Hành-trình
vô-thần của Karl Marx
khi còn thanh-niên
qua những sách
đọc tham-khảo về tôn-giáo (tt)
đọc tham-khảo về tôn-giáo (tt)
1. Marx đọc
sách các triết-gia thời thượng cổ
Chính vì đã chọn cái đề-tài luận-văn tiến-sĩ
về triết-học đời thượng-cổ, cho nên Marx quen-thuộc với sách vở thời đó. Nhưng
dĩ-nhiên là ông không đọc hết. Những triết gia có tiếng là vào hạng lớn thì kể
là ông không đọc bao nhiêu, nhưng chỉ đọc mấy người tiêu-biểu cho các học-phái
Êpicur, học-phái Stoa (ta hay gọi là khắc-kỷ) và học-phái hoài-nghi. Ngược lại
quan-niệm của Hegel, Marx cho rằng mấy học-phái đó đứng vào chỗ then-chốt của lịch-sử
triết-học Hi-lạp, cho nên trong luận-văn, ông báo trước là sẽ dành cho mấy triết-gia
đó một thiên khảo-luận quan-trọng hơn. Nhưng ông không bao-giờ làm truyện đó.
Không phải là vô-lý mà ông chọn hai triết-gia
Đêmôcrit và Êpicur. Sau khi bỏ đại-học Bonn để
đi Berlin, Marx có viết cho phụ-thân một bức
thư, đề ngày 10-11-1837, trong đó ông cho biết là ở Berlin sau khi Hegel tạ-thế thì giới đại-học
vẫn còn sặc mùi duy-tâm, cho nên các bài thơ mà ông làm lúc đó cũng duy-tâm như
thế. Có lẽ vì muốn bước ra ngoài cái khung cảnh độc-tôn duy-tâm của triết-lý về
tinh-thần, mà ông tìm lối thoát theo phương-hướng duy-vật của triết-lý về
thiên-nhiên. Nhưng đi theo hướng đó tức là làm quen với những hệ-thống tư-tưởng
khác hẳn những điều ông đã học được ở trường trung-học về Thiên-Chúa tạo thiên
lập địa và có mối thân-tình riêng với nhân-loại.
Thế nhưng dù có thay đổi chí-hướng thì
Marx vẫn còn đi từ-từ. Đây là một đoạn ông viết trong bài luận về tôn-giáo
trong kỳ thi tú-tài: “Kết-hợp với Chúa Cứu-thế làm cho người ta được cái hạnh-phúc,
mà học-phái Êpicur không tìm ra được trong cái triết-học nông-cạn của họ, mà dù
nhà tư-tưởng thâm-thúy nhất có lục-soát kỹ trong cái hiểu biết của mình, cũng
không thấy được. Cái hạnh-phúc ấy, chỉ những tâm hồn đơn-sơ như trẻ thơ, kết-hợp
với Chúa Cứu-thế và nhờ ngài được kết-hợp với Thiên-Chúa, mới cảm nghiệm được.
Nó làm cho đời người thêm đẹp và thoát tục hơn”.
Những câu đó có vẻ còn là bài vừa học
thuộc lòng xong, và Êpicur thì vẫn chưa được đánh giá cao. Như thế ta chưa biết
rõ cái niềm thâm-tín của Marx lúc đó ra sao. Vì lẽ rằng cũng trong kỳ thi
tú-tài đó, khi viết bài luận bằng tiếng Đức, thì Marx không nói gì đến vị
Thiên-Chúa, mà chỉ nói trông-trống về thần-linh, và ngụ-ý rằng linh-hồn người
ta là một tàn lửa của thần-linh. Cho nên có thể nói mà không sợ lầm rằng: vào
thời đó, nhất là trong khi đang soạn luận-văn, Marx vẫn còn đang học-hỏi
tìm-tòi. Những điều học biết được về đạo Thiên-Chúa sẽ được đem ra so-sánh với
học-thuyết duy-vật và học-thuyết hoài nghi.
Trong khi tìm tòi như thế, trước tiên là
Marx đọc sách của Điogênê và Plutarch, để biết đại-khái về tiểu-sử và tư-tưởng
của hai tác-giả mà ông nghiên-cứu là Đê-mô-crit và Ê-pi-cur. Sau đó thì đọc nhà
tư-tưởng hoài-nghi Sextus Empiricus và nhà tư-tưởng duy-vật Lucretius. Và sau
cùng thì đọc Seneca, triết gia khắc-kỷ, đọc Gio-an Stobê, Clêmentê quê ở Alexandria, và Cicero.
Còn riêng Aristotêlês là đỉnh cao của triết-học Hi-lạp, thì Marx cũng có tham
khảo qua loa, nhưng không thấy triết-gia này có ảnh-hưởng gì tới con đường tiến-triển
của ông.
Những đoạn văn mà Marx chép lại từ sách
các tác-giả trên-đây và các ghi-chú của ông đều nằm tất cả trong bảy Cặp vở
ghi-chú về triết-học của Êpicur. Marx làm công-việc so-sánh đối-chiếu triết-lý
về thiên-nhiên của các học-thuyết duy-vật, khắc-kỷ và hoài-nghi, trước hết là
theo quan-điểm chủ-thể và quan điểm tự-do của Hegel, và sau đó là theo quan-điểm
tôn-giáo. Quan-điểm sau mới là ở trong phạm-vi nghiên-cứu của bài này.
Trước tiên ta sẽ xem Marx phê-bình
tôn-giáo như thế nào trong luận-văn tiến-sĩ.
