BỒ TÙNG LINH
Tiểu
thuyết gia rất danh tiếng Trung hoa trong thế kỷ XVII, tác giả bộ Liêu Trai Chí
Dị được dịch ra nhiều thứ tiếng (1640-1715).
TIỂU SỬ VÀ CÔNG NGHIỆP
Tự là Lưu Tiên, hiệu là Liễu
Tuyền, sanh năm 1640 tại Truy xuyên, một huyện thuộc tỉnh Sơn đông, đậu Cống
sinh dưới thời Khang Hy. Chịu sự dạy dỗ của Thi Ngu Sơn, chuyên chú về văn
phóng khoáng, ngoài lối văn chương cử nghiệp. Danh tiếng văn chương càng ngày
càng thêm trổi, thế mà vì ghét bọn tham quan ô lại, quả quyết bỏ lối học khoa cử
để chuyên về cổ văn, cùng đi lại với các bậc lão thành, cao sĩ và ở nhà viết sách,
tự dựng lên một lối văn chương riêng.
Sống trong cảnh nghèo
túng, nhưng chẳng giấu giếm ai; tính tình chất phác, giao du rộng rãi, trọng
danh nghĩa, hay cùng Lý Hy Mai, Trương Lịch Hữu và các danh sĩ đương thời hợp
thành thi xã, lấy phong nhã và đạo nghĩa cùng trau dồi khuyến khích lẫn nhau.
Chọn nghề dạy học rày đây
mai đó, giang hồ trên 30 năm, tai nghe mắt thấy đủ điều, thêm vào đó, kiến thức
sâu rộng và óc châm biếm thâm trầm nên mới chế biến ra được bộ Liêu Trai Chí Dị.
Ngoài ra tiên sinh còn viết,
theo Hồ Thích, bộ truyện dài Lưỡng Thế Nhân Duyên…
NHỮNG DIỀU CẦN BIẾT VỀ
LIÊU TRAI CHÍ DỊ
Bồ Tùng Linh ra đời thì
Trung hoa đã bị nhà Thanh, người Mãn châu, cai trị rồi. Sống dưới đời Khang Hy
và Ung Chính, là những thời kỳ mà sự thống trị của nhà Thanh trên đất Trung hoa
mới bắt đầu nên mọi sự kiểm soát, nhất là tư tưởng đều gắt gao. Vì vậy tiên
sinh đã phải dùng lối văn chương rất khéo léo là mượn yêu, chồn, ma, quỷ thay
người trong câu chuyện để có thể, may ra nói hết những ý tưởng mà tiên sinh muốn
nói:
-
Phơi bày, chỉ trích kín đáo những tệ nhũng của bọn Vua, Quan đương thời.
-
Nhắc nhở cho dân chúng và sĩ phu khỏi quên văn hóa cổ truyền bằng cách dùng
những điển cố tài tình.
-
Thức tỉnh tinh thần dân tộc.
Trong phạm vi này thì một
phần nào, tiên sinh cũng giống La Fontaine ở nước Pháp, đã dùng hầu hết các thú
vật để tả cái xã hội Pháp, tả cái xã hội chung của loài người, mượn lời thú vật
để răn he, cảnh cáo loài người…
Ngoài phương diện này,
tiên sinh còn có để trong Liêu Trai Chí Dị một ít chuyện tiêu khiển thuần túy
hoặc cũng có những chuyện ngụ ý sâu xa nhưng không cần đến chồn cáo, ma quỷ,…
Vì vậy có người cho Liêu
Trai chỉ là sách “mua vui một vài trống canh” gồm toàn chuyện thần tiên, hồ ly
quái gở, thì cũng không được đúng lắm. Đọc cho kỹ thì sẽ nhận thấy những chỗ
mua vui lại là những chỗ đầy ý thức cách mạng, hoặc tu nhân xử thế…
Sở dĩ có cái hình thức
loanh quanh như thế là, như trên đã nói, vì hoàn cảnh chính trị. Tâm sự này
tiên sinh cũng có thổ lộ ở những lời kết thúc bài tựa: tập dịch vụ cừu, vong tục
u minh, chi lục, phù bạch tái bút, cận thành cô phẫn chi thư, ký thác như thử
diệt túc bi lữ (góp da may áo, nỗi càn theo truyện cũ u minh, nâng chén làm văn
chỉ thành ra bộ sách phẫn chí, sự ký thác như thế cũng đủ đáng thương vậy).
Về văn chương trong truyện
thì thật là lỗi lạc: kết thúc tài tình, lời văn điêu luyện, từ bậc văn nhân đến
giới bình dân đều ưa đọc. Vì vậy mà nó được truyền tụng xưa nay, được coi như bộ
đoản thiên tiểu thuyết đặc sắc nhất của Trung quốc.
Các nhà phê bình đều đồng
ý trong bộ Liêu Trai có một số truyện được liệt vào những kiệt tác:
-
Truyện Mã Giới Phủ tả một người đàn bà ác nhơn, ác đức sau bị một chốn tiêu
tiên tên là Mã Giới Phủ (thành người) trừng phạt. Tác giả gián tiếp tả cái xả hội
thấp kém của Trung hoa lúc bấy giờ.
-
Truyện Anh Ninh là một hài kịch nhỏ.
-
Truyện Lâm Tứ Nương, Trúc Thanh, Đại Lục tướng quân, Hương Ngọc, Hoàng Anh,
Phấn Điệp,…
Sách được sự ngưỡng mộ của
toàn độc giả và đã sinh ra một phong trào viết tiểu thuyết ngắn theo lối tiên
sinh. Nhiều người bắt chước viết như tiên sinh nhưng mãi đến nay chưa thấy ai bằng
tiên sinh. Chỉ có Kỷ Quân sinh năm 1724, mất năm 1804 có viết bộ Duyệt Vi Thảo
Đường bút ký ghi những chuyện quái dị đời Thanh là khá hơn cả nhưng so với Liêu
Trai Chí Dị thì còn kém… xa.
Tiên sinh đã phải mất đến
20 năm tức là vào năm 1681 mới viết xong bộ sách này nhưng từ đó về sau nó cũng
được sửa đi sửa lại nhiều lần hoặc thêm bớt. Trong những thời kỳ đầu thì tác phẩm
được chuyền tay dưới hình thức bản thảo và chỉ đến năm 1740 mới được người cháu
của tiên sinh (Bồ Lập Đức) in ra thành sách hẳn hoi. Và như vậy thì tất cả gồm
16 cuốn kể lại 431 truyện; dài, đôi ba trang; ngắn, 15 hàng…
Sách được tái bản nhiều lần
lắm và đã được dịch qua tiếng Nga, Pháp, Đức, Ý, Nhật,… Tại Pháp thì nhan đề của
tác phẩm là Contes fantastiques du studio Leao (Leao Tcha Tche Yi). Tại
Anh, H.A.Giles chỉ dịch có 164 truyện và đặt cho sách tên là Strange Stories
from a Chinese Studio.
Riêng ở nước Việt nam ta, thời tiền chiến, đã có bản dịch của Tản
Đà và thời Hậu chiến có 2 bản dịch của Đào Trinh Nhất và của Nguyễn Hoạt.