Cầu Thang Thánh Giuse
Kiến trúc sư Urban C. Weidner cũng là chuyên
gia nghiên cứu gỗ cho biết ông chưa bao giờ thấy cầu thang hình xoắn ốc bằng gỗ
mà không có cột chịu lực ở giữa.
Tôi theo nhóm
người trượt tuyết ngày 31/12/2011 từ Dallas trực chỉ hướng tây bắc tới thành phố
Santa Fe, tiểu bang New Mexico, với chủ đích là kiểm chứng ‘Cầu thang Thánh
Giuse’ tại nguyện đường Loretta. Đã từ lâu tôi đã nghe nói nhiều về chiếc cầu
thang kỳ lạ này, được cho là chính Thánh Giuse kiến tạo, nay có dịp thuận tiện
nên mặc dù mùa đông giá lạnh với đường xá nguy hiểm vì băng tuyết, tôi quyết định
phải theo nhóm người, vượt ngàn dặm hiểm nguy để có thể tới chứng kiến tận mắt
và sờ tận tay chiếc cầu thang có một không hai bên Tây bán cầu này.
Nguyện đường
Loretta tọa lạc tại số 207 Old Santa Fe Trail, khởi công xây dựng năm 1873 và tới
năm 1878 mới hoàn thành, chiều dài 30 mét 5, chiều ngang 8 mét, chiều cao 21
mét 3. Với kích thước này, cách đây 134 năm, nguyện đường Loretta được coi là một
nguyện đường lớn nhất tại Santa Fe, thủ đô tiểu bang New Mexico.
Đức Cha Jean
Baptiste Lamy, người Pháp, đã mời kiến trúc sư Antoine Monly và con trai là
Projectus Monly từ Paris sang vẽ kiểu và xây Nhà thờ chính tòa St Francis, đồng
thời khuyến khích các nữ tu nhờ hai cha con ông Monly xây nguyện đường Loretta
theo mô hình nhà thờ Sainte Chapelle tại Paris mà họ đã tham gia trong công tác
trùng tu vào đầu thập niên 1800. Theo mô hình phổ thông các nhà thờ bên Âu châu
thời đó thì không có cầu thang lên gác lửng dành cho ca đoàn vì cầu thang sẽ
chiếm nhiều chỗ trong lòng nhà thờ. Vả lại, vào thế kỷ thứ 19, chỉ có phái nam
được hát trong ca đoàn nên họ dùng thang gỗ để leo lên gác ca đoàn mà không cần
cầu thang.
Sau khi khánh
thành nguyện đường và cha con ông Monly đã rời khỏi thành phố thì thực tế đem lại
một vấn đề hết sức nan giải: ca đoàn gồm toàn các nữ tu và nữ sinh với tu phục
và váy đầm dài tới gót chân, không thể leo lên gác ca đoàn bằng thang gỗ. Các nữ
tu đã mời nhiều tay thợ chuyên nghiệp đến làm cầu thang nhưng sau khi quan sát,
đo đạc, tính toán, tất cả đều lắc đầu nói không thể thực hiện được vì gác ca
đoàn thì cao, lòng nhà nguyện lại hẹp, cầu thang sẽ chiếm qúa nhiều chỗ kê ghế.
Giải pháp còn lại là hoặc vẫn phải dùng thang leo lên gác ca đoàn, hoặc nới rộng
nguyện đường dành chỗ làm cầu thang. Và dĩ nhiên, giải pháp này cũng không thể
chấp nhận.
Sau cùng, Mẹ Bề Trên Magdalenđưa ra quyết định: khi khởi công xây dựng
nguyện đường, công trình được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse, quan thầy
nghề thợ mộc, thì nay khi gặp khó khăn, công việc cũng phải được giao cho Thánh
Giuse lo liệu. Trong cuốn niên giám của Dòng còn ghi lời phát biểu của Bà: “Chúng ta tôn kính Thánh Giuse mỗi ngày thứ
tư hàng tuần để xin Người trợ giúp, và đã nhiều lần, chúng ta chứng kiến sự can
thiệp đầy quyền thế của Thánh Giuse.” Ngay hôm đó, các nữ tu bắt đầu làm tuần
9 ngày xin Thánh Giuse.
