Tìm hiểu Lời Chúa Lễ Giáng Sinh _ lễ đêm

LỄ GIÁNG SINH
(Lễ Đêm)
Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14
BÀI ĐỌC 1: Is 9,1-6
            1 Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. 2 Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt,như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.3 Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an. 4 Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa.
            5 Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình. 6 Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó.
ĐÁP CA: Tv 95
Đ. Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta
Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa
. (Lc 2,11)              
1 Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! 2a Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh!
2b Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, 3 kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người.
11 Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, 12 ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ.
12b Hỡi cây cối rừng xanh,13 hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa,vì Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian.Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người.
BÀI ĐỌC 2: Tt 2,11-14
            11 Anh em thân mến, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.12 Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này.13 Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang.14 Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Lc 2,10-11
Hall-Hall: Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. Hall.

TIN MỪNG: Lc 2,1-14
            1 Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. 2 Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri.3 Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi.4 Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít.5 Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai.6 Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.7 Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.
            8 Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.9 Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng.10 Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: 11 Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.12 Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ."13 Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:
            14 "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương."

BÀI SUY NIỆM 1:
MẦU NHIỆM CON THIÊN CHÚA NHẬP THỂ
            Qua hình thức tổ chức lễ Giáng Sinh dựa vào lịch sử đời sống của Hội Thánh, Phụng Vụ đã diễn tả về mầu nhiệm nhập thể:
Ø     Con Một Chúa Cha nhập thể, là một nhân vật lịch sử phi thời gian.
Ø     Ngài là Mặt Trời Công Chính.
Ø     Ngài sống nghèo cho ta được giàu có.
Ø     Ngài nâng phẩm giá con người vượt trên kiếp người.
I. CON MỘT CHÚA CHA NHẬP THỂ, LÀ MỘT NHÂN VẬT LỊCH SỬ PHI THỜI GIAN.
            1- Đức Giêsu là nhân vật lịch sử.
            Ngài không phải là một ý tưởng, hay lý tưởng của nhân loại, như “Thần Tài” hay “Thần Lành” trong các tôn giáo nhân gian; Ngài cũng không phải là nhân vật thần thoại như “Con Rồng” hay “Tiên Ông” … Nhưng Ngài là con người lịch sử, sinh vào thời điểm đế quốc La Mã đang thống trị Israel, dưới triều đại hoàng đế Augúttô và Quirintô làm đặc sứ toàn quyền miền Syria đã ra lệnh mọi người phải về quê quán khai tên tuổi. Vào dịp này ông Giuse và bà Maria đã mau mắn thi hành lệnh trở về Bethlem. Khi hai người đang ở đó, thì Maria tới ngày mãn nguyệt khai hoa (x. Lc 2,1-6: Tin Mừng); và Ngài đã bị giết chết theo lệnh Philatô làm tổng trấn miền nam nước Do Thái (x. Ga 19,12t).
            Vậy ngay từ lúc chào đời, Đức Giêsu đã dạy chúng ta phải biết tùng phục quyền bính đời (x. Lc 2,2: Tin Mừng), để mỗi người chúng ta phải nên thánh ngay trong môi trường và hoàn cảnh của mình đang sống!
            2- Con Thiên Chúa được sinh ra trong thời gian nhưng lại phi thời gian.
            Niên lịch của nhân loại trước thế kỷ thứ 15 chưa thống nhất:
            * Người Ai Cập, Assyri; Babylon dùng niên lịch theo các đời vua.
            * Người Hy Lạp lấy ngày tế thần Zeus, đầu tiên vào năm 776 trước Công nguyên.
            * Người Roma tính từ ngày hai ông Romolus và Remus xây thành Roma vào năm 750 trước Công nguyên.
            * Người Do Thái tính từ ngày ông Abraham được Thiên Chúa kêu gọi khoảng 2.000 năm trước Công nguyên.
            Nói chung trước thế kỷ thứ 15, lịch thế giới không thống nhất, nên tạo khó khăn trong vấn đề giao dịch. Mãi đến thế kỷ thứ 6 (năm 525), thày dòng Denys le Petit cho biết Chúa Giáng Sinh vào năm - 754 theo lịch Roma. Đến đời Đức Giáo hoàng Grégorio XIII (1505-1583) mới quyết định lấy ngày Chúa Giáng Sinh làm mốc thời gian cho cả thế giới. Nhưng tiếc là thày Denys le Petit đã tính sai! Vì vào năm 1912, người ta tìm thấy tấm bia ở Antiôkia xứ Pisiđia còn ghi lại rằng: lệnh khai hộ khẩu do ông Quirintô khởi xướng và ông Sentiô hoàn tất vào năm 7 và 6 trước Công nguyên. Như thế, lịch hiện hành đã tính trễ khoảng 6 – 7 năm.