1.1 -
Marx phê-bình tôn-giáo như thế nào trong luận-văn tiến-sĩ
Ngay trong phần dẫn-nhập của luận-văn, Marx
đã tuyên-bố lập-trường của ông một cách thật là rõ-rệt. Ông viết: “Bao lâu còn
một giọt máu lưu-thông trong quả tim tự-do và làm chủ được thế-giới, thì triết-học
vẫn còn ném vào mặt các đối-thủ tiếng hô to của Êpicur: “Bất-kính thần-linh
không có nghĩa là phủ-nhận thần-linh, nhưng là gán cho thần-linh những điều mà
quần-chúng tin theo”. Triết-học không phải giấu-giếm gì cả, triết-học theo y
như niềm tin đã được Promêthê tuyên-bố: “Nói tắt một câu, tôi ghét tất cả các
thần-linh”. Đó là châm-ngôn mà triết-học đưa ra để chống lại những thần-linh
trên trời dưới đất không biết nhìn-nhận rằng cái ý-thức của con người ta mớí là
thần-linh tối cao. Không gì có thể tranh chỗ được với ý-thức đó” Ạ .
Lời tuyên-bố của Marx thật là có
tính-cách hùng-biện của người muốn ăn to nói lớn. Nhưng chứng-lý không thấy
chính-xác và có mạch-lạc là bao nhiêu, cho nên cũng vì thế mà khó thuyết-phục
được độc-giả. Thực thế, một là Marx lầm tưởng rằng Êpicur đã phủ-nhận các thần-linh,
nhưng sự thực thì khác, như ta sẽ nói sau đây ; hai là nếu ta coi cái ý-thức của
con người là thần-linh tối cao, và nhân danh ý-thức ấy để phủ-nhận các thần-linh,
thì rõ ràng là ta chưa thoát được ra ngoài lập-trường duy-tâm của Hegel. Cho
nên ngay từ đầu luận-văn, độc-giả đã có đủ lý-do để nghi-ngờ rằng lập-luận chưa
xác-đáng, và tư-tưởng trong chính cái luận-văn cũng chưa có thống-nhất, và còn
cần phải suy-nghĩ chín-chắn hơn một tí nữa. Hơn nữa, Chuyên-gia về Marx là
Rubel cũng cho ta biết là chính Marx cũng đã nói rằng cái luận-văn ấy đã được
thực-hiện “vì lý-do chính-trị hơn là vì lý-do triết-lý” .
1.1.1 - Lập
luận chưa xác-đáng
Lập-luận chưa xác-đáng là vì còn lẫn-lộn
các phạm-vi và các loại ngôn-từ.
Đây là một trong nhiều đoạn văn tiêu-biểu
cho lối làm việc của Marx, nó nằm trong phần khảo-luận về Êpicur (trong phần thứ
hai, đoạn thứ năm, bàn về khí-tượng). Marx viết: “Thực vậy, chúng ta đã thấy tất
cả triết-lý của Êpicur về thiên-nhiên đều tựa vào sự đối-lập (Antinomie) giữa bản-thể
và hữu-thể, giữa hình-thể và chất-thể. Nhưng trong các tinh-tú trên trời thì
cái mâu-thuẫn đó đã được phế bỏ, những yếu-tố đối-lập đã dược hòa-giải. Trong hệ-thống
ở trên trời thì chất-thể đã tìm lại được hình-thể của nó, và lãnh-nhận được
tính-cách đặc-thù, và thành ra yếu-tố tự-lập. Tuy nhiên, đến mức đó, chất-thể
(hay là vật-chất) không còn phải là sự khẳng-định của cái ý-thức trừu-tượng.
Còn trong thế-giới các nguyên-tử, cũng như trong thế-giới các hiện-tượng, thì
hình-thể chống lại chất-thể, cái nọ phá hủy cái kia, và chính trong cái mâu-thuẫn
đó mà cái ý-thức trừu-tượng của cá-nhân cảm-nghiệm được cái bản-tính đã được
khách-thể-hóa của nó. Cái hình-thể trừu-tượng đã chống lại cái chất-thể dưới
hình-thức vật chất, đó chính là cái ý-thức. Nhưng bây giờ thì cái chất-thể đã
được hòa-giải với cái hình-thể và đã chuyển thành cá-thể, cho nên cái tự-kỷ
ý-thức (Selbstbewusstsein) đã như con nhộng ra khỏi tổ kén, tự cho mình là
nguyên-tắc chân-chính và chống lại cái yếu-tố đã thành ra tự-lập, yếu-tố đó là
thiên-nhiên”.
Đoạn văn này đọc bằng tiếng Đức đã khó
hiểu, mà dịch ra tiếng Việt còn khó hiểu hơn nữa, nhất là đối với những ai chưa
quen với chuyên-ngữ của trìết-học cổ-điển Âu-châu nói chung, và của Hegel nói
riêng. Những ai đã quen với lối hành-văn của Marx trong các bài và sách
nghiên-cứu về kinh-tế hay là bút-chiến về chính-trị, càng ngạc-nhiên, không thể
ngờ Marx lại dùng ngôn-ngữ như thế. Hơn nữa, triết-lý của Êpicur thường là dễ
hiểu, nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên ta thấy được trình-bày một cách thật là
lúng-túng khó hiểu. Cái đó là vì người ta (Marx) gò bó cái triết-lý duy-vật về
thiên-nhiên, bắt nó phải mặc bộ áo chẽn của hệ-thống biện-chứng duy-tâm của
Hegel.
Thực thế, giới đại-học ở Berlin thời đó đều quen
ăn nói theo kiểu Hegel như thế. Marx đã ghi tên học tại Berlin và, lúc ông mới
19 tuổi, nghĩa là hai năm trước khi bắt đầu soạn luận-văn, ông viết thư cho phụ-thân:
“Trong lúc không được khỏe, con đã học triết-lý của Hegel từ đầu đến cuối, đồng
thời học của đa-số các đồ-đệ của ông nữa” . Ai đã biết tác-phẩm của Hegel
mênh-mông như thế nào, tất sẽ phải ngạc-nhiên, không biết Marx tìm đâu ra
thì-giờ mà đọc được nhiều như thế. Nhất là khi biết rằng ngoài việc học triết-học,
Marx còn ghi tên học luật-khoa, đồng thời còn làm thơ và viết mấy vở kịch nữa.