Sau 8 ngày liên tục cầu nguyện với đầy lòng tin tưởng
và phó thác nơi Thánh Giuse thì đột nhiên vào ngày thứ 9, xuất hiện một ông già
râu tóc bạc dắt theo một con lừa tới xin làm cầu thang lên gác ca đoàn. Ông thợ
mộc chỉ mang theo một ít đồ nghề đơn giản: 1 cái cưa, 1 thước đo hình chữ T và
1 cái búa. Ông cũng không đòi tiền công trước hoặc tiền ứng mua vật liệu. Với
tinh thần đơn sơ, các nữ tu nghĩ rằng sẽ thanh toán tiền công và tiền vật liệu
sau khi công việc hoàn tất nên không cần hỏi tên tuổi ông thợ. Sau khi giao
công việc, vì đức khiết tịnh, các nữ tu không tiện liên lạc với ông và để mặc
ông thợ tiến hành công tác, đồng thời tạm dùng một phòng học để cầu nguyện và cử
hành phụng vụ.
Sau thời gian
7-8 tháng, các nữ tu được thông báo cầu thang đã hoàn tất nhưng không tìm thấy
ông thợ đâu cả: ông thợ đã đột nhiên bỏ đi mà không đòi tiền công và tiền vật
liệu, cũng không để lại tên tuổi hoặc điạ chỉ. Các nữ tu đã nhờ tìm kiếm khắp
nơi và còn nhắn tin trên các báo địa phương, tuy nhiên, không ai nghe biết về
‘ông thợ kỳ lạ’ này. Sau cùng, Mẹ Bề Trên đã phải đến xưởng gỗ để thanh toán tiền
vật liệu, nhưng mọi người làm việc tại đây cho biết không có ai đến mua gỗ làm
cầu thang cho nguyện đường. Do không tìm ra tông tích ông thợ ‘huyền bí’ này
nên người đương thời đều kết luận đó chính là Thánh Giuse đã đáp lời cầu xin của
các nữ tu.
Hiện nay, tại Nhà Mẹ các nữ tu Loretta ở tiểu bang Kentucky, trong
sách kinh hàng ngày, có hình vẽ ông thợ mộc đầu tóc bạc phơ dắt theo con lừa với
túi đồ nghề gồm 1 cái cưa, 1 cây thước và 1 cái búa.
Năm 1971, một
trận hỏa hoạn lớn thiêu hủy nhiều ngôi nhà của học viện và khu vực chung quanh.
Tuy nhiên, như một phép lạ, nguyện đường Loretto vẫn đứng y nguyên, không hề hấn
gì.
Sau hơn 8 giờ
lái xe trong đêm với tốc độ trung bình 120 cây số/giờ, chúng tôi tới ranh giới
Texas và New Mexico khi trời hừng sáng. Và kìa, trước mặt chúng tôi và hai bên
xa lộ 40, trải dài những cánh đồng tuyết chạy mút tới chân trời. Thảm tuyết bao
la phản chiếu ánh mặt trời tạo nên một phong cảnh kỳ ảo khiến chúng tôi có cảm
tưởng như đang đi trên một hành tinh nào khác trong giải ngân hà. Quả thực,
chúng tôi thật may mắn vì mặc dù vào mùa đông, bầu trời New Mexico lúc này
trong sáng với mặt trời trên cao tỏa ánh sáng dịu hiền, làm ấm lòng khách viễn
du, nhưng không đủ sức nóng để làm tan chảy những cánh đồng tuyết trải dài từ
ranh giới Texas tới thành phố Santa Fe.
Chúng tôi tới
nguyện đường Loretto kiến trúc theo kiểu Gothic lúc 4 giờ 30 chiều, đúng vào
ngày đầu năm dương lịch và phải đợi khá lâu mới đến lượt vào bên trong nguyện
đường vì nhiều đoàn hành hương đã tới trước. Có những đoàn từ các tiểu bang miền
Bắc như Minnesota, Michigan, từ miền Đông như New York, Pennsylvania. Chúng tôi
cũng gặp 1 đoàn người Việt từ California. Đặc biệt có 2 đoàn, 1 từ Canada và 1
từ Pháp. Điều này cho thấy ‘Cầu thang Thánh Giuse’ đã được biết đến khắp nơi, mỗi
năm có khoảng 250 ngàn khách hành hương đến nguyện đường Loretta để xem cầu
thang, và đúng như nữ tu Januarius, Giám đốc học viện Loretto năm 1960, cho biết
du khách từ khắp nơi trên thế giới đến chiêm ngưỡng cầu thang lạ lùng này,
trong số đó, có cả kỹ sư, kiến trúc sư, khoa học gia đến tìm hiểu, nghiên cứu
và nói rằng họ không thể hiểu làm thế nào một chiếc cầu thang như vậy có thể tồn
tại sau gần 1 thế kỷ sử dụng. Quả thực, cầu thang đã thách đố những phân tích
khoa học cũng như khoa kiến trúc và ngành thủ công nghệ.