            Dầu sao thì không có ai biết chính xác Đức Giêsu sinh ra vào ngày tháng nào! Điều này Chúa muốn dạy chúng ta:
a-      Đức Giêsu con người lịch sử được sinh ra, được sinh ra mà không phải được tạo thành, không lệ thuộc vào thời gian.
b-     Đức Giêsu là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Đấng hằng hữu, thì không có khởi sinh không có tận cùng.
II. CHÚA GIÊSU LÀ MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH.
            Thực ra vào thế kỷ thứ 4, lễ Giáng Sinh mới bắt đầu hình thành, tức là vào năm 350, Đức Giáo hoàng Julius I chính thức chọn ngày 25/12 là ngày mừng lễ Giáng Sinh. Lý do hoàn cảnh lúc ấy dân ngoại ồ ạt theo đạo Chúa, nhưng trước đó họ có thói quen cứ đến ngày 25/12 là đi dự lễ hội mừng ngày sinh của thần Mặt Trời. Do đó Hội Thánh Công Giáo muốn “rửa tội” cho ngày đó bằng cách nói với dân ngoại đã trở lại Đạo rằng: Muốn thờ thần Mặt Trời, thì chính Đức Giêsu là MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH đã đến viếng thăm nhân loại. (x. Lc 1,78)
III. CON THIÊN CHÚA TRỞ NÊN NGHÈO ĐỂ TA ĐƯỢC GIÀU CÓ.
            Phúc Âm không ghi Đức Giêsu sinh ra trong hang đá, nhưng theo thánh Giustinô (thế kỷ thứ 2) thì nói Đức Maria sinh Đức Giêsu trong một hang đá. Vào thế kỷ thứ 4, hoàng đế Constantinô cho xây một vương cung thánh đường tại một hang ở Bethlem, mà theo truyền thống người ta tin Chúa Giê-u sinh ra tại đó.
            Còn việc làm hang đá ngày nay, được bắt đầu vào thời thánh Phanxicô thành Assisi: Lúc ấy người ta đã tục hoá lễ Giáng Sinh, đáng lẽ vào dịp lễ này người ta phải gia tăng cầu nguyện, nghe Lời Chúa và chia sẻ, thì họ lại tổ chức tiệc tùng, ăn uống xa xỉ và đú đỡn với nhau! Đầu tháng 12 năm 1223, thánh Phanxicô báo trước cho mọi người là lễ Giáng Sinh năm nay không cử hành tại Nhà Thờ mà là ở một nơi khác (không cho biết trước). Mỗi tín hữu đêm ấy cầm đuốc đi theo thánh nhân vào một khu rừng vắng. Rồi thánh nhân leo lên một triền núi phẳng và cùng với mọi người dâng Thánh Lễ tại đây, ngài giảng một bài rất hùng hồn về cảnh nghèo nàn của Con Thiên Chúa vào đời, có ý dạy mọi người tránh sống xa xỉ, để có điều kiện chia sẻ vào những công việc đạo đức, hữu ích cho mọi người. Khi thánh Phanxicô đang giảng say sưa, thì thình lình Chúa Hài Đồng hiện ra ngay trên Bàn Thờ, nằm giơ hai tay, hai chân như muốn đòi thánh nhân bế. Từ điển tích này, người ta đặt tượng Chúa Hài Đồng nơi hang đá không phải là một cậu bé được quấn tã nằm ngủ ngon trong máng cỏ, mà là một Hài Nhi nằm “giơ bốn vó!”
            Vậy “làm sao chúng ta phải trở nên giàu có như Đức Giêsu, mà vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có nhờ sự nghèo khó của Ngài!” (2Cr 8,9) Ta phải trở nên giàu có như Đức Giêsu để có thêm điều kiện làm cho đồng loại được giàu có về Đức Tin và của cải vật chất,còn ta trở nên nghèo khó giống Đức Giêsu, đến nỗi Ngài không có nơi ngả đầu! (x. Lc 9,58), vì chết trần trụi trên thập giá!
IV. CON THIÊN CHÚA ĐẾN NÂNG PHẨM GIÁ CON NGƯỜI VƯỢT TRÊN MỌI LOÀI THỤ TẠO.
            * Cũng vào hoàn cảnh ở thế kỷ thứ 4 (năm 440), nhóm Manisê chủ trương khinh chê thân xác con người, vì thân xác là nguồn gốc của tội lỗi!
            * Rồi đến năm 448, nhóm “Độc Tính” dạy rằng: Chúa Giêsu chỉ có một bản tính Thiên Chúa, thân xác chỉ là “ốc mượn hồn”, con người không làm được gì tốt, phủ nhận sự cộng tác của con người trong chương trình Chúa cứu độ, mà Thiên Chúa hoàn toàn làm hết cho kẻ tin Ngài!