Ngày nay tác-phẩm của Hegel còn làm cho những người lão-luyện phải đau đầu nhức
óc, cho nên có thể phỏng-đoán rằng đọc nhiều và mau như thế, dù có thần-trí đi
nữa cũng rất dám “bội-thực”.
Ngôn-từ trong đoạn văn trích-dẫn trên
đây đều là chuyên-ngữ của triết-lý Hegel. Ví dụ như những từ-ngữ: mâu-thuẫn
(Widerspruch), phế-bỏ (aufheben), hòa-giải (versöhnen), hình-thể (Form), chất-thể
(Materie), đặc-thù (Einzelheit), tự-kỳ ý-thức (Selbstbewusstsein), khách-thể-hóa
(vergegenstảndlichen). Nếu Êpicur đọc đoạn văn ấy, chưa chắc đã có thể nhận ra
là triết-lý của mình.
Tôi trộm nghĩ rằng khi Marx cố-tình đem
bộ áo của Hegel mà mặc cho Êpicur, thì ông, có ý làm một việc nhất cử lưỡng tiện:
một đàng thì tựa vào lập-trường duy-vật, để chủ-trương rằng cái gì không phải
là vật-chất thì không thể có được ; một đàng thì bám vào cái tự-kỷ ý-thức của
duy-tâm, để tuyên-bố rằng ngoài cái “tâm” ra thì không có cái gì hết. Nếu cùng
một bước có thể đi được vào cả hai đàng, thi có thể minh-chứng rằng ngoài cái “tâm”
và vật-chất, ra, thì không thể có Thiên-Chúa. Nhưng thử hỏi có thể đi cả hai
đàng như thế được không ?
1.1.2 -
Quan-niệm vô-thần duy-vật
Từ thời thượng-cổ Êpicur đã được tiếng
là người vô-thần. Khi giải-thích vũ-trụ, ông chỉ dùng đến các nguyên-tử, có
hình-hài, có vị-trí và có lối di-chuyển khác nhau, mà không cần đến thần-linh.
Trái lại quan-niệm của thời thượng-cổ, Êpicur không còn coi tinh-tú trên trời
là các vị thần-linh nữa. Lucretius, đã theo lập-trường đó. Marx cũng đi theo. Ông
viết: “Êpicur là một người soi đường, là một người Hi-lạp quan-trọng chủ-trương
khai-minh (Aufklảrer). Cho nên đáng được Lucretius tán-tụng như sau: “Ai nấy đều
thấy, nhân-loại bị tôn-giáo đè bẹp, kéo lê trên mặt đất này một cuộc đời khốn-nạn.
Tôn-giáo đem bộ mặt ghê-sợ từ trên trời chiếu xuống đe dọa người ta. Trong lúc
đó thì có một người đầu tiên, một người Hi-lạp, dám đưa mắt nhìn ngược lên và
chống-cự với nó. Các truyện thần-tiên bày vẽ, sấm sét trên trời dọa-dẫm, thay
vì làm cho người đó lùi bước, thì lại càng làm cho thêm can-đảm (...), Chính vì
thế mà đến lượt tôn-giáo bị đánh đổ, còn chúng ta thì được vinh-quang đưa lên tận
trời” .
Thế nhưng sự thật đâu có đơn-giản như thế.
Theo lý mà xét thì việc từ chối không nhận tinh-tú là thần-linh, không có nghĩa
là từ chối tất cả các thần-linh. Trong cuốn sách Êpicur và các thần-linh của
ông, học-giả André-Jean Festugière đã trình-bày học-thuyết của Êpicur một cách
tỉ-mỉ và tế-nhị. Tác-giả cho biết rằng người Hi-lạp đời thượng-cổ tin rằng có
các thần-linh điều-hành các công-việc của nhân-loại. Niềm tin đó làm cho họ
lo-lắng sợ-hãi. “Đối với không biết là bao nhiêu người, tôn-giáo đè nặng trên
tâm hồn của họ, như là một cái ách nô-lệ” và, “ quần-chúng bám chặt vào thần-linh,
để rồi cứ bị tù-túng trong cái vòng sợ-hãi và hi-vọng”. “Vì thế cho nên người
ta sợ thần-linh, sợ thần-linh giận-dữ và báo thù những người đã quá cố. Đó là
những yếu-tố rất quan-trọng trong tôn-giáo người Hi-lạp” .
Theo như Êpicur quan-niệm thì “Tất cả những
điều không tốt đều là do quan-niệm sai-lầm về thần-linh. Bài thuốc chữa cái bệnh
đó, tức là quan-niệm chính-đáng về thần-linh, sẽ được trình-bày trong những
nguyên-tắc căn-bản của thuyết vô-ưu (ataraxia)” . Vì lẽ cái hạnh-phúc của người
ta là ở chỗ không phải lo-lắng, tâm hồn không bị khuấy động. Các thần-linh bất-tử
và hạnh-phúc, thì không có để ý lo-lắng gì về công việc của loài người, cho nên
hoàn-toàn vô-tình, không có những tình cảm như nộ-khí hay là nhân-ái, như quần-chúng
tưởng-tượng ra. “Và người bất kính thần-linh không phải là người phủ-nhận các
thần-linh của quần-chúng, nhưng là người gán cho thần-linh những quan-niệm sai
lầm của quần-chúng”, .
Như vậy tôn-giáo của Êpicur là như thế
nào ? Để trả lời cho câu hỏi đó, xin trưng-dẫn hai đoạn văn của Festugière. Thứ
nhất: “Vấn-dề không phải là phủ-nhận các thần-linh. (Êpicur viết:) “Chúng ta biết
một cách hiển-nhiên là có các thần-linh” (Bức thư III, 123). Vì thế, thay vì xếp
Êpicur vào loại những người hoài-nghi hay là những người dửng-dưng càng ngày
càng đông vào cuối thế-kỷ IV, thì ngược lại, phải coi triết-gia đó là một trong
những người đã có phản-ứng chống lại những kẻ cái gì cũng tin, càng ngày càng
đông. Riêng ông thì ông tin có thần-linh và tin rằng tôn-giáo có nhiều cái hay.