Bước qua cửa
vào cuối nguyện đường, du khách sẽ lập tức bị thu hút bởi những tác phẩm nghệ
thuật:
-
Bàn thờ gỗ được làm từ bên Ý, chạm trổ bằng tay theo kiểu Gothic, rồi sơn
cho giống màu đá cẩm thạch. Bàn thờ nguyên thuỷ này được đặt trong nguyện đường
từ năm 1910 đến nay, hơn 100 năm vẫn không thay đổi. Phía dưới bàn thờ có khắc
nổi hình Bữa Tiệc Ly của Leonardo da Vinci.
-
Trong gian cung thánh, phía bên phải gần bao lơn, có tượng Thánh Giuse tay
trái cầm cây gậy, tay phải ẵm Chúa Hài Đồng. Cũng trong gian cung thánh, phía
bên trái gần bao lơn, có tượng Đức Mẹ ban ơn đứng trên qủa cầu, chân trái đạp đầu
con rắn, chân phải có chuỗi Mân Côi và dưới đó là các ngôi sao. Cả hai bức tượng
đều có kích thước lớn hơn người bình thường.
-
Hai tượng thiên thần bổn mạng đứng 2 bên phía trên bàn thờ và tượng thiên
thần ngồi bưng bình nước thánh lớn là công trình nghệ thuật của nhóm nghệ nhân
M. M. K. Brokaw nổi tiếng đương thời.
-
Tượng Trái Tim Chúa Giêsu, đặt trên tường phía bên trái, tay trái chỉ Trái
Tim Cực Thánh, tay phải xuôi xuống với bàn tay mở rộng như ban ơn cho những ai
đến với Người.
-
Chặng đường Thánh gía hai bên tường biểu lộ nét sinh động của nghệ nhân khi
diễn tả được nỗi bi thương của Chúa và Đức Mẹ cũng như sự tàn ác của ‘quân dữ’.
Thực ra, chặng đường Thánh giá là do sáng kiến của thánh Phan-xi-cô từ thế kỷ
13 nhằm giúp tín hữu, trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh, sốt sắng nhớ lại hành
trình khổ nạn của Chúa khi vác Thập giá lên đồi Can-vê, nhờ đó những người
không biết đọc cũng có thể trải nghiệm cuộc thương khó của Người. Khởi đầu, người
ta dựng những cây thánh giá nhỏ bằng gỗ ở những khoảng cách khác nhau và tín hữu
dừng lại mỗi chặng trong khi suy tưởng về quãng đường thập gía Chúa đã đi qua. Sau
cùng, các họa sĩ và các nhà điêu khắc đã vẽ hoặc tạc nên những cảnh sống động về
chặng đường khỗ nhục cuả Chúa vác Thánh gía lên đồi để chịu đóng đinh. Phải
chính mắt trông thấy những chặng đường Thánh giá tại nguyện đường Loretta,
chúng ta mới thấy tài nghệ tuyệt vời của các nhà đúc tượng khi thực hiện những
tác phẩm nghệ thuật này. Chặng đường Thánh giá Loretta hiện nay là một kho tàng
nghệ thuật vô giá mặc dù được thực hiện từ năm 1800. Tất cả những bức tượng và
chặng đường Thánh giá đều bằng đá cẩm thạch nghiền nát, rồi đổ vào khuôn, nung
trong lò như kỹ thuật làm đồ gốm, sau đó các nghệ nhân tô vẽ bằng tay.
-
Kỹ thuật sơn kính màu tại nguyện đường Loretta đã đạt tới mức hết sức tinh
vi, không thua gì các thánh đường nổi danh bên Âu châu như nhà thờ Fatima Bồ
Đào Nha, nhà thờ Thánh An-tôn Lisbon, nhà thờ chính tòa Burgos, đại thánh đường
Thánh I-nha-xi-ô Loyola Tây Ban Nha, nhà thờ Sacré Coeur, nhà thờ Notre Dame
Paris ở Pháp, những nơi mà tôi có dịp viếng thăm trong chuyến hành hương
Fatima-Lộ Đức tháng 10 năm 2011. Kính màu trên vòm cửa cuối nguyện đường vẽ biểu
tượng của Chúa Giêsu bằng 2 cây Thánh gía đặt chéo lên nhau với ánh hào quang
màu xanh dương. Hai bên phía dưới là chữ Hi-lạp Alpha và Omega, nói lên Chúa
Ki-Tô là khởi đầu và là sau hết. Cửa kính tròn sau gác ca đoàn có hình bông hồng
lớn, được gọi là ‘Rose window’, vẽ chữ M, lồng trên chữ A (Ave Maria), lời chào
kính Đức Mẹ Maria vì khi thành lập Hội Dòng Loretto ngày 25/4/1812 tại
Kentucky, các nữ tu đã chọn Đức Mẹ làm bổn mạng. Ngoài ra, còn 2 kính màu lớn,
một vẽ ảnh Thánh Stanislas ẵm Chúa Hài Nhi, bổn mạng của các tập sinh và các thiếu
nữ, một vẽ ảnh Thánh Catherine thành Alexandra tay ôm cành thiên tuế, bổn mạng
các trinh nữ và các nữ sinh.
Tuy nhiên, đích
điểm của khách hành hương chính là ‘CẦU THANG THÁNH GIUSE’. Thật vậy, suốt thời
gian ở trong nguyện đường, lúc nào tôi cũng thấy khách hành hương, hết lớp này
đến lớp khác, chăm chú quan sát cầu thang từ trên xuống dưới, rồi lại từ dưới
lên trên, không bỏ qua một chi tiết nhỏ nhặt nào, rồi bàn tán, thảo luận, và đi
từ ngạc nhiên đến trầm trồ không tiếc lời khen ngợi. Sau đó, nhiều người đến
qùy dưới chân tượng Thánh Giuse cầu nguyện trước khi quyến luyến ra về sau khi
đã chụp hàng chục tấm ảnh, hoặc quay phim làm kỷ niệm.
Cầu thang nằm
sát tường bên phải, phía cuối nguyện đường, có hình xoắn ốc, vòng 2 lần, mỗi
vòng 360 độ, không có cột chịu lực ở giữa. Toàn bộ sức nặng tựa trên chân cầu
thang và phần nối với gác ca đoàn. Điều này trái hẳn với nguyên lý về trọng lực
(law of gravity) khiến các khoa học gia không sao giải thích được. Kiến trúc sư
Urban C. Weidner cũng là chuyên gia nghiên cứu gỗ cho biết ông chưa bao giờ thấy
cầu thang hình xoắn ốc bằng gỗ mà không có cột chịu lực ở giữa. Theo ông, nó sẽ
sụp đổ ngay khi có người đặt chân bước lên. Thế mà các nữ tu và nữ sinh phải
lên xuống cầu thang mỗi ngày một hay nhiều lần để hát phụng vụ. Năm 1959, cả ca
đoàn học viện Loretto đứng hát trên các bậc thang mà nó vẫn vững chắc như làm bằng
xi-măng cốt sắt.
Cầu thang có 33
bậc cùng một kích thước, tượng trưng cho 33 năm Chúa sống ở trần gian, 2 bên
các bậc thang không có song chắn
an toàn khi lên xuống,
cũng không có tay vịn. Một nữ sinh thời gian làm cầu thang mới
13 tuổi, sau vào tu dòng Loretto lấy tên Mary, kể lại rằng chính cô và các bạn
là những người đầu tiên bứơc lên cầu thang, nhưng vì sợ qúa nên phải bò lên từng
bậc, rồi khi xuống, phải cho hai chân xuống trước, rồi bám bậc phía trên,từ từ
trụt xuống. Chính vì thế, sau 7 năm các nữ tu và nữ sinh phải ‘bò lên bò xuống’
các bậc thang để lên gác ca đoàn, Phillip August Hesch, chuyên viên bảo trì nhà
thờ chính tòa St. Francis, được mời tới làm tay vịn và song chắn 2 bên cầu
thang cũng như quanh gác ca đoàn. Điều đặc biệt là cầu thang không có dù 1 chiếc đinh, hoặc keo dán để liên kết các vật liệu với nhau. Ông thợ
‘bí mật’ đó chỉ dùng các chốt gỗ hình vuông để liên kết một cách tài tình,
chính xác và hết sức mỹ thuật.
Cầu thang được
ráp nối bằng 93 tấm gỗ, dài từ 0. 9 đến 1. 5 m, gồm 10 tấm dùng làm sườn phía
ngoài (nên có 9 đường nối), 8 tấm làm sườn phía trong (7 đường nối), 33 tấm làm
bậc thang, 33 tấm kê giữa 2 bậc thang, phần còn lại dùng làm đoạn vòng dưới
chân cầu thang. Kỹ thuật ráp nối thật lạ lùng và tinh xảo, và như trên đã nói,
ông thợ không dùng đinh, cũng không dùng keo dán, chỉ nối kết bằng những chốt gỗ
hình vuông mà thôi. Kiến trúc sư kiêm chuyên gia nghiên cứu gỗ Urban Weidner đã
có nhận xét: một trong những điều làm sửng sốt các kỹ sư và các nhà kiến trúc
là những tấm gỗ được ghép nối thành sườn cầu
thang với độ cong tuyệt hảo, mỗi tấm gỗ có độ cong thật chính xác, đường ghép nối lại hết sức tinh vi,
không tìm thấy một khuyết điểm nào. Ông Weidner vẫn băn khoăn suy nghĩ là một kỹ
thuật tinh vi như thế mà vào thập niên 1870, một mình ông thợ mộc với những dụng
cụ rất thô sơ, làm thế nào có thể thực hiện được.
Về gỗ làm cầu
thang, nhiều chuyên gia đã phân tích, tìm hiểu loại gỗ và xem loại đó xuất xứ từ
đâu. Tuy nhiên, không một ai có thể khẳng định là loại gỗ nào để tìm ra xuất xứ
của nó. Mặt các bậc thang liên tục bị giẵm lên từ khi hoàn thành cách đây hơn
100 năm, nhưng chỉ mép bậc thang bị mòn đi một chút. Có nhà nghiên cứu cho đây
là một loại thông mà thớ gỗ nằm gần vỏ, người khác thì cho là loại thông vàng
lá dài. Urban Weidner lại khẳng định loại gỗ ít bị mòn này không hề có tại New
Mexico. Việc ông thợ lấy gỗ từ đâu mang
về làm cầu thang vẫn còn là một bí ẩn.
Chuyên gia
Forrest N. Easley, sinh quán New Mexico, tốt nghiệp ưu hạng tại Đại học
Colorado ngành Lâm học và Mộc học, đã từng làm việc cho các cơ quan chính phủ
và Hải quân Hoa Kỳ trong 40 năm, đặc trách nghiên cứu và quản trị ngành gỗ. Với
thành quả và công trình nhiều năm nghiên cứu, ông là chuyên gia về gỗ nổi tiếng,
có uy tín và được mọi người kính nể. Năm 1996, Forrest Easley đã bỏ ra 15 tháng
nghiên cứu và phân tích gỗ làm cầu thang Loretto. Ông lấy một mẩu gỗ cầu thang
đem vào phòng thí nghiệm và dùng kính hiển vi, kính khuếch đại để quan sát,
phân tích tế bào cấu tạo của gỗ. Ông cho biết gỗ có tế bào cấu
trúc hình vuông, không giống
bất cứ loại gỗ nào hiện có, và cũng không biết rõ nguồn gốc từ đâu.
Đây là loại
gỗ vân sam (spruce) ‘có một không hai’, vì tất cả các loại gỗ vân sam khác
không bao giờ có cấu trúc tế bào hình vuông. Như vậy, chỉ có thể phân loại gỗ
này vào giữa nhóm Picea sitchensis và Picea engelmanni. Forrest đề nghị đặt tên
khoa học là Pinacae Picea josefìi Easley, còn tên phổ thông nên gọi là gỗ vân
sam Loretto.
Giáo Hội luôn
luôn thận trọng khi đề cập đến những hiện tượng siêu nhiên mà con người không
giải thích được. Cũng trong tinh thần đó, các nữ tu và Giáo quyền tại Santa Fe
không muốn đưa ra một tuyên bố khẳng định nào về chiếc cầu thang lạ lùng này,
chỉ cho đó là sự đáp ứng của Thánh Giuse đối với lời cầu nguyện và sự phó thác
của các nữ tu nơi Thánh Giuse. Tuy nhiên, nhiều người vẫn nghĩ Thánh Giuse
chính là ông thợ đã làm chiếc cầu thang lạ lùng đó.
Truyền thống
tôn kính Thánh Giuse đã có từ lâu đời trong Giáo Hội, từ những thế kỷ đầu, thời
các thánh Giáo phụ. Rồi qua các thế kỷ, chúng ta thấy rất nhiều vị thánh đã tỏ
ra lòng sùng kính Thánh Cả Giuse cách đặc biệt.
Tiêu biểu nhất,
thế kỷ 13 có thánh Margaret Cortona, thế kỷ 14 các thánh Bridget Thụy Điển,
thánh Vincent Ferrer, thánh Bernardine Siena. Đặc biệt thế kỷ 16 có thánh
Teresa Avila, nữ tiến sĩ đầu tiên của Hội Thánh, là tông đồ nhiệt thành với
lòng phó thác tuyệt đối vào Thánh Cả Giuse. Bà đã thành lập 17 tu viện và dâng
kính 13 tu viện cho thánh Giuse. Qua kinh nghiệm bản thân của bà về những ơn đã
nhận được từ Thánh Giuse, thánh Teresa quả quyết: “Tôi thấy không lần nào xin gì cùng Thánh Giuse mà không được. Dường
như Thiên Chúa ban cho các Thánh giúp ta việc này việc nọ. Nhưng kinh nghiệm
cho tôi biết Thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Những ai không tin
lời tôi, hãy thử mà xem.”