            Để chống lại hai lạc thuyết trên, lễ Giáng Sinh Hội Thánh dạy ta phải xác tín rằng:
1-     Mỗi người được Chúa ở cùng, thân xác họ là Đền Thờ đích thực của Thiên Chúa. (x. 1Cr 3,16)
2-     Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa không hỏi ý kiến ai, vì chưa có ai để hỏi. Nhưng khi cứu độ con người, thì Thiên Chúa tôn trọng họ, nên Ngài hỏi ý con người! (thánh Augustino) [x. Mc 2,1-12]
3-     Khi tạo dựng Ađam thứ I, Ađam cuối cùng (Đức Giêsu), Thiên Chúa đã khắc ghi hình ảnh mình trong đó, như Lời tiền Tin Mừng Chúa đã hứa: “Miêu duệ người nữ đạp nát đầu rắn” (St 3,15). Do vậy, Ađam cuối cùng đã lãnh nhận vai trò và tên Ađam thứ I: Vì Ađam thứ I làm mất những gì tốt đẹp đã được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh Ngài (x. St 1,26). Ađam trước đã khởi đầu, nhưng đi vào sự chết; Ađam cuối cùng sống vinh phúc muôn đời. Do đó, người sau (Giêsu - Ađam cuối cùng) mới đích thực là người đầu, như chính Ngài đã nói về mình: “Ta là đầu và là cuối’’ (Kh 1,17): Từ khởi sự cho đến hoàn tất, đều nhờ bởi Chúa Giêsu.
4-     Adam cũ được dựng nên bởi đất trinh (đất chưa ai canh tác), còn Adam cuối cùng thì được sinh ra bởi Mẹ Đồng Trinh” (Thánh Irênê). Thánh Gioan nói: “Những ai đón nhận được Ngài, thì Ngài ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa, ấy là cho những kẻ tin vào danh Ngài” (Ga 1,12). Vì vậy mà thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Thiên Chúa làm người, cho con người được làm Thiên Chúa”. Và Chúa “không ngớt vui chơi, vui chơi trên mặt đất, đùa giỡn với con cái loài người” (Cn 8,30-31).
Nhưng ai muốn được những ơn trọng đại trên, buộc họ phải sống trong Hội Thánh Chúa Kitô. Vì Chúa chỉ muốn cứu loài người trong một đoàn chiên và một Chủ chiên (x. Ga 10,1-18). Chính vì thế mà giáo huấn Công Đồng Vat. II trong Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 32 dạy: “Ngôi Lời nhập thể và tình liên đới nhân loại, Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn quy tụ họ thành một dân tộc, để họ nhận biết chính Ngài trong chân lý, và phụng sự Ngài trong thánh thiện” .
            Câu chuyện Đường Tăng (trích trong “Phẩm Giá Của Con Người” của Nguyễn Thái Hợp:
            “Đường Tăng Huyền Trang là một nhân vật lịch sử. Một tăng sĩ dũng cảm, thông minh, tinh tế và là một học giả uyên thâm kinh điển Phật giáo. Ông là một học giả thiên tài và nghiêm túc đã dịch rất nhiều kinh sách Phật giáo ra chữ Hán. Ông đã ghi chép cẩn thận những gì mắt thấy tai nghe trên đường đi thành tập “Tây Du Ký”. Đây là một tài liệu giá trị về xã hội, địa dư, tôn giáo và lịch sử của Ấn-Độ thời ấy. Nhưng chẳng mấy ai đọc “Tây Du Ký” của Huyền Trang.
            Ngô Thừa Ân không sử dụng tài liệu lịch sử của Huyền Trang, mà lại hư cấu một “Tây Du Ký” khác. Dưới ngòi bút của Ngô Thừa Ân, Huyền Trang học giả biến thành một Đường Tăng khù khờ, cả tin, hơi u mê và nhiều khi từ bi không đúng chỗ. Tuy nhiên, thầy trò Huyền Trang Tam Tạng của Ngô Thừa Ân lại được nhiều người Á Đông biết đến và say mê, vượt rất xa tác phẩm và nhân vật Huyền Trang chính thức.
            Vào đầu thập niên 90, Trương Quốc Dũng đã hư cấu một Huyền Trang khác trong truyện thật ngắn mang tựa đề “Đường Tăng”. Trong lời bạt của cuốn sách “40 truyện rất ngắn”, nhà phê bình Lê Ngọc Trà nhận định sắc nét: “Truyện Đường Tăng đầy những câu văn ngắn có hồn. Chữ ít nhưng dường như chữ nào cũng sống, cũng có một âm điệu tình cảm, một không gian…”. Xin được phép trích nguyên văn truyện thật ngắn này, một trong hai truyện được giải nhất trong cuộc thi truyện rất ngắn 1993-1994 (dưới 1.000 chữ) của bán nguyệt san Thế Giới Mới:
            “Đêm cuối cuộc trường chinh đầy gian khổ, ngày mai vào yết kiến Như Lai để lên kiếp Phật, đường Tăng trằn trọc không sao ngủ được. Suốt cuộc đời tâm nguyện tới cõi này, giờ đây khi sắp trút bỏ kiếp người, ông bỗng thấy lòng day dứt.