Ông chăm-chỉ tham-dự các lễ-nghi tôn-giáo, Tắt một câu, ông là người biết kính
thần-linh, hiểu theo quan niệm người thời đó”. Thứ hai: “Tất cả những yếu-tố
trong tôn-giáo của Êpicur đều được thu gọn lại, trong một bức thư mà nhà hiền-triết
đó gửi cho một người bạn mà ta không biết tên. Tất cả đã được viết vào giấy vỏ
sậy (papyrus), được tìm thấy ở Ai-cập và được học-giả Hermann Diels, cho ấn-hành
rất cẩn-thận. Tài liệu quí giá ấy có thể dùng để kết-luận những phân-tích của
chúng tôi. Dĩ nhiên là trong đó có nhắc lại rằng Êpicur tin chắc nịch rằng các
thần-linh đều vô-ưu, và vì thế đều dửng-dưng đối với các việc nhân-sự. Nhưng ta
cũng thấy rằng niềm tin đó không những là không phủ nhận tôn-giáo, mà ngược lại
phải được dùng để làm cho tôn-giáo được thuần-chất: con người biết kính thần-linh
thì không kêu đến các vị đó để xin nguôi giận, hay là để xin xỏ nọ kia, nhưng
là để chiêm-niệm, kết hợp với các vị đó, tham gia vào niềm hoan-lạc của thần-linh,
để rồi được hạnh-phúc vô-tận như các vị đó, ngay trong kiếp sống hữu hạn này” .
Xem như thế thì ta hiểu từ đâu mà có
quan-niệm rằng tôn-giáo phát-sinh ra vì người ta, sợ hãi và dốt nát không biết
nguyên-nhân của vũ-trụ. Nhưng ta cũng thấy rõ rằng không thể xếp Êpicur vào
phái vô-thần duy-vật được. Nói cho cùng thì Marx chỉ dùng đến Êpicur để có dịp
chạm trán với thuyết duy-tâm của Hegel mà thôi.
1.1.3 -
Thuyết duy-tâm và cái tự-kỷ ý-thức
Đến đây dĩ-nhiên phải đặt một câu hỏi: từ
quan-niệm duy-vật về nguyên-tử trong triết-lý về thiên-nhiên đời thượng-cổ, làm
thế nào lại có thể chuyển sang quan-niệm duy-tâm căn-cứ vào cái tự-kỷ ý-thức của
Hegel được ? Hai bên thực là khác nhau quá. Lý do có lẽ là vì Marx đã có đọc
sách của Hegel, là một triết-gia đã chủ tâm hòa-giải những cái xem ra mâu-thuẫn
nhau. Nếu không chuyển theo phương-pháp biện-chứng, thì tất sẽ rơi vào thứ “duy-vật
quê-mùa” của thế-kỷ XVIII, cho rrằng cái nọ sinh ra cái kia, vật-chất sinh ra
tinh-thần, Thực thế, Trong sách Những nét căn-bản của bách-khoa toàn-thư về các
khoa triết-lý, (1827), Hegel trình-bày một hệ-thống bao trùm toàn-thể thực-tại
và toàn-thể các khoa-học về thực-tại. Hệ-thống đó gồm ba giai-đoạn.
Giai-đoạn, thứ nhất là Khoa Lý-học, suy-tư
về hệ-thống liên-kết ba khái-niệm,: một là Hữu-thể (Sein / être), hai là Bản-thể
(Wesen / essence), ba là Ý-niệm (Begriff / concept).
Giai-đoạn thứ hai là Triết-lý về
Thiên-nhiên, ta sẽ bàn tỉ-mỉ hơn sau này.
Giai-đoạn thứ ba là Triết-học về Tinh-thần
, gồm ba chặng: a) Chặng thứ nhất là: Tinh-thần trong chủ-thể (Der subjektive
Geist / esprit subjectif). Chặng này có ba đối-tượng là linh-hồn, ý-thức và
tinh-thần, đó là đối tượng của ba khoa-học là khoa nhân-học (Anthropologie), khoa
hiện-tượng-học về tinh-thần (Die Phảnomenologie des Geistes) và khoa Tâm-lý-học
(Psychologie). b) Chặng thứ hai là Tinh-thần ngoài khách-thể (Der objektive
Geist / esprit objectif). Chặng này gồm tất cả những tác-phẩm, những công-trình
có tính-cách nhân-văn do tinh-thần con người, chứ không phải do vật-chất biến-hóa
ra, như: pháp-luật, đạo-đức luân-lý và các tổ chức đời sống chung (gia-đình, xã-hội,
nhà nước). c) Chặng thứ ba là Tinh-thần tuyệt-đối (Der absolute Geist / esprit
absolu). Đây là đỉnh cao nhất của Triết-học về Tinh thần, gồm ba phần là: Nghệ-thuật,
Tôn-giáo đã được mặc-khải, và Triết-lý (Philosophie).
