Nước Trời. Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy, việc sắp
xếp chỗ ngồi cho thực khách là công việc của chủ tiệc, và theo lẽ thường, chỗ
nhất là để cho người nhất, chỗ sang trọng là cho người sang trọng, do đó mới có
vấn đề mời người này lên và mời kẻ nọ xuống. Không phải cứ giành lấy chỗ nhất,
chỗ sang trọng thì đương nhiên là người nhất, người sang trọng. Người nhất dù
có ngồi chỗ rốt hết cũng vẫn là người nhất và cuối cùng họ vẫn được đưa về lại
chỗ xứng đáng của mình. Người ta thường nói: “Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất
đương phong lập”nghĩa là: Có xạ tự nhiên thơm, không cần phải đứng đầu gió.
Cũng vậy, không phải hễ tự cho mình là đạo đức thánh thiện, là công chính xứng
đáng, thì đương nhiên sẽ được vào dự tiệc Nước Trời. Thiên Chúa như người chủ
tiệc, chỉ mình Ngài biết rõ ai xứng đáng, chỉ mình Ngài có quyền chọn gọi và
sắp đặt chỗ ngồi cho thực khách trong bàn tiệc của Ngài.
Đến đây,
chúng ta nhận thấy không chỉ đưa ra một giáo huấn về sự khiêm nhường, Chúa
Giêsu còn mạc khải về mầu nhiệm Nước Trời được sánh ví như một bữa tiệc và
khiêm nhường là điều kiện cần thiết để được tham dự vào bàn tiệc này. Có lẽ ai
trong chúng ta cũng đã một lần nghe qua dụ ngôn người biệt phái và người thu
thuế lên đền thờ cầu nguyện. Chính với thái độ khiêm nhường, ý thức thân phận
tội lỗi của mình, kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa mà người thu thuế được
ơn công chính hóa, còn người biệt phái kiêu căng, tự mãn thì trở về tay không.
Vì chưng “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII kể lại một kinh nghiệm độc đáo của đời mình như
sau: “Lúc tôi mới được bầu làm Giáo hoàng để lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ, tôi rất
lo lắng và sợ hãi trước một trách nhiệm quá lớn lao và nặng nề. Nhưng một đêm
kia trong giấc ngủ chập chờn không yên, tôi nghe có một tiếng nói phán bảo tôi:
Kìa Gioan, đừng tự xem mình là quan trọng! Tôi choàng tỉnh dậy, ngẫm nghĩ thấm
thía về ý nghĩa giấc chiêm bao. Và kể từ dạo ấy tôi đã cố gắng áp dụng câu nói
này trong đời tôi, trong mọi công việc của Giáo Hội mà tôi phải giải quyết mỗi
ngày. Đừng tự xem mình là quan trọng! Và thật sự, tôi đã ăn ngon ngủ yên như
trước khi được chọn làm Giáo hoàng!”. Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy
dẫy những tranh chấp, kiêu căng và tự mãn. Giáo huấn về sự khiêm nhường thoáng
nghe qua tưởng chừng như không hợp thời hay có thể nói là lỗi thời, là đối
nghịch với chiều hướng thăng tiến con người và phát triển xã hội. Nhưng nếu một
khi ý thức được rằng khiêm nhường đích thực là nhận biết chính mình, là không
đánh bóng, không giảm trừ chính mình, thì quả thật, khiêm nhường là nhân đức
không chỉ cần thiết cho sự thành công trong đời sống hiện tại, mà còn như chiếc
chìa khóa để mở cho chúng ta cánh cửa Nước Trời.
20. Khiêm nhường - Lm. Phạm Thanh Liêm
Ai cũng
thích được trọng vọng; tuy nhiên Lời Chúa hôm nay dạy con người sống khiêm
nhường. Ai sống khiêm nhường, sẽ được yêu thương và hạnh phúc.
Khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình
Có một số
người tưởng rằng, khiêm nhường là phải nhận mình là dở nhất hoặc mình chẳng có
gì hay. Vì quan niệm như vậy, nên có người thấy mình có điều hay, cũng không
dám nhận và còn phủ nhận điều đó. Thật sự, khiêm nhường là chấp nhận sự thật về
chính mình. Điều rất căn bản mà những người khiêm nhường xác tín: “tất cả những
gì mình có hoặc hay hơn người khác, là ơn Chúa ban, chứ tự mình thì không chừng
mình còn tệ hơn cả những người tệ nhất”.
Khiêm
nhường là chấp nhận mình như “mình là”. Chấp nhận điều hay mình có, để tạ ơn
Chúa. Chấp nhận điều dở như mình là, để “khiêm nhường”, không buồn phiền, không
dằn vặt, không oán trách hay càm ràm con người hay Thiên Chúa. Nếu mình có gì
hay, và cũng có thể hay hơn người khác, hãy “khiêm tốn”nhận thực rằng, nhờ ơn
Chúa mà mình có được điều đó. Nếu nhờ ơn Chúa mà mình hay hơn người khác, vậy
thì tại sao mình lại hành xử như thể do tự mình mà mình có điều đó? Nếu nhờ ơn
Chúa mà mình có điều đó, thì đâu có gì để vênh vang tự hào!
Hay không
kiêu, dở không thất vọng! Đó là thái độ của người khiêm nhường. Nhận thấy mình
hay, hoặc được người khác khen mình, hãy tạ ơn Chúa. Trong trường hợp này, Chúa
được tôn vinh. Con người nhận ra hồng ân Thiên Chúa ban cho họ.
Người khiêm nhường có thể sống với mọi người
“Càng
khiêm nhường, càng trở nên tuyệt, và càng đẹp lòng Thiên Chúa”. Một người khiêm
nhường, là người “đẹp”. Họ không khinh người kém hơn họ, hơn nữa, họ luôn kính
trọng người khác, và coi mình cũng như tất cả mọi người, nếu họ có gì hay, đó
là do được ban cho, chứ tự họ, họ cho rằng họ cũng bình thường và không chừng
còn dở hơn mọi người.
Người
khiêm nhường, là người đề cao Thiên Chúa trong đời sống. Những người kiêu ngạo,
thường cho mình hơn người khác, đòi người khác đối xử với mình cách đặc biệt
như mình muốn. Hình ảnh của người đi dự tiệc muốn ngồi chỗ nhất trong dụ ngôn
Đức Yêsu nói trong Tin Mừng hôm nay là một thí dụ. Người không khiêm nhường, dễ
làm cho người khác khó chịu, đặc biệt những người “kiêu ngạo”như họ. Họ đòi
ngồi chỗ nhất, đòi người khác phải chào hỏi, đòi người khác phải xưng hô với họ
thế này thế kia.
Người
khiêm nhường, không ước vọng quá sức mình. Chấp nhận mình như mình là, chấp
nhận mình như Chúa muốn vậy, và an bình trong cuộc sống của họ. Nói như vậy,
không có nghĩa là những người “khiêm nhường”này không phấn đấu hoặc không cố
gắng. Một khi họ đã cố gắng hết sức, họ chấp nhận kết quả một cách an bình.
“Không tìm điều ngoài sức mình”.
Đức Yêsu- người khiêm nhường tuyệt vời
Đức Yêsu,
vốn là Thiên Chúa, nhưng đã không đòi cho được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng
đã tự huỷ trở nên một người phàm (Pl. 2,6). Người yêu thương người khác, bất
chấp họ cư xử như thế nào với mình, vẫn yêu thương và chấp nhận họ, đó là người
khiêm nhường tuyệt vời.
“Yêu mến
là chu toàn tất cả lề luật”. Yêu mến bao gồm mọi nhân đức. Yêu mến, là chấp
nhận người khác như họ là, và cố gắng giúp họ trở nên tốt hơn, ngay cả phải
chết. Những người này, khi làm như vậy, đang trở nên giống Đức Yêsu, đang trở
nên một Yêsu khác.
Thập giá,
ngày xưa, bị coi là dấu chỉ của sự đáng nguyền rủa và bị khinh bỉ. Hôm nay, với
tình yêu và cái chết của Đức Yêsu, thập giá trở thành dấu chỉ của tình yêu, dấu
chỉ của sự chiến thắng. Ước gì mọi ki-tô hữu đều giống Thầy Chí Thánh, khiêm
tốn và yêu thương đối với mọi người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Có
người cho rằng, khiêm nhường đồng nghĩa với giả hình và nhu nhược. Bạn trả lời
sao?
2. Theo
bạn, tại sao người ta thường không muốn nhận sự thật về chính mình?
3. Bạn có
nghĩ rằng, khiêm nhường giúp người ta dễ sống hạnh phúc không? Tại sao?
21. Suy niệm của JKN
Câu hỏi
gợi ý:
1. Có bao
giờ bạn làm ra vẻ yêu thương ai, giả bộ khiêm nhường, tỏ ra mình là người có
giá trị, có tư cách không?
Bạn nghĩ
gì về sự giả bộ này? Nó có phổ biến nơi tâm lý mọi người không?
2. Khi
người khác thành công hơn bạn, được ca tụng hơn bạn, bạn có tự nhiên cảm thấy
có gì đó làm mình khó chịu, ganh tức, buồn phiền không?
3. Hành
động theo khuynh hướng giả trá ấy có lợi ích lâu dài không? có phải là khôn
ngoan không? Tại sao?
Suy niệm
1. Ai cũng muốn bản thân mình là một cái gì có giá trị, và được
mọi người công nhận và tôn trọng giá trị của mình
Thiên Chúa
đã dựng nên con người giống như Ngài, theo hình ảnh Ngài (xem St 1,26-27; 9,6),
nhưng ở mức độ hoàn hảo của một tạo vật giới hạn, đương nhiên kém Ngài rất xa
vì Ngài ở mức độ hoàn hảo của một Thiên Chúa vô hạn. Mức hoàn hảo của con người
về sau lại bị tổn thương vì tội nguyên tổ. Vì thế, từ sâu thẳm, con người vẫn
muốn vươn lên hoàn hảo, muốn sống yêu thương, muốn thực hiện Chân Thiện Mỹ,
nghĩa là muốn càng ngày càng trở nên giá trị hơn, giống Thiên Chúa hơn. Đấy quả
là một chiều hướng rất tốt.
Nhưng do
tội lỗi và nhất là tính kiêu ngạo, sự xấu đã xâm nhập vào bản thể con người,
khiến cho chiều hướng tốt ấy bị lạc hướng. Thay vì cố gắng trở nên hoàn hảo, có
giá trị thật sự (điều này khó, đòi hỏi con người phải cố gắng nhiều và quên
mình đi), thì con người lại muốn trở nên có vẻ hay được coi như hoàn hảo, như
yêu thương, như có giá trị, như giống Thiên Chúa. Điều này giảm bớt cho con
người biết bao khó khăn và nỗ lực. Thay vì tìm cách tạo nên giá trị thật sự từ
bên trong, con người tìm cách để mình có vẻ như, hay được coi như, và được đối
xử như có giá trị, bất chấp bên trong có giá trị đích thực hay không.
Vì thế,
khi xét mình, nếu thành thật với lòng mình, ai cũng đều cảm nhận khuynh hướng
này: “Tôi biết anh nịnh tôi, nhưng tôi vẫn thấy thích thú”, và nếu ai nói về
một tật xấu hay điều dở của ta, cho dù có đúng 100%, ta cũng cảm thấy khó chịu.
Từ đó, thay vì nỗ lực hoàn thiện “cái tôi”, làm cho nó có giá trị đích thực,
thì ta lại tìm đủ mọi cách để “cái tôi” được tôn trọng, được coi là có giá trị.
Chẳng hạn, khi dự tiệc thì thích lên ngồi ở chỗ danh dự, chỗ dành cho những bậc
vị vọng, trong giáo xứ hay trong xã hội thì tìm cách vận động để ngoi lên những
chức vụ quan trọng… Ngoài ra còn tìm đủ mọi cách để che bớt những cái xấu, cái
dở của mình, để đừng có ai nhìn thấy. Khuynh hướng giả trá này còn đi xa hơn:
bên trong càng ít giá trị, thì bên ngoài lại càng phải tỏ ra nhiều giá trị. Vì
thế nên mới có tình trạng “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”, “thùng rỗng kêu
to”, càng tự ty thì lại càng tự tôn. Thậm chí sẵn sàng đánh lừa cả chính mình:
nghĩ mình đích thực có giá trị đúng như mình đang muốn làm ra vẻ như thế.
2. Phải vạch mặt khuynh hướng giả trá ấy ngay trong bản thân
mình
Chính
khuynh hướng này, xem ra rất tự nhiên nơi mỗi người và mọi người, là đầu mối
gây nên biết bao nhiêu tội lỗi, xấu xa và rắc rối cuộc đời. Tại sao? Vì nó
chính là một khuynh hướng giả trá, ma mãnh, nên kết quả cuối cùng bao giờ cũng
là thất bại thê thảm, mặc dù nhất thời nó có thể đem lại nhiều vinh quang, lợi
lộc. Ta dễ ganh tị khi thấy người khác hơn mình (tốt hơn, đẹp hơn, hạnh phúc
hơn, đạo đức hơn, tài năng hơn, giàu có hơn, được yêu mến hơn…). Sự ganh tị ấy
khiến ta vô tình hoặc cố ý tìm cách hạ người khác xuống bằng lời nói hoặc bằng hành
động, thậm chí làm hại hoặc trừ khử họ. Nhưng rồi tới một lúc nào đó, chẳng sớm
thì muộn, sự ganh tị ấy cũng sẽ bị lột mặt nạ, để rồi tất cả những gì giả tạo
mình vất vả xây dựng được, có thể bằng tội ác, bằng những phương tiện bất
chính, sẽ sụp đổ hoàn toàn. Lúc đó trước mặt người khác, mình lại trở thành kẻ
vô giá trị, hơn thế nữa, bị nguyền rủa thậm tệ.
Khuynh
hướng giả trá này, bao hàm sự ganh tị, là mẫu số chung tự nhiên của tất cả mọi
con cháu Ađam–Eva, cho dù người ấy thánh thiện tới đâu. Sự thánh thiện của một
con người không phải nằm ở chỗ không có hay tiêu diệt khuynh hướng ấy, mà thắng
vượt được khuynh hướng ấy. Thật vậy, cho dù tôi có thánh thiện tới đâu, khi có
ai nịnh tôi, hay khi tôi được đề cao (dù không xứng đáng) thì phản ứng tâm lý
đầu tiên của tôi là cảm thấy thích thú, và khi có ai chê bai (dù là chê đúng),
hay khi thấy bạn bè hơn mình, tôi vẫn thấy khó chịu. Nếu không thế thì chắc hẳn
tôi đã thoát khỏi hậu quả xấu ác của tội nguyên tổ rồi! Phản ứng đầu tiên hay
“sơ cấp” phát xuất từ tâm lý ấy, dù tôi không muốn phản ứng như thế cũng không
được, trừ trường hợp tôi đã tu luyện rất nhiều năm. Và phản ứng tuy xuất phát
từ một khuynh hướng xấu, nhưng không phải là tội lỗi, vì nó xảy ra ngoài ý muốn
của tôi. Nhưng sau đó, tôi bắt đầu phản tỉnh lại và nhận ra đó là một khuynh
hướng xấu. Vấn đề là sau khi phản tỉnh, tôi có hành động theo khuynh hướng xấu
đó hay không. Phản ứng sau này hay “thứ cấp” có sự can dự của ý chí, nghĩa là
ta có thể hành động theo hoặc không theo khuynh hướng đó tùy quyết định của ta.
Thánh thiện hay tội lỗi là tùy thuộc phản ứng thứ cấp này. Như vậy, người thánh
thiện hay tội lỗi đều giống nhau ở phản ứng sơ cấp, nhưng khác hẳn nhau ở phản
ứng thứ cấp.
3. Nhận định hậu quả cuối cùng rất tai hại của khuynh hướng giả
trá ấy để dứt khoát không chiều theo
Hành động
theo khuynh hướng giả trá này có thể đem lại một số lợi lộc nhất thời, chóng
qua, nhưng kết quả cuối cùng và lâu dài thì rất tai hại. Chúng ta rất dễ bị hấp
dẫn, lôi cuốn vì những lợi lộc nhất thời ấy, nhất là khi chúng ta không nghĩ
tới hậu quả cuối cùng rất tai hại và kéo rất dài của nó. Chẳng hạn, trường hợp
một người không xứng đáng ngồi vào chỗ danh dự trong bàn tiệc, nhưng lại chiều
theo khuynh hướng “muốn có vẻ là có giá trị”, hay “muốn được coi là danh giá”
nên ngồi vào đó. Khi ngồi đấy, anh ta cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ đến những cặp
mắt đang nhìn anh ta với sự nể phục. Nhưng hạnh phúc đó không thể kéo dài được
nếu nó không có nền tảng là sự xứng đáng. Chỉ trong chốc lát, khi có nhiều bậc
vị vọng tới dự tiệc, họ xứng đáng ngồi ở chỗ đó hơn, thì chủ nhà nhận ra ngay
sự không xứng đáng của anh ta. Thế là anh ta bị mời xuống. Niềm hãnh diện và
hạnh phúc chỉ kéo dài được dăm ba phút khi bữa tiệc mới bắt đầu, nhưng sự nhục
nhã và đau khổ thì kéo dài suốt cả bữa tiệc, thậm chí nhiều ngày tháng sau bữa
tiệc nữa.
Ngược lại,
nếu ta không màng gì tới những cái có vẻ bên ngoài ấy, thì cuối cùng ta cũng
chẳng mất chúng. Vì cuối cùng chúng sẽ trở lại với người xứng đáng với chúng.
Chẳng hạn, trong bữa tiệc, nếu ta là người xứng đáng ngồi ở chỗ danh dự, nhưng
vì nghĩ mình không xứng đáng nên ta lại chọn một chỗ hèn kém, thì khi chủ tiệc
nhận ra sự có mặt của ta ở chỗ hèn kém ấy, ông ta sẽ mời ta lên chỗ cao hơn.
Như thế, ta chẳng những không bị mất danh dự xứng đáng với ta, mà người khác
còn thấy được phong cách cao thượng của ta nữa.
Tuy nhiên,
điều quan trọng ta cần phải đạt được là sự khiêm nhường đích thực bên trong,
chứ không phải là sự khiêm nhường giả bộ bên ngoài. Khuynh hướng giả trá nói
trên cũng có thể thúc đẩy chúng ta làm ra vẻ khiêm nhường. Chẳng hạn, trong bữa
tiệc, ta cố ý chọn một chỗ kém hơn địa vị của ta với mục đích được được nâng
lên. Nhưng nếu người chủ vô ý không mời ta lên bàn trên, thì ta trở nên bực bội
trong lòng… Người khiêm nhường đích thực không tự coi mình là gì cả, nên không
cảm thấy bực bội khi bị xúc phạm, cũng không cảm thấy có gì đáng phải lên mặt
vinh vang khi được ca ngợi tôn vinh. Chỉ có những người khiêm nhường đích thực
ấy mới luôn luôn cảm thấy mình hạnh phúc, thanh thản, nhẹ nhàng, và được Thiên
Chúa yêu quí.
Cầu nguyện
Lạy Cha,
xin giúp con thắng được khuynh hướng giả trá muốn làm ra vẻ có giá trị hơn giá
trị đích thực của con. Xin giúp con thành thật với chính mình, và với mọi
người, đừng để con ham được đánh giá cao hơn bản chất thực của con. Xin giúp
con đừng coi mình là gì cả, đừng quan trọng hóa mình, để con trở nên một con
người chân thực, một phản ảnh quan trọng của Cha ở trong con. Amen.