            “Chiều nay, thân thể Đường Tăng đã rã rời, đầu óc đầy mộng mị, tay biếng lần tràng hạt. Tâm linh như muốn níu chân dừng lại. Máu ông nhức nhối thấm lần qua tim, cứa vào qúa khứ đau xé. Ông nhớ tới những người sinh thành ra mình. Tình cha, huyết mẹ tạo nên mà bao nhiêu năm nay ông không một lần thắp hương, không một lần nhắc nhở.
            “Chặng đường dài tới đất Phật khiến trái tim ông dần chai sạn. ông đã quá nhiều lần phải lạy lục, cầu khẩn các thần lớn bé, đã qua nhiều lần dẫm đạp lên xác máu yêu ma xa gần, chỉ với một mục đích: mau thành chánh qủa. ông thương người. Nhưng đêm nay, trước ranh giới cuối cùng của cõi Người và Phật, ông chợt hiểu ra cội rễ của tình thương ấy. Mỗi lần cứu giúp con người, ông chỉ thầm tính toán như xây thêm cho mình một bậc thang tới Phật đài.
            “Nhiều lần Đường Tăng đã tự hỏi tại sao nước mắt mình ngày càng lạnh giá. Giờ đây ông thầm biết, trên con đường thỉnh kinh về cứu rỗi người đời, ông đã dần dần xa lạ với con người.
            “Ông trở mình, thở dài: không là người, ta sẽ là ai? Yêu quái cản đường, biết bao kẻ chính từ trên đây xuống, pháp thuật vô biên, ác nghiệt vô cùng. Ta nhập vào chốn ấy biết rồi thành Phật hay thành ma?
            “Đường Tăng chợt nhói trong tim. Ông khẽ rên lên, hai tay ôm ngực. Mở mắt thấy các đồ đệ đang đứng bên giường nhìn ông âu lo. Cả ba hình như đều không ngủ.
            “Đường Tăng thở hắt: “Không sao đâu, ta chỉ chợt nhớ tới ngày xưa”. Nói rồi lại nhắm mắt.
            Nghe tiếng Ngộ Không: “Xin thầy đừng tự dối lòng. Thầy đang nhớ cả kiếp người – Đường Tăng rùng mình khi giọng Ngộ Không quá u uất – Con từ đá sinh ra. Coi thường cả thần thánh, yêu ma, chỉ mong được thành người. Thầy đã là người lại tự bỏ mình đi tìm hồn phách khác. Đêm nay sao khỏi xót xa”.
            “Bát Giới cười khẽ: “Làm người có gì vui. Chúng ta đã dốc lòng theo đạo, ngày mai được lên chốn thần tiên, sung sướng biết bao nhiêu. Thầy đừng luyến tiếc.”
            “Sa Tăng an ủi: “Thầy trò mình sắp hóa Phật, mang đạo xuống khai sáng cho loài người. Công qủa vĩ đại lắm!”
            “Đường Tăng lắc đầu, nằm im hồi lâu, hai tay vẫn đặt lên tim, mắt vẫn nhắm, nước mắt trào ra ấm nóng lại. Rồi như trăn trối: “Ta ước gì đêm nay đừng sáng. Ta đau đớn cho mười mấy năm viễn du. Ngộ Không ơi! Một đời con mong được thành người thì bị ép phải theo ta để thành Phật. Bát Giới tự dối mình, giác ngộ thật ra chỉ là đi tìm một chốn hoan lạc mới. Sa Tăng rời cõi u mê này sang cõi hoang tưởng khác mà lại hy vọng khai sáng. Còn ta? Không còn là người, không phải là người thì làm sao đồng cảm mà đòi khai sáng, cứu vớt con người.”
            “Ngộ Không sụp xuống nắm tay thầy, ngẹn ngào: “Thầy đã nhận ra chân lý. Nhưng chậm quá rồi.
            Truyện Đường Tăng cho ta phải suy nghĩ: Đường Tăng mong thành Phật, khi sắp thành Phật lại buồn vì không còn là người! Mà không là người làm sao cứu được người? Như vậy Đường Tăng thua xa Chúa Giê-su, Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là người. “Ngài đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Ngài có thể cứu giúp những ai bị thử thách!” (Dt 2,18) Và không ai có thể lên cõi Phúc (lên Trời), ngoại trừ “Đấng từ Trời mà xuống, để ai tin vào Ngài thì được sống hạnh phúc đời đời!” (Ga 3,13.15) Như vậy, muốn cứu ai ta phải có hai điều kiện:
-         Sống kiếp người giống như đồng loại ta muốn cứu, để ta cảm nghiệm được hoàn cảnh đau khổ của họ. Đó là lý do Đấng Cứu Thế muốn làm người như chúng ta.