Sang thế kỷ 17,
Mẹ Đáng Kính Maria Agreda, nữ tu Dòng Thánh Phan-xi-cô, trong mọi khó khăn cũng
như nghịch cảnh, lúc nào bà cũng tín thác nơi Thánh Giuse. Trong cuốn sách
Thành Trì Thiên Chúa (La mistica ciudad de Dios), bà viết: “Sự cầu bầu của Thánh Giuse thực là mạnh thế, để giúp chúng ta giữ đức
trong sạch, gỡ mình khỏi tội lỗi, thêm lòng kính mến Đức Mẹ, được ơn chết lành,
khỏi quỷ ma cám dỗ, được sức khỏe phần xác cùng sự cứu trợ trong mọi hoàn cảnh
khó khăn.”
Trong thời cận
đại, chúng ta có 2 vị Thánh được coi là Tông đồ nhiệt thành hơn cả của Thánh Cả
Giuse:
Thánh Daniele Comboni và Thánh Andre Bessette.
Cả hai có chung
đặc điểm là cùng sinh vào thế kỷ 19 và được phong hiển thánh vào thế kỷ 21,
nhưng thánh Daniele qua đời vào thế kỷ 19 và thánh Andre qua đời thế kỷ 20.
1.
Thánh Daniele
Comboni là một linh mục truyền giáo
tại Phi châu, sau làm Giám mục, được phong thánh ngày 5/10/2003. Ngài đã sáng lập
Dòng Thừa Sai gồm cả hai ngành nam tu sĩ và nữ tu. Ngay khi khởi đầu việc truyền
giáo tại Sudan, Cha Daniele đã phó thác sứ mạng này cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Trong một cuộc
hành trình bằng lạc đà phải xuyên qua những cánh rừng rậm Phi Châu, Cha bị té gẫy
nát cả bàn tay và cánh tay. Mặc dù vô cùng đau đớn, Cha Daniele vẫn phải leo
lên lưng lạc đà, băng rừng tới bờ sông Nile để được đưa bằng thuyền tới tụ điểm
truyền giáo. Sau 82 ngày nằm liệt trên giường điều trị vết thương, Cha trở lại
công việc, và ngay lập tức, Cha viết hóa đơn gởi
Thánh Giuse, yêu cầu Ngài
phải lấy tiền từ ‘ngân hàng Thiên quốc’ bồi thường cho Cha tám mươi hai ngàn
quan, nghĩa là mỗi ngày Cha nằm trên giường trị thương và không dâng Thánh lễ
được, Thánh Giuse phải trả cho Cha một ngàn quan. Rốt cuộc, Thánh Giuse ‘đành’
phải chi ra số tiền ‘khổng lồ’ đó. Tiếp theo, không biết từ đâu đến, Cha
Daniele nhận được những số tiền lớn, chẳng những Cha có thể trả hết những chi
phí chuyên chở, chi phí điều hành 2 nhà ở Cairo, 2 học viện ở Verona và Bắc Ý,
thanh toán lương bổng cho nhân viên địa phương và hoàn tất công việc xây cất
ngôi nhà dành cho các nữ tu, gồm nhà ở, trường học và vườn trẻ. Đúng là Thánh
Giuse quá rộng lượng, đã trả cho Cha Daniele cả vốn lẫn ‘4 lời’.
2. Thánh Andre
Bassette là Thày trợ sĩ
Dòng Thánh Giá. Ngài sinh ngày 9/8/1845 trong một gia đình lao động gồm 10 anh
chị em (2 người mất sớm), mồ côi cha năm lên 9 và mồ côi mẹ năm lên 12. Thuở nhỏ
Ngài ít được đi học, chỉ biết đọc biết viết, và để mưu sinh, cậu bé Andre suốt
13 năm phải làm nhiều nghề khác nhau: thợ thiếc, thợ rèn, thợ sửa giầy, thợ làm
bánh, v. v. và có thời gian phải sang Hoa Kỳ kiếm sống. Tuy nhiên, cậu Andre rất
có tâm hồn đạo đức. Khi nào có chút giờ rảnh, cậu đều qùy gối cầu nguyện trước
Thánh Gía, và khi có cơ hội, cậu đem Thánh kinh nói chuyện với bạn bè. Ngoài
ra, cậu có lòng kính mến Thánh Giuse đặc biệt.
Năm 25 tuổi, nhờ
sự giới thiệu của cha xứ và nhất là sự can thiệp của Đức Cha Ignace Bourget,
thanh niên Andre được nhận vào Nhà Tập. Thày Andre khấn trọn đời ngày 2/2/1874
khi 28 tuổi. Trong suốt 40 năm, công việc chính của Thày là gác cổng trường
College de Notre Dame Montreal. Thày thường nói đùa: “khi tôi đến, người ta chỉ cho tôi cái cổng và tôi ở đó suốt 40 năm.”