Tựa vào phương-pháp biện-chứng của Hegel,
và tựa vào thứ-tự do phương-pháp đó xếp đặt ra, Marx đã tìm thấy cách móc nối
Triết-học về Thiên-nhiên, (của Êpicur), tức là giai-đoạn thứ hai, với cái Tự-kỷ
ý-thức, là một phần nằm trong Ý-thức, tức là chặng thứ nhất của giai-đoạn thứ
ba. Có điều cần phải chú-ý là cách móc nối như thế chỉ có lý-sự khi nó nằm
trong, toàn-thể biện-chứng, chứ nếu tách riêng ra hai yếu-tố, Thiên-nhiên, và, Ý-thức,
thì còn gì là biện-chứng nữa, và vì thế ta không thấy chúng thực-sự liên-quan với
nhau như thế nào. Thế nhưng chưa hết. Ta vẫn không hiểu được vì sao Marx lại dừng
ngay ở chỗ Ý-thức và Tự-kỷ Ý-thức, coi đó là thực-thể tối cao, nhưng trừu-tượng,
chứ không theo biện-chứng toàn-diện của Hegel mà đi xa hơn nữa, cho tới các
tác-phẩm, công-trình nhân-văn, cho tới nghệ-thuật, tôn-giáo, triết-lý, là đỉnh
tối cao của hệ-thống thực-tại. Như thế thì còn gì là biện-chứng nữa. Thế rồi
Marx vội cho ngay rằng Hegel là duy-tâm, không biết gì đến thực-tại con người
và thiên-nhiên. Nhưng đó là vì Marx đã bỏ mất cái phần về tinh-thần ngoài
khách-thể.
Nhưng ta biết, Hegel đâu có đơn-sơ như
Marx nghĩ. Lúc đó Marx mới chừng 20 tuổi, chỉ biết Hegel một cách trừu-tượng
qua mấy cuốn sách, chứ đâu có như Feuerbach được nghe chính Hegel giảng bài một
cách vừa linh-hoạt vừa cụ-thể. Cho nên có hiểu lầm thì ta cũng không nên lấy
làm lạ. Sau đó mấy năm, khi Marx phân-tích về đời sống xã-hội, kinh-tế và
chính-trị, thì sẽ lấy từ phần “tinh-thần ngoài khách-thể” của hệ-thống Hegel ra
được nhiều vật-liệu, rồi xây đắp cho hệ-thống của mình. Ai không biết thì cứ tưởng
là của Marx hết cả. Nói cho công bằng, thì Marx cũng có công-nhận một cách
trông-trống rằng mình là đồ-đệ của Hegel, tuy Hegel đã chết mấy năm trước khi
Marx đến tuổi vào đại-học. Nhưng đó là công-nhận hơn 30 năm sau, nghĩa là khi
Marx viết bài hậu-từ nhân dịp sách Tư-bản-luận được in lần thứ hai, vào năm
1873 . Tuy vậy Marx vẫn đinh-ninh rằng hệ-thống biện-chứng của mình là hệ-thống
biện-chứng của Hegel đã được đảo ngược lên. Rồi thiên-hạ cứ nhắc lại như thế
hoài, mà không thấy ai tự hỏi xem một tòa nhà, mà được dựng đứng ngược lên, nền
lên trên, mái xuống dưới, thì phỏng có còn đứng đưọc không !
Bây giờ ta trở về Triết-lý về
Thiên-nhiên. Trong ba phần của hệ-thống biện-chứng của Hegel, thì đây là phần
không được vững-chãi mấy. Không vững mấy, nhưng lại rất cần, vì nếu không có nó,
thì cũng không còn biện-chứng nữa. Cho nên trừ Engels ra, không thấy ai để ý đến
nó làm gì. Engels đã ra công đảo ngược nó lên, biến nó thành ra sách
Thiên-nhiên biện-chứng (Dialektik der Natur). Tuy xưa nay người ta cứ đinh-ninh
rằng hệ-thống Hegel đã được Marx và Engels đảo ngược lại, nhưng thực ra, cũng
chỉ có phần này (về thiên-nhiên) là được đảo ngược lại mà thôi. Nhưng nếu chỉ
có thiên-nhiên mà thôi, thì cũng chẳng làm gí có biện-chứng ! Về sau này, ông
Trần Đức Thảo cũng đi theo vết xe của Engels và tìm cách giải-thích tinh-thần từ
vật-chất mà ra như thế nào. Ông Thảo có bàn rộng về phần cuối cùng của, hệ-thống
Hegel, mà Marx đã bỏ rơi từ lâu. Nhưng thiết-tưởng đó là thuyết biến-hóa duy-vật,
thật sự có tế-nhị hơn thuyết cũ, nhưng chưa chắc có còn phải là biện-chứng nữa.
Dù sao đối với những người nghiên-cứu về
khoa-học, thì không những việc làm của Hegel cũng như của Engels, trong phạm-vi
vật-lý-học và hóa-học, là vô-ích, mà cả việc làm của ông Thảo trong phạm-vi các
khoa-học nhân-văn (như tâm-lý-học, xã-hội-học, kinh-tế-học, tôn-giáo-học, v.v.),
trước đây nửa thế-kỷ, cũng không đi đến đâu. Vì khi triết-gia đem các ý-niệm
khoa-học, tự-tiện xếp thành hai kiểu trái ngược nhau, theo thứ-tự của những từ-ngữ
như: mâu-thuẫn, chính-đề, phản-đề, rồi tổng-đề, thì chỉ là chỉ nói suông, nói
cho vui truyện thôi, chứ không làm cho khoa-học thực-nghiệm tiến được một bước
nào cả.