Nếu Thiên Chúa ngồi trên trời sai thiên thần đến Việt Nam, xem hoàn cảnh dân chúng sống ra sao, khi thiên thần trở về chắc chắn thưa với Chúa: “Lạy Chúa, “đầy tớ nhân dân” rất giàu có, trái lại nhân dân làm chủ lại quá nghèo khổ, bo bo không có đủ mà ăn. Chúa ngạc nhiên hỏi: “Tại sao thế, Ta không hiểu, đầy tớ lại giàu hơn chủ nghĩa là sao?” Thiên thần thưa: “Đầy tớ nhân dân giàu lắm, họ rửa tiền bằng cách đi xe hơi và uống bia ôm. Còn nhân dân làm chủ thì không ai làm chủ một tấc đất, họ chỉ có quyền sử dụng, nên họ phải đi xe ôm và uống bia hơi!”
Nghe thế, Chúa phán: “Ta phải xuống xem sao, chứ nghe báo cáo thế thì “Tây” nó cũng chẳng hiểu nổi!”
Vậy muốn cứu ai đạt hiệu quả cao, không nhưng ta phải giống mà còn phải hơn người ấy.
            Nhờ ngòi bút của ông Luca, cho ta lưu ý hai lần ông viết “Hôm nay”, đặc biệt ở đầu và cuối cuộc đời Đức Giêsu:
-         Ngày Con Đấng Tối Cao giáng trần, Thiên thần nói: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11: Đáp ca).
-         Ngày Con Đấng Tối Cao lìa bỏ trần thế về Trời, Ngài nói với tên trộm biết sám hối tội mình và xin theo Ngài: “Hôm nay, ngươi ở trên Thiên Đàng với Ta” (Lc 23.43). Đúng với Lời thiên thần nói với các chú mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavid, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11: Tung Hô Tin Mừng).
Kinh Thánh viết như thế, muốn nhấn mạnh rằng: Chúa Giê-su rất muốn đến với chúng ta từng ngày hôm nay trong suốt đời ta. Ngài không hẹn ta vào ngày khác đến gặp Ngài. Do đó, nếu mỗi người chúng ta hôm nay rộng mở cửa tâm hồn đón Chúa Giêsu Phục Sinh, khi ta dự Thánh Lễ, thì cho dù ngày hôm nay ta còn vương vấn tội lỗi mà biết sám hối, nếu Chúa lại gọi ta hôm nay ra khỏi thế gian này, chắc chắn Chúa cũng đưa ta vào Thiên Đàng ngay hôm nay, bởi vì ta không đến nỗi tồi tệ như tên trộm lành suốt đời chỉ chôm chỉa của người khác. Như thế ta không phải xuống luyện tội một thời gian để thanh tẩy mới được vào Thiên Đàng, giống như nhiều người phải thanh tẩy nơi luyện tội. Vì Chúa Giêsu cũng đã hứa: “Ai nghe Lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta thì có sự sống đời đời và khỏi phải đến tòa phán xét, nhưng đã ngang qua sự chết mà vào cõi sống” (Ga 5,24). Chính vì vậy, mà thánh Phaolô nói: “Bây giờ án phạt không có nữa cho những ai ở trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 8,1), nên “nếu Đức Kitô ở trong anh em, thì tuy thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng làm cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính” (Rm 8,10).
Nhất là ta dự Lễ trọn vẹn: nghe Lời và rước lễ là cách chắn chắn được Chúa ở cùng, Ngài giúp ta thắng satan, thắng tội lỗi, thắng thần chết, hơn xưa Chúa chỉ ở cùng ông Ghêđêôn qua dấu chỉ “tấm lông chiên ông phơi ngoài sân đẫm ướt sương” (x. Qa/Tl 6-7), nhờ thế mà ông chiến thắng quân Mađian (x. Is 9,1-6: Bài đọc I).
Vậy ngày hôm nay ta dự Lễ là được Chúa ở cùng, chắc chắn Ngài cho ta mạnh sức hơn ông Ghêđêon, để “Ngài giúp ta từ bỏ lối sống vô luân, hầu ta xứng đáng là dân riêng của Chúa, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2,11-14: Bài đọc II).