Ngoài công việc chính, Thày Andre còn làm những việc không tên như lau nhà, lau
đèn nhà nguyện, lau cửa kính, vác củi, chạy thơ, v. v. Thày cũng được giao nhiệm
vụ đi thăm các học sinh bị bệnh, và cũng nhờ công việc này, không bao lâu, Thày
nổi tiếng là ‘người làm phép lạ Montreal’, có khả năng chữa bệnh
nhờ lời xin của Thày với Thánh Giuse. Khi đến thăm bệnh nhân tại nhà, Thày bảo họ cầu cùng Thánh Giuse rồi xức
dầu Thánh Giuse cho họ (dầu lấy từ cây đèn luôn luôn thắp sáng trước bàn thờ
Thánh Giuse trong nhà nguyện).
Thế rồi càng
ngày tiếng tăm Thày Andre, ‘người làm phép lạ’, càng loan truyền khắp nơi khiến
hàng ngàn người từ xa kéo đến, và rất nhiều người được khỏi bệnh nhờ Thầy cầu
nguyện với Thánh Giuse. Chỉ riêng năm 1916 đã có 435 trường hợp được báo cáo khỏi
bệnh mà y giới không giải thích được. Thường ngày Thày Andre phải tiếp khách
hành hương từ 8 đến 10 giờ và mỗi năm Thày nhận khoảng 80 ngàn thơ từ khắp nơi
gởi đến xin khấn hoặc xin những lời chỉ dạy của Thày. Thày Andre luôn luôn nói
với những người đến xin chữa bệnh: “Tôi
chỉ là kẻ quê mùa. Nếu có ai ngu dốt hơn tôi, chắc chắn Chúa sẽ chọn người đó
thay tôi.” Câu nói này làm chúng ta nhớ tới câu nói của Thánh Bernadette được
Đức Mẹ hiện ra ở Lộ-Đức: tôi là kẻ ngu dốt nhất trong các người ngu dốt. Nếu có
ai ngu dốt hơn tôi thì Đức Mẹ đã chọn người đó rồi.
Các Thánh sao
mà khiêm nhường đến thế, chẳng bù cho chúng ta, có người còn cho mình ‘thay trời’
(thế thiên) hành đạo. Quả đúng như lời Chúa dạy: ai đưa mình lên sẽ bị hạ xuống
và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Khi có người được khỏi bệnh đến cám ơn,
Thày Andre trả lời: “Đó là Thánh Giuse chữa.
Tôi chỉ là con chó nhỏ của Ngài mà thôi.”
Giấc mơ của
Thánh Andre là xây một đại thánh đường kính Thánh Giuse. Khởi đầu, Thày Andre
quyên góp được số tiền 200 Gia kim và mỗi học sinh trả cho Thày 5 xu tiền hớt
tóc. Năm 1904, Thày làm được một nhà nguyện bằng gỗ dài 5,49m, rộng 4. 57m gần
địa điểm Vương cung thánh đường Thánh Giuse hiện nay. Giấc mơ của Thày Andre đã
trở thành hiện thực năm 1924 khi thánh đường Thánh Giuse được xây trên sườn đồi
Mount Royal bên cạnh nhà nguyện nhỏ bé của Thày. Năm 1955 thánh đường hoàn
thành, cao 263 thước, cao nhất thành phố Montreal và được thánh hiến. Mỗi năm
có trên 2 triệu người đến viếng Vương Cung Thánh Đường Thánh Giuse, và nhiều
người đến xin ơn đã được như ý nguyện.
Thày Andre qua
đời năm 1937 lúc 91 tuổi. Hơn một triệu người từ khắp nơi đến kính viếng và đi
qua quan tài của Thày để được nhìn Thầy và vĩnh biệt Thày lần cuối. Thi hài
Thày Andre được an táng trong Vương Cung Thánh Đường mà Thày đã có công khởi xướng.
Thày Andre được ĐGH Gioan-Phaolô đệ nhị phong chân phước ngày 23/5/1982 sau
phép lạ ông Carlo Audino khỏi bệnh ung thư năm 1958 nhờ lời cầu bầu của Thày. Ngày
17/10/2010 Chân phước Andre được ĐGH Bê-nê-đic-tô thứ 16 tôn phong hiển thánh
sau khi phép lạ thứ 2 được công nhận.