Marx dùng phương-pháp của Hegel để chuyển
triết-lý về thiên-nhiên của Êpicur sang cái mâu-thuẫn với nó, tức là cái tự-kỷ
ý-thức, nhưng lại dừng hẳn ở đây, cho nên không còn bàn tiếp về tôn-giáo, về thần-linh
hay Thiên-Chúa nữa. Vấn-đề phải đặt ra là làm thế nào mà chuyển được. Tôi thấy
một đoạn văn của Hegel, mà tôi trộm nghĩ là nó đã rất có thể gợi ý-kiến, cho
Marx làm như thế, Đoạn văn đó nằm trong phần đầu của Những nét căn-bản của
bách-khoa toàn-thư về các khoa triết-lý (1827), trong đó Hegel giải-thích cái
khả-giác (Sinnliche), cái biểu-tượng (Vorstellung), và tư-tưởng (Gedanken) khác
nhau như thế nào. Hegel viết: “Điểm dị-biệt giữa cái khả-giác và tư-tưởng là thế
này: đặc-tính của cái khả-giác là cá-tính (Einzelheit), và vì cá-thể (Einzelne)
(nói một cách thật trừu-tượng thì đó là nguyên-tử) là yếu-tố trong một hệ-thống
(im Zusammenhang), cho nên cái khả-giác gồm những yếu-tố ngoại-tại đối với nhau
(Aussereinander), nghĩa là, xét theo hình-thức trừu-tượng thì các yếu-tố đó hoặc
là cái nọ ở bên cạnh cái kia, hoặc là cái này tiếp theo cái khác (das Neben-
und das Nacheinander).(...) Ngoài cái khả-giác ra thì cái biểu-tượng cũng có nội-dung
là vật-chất (Stoff) phát sinh ra từ tư-tưởng tự-kỷ ý-thức, ví-dụ như những biểu-tượng
về pháp-luật, về đạo-đức, về tôn-giáo và cả về tư-tưởng nữa”. Trong đoạn văn
hơi khó đọc này, ta chỉ cần chú-ý đến mấy chữ “cá-thể (nói một cách thật trừu-tượng
thì đó là nguyên-tử)” [Das Einzelne (ganz abstrakt das Atom)]. Vì lẽ rằng: một
đàng thì nguyên-tử là nền-tảng của triết-lý về thiên-nhiên của Êpicur, đàng
khác thì nguyên-tử cũng chính là cái mà Marx coi là cá-thể.
Nên nhắc lại là trong hệ-thống biện-chứng
của Hegel, thì có ba giai-đoạn. Giai đoạn thứ nhất là cái ý-tưởng trừu-tượng.
Giai-đoạn thứ hai là thiên-nhiên, vì thiên-nhiên là trạng-thái vong-thân của
Ý-tưởng, nó từ Ý-tưởng sa-đọa xuống thành vật-chất cụ-thể, mâu-thuẫn và khác hẳn
với Ý-tưởng Ạ, cho nên có thể coi nó là giai-đoạn vong-thân của ý-thức và tự-kỷ
ý-thức. Nhận-định được như thế tức là sang giai-đoạn thứ ba.
Bây giờ trở về Marx. Nếu cho rằng
nguyên-tử, yếu-tố vật-chất cụ-thể, là ở giai-đoạn thứ hai (thiên-nhiên), mâu-thuẫn
với tự-kỷ ý-thức, thì lẽ tất-nhiên phải coi nó là giai-đoạn vong-thân của Tự-kỷ
ý-thức.
Sau đây ta xem trong Cặp vở ghi-chú Marx
đã dùng ngôn-ngữ biện-chứng của Hegel để nói về cái khả-giác và về nguyên-tử
như thế nào: “Các nguyên-tử đẩy lùi nhau, đó là hình-thức thứ nhất của tự-kỷ
ý-thức ; đó là lúc mà tự-kỷ ý-thức nhận thấy mình như là một vật có đó một cách
trực-tiếp (unmittelbar seiendes), như là một cá-thể trừu-tượng
(abstrakt-einzelnes)” . Tiếp theo ý-kiến đó: “Vì có các đặc-điểm riêng, cho nên
nguyên-tử được hiện-hữu một cách trái ngược lại với ý-niệm của nó (die seinem
Begriff widerspricht), nó được xác-định như là một thực-tại vong-thân , khác hẳn
bản-tính của nó (als entảussertes, von seinem Wesen unterschiedenes Wesen)” .
Thêm vào đó thì: “Cái mâu-thuẫn (Widerspruch) giữa hữu-thể và bản-thể, giữa chất-thể
và hình-thể, đã có sẵn trong ý-niệm (Begriff) nguyên-tử, thì nay được đặt ngay
trong chính cái nguyên-tử, vì ta cho rằng nguyên-tử có những đặc-điểm. Vì có những
đặc-điểm, cho nên nguyên-tử đã ra khác hẳn ý-niệm của nó (ist das Atom seinem
Begriff entfremdet), nhưng đồng thời nó đã thành ra nguyên-tử hẳn-hoi”. Và câu
sau cùng: “Cũng như nguyên-tử chỉ là hình-thức tự-nhiên của cái tự-kỷ ý-thức
khi còn trừu-tượng và cá-biệt, thì thiên-nhiên khả-giác cũng chỉ là cái tự-kỷ
ý-thức cá-biệt, mà ta cảm nghiệm được trong ngoại giới, tắt một câu, thiên-nhiên
cũng chỉ là cái tự-kỷ ý-thức khả-giác” .
Những câu đó nghĩa là gì ? Ai đã quen với
ngôn-ngữ của Hegel thì hiểu Marx muốn nóí gì: căn cứ vào nguyên-tử có những đặc-điểm
cụ-thể, Marx thấy rằng có thể đi từ triết-lý về thiên-nhiên đến chỗ quả-quyết rằng
cái tự-kỷ ý-thức - dĩ-nhiên là tự-kỷ ý-thức của con người - là “thần-linh tối
cao, không ai cạnh-tranh nổi”. Nhưng làm thế nào mà quả-quyết như thế được ? Và
như thế rõ-ràng là lập-trường duy-tâm mất rồi. Ta không thấy Marx bận tâm đặt
câu hỏi đó !
Phải đứng vào lập-trường duy-tâm như thế,
mới có thể coi cái tự-kỷ ý-thức khép kín đó, là thần-linh tối cao, và mới hiểu
được lập-luận của Marx, khi ông minh-chứng, trong ghi-chú số 9, của phần Phụ-lục
trong luận-văn tiến-sĩ của ông, rằng là không có Thiên-Chúa. Lập-luận đó như
sau:
“Chỉ có hai lối: một là những lập-luận
minh-chứng có Thiên-Chúa chỉ là những câu nói đi nói lại (Tautologie) rỗng tuếch.
Ví-dụ chứng-lý theo hữu-thể-học (ontologische) thì tựu-chung là thế này: “Cái
mà tôi thật-sự (realiter) tượng-trưng ra, thì nó là một biểu-tượng có thật đối
với tôi”. Nó có ảnh-hưởng tơí tôi. Và theo nghĩa như thế thì các thần-linh, bất
kể là của người theo đạo Thiên-Chúa hay là theo đạo khác, đều là có thật cả, Thần
Moloch phải chăng đã không thống-trị một thời ? Ai bảo thần Apollo ở Delphes
không phải là một quyền-lực có thật trong đời sống của người Hi-lạp ? Về điểm
này lời phê-bình của Kant không có giá-trị là bao nhiêu., Khi có người tưởng-tượng
rằng mình có một trăm đồng tiền, thì nếu đó không phải là một ý-tưởng chủ-quan
không quan trọng đối với người ấy, nếu người ấy tin chắc như thế, thì một trăm
đồng tiền tưởng-tượng cũng có giá-trị như một trăm đồng tiền có thật. Chẳng hạn
người ấy dám ảo-tưởng như thế rồi đi vay nợ, cái ảo-tưởng đó sẽ có hiệu-lực:
cũng như thế, tất cả nhân-loại đều đã tựa vào các thần-linh mà đi vay nợ. Trái
lại. Cái ví-dụ mà Kant đưa ra rất có thể tăng cường cho chứng-lý theo hữu-thể-học.
Những đồng tiền có thật thì cũng hiện hữu như các thần-linh tưởng-tượng. Một đồng
tiền có thật, thì nó đâu có hiện-hữu bên ngoài biểu-tượng, kể cả biểu-tượng tổng-quát,
chung cho, cả nhân-loại. Anh thử đưa tiền giấy vào một xứ mà người ta không biết
dùng giấy như thế, thì ai nấy đều chê cười anh, vì anh có biểu-tượng chủ-quan.
Anh thử đưa thần-linh của anh vào một xứ mà người ta thờ các thần khác, thì người
ta sẽ minh-chứng cho anh biết là anh có ảo-tưởng, có quan-niệm trừu-tượng. Và
như thế là phải ! Nếu ai đem một vị thần của chị-tộc Ven-đơn (Wenden) đến cho
người Hi-lạp thời thượng-cổ, người đó sẽ thấy chứng-cớ là không có thần đó, vì
đối với người hi-lạp thì không có thần đó.
Người của một xứ-sở coi thần-linh từ ngoại-quốc
vào như thế nào, thì xứ-sở của Lý-trí cũng coi Thiên-Chúa hay thần-linh nói
chung y như thế: vì đó là xứ-sở mà thần-linh không còn nữa.
Hai là thế này: những chứng-lý biện-minh
rằng có Thiên-Chúa, chẳng qua chỉ là những chứng-lý biện-minh rằng có cái tự-kỷ
ý-thức căn-bản của con người, chỉ là những lý-luận giải-thích rằng có cái tự-kỷ
ý-thức đó. Ví-dụ chứng lý theo hữu-thể-học. Khi người ta tư-tưởng, thì hỏi thấy
có cái gì trước hết ? Thưa là có cái tự-kỷ ý-thức.
Theo như thế, thì những chứng-lý để biện-minh
rằng có Thiên-Chúa, cũng chính là những chứng-lý biện minh rằng không có
Thiên-Chúa, là những lời phi-bác tất cả các biểu-tượng về Thần-linh. Trái lại, chứng-lý
chính-hiệu phải theo hình-thức như thế này: “Vì lẽ rằng thiên-nhiên có điều thất-cách,
cho nên có Thiên-Chúa”. “Vì lẽ có một thế-giới vô-lý, cho nên có Thiên-Chúa”. “Vì
lẽ rằng không có tư-tưởng, cho nên có Thiên-Chúa”. Thế nghĩa là gì ? Thưa là:
Ai cho rằng vũ-trụ là vô-lý, và vì thế chính người ấy cũng là vô-lý, đối với một
người như thế thì có Thiên-Chúa. Nói thế khác, cái vô-lý, đó là hiện-hữu của
Thiên-Chúa” .
1.1.4 - Mấy
điều phê-bình tôn-giáo trong phần Phụ-lục
Marx thêm vào luận-văn tiến-sĩ một phần
Phụ-lục khá dài, để bàn-luận về cuộc bút-chiến của Plutarch chống lại quan-niệm
của Êpicur về thần-linh. Marx muốn chấm dứt cuộc bút-chiến đó, “vì nó là đặc-điểm
của một hạng người, vì nó tượng-trưng cho não-trạng của nhà thần-học khi đứng
trước triết-học”. Marx muốn chứng-minh rằng: tuy tuyên-bố là chống lại Êpicur, nhưng
thực ra Plutarch vẫn đi theo cùng một hướng.
Chúng ta không cần đi vào chi-tiết của
cuộc tranh-luận đó, nhưng chỉ cần xem Marx hiểu và giải-thích tư-tưởng của
Plutarch như thế nào. Vì lối giài-thích này làm cho ta hiểu rõ hơn về lập-trường
triết-học của Marx, lúc đó vẫn còn luẩn-quẩn với ý-niệm “tự-kỷ ý-thức”, như vừa
nói trên đây.
Trước hết nên chú-ý rằng cách dùng
ngôn-từ của Marx có biến-chuyển, với một tầm quan-trọng mà ít ai để ý. Thực vậy,
trong phần thân bài luận-văn Marx nói đến thần-tính hay là các thần-linh, còn
trong phần Phụ-lục thì lại nói đến Thiên-Chúa. Làm như thể là hai kiểu nói đều
có giá-trị như nhau, và cùng chỉ một thực-tại. Làm như thể là những điều bàn-luận
về các thần-linh thời thượng cổ cũng có giá-trị như thế khi nói về Thiên-Chúa của
đạo Thiên-Chúa. Chính trong khung cảnh biến-chuyển ngôn-từ như thế, mà Marx đưa
ra lập-luận trên đây, để minh-chứng rằng không có Thiên-Chúa, cũng như không có
thần-linh.
Khi giải-thích Êpicur, thì Marx có ý-kiến
căn bản là: “Cái quan-trọng đối với Êpicur không phải là cái voluptas, tức là
cái khoái-lạc, không phải là cái mình cảm-giác được một cách hiển-nhiên, cũng
không phải là cái gì khác, chỉ trừ cái tự-do của tinh-thần không bị bất cứ cái
gì ảnh-hưởng” ., Cho nên khi muốn chống lại thuyết tất-định của Đê-mô-crit, Êpicur
chủ-trương rằng trong lúc rơi từ trên xuống, thì các nguyên-tử có khả-năng rơi
trệch ra ngoài đường thẳng, và như thế có thể va chạm vào nhau. Và đây là chỗ
Marx tìm ra lập-luận căn-bản: Marx cho rằng chủ-trương như thế tức là thừa-nhận
rằng các nguyên-tử đều có tự-do, và có tự-do tức là đã đi vào bước đầu của biện-chứng
đưa tới cái Tự-kỷ Ý-thức.
Khi Plutarch nói về việc người ta thường
thường sợ thần-linh, thì Marx giải-thích rằng: “Xét như thế thì Thiên-Chúa chẳng
qua chỉ là tổng-hợp các hiệu-quả do các hành-động xấu mà ra”.
Khi Plutarch quan-niệm rằng thần-linh có
mặt trong các lễ hội tôn-giáo là để làm cho tâm-hồn người ta được khỏi sợ, khỏi
buồn, khỏi lo, và được đầy tràn hoan-lạc, thì Marx lại hiểu ra rằng: “cái được
người ta thần-linh hóa và chúc-mừng ở đây, đó là chính cái cá-thể đã được thần-linh-hóa
và đã được giải thoát ra khỏi những cái đau-khổ thông-thường, đó là người hiền-triết
(sophos) vô-ưu (ataraxia), như trong quan-niệm của Êpicur. Cái người ta thờ-phụng
ở đây, đó là sự khiếm-diện của chính thần-linh, đó là sự hiện-diện của niềm
hoan-lạc của cá-nhân”.
Tiếp theo đó, “Câu nói rằng Thiên-Chúa
là hêgêmôn agathôn, là vị lãnh-đạo cho những người tốt và là cha sinh ra pantôn
kalôn, nghĩa là mọi cái đẹp, câu đó có ý-nghĩa triết-lý như thế này: đó không
phải là đặc-tính của Thiên-Chúa, nhưng: cái ý-tưởng về cái tốt, cái thiện, mới
chính là yếu-tố thần-thiêng (das Göttliche). Rồi Marx kết-luận: “Theo đúng cái
lý-sự nội-tại trong các ý-tưởng của ông, thì tất-nhiên Plutarch phải nói về
linh-hồn của cá-nhân, chứ không nói về yếu-tố thần-thiêng” .
Khi giải-thích vì sao người ta tin rằng
chết không phải là hết, Plutarch nhận-xét rằng những người mất con, mất vợ, mất
bằng-hữu, thì thường ưa tin rằng những kẻ đó, cho dù có bị khổ-cực, cũng vẫn
còn ở đâu đây, như thế còn hơn là chết mất hẳn đi. Nhưng Marx lại nghĩ rằng: “người
ta ưa như thế, có nghĩa là cá-nhân muốn ý-thức được rằng mình hiện-hữu một cách
thiết-thực.” .
Tất cả những lối giải-thích như thế
hoàn-toàn phù-hợp với chứng-lý của Marx biện-minh rằng không có Thiên-Chúa: “Khi
người ta tư-tưởng, thì hỏi thấy có cái gì trước hết ? Thưa là có cái tự-kỷ ý-thức”.
Tất cả đều minh-chứng rằng có cái Tự-kỷ Ý-thức, ngoài ra không có gì hết. Và đó
cũng là đìều Marx đã đọc được trong sách vở của Hegel: “Cái chân-lý của ý-thức,
đó là cái tự-kỷ ý-thức, cái này là nền-tảng của cái kia., Vì thế trong phạm-vi
hiện-hữu, khi con người ta có ý-thức về bất kỳ một đối-vật nào, thì cũng có ý-thức
về chính mình (nghĩa là tự-kỷ ý-thức) nữa” . Có đìều là Hegel không duy-tâm như
người ta lầm tường: vì trong lúc nhấn mạnh vào cái tự-kỷ ý-thức, không những
ông không kết-luận rằng không có cái đối-vật mà ý-thức đang nhắm vào, mà hơn nữa,
ông còn triển-khai biện-chứng đi xa hơn cái tự-kỷ ý-thức, đi qua tinh-thần
trong chủ-thể, tinh-thần ngoài khách-thể, cho tới tinh-thần tuyệt-đối, trong đó
tất-nhiên tôn-giáo là một thành-phần không thể thiếu được.,
Để kết-luận về luận-văn của Marx, xin
đưa ra đây một nhận-xét có lẽ hơi bất ngờ: ở giai-đoạn này Marx có phần duy-tâm
hơn Hegel, vì ông không xét đến những phân-tích cụ-thể của Hegel về các thực-tại
nhân-văn, và cho rằng ngoài cái tự-kỷ ý-thức là thực-tại tối cao, thì không có
gì hết. Về điểm này thì rõ-ràng là tuy trước năm 1841 Marx không có tiếp-xúc với
Feuerbach, nhưng cả hai ông đều cùng có một lập-trường về tự-kỷ ý-thức, cho nên
khi Feuerbach cho xuất-bản sách Bản-chất đạo Thiên-Chúa, thì Marx đón nhận một
cách hào-hứng, và rồi thấy không cần phải tiếp-tục phê-bình tôn-giáo nữa.
Gs. Trần Văn Toàn
Bài đăng ở tập san Định Hướng
còn tiếp