THUỘC LÒNG.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3,16)

BÀI SUY NIỆM 2:
CUỘC ĐỜI LÀ HIẾN TẾ CỨU ĐỘ
            Thiên Chúa Ngôi Hai, Ngài là Đấng Hằng Hữu và Toàn Năng, nhưng Ngài chỉ trở thành Tư Tế khi được sinh ra làm người và trở thành của lễ dâng Chúa Cha sinh ơn cứu độ cho loài người, đúng với ý nghĩa danh Giêsu (Thiên Chúa Cứu Độ) đã được sứ thần Gabriel ra lệnh cho Đức Maria và ông Giuse đặt cho Ngài (x. Lc 1,31; Mt 1,18-25).
            Ta biết Đức Giêsu hoàn tất Hy Lễ mới của Ngài:
-         Khởi đi từ lúc nhập thể, đỉnh cao nơi thập giá.
-         Để mạc khải cho “kẻ bé mọn” sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
-         Để tạo nên một dân riêng thoát ách Luật, chuyên lo việc lành.
-         Để ta theo gương Đức Maria cộng tác với Đức Giêsu hoàn tất công trình sáng tạo mà Chúa Cha đã khởi sự.
-         Con Chúa đến qua Phụng Vụ Hội Thánh cử hành để hoàn tất việc tạo dựng con người.
 1/ ĐỨC GIÊSU VÂNG LỜI SỐNG NGHÈO TỪ LÚC NHẬP THỂ, ĐỈNH CAO LÀ THẬP GIÁ.
ò     Ngày Đức Giêsu vào trần gian, cha mẹ Ngài phải vâng lời hoàng đế Roma về Bêlem, thành của vua Đavid mà đăng ký hộ khẩu, trong cảnh nghèo khổ: Không kiếm được chỗ trú thân trong thành, nên cha mẹ Hài Nhi phải lấy tã vấn và đặt nằm trong máng cỏ! (x. Lc 2,7). Phải chăng người ta coi Ngài như thân sâu bọ nằm trong cỏ, dựa vào lời ngôn sứ Isaia đã nói: “Dáng vẻ của Ngài không còn thuộc hạng người ta” (Is 52,14); “Không duyên dáng, không oai vệ bắt chúng tôi phải để ý” (Is 53,2).
ò     Nhưng còn tệ hơn, ngày Đức Giêsu lìa đời, Ngài lại phải vâng lời quyền bính Roma, tại thành của vua Đavid, để lãnh án tử, chết nhục trên thập gía! Rồi được ông Giuse quê tại Arimathia và một môn đệ bí mật xin ông Philatô đưa xác Ngài đem đi liệm táng trong mồ! (x. Ga 19,38t) Đúng như lời ngôn sứ Isaia đã nói: “Ngài bị khinh khi, và là đồ phế bỏ của người đời!” (Is 53,3)
2/ ĐỂ MẠC KHẢI CHO “KẺ BÉ MỌN’’ ĐƯỜNG LỐI KHÔN NGOAN CỦA THIÊN CHÚA.
ò     Ngày Ngôi Hai giáng trần, Ngài sai thiên thần đến mạc khải cho các chú mục đồng, là những “kẻ bé mọn” về dấu chỉ: Một trẻ vấn tã nằm trong máng cỏ”,để nhận ra Đấng Cứu Thế. Mà thực, chỉ có lũ trẻ ranh con này được tin mới tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu, còn hạng người tự mãn là khôn ngoan thông thái chỉ mở Sách Thánh tra tầm nơi sinh của Hài Nhi, Vua Do Thái, để chỉ điểm cho bạo chúa Hêrôđê ra lệnh chém giết, chứ nào họ có đến thờ lạy?! (x. Mt 2)
ò     Bởi vậy, cái chết của Đức Giêsu trên thập gía là cớ vấp phạm cho người Do Thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại; chỉ có kẻ bé mọn như ông Phaolô mới được Đức Giêsu mạc khải cho biết đó là đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa. (x. 1Cr 1,17)
3/ ĐỂ TẠO NÊN MỘT DÂN RIÊNG THOÁT ÁCH LỀ LUẬT, CHUYÊN LO VIỆC LÀNH.
            Ngôn sứ Isaia trong Bài đọc I đã cho ta biết trước gía trị ơn cứu độ do Đấng Cứu Thế thực hiện: “Ngài đập tan cái ách đè trên vai dân…” (Is 9,3t). Đây chính là cái ách, cái gánh nặng, cái roi của Lề Luật đặt trên nhân loại, vì “Luật chỉ làm cho ta nhận biết tội’’ (Rm 7,7), và nó “giam ta trong tội’’ (Gl 3,22). Chỉ có Đức Giêsu giải phóng cho “kẻ bé mọn” thoát án phạt của Lề Luật (x. Gl 3,24 và Mt 11,25-30). Ai được Chúa ở cùng, người ấy được Ngài ủng hộ và bênh đỡ thắng sự ác, còn hơn xưa Thiên Chúa ủng hộ ông Ghêđêôn thắng quân Mađian để bảo vệ dân Ngài (x. Tp 6). Bởi vì Ngài vừa là Đấng cao cả nhất lại trở nên thấp hèn nhất! Ngài vừa khác ta, vì Ngài là Thiên Chúa, Ngài lại giống ta, vì Ngài là người như mọi người, ngoại trừ tội lỗi!