Nhân nói đến thời
cận đại, không thể không đề cập đến biến cố vĩ đại ngày 13/10/1917 khi Đức Mẹ
hiện ra lần thứ 6 với ba trẻ tại Fatima và trên bầu trời có Thánh Giuse, Chúa Hài Đồng và Đức Mẹ cùng xuất hiện bên cạnh
mặt trời. Liền sau đó,
chị Lucia la lên: trông mặt trời kìa! (Regardez le soleil), và trước sự chứng
kiến của khoảng 70 ngàn người, mặt trời nhảy múa. Từ xưa đến này, ít khi nghe
nói đến việc Thánh Giuse hiện ra, nhưng trong thời cận đại, sự kiện Thánh Giuse
xuất hiện trên bầu trời cùng với Chúa Giêsu và Đức Mẹ có lẽ nhắc nhở chúng ta rằng
Người vẫn luôn luôn quan tâm đến nhu cầu, nguyện vọng của mỗi người chúng ta,
và sẵn lòngcầu bầu cho chúng ta trước Tòa Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
Trên đây là
truyện các Thánh tôn vinh Thánh Cả Giuse. Đến đây xin độc gỉa lượng thứ cho vì
chỉ muốn chứng minh rằng trong cuộc sống đời thường, nếu chúng ta thành tâm cầu
khẩn Thánh Giuse, Người sẽ nhận lời. Xin được kể hầu qúy vị một kinh nghiệm mới
xảy ra trong gia đình như sau: Tôi có người con gái thứ 3 tên là Trần-Nguyễn
Thiên Hương Lan, gọi bằng tên Mỹ là Mary cho tiện và vắn tắt. Mary tốt nghiệp Đại
học Dược khoa với cấp bằng Doctor of Pharmacy và đã hành nghề dược sĩ hơn 10
năm. Mới đây một bệnh viện trong vùng cần tuyển một dược sĩ có kinh nghiệm để
bào chữa thuốc trị bệnh cho các trẻ em khuyết tật hoặc mắc những bệnh nan y. Mary
muốn nộp đơn xin làm nhưng xem ra tiêu chuẩn rất khó. Tôi đã khuyến khích Mary
và khuyên Mary cầu nguyện cùng Thánh Giuse. Một tuần sau khi phỏng vấn, Mary nhận
được thư từ chối. Mary buồn rầu thông báo cho tôi và nghĩ là chuyện đã rồi nên
tôi không quan tâm nữa. Bất ngờ tuần sau Mary gọi điện thoại báo tin vừa được bệnh
viện cho hẹn đến làm thủ tục nhận việc. Mary cho biết ngay khi nhận thư từ chối,
trong lòng không vui, lại thắc mắc vì sao đã cầu xin Thánh Giuse mà Người không
nhận lời, nên theo đúng lời Mary kể, Mary hỏi Thánh Giuse TẠI SAO, sau đó
‘email’ cho bà Giám đốc phòng nhân viên của bệnh viện. Ngay chiều hôm đó, Mary
nhận được hồi báo cho biết đã có sự lầm lẫn, và trong số những ứng viên đủ tiêu
chuẩn, người được chọn chính là Mary. Mary tin rằng chính Thánh Giuse đã nhận lời
cầu xin của mình mà chỉ cho họ nhận ra sự lầm lẫn.
Để kết thúc bài
viết, xin trích dẫn bài suy ngẫm ngày thứ sáu trong cuốn Tuần cửu nhật kính
Thánh Giuse do nhà sách Trái Tim Đức Mẹ tái bản năm 1993 mà không thấy tên tác
giả:
“Muốn
biết thế lực Thánh Cả trên Thiên Đàng ngày nay, không gì bằng nhớ lại công việc
Người đã làm xưa trong Nhà Nazarét. Nơi đây, vì phận sự gia trưởng, Người đã xếp
đặt mọi công việc cho Đức Mẹ và Chúa Con. Ngót ba mươi năm trường, hai Đấng đã
lấy làm hạnh phúc được vâng lời Người trọn vẹn, chẳng lấy chi làm sung sướng
cho bằng làm vừa lòng đẹp ý Người luôn. Ấy là thế lực Người ở trần gian, huống
chi trên Thiên Đàng, quyền uy Người còn lớn gấp bội. Có lẽ nào trên chốn vinh
quang, Chúa Giêsu và Đức Mẹ lại phai lạt lòng yêu mến đối với Người? Tất nhiên
lời cầu nguyện của Người phải mạnh thế dường nào! Đấng Cứu Thế vừa thấy đôi
tay, suốt ba mươi năm, đã làm lụng vất vả để nuôi Mình, rày chắp lại van xin,
thì cầm lòng sao được mà chẳng mau kíp ban ơn?”
Tháng Thánh Giuse 2012
Trần văn Huyến