            - Ông Emerson nói: “Muốn quan sát một khu vực, ta phải leo lên nơi cao nhất, và còn phải xuống nơi thấp nhất.” Ví dụ: Một người muốn tham quan một địa danh để biết tường tận nơi đó, thì người ấy phải ngồi trên máy bay nhìn xuống, đồng thời họ còn phải lội qua từng dòng suối, xuống tận thung lũng sâu thẳm!
            - Còn ông P.Tillich nói: “Muốn hiểu ai, ta phải vừa giống họ, lại vừa khác họ.”
            Vậy chỉ có Đức Giê-su hiểu hết những nhu cầu, những khát vọng của ta, vì Ngài cao cả không ai bằng, cũng không ai hạ mình xuống thấp nhất như Ngài: Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa toàn năng, lại trở nên như người nô lệ để phục vụ, thậm chí người ta liệt Ngài vào hạng tội nhân phải loại trừ!
            Để minh chứng Ngài giống ta để hiểu ta nhất, làm thỏa mãn khát vọng nên thánh của ta, thánh Phaolô nói: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. … Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.” (Tt 2,11-14: Bài đọc II).
4- TA THEO GƯƠNG ĐỨC MARIA CỘNG TÁC VỚI ĐỨC GIÊSU ĐỂ HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH SÁNG TẠO CỦA CHÚA CHA.
            * Theo gương Đức Maria: Khi các chú mục đồng vào thành Bêlem, họ thuật lại tất cả các lời thiên thần loan báo, làm mọi người kinh ngạc – một thái độ nghi ngờ chưa tin – chỉ riêng Đức Maria thì giữ kỹ các điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng (x. Lc 2,15-20). Thái độ của Đức Maria trước ý định của Thiên Chúa đã trở thành mẫu mực cho mọi thành phần trong Hội Thánh, để nhờ nhẫm đi nhắc lại Lời Chúa suốt đêm ngày, họ làm gì cũng thành công! (x. Tv 1,2-3)
            * Cộng tác với Đức Giêsu ngay “Hôm Nay’’: Trong Tin Mừng của thánh sử Luca, ông đã dùng 8 lần thuật ngữ “HÔM NAY’’ để nói về ơn cứu độ Chúa ban:
1.      Hôm nay Đấng Cứu Thế sinh ra (x. Lc 2,11).
2.      Hôm nay Cha sinh ra Con (x. Lc 3,22).
3.      Hôm nay ứng nghiệm điều tai các ngươi vừa nghe (x. Lc 4,21).
4.      Hôm nay chúng ta được thấy điều kỳ lạ: Con Người có quyền tha tội (x. Lc 5,26).
5.      Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất (x. Lc 13,32).
6.      Hôm nay tôi phải lưu lại nhà ông Giakêu (x. Lc 19,5).
7.      Hôm nay nhà này được ơn cứu độ (x. Lc 19,9).
8.      Hôm nay anh ở trên Thiên Đàng với tôi (x. Lc 23,43).
            Như thế, thời Cựu Ước, Chúa đã tạo dựng vũ trụ trong 6 ngày, ngày thứ 7 Ngài nghỉ ngơi (x. St 1). Đó là dấu chỉ trong thời Tân Ước, vào ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, Đức Giêsu được nghỉ ngơi (an táng trong mộ), và Ngày Thứ Tám, Ngài sống lại, thì 8 lần “Hôm Nay” trong đời Đức Giêsu, Ngài lấy cả sự ác làm hoàn tất việc tạo dựng mà Chúa Cha đã khởi sự. Cụ thể Ngài đưa anh trộm lành dâng lên Chúa Cha để tôn vinh Người. Đúng là như lời thiên thần báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavid, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11: Tung Hô Tin Mừng).
            (Ta lưu ý: Trong Tin Mừng của Luca, còn nói đến hai lần “Hôm nay” nữa, nhưng không được kể là HÔM NAY CHÚA BAN ƠN, vì tác gỉa nói đến hình phạt đối với người từ chối Đức Giêsu: Lc 19,42: Ngài trách người Do Thái hôm nay không biết đón nhận phúc bình an! Lc 22,34: Ngài báo trước ông Phêrô sẽ chối Thầy: “Hôm nay gà sẽ không gáy cho đến lúc ngươi chối ba lần là không biết Ta” –).
5- CON CHÚA ĐẾN QUA PHỤNG VỤ HỘI THÁNH CỬ HÀNH ĐỂ HOÀN TẤT VIỆC TẠO DỰNG LOÀI NGƯỜI.
            Nhờ tình thương và quyền năng lạ lùng Con Thiên Chúa đã thực hiện như đã đề cập ở trên, làm cho các chú mục đồng cùng với các thiên thần chung lời tôn vinh ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (x. Lc 2,14.20).
            Lời tôn vinh trên, đêm hôm nay mọi Ki-tô hữu đều cất lời cùng chung tiếng hát với các thiên thần, để nối dài và mở rộng niềm vui ơn cứu độ đã đựơc công bố cách đây trên 2.000 năm, và còn đang tiếp tục thực hiện cho tới ngày Chúa lại đến, để tập họp thêm những người thiện tâm theo Ngài đi vào vinh quang bất diệt!
            Vì khi tạo dựng Ađam thứ I, Ađam cuối cùng (Đức Giêsu) đã khắc ghi hình ảnh mình trong đó. Vì vậy Ađam cuối cùng lãnh nhận vai trò và tên của Ađam thứ I đã bỏ mất những gì tốt đẹp Thiên Chúa ban, nhất là được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài (x. St 1,26). Ađam đầu, Ađam cuối: Người trước đã có khởi đầu, Người sau sẽ tồn tại mãi mãi, vì Người sau mới thực là Người đầu, như chính Ngài đã nói về mình “Ta là Đầu và là cùng đích” (x. Thánh Phêrô Kim Khẩu – Bài Giảng 117).
            Đức Kitô Giêsu xuất hiện không phải một lần, mà Ngài cứ muốn đến lần nữa, lần sau huy hoàng hơn lần trước. Thực vậy, lần I Ngài đến chịu trăm nghìn đau khổ, còn lần sau Ngài đến biểu lộ vương quyền của Thiên Chúa, vì nơi bản tính Thiên Chúa, hai lần Ngài được sinh ra: Lần I sinh ra bởi Thiên Chúa từ trước muôn đời, lần II được sinh ra do quyền năng Chúa Thánh Thần, nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Ngài đến âm thầm như sương xuống tấm lông chiên của ông Ghê-đê-on, và lần II Hội Thánh sinh Ngài qua Bí tích Thánh Thể, như sương từ trời xuống lần II trên mảnh đất ông Ghêđêon phơi tấm lông chiên, mà tấm lông chiên không đẫm ướt sương! Đó là dấu chỉ Chúa thúc bách ông Ghê-đê-on xuất quân chiến thắng kẻ địch Mađian giải phóng cho dân tộc! (x. Tp/Qa 6,36t).
            Lần I, Đức Kitô Giêsu đến được Mẹ bọc tã đặt trong máng cỏ (x. Lc 2,7); lần II Ngài đến trong bộ áo cẩm bào muôn ánh hào quang.
            Lần I, Đức Giê-su đến vác thập giá mà chẳng hề nhuốc hổ, lần II vào ngày Quang Lâm, Ngài đến trong vinh quang, có các đạo binh thiên thần hộ tống.
            Lần I, Ngài đến với ta qua Bí tích Thánh Tẩy, để ta được tháp vào Ngài như cành tháp vào cây, cho ta trở thành chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Giêsu Phục Sinh, còn lần II Ngài đến với ta qua Bí tích Thánh Thể, để ta được sống bằng sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa (x. Ga 6,57), bảo đảm cho sự sống lại, một sự sống dồi dào và vĩnh cửu (x. Ga 6,54; 10,10).
            Như thế người ta được sinh ra lần I theo ý muốn xác thịt của cha mẹ, thì loài người được nhân lên và chia rộng ra; còn lần II ta được sinh ra qua Bí tích Khai Tâm bởi ý muốn của Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu (x. Cv 2,38), thì ta lại được thu họp trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Ki-tô là Hội Thánh, để ta vừa được sống bởi Chúa Giêsu, vừa được sống dồi dào bởi các chi thể trong Thân Mình Đức Kitô thông chia cho, đó là “áo cưới của Hiền Thê Tân Lang Giêsu”, thánh Gioan nói đó chính là “áo trúc bâu, là công đức của các thánh, để được mời vào dự tiệc cưới Con Chiên trong ngày cánh chung” (x. Kh 19,7-8).
            Vậy chúng ta hãy trông chờ Đức Giêsu đến lần II quan trọng hơn lần I và bổ túc cho lần I, hầu lần II, Ngài cho chúng ta cùng cất tiếng tung hô: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11: Đáp ca). Ta “hát lên mừng Chúa một bài ca mới,hát lên mừng Chúa hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa chúc tụng Thánh Danh. Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ” (Tv 96/95,1-2).
THUỘC LÒNG.
Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa. (Tv 95/94,7)
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH