SUY NIỆM CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Ed. 33, 7-9; Rm. 13, 8-10; Mt. 18, 15-20
MỤC LỤC
1. Sửa lỗi
2. Sửa lỗi
3. Liên hệ với người khác.
4. Giúp người khác nhận ra những sai lỗi của mình
5. Sữa lỗi cho nhau – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
6. Sửa lỗi cho nhau
7. Hào quang của tha thứ – Thiên Phúc
8. Hoà giải
9. Sửa lỗi cho nhau – Lm Ignatiô Hồ Thông
10. Sửa lỗi người anh em
11. Trách nhiệm - Lm. Giuse Trần Việt Hùng
12. Nghĩa vụ yêu thương
13. Cộng đồng huynh đệ – Cố Lm. Hồng Phúc
14. Tinh thần bác ái trong việc sửa lỗi
15. Sống bác ái, hiệp thông để cùng nhau thăng tiến
16. Nhắc nhở cách nào?
17. Chu toàn bổn phận
18. Quan niệm đức ái theo Thánh Phaolô
19. Sửa lỗi cho nhau – Phêrô Nguyễn Hưởng
20. Nghệ thuật sửa lỗi – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
21. Trách nhiệm liên đới
22. Trừng phạt hay phục hồi?
23. Biết mình biết người – Lm. Fx. Trần Phương
24. Nhắc bảo.
25. Dân ngoại - Lm Vũ Đình Tường
26. Sinh hoạt trong đạo - Lm Vũ Đình Tường
27. Tương trợ
28. Sửa lỗi anh em – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
29. Sửa lỗi anh em: hành vi tế nhị! - Anmai
30. Lợi được người anh em
31. Cộng đoàn Kitô giáo là một chuyện đứng đắn
32. Trách nhiệm về người anh em
33. Chúng ta là người canh chừng một người khác
34. Dám khiển trách
35. Giáo Hội
36. Làm đẹp.
37. Nhắc bảo
38. Nhân danh Thầy
39. Nhân danh Thầy
40. Vẽ chân dung – Radio Veritas Asia
41. Cá nhân giữa cộng đồng - Lm Bùi Mạnh Tín
42. Can đảm sửa lỗi JKN
43. Suy niệm của Lm. Trần Văn Luận
44. “Hãy đi sửa dạy nó”
45. Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó
46. Sửa lỗi cho anh em theo tinh thần của Chúa
47. Sửa lỗi nhau thế nào
48. Sửa lỗi nhau
49. Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
50. Anh đã được món lợi Noel Quession
51. Cha Ta sẽ ban cho
52. Anh em sửa lỗi cho nhau.
Việc sửa lỗi trong cộng đoàn Lm Giuse Đinh lập Liễm
Anh em sửa lỗi cho nhau Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Giúp nhau sửa chữa lỗi lầm Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Sửa đổi huynh đệ là bổn phận ... Lm. Phêrô Lê văn Chính
Sửa lỗi tha nhân Lm Đan Vinh
Có trách nhiệm với nhau Fiches Dominicales
Anh em sửa lỗi nhau Học Viện Đà Lạt
Chúng ta là người canh chừng... Charles E. Miller
Cộng đoàn Kitô giáo là một... Achille Degeest
Vẽ chân dung Sưu tầm
Anh em hãy sửa lỗi cho nhau catholic.org.tw
Anh em sửa lỗi cho nhau Lm Giuse Đinh tất Quý
Hãy sống thánh thiện ngoan ngoãn Lm Giuse Đinh tất Quý
1. Sửa lỗi
Phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay làm nổi bật
tình liên đới giữa các phần tử của một cộng đoàn. Thực vậy, một cộng đoàn du
lớn hay nhỏ, không phải lúc nào cũng chỉ có những con người tốt lành và thánh
thiện. Trái lại rất nhiều kẻ cũng đã sai lỗi, cũng đã đi ngược lại với đường
lối và chủ trương. Vậy trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta sẽ phải xử trí
ra làm sao?
Nhiều người, trong chúng ta chủ trương
trong một khuynh hướng cực đoan, đó là phải loại trừ tức khắc những kẻ phạm lỗi
ra khỏi cộng đoàn, với nhiều lý do xem ra chính đáng: Nào là để giữ uy tín cho
cộng đoàn, nào là để duy trì sự thánh thiện của cộng đoàn, nào là để ngăn đe
cho tội lỗi khỏi lây lan.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nghĩ và đã hành
động một cách khác. Đối với Người vấn đề chính yếu đó là phải làm thế nào cho
kẻ phạm tội biết ăn năn trở lại. Người đã từng tuyên bố Người đến vì những con
chiên lạc, để họ biết tìm về đường ngay nẻo chính. Người đến để đem lại sự sống
chứ không phải cái chết. Lần kia người ta dẫn đến trước mắt Người một phụ nữ
ngoại tình bị bắt quả tang. Chiếu theo luật lệ hiện hành, thì chị sẽ bị ném đá
cho đến chết. Còn Chúa Giêsu thì khác, thay vì ném đá, Người đã nói lên những
lời tha thứ: Con hãy về và đừng phạm tội nữa.
Tính cách lành mạnh của một cộng đoàn
không dựa trên sự thánh thiện của mỗi người, nhưng dựa trên mối quan hệ giữa
các người trong cộng đoàn có khả năng làm cho kẻ phạm tội chỗi dậy, dựa trên
một tình liên đới huynh đệ.
Tuy nhiên nói thế không có nghĩa là bao
che, là xí xoá. Tin Mừng cho chúng ta thấy một cuộc đấu tranh bền bỉ trong tình
huynh đệ, nhưng không khoan nhượng. Khởi đầu bằng sự sửa lỗi giữa hai người với
nhau, để giữ uy tín cho kẻ phạm lỗi trước mặt cộng đoàn khi họ trở lại. Vấn đề
không phải là phạt, mà là sửa. Nếu không có kết quả, thì việc sửa lỗi sẽ được
thực hiện với sự chứng kiến của người thứ ba. Và nếu kẻ phạm lỗi vẫn tứ tiếp
tục ngoan cố, thì vấn đề sẽ được đưa ra cộng đoàn và nếu cũng không có kết quả,
thì bấy giờ kẻ phạm lỗi mới bị coi như không còn thuộc về cộng đoàn nữa.
Những bước đi này cho thấy một sự kiên
nhẫn, cũng như tính cách quyết liệt đối với những sai lỗi. Bằng sự sửa lỗi,
chúng ta giúp nhau thăng tiến bản thân. Đồng thời đó cũng là cách thức chúng ta
cộng tác với nhau để xây dựng Giáo Hội.
Tại một góc phố nhộn nhịp của thành phố
Nữu Ước, một chú cảnh sát gốc Việt Nam đang chỉ huy sự lưu thông. Dòng thác xe
cộ và dân chúng xoay quanh chú. Bất thình lình chú phát hiện ra một người đi bộ
cứ băng qua đường khi còn đèn đỏ. Chú liền thổi còi, giơ tay ngăn chặn và bước
qua chỗ người vi phạm và nhận thấy đó là một người đồng hương. Chú bình tĩnh nhưng
kiên quyết giải thích: Bạn hãy đợi một chút, khi đèn xanh bật sáng mới được đi.
Với một nụ cười ngượng ngập, người vi phạm trở lại lề đường, nhìn đèn đỏ đổi
sang vàng và rồi bước đi khi đèn xanh bật sáng. Tuy nhiên, thay vì đi thẳng
qua, thì người đó lại nhún nhảy đi tới gần người cảnh sát gốc Việt Nam và thì
thầm khi đi ngang qua viên cảnh sát: Chú hãy ý tứ, đừng cho những người da vàng
này đi qua mặt.
Câu chuyện trên có thể giúp chúng ta áp
dụng vào điều Chúa Giêsu nói với chúng ta qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Nếu
anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Lỗi phạm ở
đây không phải chỉ là những xúc phạm đến bản thân chúng ta mà còn là tất cả
những hành vi sai trái, khả dĩ gây nên gương mù gương xấu. Sửa lỗi người khác
là bổn phận của một số người như chú cảnh sát Việt Nam trong câu chuyện, như
cha mẹ, thầy dạy, huấn luyện viên và những người có trách nhiệm. Nhưng vấn đề
là làm thế nào để thi hành điều đó. Câu chuyện trên cho chúng ta một số gợi ý.
Trước hết là khía cạnh tích cực.
Thực vậy, chú cảnh sát không nhấn mạnh đến điều lầm lỗi là qua đường khi đèn
đỏ, nhưng nhấn mạnh đến điều cần thiết là chỉ đi qua đường khi đèn xanh bật
sáng. Chú không la hét cho người khác nghe được, nhưng chỉ nói nhỏ nhẹ mà kiên
quyết với người vi phạm. Chú bảo người ấy điều phải làm cũng như điều phải
tránh.
Tiếp đến là lời nói của chú thật đúng
lúc và tế nhị. Tất cả đều giúp ích cho việc sửa lỗi anh em. Vì như
chúng ta thường bảo: Lời nói chẳng mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng
nhau. Nhiều khi chỉ vì những lời nói thiếu tế nhị, chúng ta chỉ tạo nên những
bực bội và tức tối, khiến cho hành động thiện chí của chúng ta trở thành uổng
công vô ích mà thôi. Đồng thời khi chỉ ra lầm lỗi của người khác, chúng ta nên
lưu ý: Lầm lỗi đó không xúc phạm quá nhiều đến chúng ta; nhưng là lỗi nghịch
với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân. Lầm lỗi của họ có thể làm mất lòng
chúng ta, nhưng quan trọng hơn, đó là làm mất lòng Thiên Chúa. Như Chúa Giêsu
đã nhắc nhỏ: Chúng ta có thể đem theo một hay hai người khác để sửa sai. Và
cuối cùng, nếu người ấy vẫn không chịu nghe, thì cực chẳng đã, mới phải trình
bày với Giáo Hội hay vị có thẩm quyền. Còn nếu như chúng ta được người khác
nhắc bảo thì hãy có can đảm lắng nghe và chấp nhận nếu như những lời nhắc nhở
đó là đúng, bằng không chúng ta sẵn sàng bỏ qua, không vì chút tự ái vụn vặt mà
làm cho bầu khí trở nên căng thẳng, bởi vì: Ai khen ta mà khen phải, đó là bạn
ta, còn ai chê ta mà chê phải, đó là thầy ta.
Tại một học viện quân sự, ngày kia huấn
luyện viên ra đề tài cho các sĩ quan hãy vẽ một chiếc cầu. Cả lớp đều hiểu đó
là một chiếc cầu được thiết kế cho mục đích quân sự, trừ ra một chàng sĩ quan
có ý kiến khác hẳn. Anh đặt chiếc cầu trong bối cảnh thơ mộng của một ngọn núi,
dưới ngọn núi là dòng sông mà hai bên bờ là những thảm cỏ xanh. Nổi bật nhất là
hai cậu bé đang đứng trên dầu để câu cá. Huấn luyện viên không chấp thuận bài
làm của anh và ra lệnh cho anh phải loại bỏ hai cậu bé. Thế là anh liền chuyển
hai cậu bé xuống thảm cỏ xanh, nhưng huấn luyện viên càng tỏ ra tức tối, buộc
anh không được để lại hình ảnh hai cậu bé trong bản vẽ. Cuối cùng anh vẽ hai
cái mộ trên thảm cỏ xanh của bờ sông. Anh muốn nói cho huấn luyện viên biết
rằng mình đã chôn hai cậu bé trong hai ngôi mộ đó.
Với tâm hồn nghệ sĩ hoàn toàn khác biệt
với mục tiêu quân sự, anh quan niệm chiếc cầu được xây là để nối liền hai bờ
sông hầu giúp con người qua lại mà liên hệ được với nhau. Thiếu sự đi lại của
con người, chiếc cầu không những trở nên vô nghĩa, mà còn tượng trưng cho sự
chết chóc xảy ra giữa con người với nhau.
Từ câu chuyện trên chúng ta nhận thấy:
Không ai trong chúng ta có thể sống cô độc lẻ loi một mình như một hải đảo giữa
biển khơi hay như một phái đài biệt lập, trái lại chúng ta sống là sống với người
khác. Và trong cuộc sống chung này chúng ta không thể nào tránh đi cho hết
những va chạm, bực bội và buồn phiền, vì bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một
tính tình riêng. Hơn nữa, nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi khuyết
điểm của mình.
Bởi đó trước những sai lỗi của người khác,
chúng ta hãy biết nhường nhịn và chịu đựng, quên đi và tha thứ vì một sự nhịn
là chín sự lành, nhờ đó, chúng ta sẽ tạo được một bầu khí hoà thuận cảm thông.
Hơn nữa, chúng ta còn phải có can đảm nói cho nhau sự thật. Nghĩa là chúng ta
còn phải chọn những giây phút thuận tiện, dùng những lời nói ôn tồn để nhắc bảo
nhau, hầu nhờ đó giúp nhau thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Còn đối với những sai lỗi của bản thân,
khi được người khác nhắc bảo, chúng ta hãy có can đảm nhận lỗi và xin lỗi bởi
vì chính những sai lỗi này làm cho người khác phải đau khổ và buồn phiền. Nếu
những lời nhắc bảo mà sai, chúng ta sẵn sàng bỏ qua. Còn nếu đúng thì chúng ta
hãy cố gắng uốn nắn sửa đổi để nhờ đó đổi mới cuộc đời. Bởi vì ai khen ta mà
khen phải là bạn ta, còn ai chê ta mà chê phải, đó là thầy ta.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nhận ra lầm lỗi của mình là điều rất khó.
Có người ví von rằng mỗi người đều mang một gùi đầy tội sau lưng và một gùi
công đức trước ngực. Vì thế, người ta chỉ thấy công đức mà không thấy được lầm
lỗi của mình.
Ông Dale Carnegie, một học giả trứ danh
người Mỹ viết nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế
giới quả quyết rằng: "Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra
chân lý nầy là dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi thì
có tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội."
Chúng ta hãy nhìn lại trường hợp cụ thể về
vua Đavít được thuật lại trong Kinh Thánh (Sách Samuen).
Một buổi chiều nọ, vua Đavít tản bộ trên
sân thượng và chợt thấy một phụ nữ xinh đẹp đang tắm, đó là bà Bat-shêba, vợ
của Uria. Vua sai người đưa bà đến với vua. Ít lâu sau đó, Bat-shêba báo tin
cho vua hay là bà đã có thai với nhà vua.
Khi biết chuyện, vua Đavít tìm cách 'bán
cái' cho chồng của bà là Uria.
Vua cho triệu Uria từ mặt trận trở về, cho
ông ta ăn uống thật no say rồi truyền cho Uria về nhà thăm vợ. Hai đêm liền,
Uria nằm ngủ trong đền vua với những tên lính canh mà không chịu về nhà.
Thấy kế hoạch 'bán cái' không xong, vua
Đavít ra lệnh cho tướng Yôab mượn tay quân giặc giết chết U-ria ngoài chiến
trường.
Sau đó, khi đã mãn tang chồng, Bat-shêba
được vua Đavít đón vào cung làm vợ chính thức của nhà vua. ( II Sam 11 và 12)
Vua Đavít đã phạm một tội tày trời, thế mà
vẫn ung dung như không có gì xảy ra. Đúng là trong hàng trăm lần phạm lỗi, may
ra chỉ có một lần người ta nhận ra mình có tội. Và một khi con người không tự
thấy được tội lỗi của mình để ăn năn sám hối thì cần phải có ai đó đến nhắc bảo
họ.
Thế là Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến
cảnh tỉnh vua. Khuyên vua thì phải lựa lời, không khéo thì mất đầu như chơi.
Nhà tiên tri trình với vua: "Trong thành kia, có một người giàu sang phú
quý có cả đến hàng ngàn chiên dê và bò, trong khi đó, một người nghèo bên cạnh
chỉ có một con chiên nhỏ mà ông ta rất yêu quý, coi như đứa con gái của ông.
Thế rồi khi người giàu có khách, ông tiếc của không dám bắt chiên mình đãi
khách mà lại cho tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt".
Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi
giận. Vua quát: "Nó đáng chết, tên ác nhân đó! Nó phải bị trừng phạt và
phải bồi thường gấp bốn vì việc nó đã làm."
Tiên tri Natan thưa: "Người ấy chính
là vua. Nhà vua đã có nhiều thê thiếp lại còn nhẫn tâm giết chết Uria và cướp
vợ của ông ta".
Bấy giờ vua Đavít mới nhận ra tội mình và
ăn năn khóc lóc thảm thiết.
Nếu không được tiên tri Natan cảnh tỉnh,
vua Đavít đã không nhận ra tội lỗi của mình và không thể hối cải. Tội của mình,
mình chứa đựng trong cái gùi sau lưng nên không thấy được. Vì thế, giúp người
khác nhận ra lỗi của họ là điều rất cần thiết và là một nghĩa vụ thiêng liêng.
Lời Chúa hôm nay thiết tha kêu mời chúng
ta hãy ra công sửa lỗi cho anh em mình. Qua bài đọc I, Thiên Chúa dùng miệng
tiên tri Ê-dê-ki-en răn dạy chúng ta: "Nếu ngươi không cảnh cáo kẻ gian
ác, giúp nó từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó phải chết vì sự gian ác của
nó, nhưng còn máu nó, Ta sẽ đòi ngươi" (Edêkien 33, 7-9). Và qua bài Tin
Mừng hôm nay, Chúa Giêsu truyền dạy: "Nếu anh em của ngươi trót phạm tội,
thì ngươi hãy đi sửa lỗi nó".
Hãy nên tấm gương soi cho người khác và để
người khác làm tấm gương soi cho ta.
Tấm gương soi tuyệt đối cần thiết cho mọi
người. Không có tấm gương soi, người ta không biết mặt mũi mình ra sao, có ghèn
đầy mắt cũng không biết, có cơm dính cằm cũng chẳng hay, râu tóc rối bù như tổ
quạ cũng chẳng biết gì. Tấm gương soi tuy tầm thường nhưng rất cần thiết giúp
con người nhận ra những vết nhơ trên khuôn mặt mình. Thế nên dù nghèo hèn túng
thiếu, nhà nào cũng cố sắm cho mình một tấm gương.
Tuy nhiên, tấm gương thuỷ tinh tráng thuỷ
chỉ phản chiếu khuôn mặt mà không thể phản chiếu tâm hồn, chỉ cho thấy những
vết nhơ trên trán mà không cho thấy vết bẩn trong tim, thấy những xấu xa trên
khuôn mặt mà không thấy những sa đoạ trong tâm hồn hay trong cuộc sống. Vì thế,
người ta cần thêm một tấm gương soi khác, đó là lời nhắc bảo của những người
chung quanh. Thiếu những lời nhắc bảo nầy là thiếu mất tấm gương tối cần thiết
để soi hồn.
Tiên tri Natan ngày xưa là tấm gương soi
giúp vua Đavít thấy được những vết bẩn khủng khiếp trong tâm hồn. Thiếu tấm
gương soi quý báu như Natan, vua Đavít không thể thấy được lầm lỗi của mình và
sẽ không hề biết ăn năn sám hối.
Trở thành tấm gương soi cho người khác là
một lệnh truyền rất quyết liệt của Thiên Chúa.
"Nếu ngươi không cảnh cáo kẻ gian ác,
giúp nó từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó phải chết vì sự gian ác của nó,
nhưng còn máu nó, Ta sẽ đòi ngươi". (Edêkien 33, 7-9).
"Nếu anh em của ngươi trót phạm tội,
thì ngươi hãy đi sửa lỗi nó"... (Matthêu 18, 15)
Vì lòng bác ái với anh em và vì lời Chúa
truyền dạy, chúng ta hãy là tấm gương soi giúp người khác thấy được tội lỗi và
những sai lầm của họ; đồng thời vui lòng để cho người khác trở thành tấm gương
soi cho mình để chúng ta có thể nhận ra lầm lỗi của ta.
Thời đại hôm nay là thời đại kinh tế thị
trường. Mọi quan hệ giữa người với người đều dựa trên lợi nhuận kinh tế. Tôi
quan hệ với anh tôi có lợi điều gì? Tôi làm việc này tôi có hưởng được lợi lộc
gì? Tôi đầu tư công sức vào việc này, tôi sẽ được lời lãi bao nhiêu? Thế nên,
những việc không có lợi, người ta thường tìm cách tránh né. Người ta thường suy
xét thiệt hơn. Không ai dại gì gánh nợ cho người khác. Không ai dại gì can thiệp
vào chuyện của người khác. Con người hôm nay là vậy, nhưng bác ái kytô giáo
không cho phép chúng ta dửng dưng với đồng loại. Một tình yêu đích thực không
thể làm ngơ trước nguy hiểm của người mình yêu. Đức ái đòi hỏi phải dấn thân và
làm cho người anh em của mình được sống và sống ngập tràn hạnh phúc.
Một cuộc sống hạnh phúc đích thực không hệ
tại ở tiền bạc, danh vọng, lạc thú mà quan yếu ở tâm hồn bình an. Bình an ở tại
lòng người. Lòng người không chạy theo điều gian dối. Không chạy theo thói xa
hoa trụy lạc. Không làm điều bất chính hay vương vấn lỗi lầm mới có bình an tâm
hồn.
Như vậy đứng trước những hành vi xấu xa
tội lỗi của anh em, tôi nên làm ngơ hay nói sự thật. Tôi nên giúp họ nhận ra
điều sai lỗi hay tôi theo chủ nghĩa "mackeno". Tôi có bổn phận giúp
người anh em tìm lại bình an tâm hồn khi sống theo đạo lý làm người, và làm con
Chúa hay tôi để họ mãi sa lầy trong vũng bùn tội lỗi và bóng đêm của gian tà.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải can
đảm và kiên nhẫn sửa lỗi cho nhau. Sửa lỗi cho nhau là hành vi bác ái, là giúp
anh em mình sống đúng phẩm giá làm người, là nỗ lực đưa anh em mình trở về nẻo
chính đường ngay. Sửa lỗi cho nhau không chỉ là điều cần thiết mà còn là bổn
phận của các bậc làm cha mẹ, anh chị, hay của những người có nghĩa vụ giáo dục
và hướng dẫn người khác. Vì "nuôi con chẳng dạy chẳng răn - Thà rằng nuôi
lợn lấy lòng mà ăn".
Nhưng sửa lỗi khác với trừng phạt. Sửa lỗi
cần kín đáo, tế nhị, còn trừng phạt thường mạt sát, hạ bệ và công khai. Người
được sửa lỗi là người được yêu thương. Người bị trừng phạt là người bị loại ra
khỏi xã hội và cộng đồng nhân loại.
Thế nên, sửa lỗi anh em trong đức ái không
có nghĩa là dò xét, vạch lá tìm sâu, bé xé ra to, ít xít ra nhiều. Càng không
được kể lỗi lầm của anh em ra bất cứ ai, mà cần ý thức rằng "nhân vô thập
toàn", là người ai cũng có lầm lỗi, là người ai cũng có khiếm khuyết, nên
cần cảm thông hơn là kết án, nên giúp họ làm lại cuộc đời hơn là tẩy chay.
Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra
những bước sửa lỗi anh em.
- Bước thứ nhất là đối thoại.
Đối thoại là giúp họ nhận ra việc họ làm, lời họ nói là sai. Đối thoại để họ
nhận ra lầm lỗi, để họ ý thức được việc họ làm, lời họ nói là xấu, là sai với
đạo lý làm người.
- Bước thứ hai cần thêm người
khác tác động. Có thể là bạn bè thân hữu của người phạm lỗi, hay có thể
là người có uy tín trong cộng đoàn. Người khác tác động là người có liên quan
đến người phạm lỗi chứ không phải bạ ai cũng nói, gặp ai cũng chia sẻ, làm như
thế người có lỗi chỉ thêm mặc cảm vì lỗi của mình, và oán ghét chúng ta hơn là
biết ơn chúng ta.
- Bước thứ ba là đưa ra cộng
đồng. Người ta vẫn thường nói "xã có phép tắc của xã. Làng có
khuôn phép của làng". Mỗi một đơn vị đều có những lề thói giúp nhau sống
kỷ cương và đảm bảo an ninh xã hội. Thế nên, cộng đồng sẽ giúp cho con người
sống tốt hơn và cho môi trường sống được lành mạnh và an bình hơn
- Bước thứ tư: hãy cùng nhau
hợp lời cầu nguyện cho họ. Trên hết mọi sự là hãy cầu nguyện cho
người anh em chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta vì nhu cầu cộng đoàn và cho cộng
đoàn sẽ được Chúa chấp nhận.
Như vậy, bác ái kytô giáo không cho phép
chúng ta dửng dưng hay làm ngơ trước lầm lỗi của tha nhân, nhất là những lầm
lỗi có thể gây ảnh hưởng xấu trong cộng đoàn, hay mất an ninh cho xã hội. Dửng
dưng hay làm ngơ là chúng ta thiếu tình yêu liên đới với tha nhân và thiếu
trách nhiệm bảo vệ, gìn giữ sự trong sạch cũng như sự lành mạnh cho cộng đoàn.
Bác ái kytô giáo đòi hỏi chúng ta cảm
thông với yếu đuối của tha nhân, nhưng không dung dưỡng sự xấu trong cộng đoàn.
Chúng ta không được thanh trừng hay tẩy chay anh em nhưng phải thanh tẩy môi
trường chúng ta đang sống khỏi những thói hư tật xấu, những tệ nạn gây ảnh
hưởng xấu đến đời sống chung của cộng đoàn.
Xin Chúa ban cho chúng ta một tấm lòng
khiêm tốn để nhận ra sự yếu đuối tội lỗi của mình mà sẵn lòng đón nhận lời góp
ý, sửa lỗi của anh em. Vì "kẻ dám chê ta mới thật là thầy và là bạn ta,
còn kẻ nịnh hót, tâng bốc ta chỉ làm hại cuộc đời ta".
Xin Chúa soi lòng mở trí để chúng ta luôn
dám nói sự thật với anh em, cho dẫu sự thật mất lòng nhưng là cách tốt nhất để
kiện toàn anh em nên trọn hảo hơn. Amen.
6. Sửa
lỗi cho nhau
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Con người luôn có lầm lỗi. Ai nên khôn mà
không dại một lần. Và chắc chắn là không chỉ một lần mà rất nhiều lần trong
cuộc đời. Phạm lỗi cũng không dừng lại ở lứa tuổi nào mà ở bất cứ lứa tuổi nào
cũng có thể phạm lỗi. Có điều là chẳng mấy ai trong chúng ta dám nhận mình có
lỗi. Chẳng mấy ai dám thú nhận về những lầm lỗi của bản thân.
Đó là điều mà chúng ta cần phải được người
khác sửa lỗi. Nếu không được người khác sửa sai thì mình sẽ không bao giờ đứng
lên làm lại cuộc đời. Một đứa bé để có thể nói đúng, nói không sai chính tả cần
được cha mẹ sửa giọng nhiều lần mới có thể nói không bị ngọng. Về nhân bản con
người cũng phải được người khác dạy bảo, sửa lỗi thì mới hoàn thiện chính mình.
Như vậy, sửa lỗi là bổn phận của cha mẹ,
của thầy cô, của bạn bè và nhận được sự chỉ dạy là của từng người chúng ta. Nếu
chúng ta không sửa lỗi cho anh em là chúng ta đang có lỗi với chính mình vì
chúng ta chưa sống tròn bổn phận của mình với tha nhân. Đôi khi còn bị người mà
mình đã không dậy dỗ oán trách lại chúng ta.
Có một đứa trẻ từ nhỏ đã thích ăn trộm.
Một hôm, nó đi học về, trong cặp có thêm một chiếc bảng học sinh. Mẹ nó hỏi:
- Sao con lại có tới hai chiếc bảng?
Đứa con đáp:
- Một cái là của bạn cùng lớp với con. Con
đã lén lấy cho vào cặp đấy.
Bà mẹ vui mừng nói:
- Con của mẹ thật thông minh. Hai cái bảng
chắc chắn là tốt hơn một cái rồi.
Ít lâu sau, đứa con lại mang về một cái áo
da, trị giá 50 quan tiền. Đứa con đưa chiếc áo da cho mẹ, mẹ nó khen:
- Con trai của mẹ thật là giỏi, biết hiếu
thảo với mẹ. Ra mẹ thơm một cái nào.
Đứa con trai ngày một lớn lên, càng ngày
càng lấy trộm những thứ có giá trị hơn. Hôm nay ăn trộm bò, ngày mai ăn trộm
ngựa, ngày hôm sau trộm vàng bạc châu báu. Bà mẹ luôn luôn khen ngợi con, trong
nhà thiếu thứ gì, liền bảo với con trai để nó đi trộm về.
Có một lần, đứa con ăn trộm đồ bị người ta
bắt quả tang, giải lên quan phủ. Vì hắn trộm quá nhiều thứ nên bị phạt tội
chết. Tên trộm bị trói hai tay ra sau lưng, giải ra pháp trường. Mẹ hắn đi theo
sau, khóc lóc thảm thiết. Tại pháp trường, tên trộm xin quan cho hắn được nói
với mẹ vài lời. Khi bà mẹ bước tới gần, hắn liền cắn mạnh vào tai mẹ. Mẹ hắn đau
quá kêu toáng lên, lớn tiếng mắng con:
- Mày thật là đồ bất hiếu, tự mình phạm
tội chết còn chưa đủ hay sao mà còn muốn làm mẹ thành tật à?
Đứa con giận dữ nói với mẹ hắn:
- Lần đầu tiên tôi ăn trộm cái bảng về,
nếu bà đánh tôi một trận và dạy bảo tôi thì tôi không đến nỗi như ngày hôm nay
và đã không bị xử tội chết.
Hóa ra không dạy dỗ người khác có khi dẫn
đến “gậy ông đập lưng ông”. Dạy người khác sửa sai là giúp mình được sống bình
an hạnh phúc. Không dạy người khác sửa sai là mình đang “nuôi ong trong tay
áo”, hậu quả sẽ là mình bị ong chích đầu tiên. Thế nên, khi làm điều sai trái,
dù là cái sai rất nhỏ, thì cũng phải kịp thời sửa chữa. Nếu không, cứ để nó lớn
dần lên thành cái sai nghiêm trọng thì có thể khiến mình phải hối hận cả đời.
Hôm nay Chúa nhắc chúng ta phải sửa lỗi
cho nhau. Sửa lỗi không phải chỉ trích. Chỉ trích là công kích nhau, là rêu rao
lỗi lầm của nhau. Chỉ trích thường thiếu bác ái, thiếu tinh thần xây dựng cho
nhau. Sửa lỗi đòi tế nhị, kín đáo, thông cảm với yếu đuối lỗi lầm của nhau. Sửa
lỗi là một bổn phận, là bác ái mà chúng ta phải thực thi cho tha nhân. Sửa lỗi
trái ngược với bỏ mặc, và thiếu trách nhiệm với tha nhân. Trong tinh thần bác
ái và yêu thương chúng ta phải có bổn phận sửa lỗi cho nhau. Cha mẹ sửa lỗi cho
con cái. Vợ chồng sửa lỗi cho nhau. Thầy cô sửa lỗi cho học trò. Bạn bè sửa lỗi
cho nhau. Tất cả phải có bổn phận giúp nhau thăng tiến. Không bỏ mặc nhau nhưng
luôn dìu nhau tiến bước.
Sửa lỗi cho nhau không chỉ với tội lớn mà
ngay cả tội nhỏ cũng cần được nhắc nhở, được giúp cải thiện. Bởi vì “nhỏ ăn
trộm dây cột bò, lớn sẽ ăn trộm cả con bò”. Vì phạm tội sẽ thành thói quen.
Phạm tội một lần thì sợ hãi, nhưng nhiều lần thì lương tâm đã chai lì, đánh mất
sự sợ hãi lo âu.
Chúa Giê-su dạy ta cách sửa lỗi tiệm tiến
với tình yêu thật tế nhị. Sửa lỗi cách kín đáo bằng lời chân tình góp ý thẳng
ngay với nhau. Nếu thất bại cần thêm lời của nhân chứng để người được sửa lỗi
càng nhận biết lỗi lầm của mình hơn. Nếu vẫn thất bại thì cần đến cộng đoàn để
nhờ sức mạnh của cộng đoàn giúp kẻ có lỗi ăn năn sửa đổi.
Xin Chúa giúp chúng ta biết can đảm sửa
lại những lỗi lầm. Biết bỏ đi tính tự ái, cố chấp để lắng nghe lời góp ý chân
thành của tha nhân. Xin đừng vì cố chấp mà trở thành kẻ ngang bướng làm hại đến
cộng đoàn. Amen.
Theo ABC News, ông Yigal Cohen, một người
Itraen bị đau tim nặng vừa nhận được trái tim của một người Palestin trong cuộc
phẫu thuật ngày 5-6-2000, Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng tim, cho
biết ông vừa bi lnhững người Do Thái bắn hãi tại một tiệm cà phê ngoài trời.
Gia đình này quyết định hiến tim của
Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm
thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho
một số người Itraen khác.
Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca mổ, nói
khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu thuẫn sắc
tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
***
Nếu chúng ta biết rõ mối thù truyền kiếp
giữa người Itraen và người Palestin, nếu chúng ta nhìn thấy những cuộc xung đột
đẫm máu thường xuyên xảy ra giữa hai dân tộc này trên truyền hình, báo chí,
chúng ta mới thấy nghĩa cử hiến tặng trái tim để cứu sống kẻ thù, mới thật là
nghĩa cả vô cùng cao đẹp. Không những anh chỉ tha thứ cho kẻ thù đã bắn chết
mình, mà còn trao ban luôn trái tim và các phần nội tạng khác để cứu sống những
kẻ đã sát hại dân tộc mình. Đối với những người không có tấm long khoan dung
tha thứ thì đây là hành động điên rồ, thậm chí còn là việc ngu xuẩn. Nhưng với
những người có niềm tin thì đó lại là bằng chứng hùng hồn của người môn đệ Đức
Kitô: “Anh em phải thương yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét anh em” (Lc
6,27).
Tin mừng hôm nay thuật lại:
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà
hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến
mấy lần” Có phải bảy lần không? “Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần,
nhưng là đến bảy mươi lần bẩy” (Mt 18,21-22).
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha
thứ mãi tha thứ đến vô cùng. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Mọi
quốc gia, đảng phải, phong trào đều chống lại điều xấu, đề phòng kẻ gian ác,
tiêu diệt kẻ thù, duy chỉ mình Đức Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Người đã
chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo,
và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc
23,34).
8. Hoà
giải
Yêu thương là ước mong và làm điều tốt cho
người mình yêu. Một trong những điều tốt mà chúng ta nên làm và phải làm là
giúp nhau nên trọn lành, nên tốt hơn trong từng ngày sống của chúng ta. Đã mang
thân phận của con người thì không ai là không có những lần lỗi phạm. Chúng ta
cần hình nhận sự thật đó để can đảm giúp người khác sửa sai và giúp chúng ta
khiêm tốn đón nhận những góp ý và sửa lỗi của người khác dành cho mình. Chúng
ta phải khiêm tốn nhìn nhận rằng: nếu mình còn có người giúp sửa sai và chỉ ra
lỗi phạm của mình thì hãy lấy đó làm niềm vui vì biết rằng mình còn được người
khác yêu thương.
Nhưng chúng ta phải nhớ rằng: sửa lỗi
người khác và giúp người khác nhận ra lỗi lầm của mình không phải là chuyện dễ.
Nó là một nghệ thuật. Nếu không khéo trong việc này, chúng ta sẽ mất cả chì lẫn
chài. Bởi thế, Chúa Giêsu mới dạy chúng ta một phương thế để giúp những người
sai lỗi mà chúng ta nên áp dụng cách triệt để trong sự khéo léo và khôn ngoan
của ta.. vì giúp nhau nên lành thánh trở nên bổn phận bó buộc đối vớI người
Kitô hữu chúng ta.
1. Mạnh dạn góp ý cho
người sai lỗi:
Bản chất của Hội thánh là thánh thiện,
nhưng Hội thánh đang cưu mang những con người chưa thánh và tội lỗi trong đó
với ước mong giúp họ nên thánh và được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa. Chúng ta
không thể lạnh lùng khi thấy anh em mình sa ngã, bởi lẽ, tất cả chúng ta làm
nên một thân thể và thông hiệp với nhau, mang những vết thương của nhau.
Chỉ ai yêu thương thật sự mới góp ý chân
thật và thẳng thắn. Nhiều lúc, chúng ta chỉ dám nói sau lưng và nói quá nhiều
những lỗi lầm của người khác. Hành động như thế, không lợi gì cho anh em của ta
mà cũng chẳng lợi gì cho ta vì ta mang tội nói xấu anh em mình. Chúng ta không
dám góp ý thẳng với anh em mình có thể vì chúng ta sợ: người khác giận mình, sợ
người khác không đón nhận, sợ mất quyền lợi của mình...góp ý xây dựng là một
dấu chỉ của yêu thương, chứ không phải là vạch lá tìm sâu. Nếu không phải vì
đức yêu thương, ta tránh sửa lỗI người khác mà ta không có nhiệm vụ.
2. Tế nhị và tôn trọng
kẻ sai lỗi:
Góp ý và sửa lỗi cho người khác là một
nghệ thuật. Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta những bước tiến hành để sửa lỗi cho
người anh em của mình. Trước hết là sự gặp gỡ của ta với đương sự một cách âm
thầm và kín đáo trên nguyên tắc là tôn trọng nhau. Nếu người sai lỗi cứ bướng
bỉnh, cố chấp thì ta nên đem theo vài người nữa. Làm thế không phải là gây áp
lực nhưng để vấn đề được sáng tỏ thêm và khách quan hơn. Nếu đương sự vẫn không
nghe thì phảI đưa họ đến với cộng đoàn để cộng đoàn sửa sai họ. Nếu họ vẫn
không chịu đón nhận thì có nghĩa là tự họ đã cô lập họ, tự họ tạo ra bóng đêm
cho mình.
Như thế, việc góp ý nên tiến hành qua
nhiều giai đọan. Thái độ và tâm tình cần có của người sửa lỗi là tế nhị, tôn
trọng, yêu thương, kiên nhẫn với kẻ sai lỗi. Chúng ta cần có trái tim yêu
thương của Chúa để luôn thao thức và quyết tâm đưa những kẻ lầm đường lạc lối
về với Chúa: " Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn
sám hối và được sống."
Hội thánh là một gia đình yêu thương và là
nơi hàn gắn những bất hoà chia rẽ. Vì thế, mọi người phải có trách nhiệm liên
đới với nhau để tạo sự hiệp thông liên lỉ trong Giáo hội Chúa. Mỗi người chúng ta
cần trở thành sợi dây liên kết tình anh em trong cộng đoàn nơi mình sống. Một
cộng đoàn trưởng thành là một cộng đoàn có khả năng ngồi lại với nhau để góp ý
và giúp nhau sửa lỗi. Chúng ta cần yêu thương để dám góp ý và cần khiêm tốn để
được góp ý.
Ngày nay, khi đi trên đường ở nước Thụy
sĩ, người ta nhìn thấy một tấm biển lớn, trên đó có trình bày hai chiếc xe hơi:
một chiếc màu đỏ, một chiếc màu xanh. Cả hai xe đi cùng chiều với nhau, những
người ngồi trong hai chiếc xe ấy đang chào nhau và tươi cười với nhau. Người
lái xe xanh đang ra dấu cám ơn lại bằng cách giở mũ chào.
Ở phần dưới tấm biển có ghi một hàng chữ:
"Hợp tác là an toàn". Điều này muốn nói lên rằng: giúp đỡ lẫn nhau,
đối xử tốt với nhau như người cộng sự bằng tình bằng hữu là một bảo đảm cho một
cuộc hành trình không nguy hiểm.
Không ai là một hòn đảo. Cuộc sống của con
người chỉ thực sự lớn lên và triển nở khi sống với người khác và sống cho người
khác. Xin Chúa ban cho chúng ta biết nhìn ra sự thật nơi mình để luôn biết sống
nương tựa nhau và giúp nhau nên hoàn thiện theo ý Cha trên trời là Đấng hoàn
thiện.
9. Sửa lỗi cho nhau – Lm Ignatiô Hồ Thông
Ed 33, 7-9
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thi hành sứ vụ bên cạnh
đồng bào của mình trong cùng cảnh ngộ lưu đày như ông ở Ba-by-lon (đầu thế kỷ
thứ sáu trước Công Nguyên). Ông cảm thấy mình chịu trách nhiệm về cách ăn nếp ở
của anh em mình.
Rm 13, 8-10
Thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu Rô-ma
thực hành tình tương thân tương ái. Bổn phận duy nhất, món nợ duy nhất mà chúng
ta phải có đối với anh em đồng loại là Đức Ái.
Mt 18, 15-20
Trong Tin Mừng, thánh Mátthêu trích dẫn
những lời của Đức Giêsu mời gọi các Kitô hữu đừng để cho một người anh em nào
của mình phải hư mất mà không tìm cách sửa lỗi cho người ấy, nhiều lần nhiều
cách, với sự tế nhị cần thiết.
BÀI ĐỌC I (Ed 33, 7-9)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào cuối thế kỷ
thứ bảy và đầu thế kỷ thứ sáu sau Công Nguyên. Vào lúc đó, hoàn cảnh đất nước
thật bi thảm. Vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong. Vua Na-bu-cô-đô-nô-so chiếm
thành thánh Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất vào năm 598-597 và bắt đi lưu đày một
phần lớn dân cư, nhất là thành phần ưu tú. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc trong số
những người lưu đày đầu tiên nầy. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu
bên cạnh những đồng bào lưu đày của ông cho đến khi qua đời, vào năm 571 trước
Công Nguyên.
Ê-dê-ki-en trước khi ngôn sứ, đã là tư tế,
vì thế, ông mang lấy ở nơi mình vừa tinh thần ngôn sứ vừa tinh thần tư tế. Bản
văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật nầy làm chứng điều nầy. Trách nhiệm ngôn sứ
và trách nhiệm tư tế thành một bất khả phân ly ở nơi ông.
Bối cảnh là làng Tel-Avi bên bờ sông Cơ-va
không xa Ba-by-lon, nơi vị ngôn sứ cùng với một số người đồng hương sống trong
cảnh lưu đày. Từ các biến cố, ngôn sứ Ê-dê-ki-en biết rút ra bài học. Các ngôn
sứ đã kêu gọi vua, bậc vị vọng và toàn thể dân chúng hoán cải, nhưng lời của
các ngài không được lắng nghe, vì thế sự trừng phạt bất ngờ giáng xuống trên
họ. Nét độc đáo của sứ điệp mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi đến nhấn mạnh “trách
nhiệm của mỗi cá nhân”. Đó là ý nghĩa lời kêu gọi của Đức Chúa mà chúng ta đọc
trong đoạn văn nầy.
1. “Hỡi con Người”:
Diễn ngữ “con người” là đặc ngữ Sê-mít, có
nghĩa đơn giản là “một con người”, “một cá nhân”, như trong câu: “Hỡi con
người. Trong câu này, diễn ngữ “con người” quy chiếu đến chính vị ngôn sứ. Ngôn
sứ Ê-dê-ki-en thường sử dụng đặc ngữ này để nhấn mạnh: Thiên Chúa là Đấng ngàn
trùng chí thánh, trước Ngài con người chỉ là một phàm nhân mõng dòn, yếu đuối
và tội lỗi (6, 1-6). Mỗi lần Thiên Chúa ủy thác cho ông sứ điệp của Ngài, Ngài
đặt ông vào chỗ của ông để ông khỏi phải tự cao tự đại về những thị kiến hay
xuất thần mà Thiên Chúa gởi đến cho ông. Vị ngôn sứ phải tự xoá mình như một kẻ
vô danh tiểu tốt.
2. Người canh gác:
“Ta đặt ngươi làm người canh gác nhà
Israel”. Những hình ảnh: “người canh gác”, “người canh thức”, “truyền lệnh sứ”
rất quen thuộc trong Cựu Ước để chỉ ngôn sứ. Ở đây, vị ngôn sứ được Thiên Chúa
công bố là “người canh gác nhà Israel”. Người canh gác đứng trên vọng gác tường
thành có nhiệm vụ canh chừng tai họa sắp xảy đến mà cảnh giác dân thành kịp
thời. Vì thế, vai trò của ngôn sứ không chỉ truyền đạt sứ điệp mà còn cảnh báo,
đe dọa để kêu gọi dân chúng hối cải ngỏ hầu tránh những án phạt.
Xa hơn một chút, chính Ê-dê-ki-en gợi lên
sứ vụ ngôn sứ của ông thật giản dị: “Phần ngươi hỡi con người, con cái dân
ngươi bàn tán về ngươi dọc theo các bức tường và trước các cửa nhà. Chúng bảo
nhau, người nọ nói với người kia: ‘Nào chúng ta đến nghe xem Đức Chúa phán thế
nào!’. Chúng đến với ngươi đông như trẩy hội. Dân Ta ngồi trước mặt ngươi;
chúng nghe các lời ngươi nói…” (Ed 33, 30-32). Chính trong những cuộc chuyện
trò thân quen và gần gũi như vậy mà vị ngôn sứ mới có thể ngỏ lời với từng
người một những lời cảnh báo trong tình huynh đệ.
3. Bổn phận đối với
anh em mình:
Đối với dân Israel, chết không gì khác hơn
là đánh mất ân huệ của Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi thiện hảo. Cựu Ước thường
trình bày những huấn lệnh của Thiên Chúa trong viễn cảnh của một sự chọn lựa
giữa sự sống và sự chết, hạnh phúc và bất hạnh, lời chúc phúc và lời nguyền rủa
(x. Đnl 30, 15-20; Hc 15, 15-16).
Ê-dê-ki-en là vị ngôn sứ đầu tiên nhấn
mạnh sự thưởng phạt cá nhân: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con không mang lấy
tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con” (Ed 18, 20). Số phận của mỗi
người không phải luôn luôn bất di bất dịch như đinh đóng cột: người công chính
có thể trở thành tội nhân; kẻ tội lỗi cũng có thể hoán cải trở thành người công
chính.
Từ đó, ông nhấn mạnh trách nhiệm của người
biết huấn lệnh của Thiên Chúa và luật luân lý của Ngài, người ấy có bổn phận
phải giúp anh em mình biết biện phân tỏ tường, nếu không, đừng nghĩ là mình vô
can trước sự hư mất của anh em mình: “Nếu Ta bảo đứa gian ác: “Tên gian ác kia,
nhất định mi phải chết”, mà ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường
gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của
nó, Ta sẽ đòi ngươi”. Sứ vụ của vị ngôn sứ cốt yếu ở nơi hành động nầy mà Đức
Giêsu sẽ đích thân căn dặn các môn đệ của mình.
BÀI ĐỌC II (Rm 13, 8-10)
Chúng ta tiếp tục đọc phần luân l#ý của
thư gởi tín hữu Rôma. Thánh Phaolô vừa mới nêu lên những bổn phận công dân mà
người Kitô hữu phải phục tùng: vâng lời chính quyền dân sự, nộp thuế. Dù phải
chu toàn tất cả những nghĩa vụ công dân nầy, chúng ta vẫn phải là những kẻ mắc
nợ đối với anh em đồng loại: món nợ tương thân tương ái không bao giờ hoàn tất
được.
1. Yêu người theo Cựu
Ước:
“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ
tương thân tương ái; vì yêu mến người, thì chu toàn lề luật”. Thập giới mời gọi
phải tôn trọng nhân phẩm của tha nhân và của cải của họ như tội ngoại tình, tội
sát nhân, tội trộm cắp…, nhưng không hàm chứa một cách minh nhiên bổn phận yêu
người. Yêu người được sách Lê-vi 19, 18 công bố và được thánh Phaolô trích dẫn:
“Ngươi phải yêu anh em đồng loại như chính mình”.
2. Yêu người theo Tân
Ước:
Theo Cựu Ước, “anh em đồng loại” trước hết
là những người cùng chung một dân tộc, đồng bào. Đức Giêsu đã mở rộng huấn lệnh
yêu người đến tất cả mọi thành viên cộng đồng nhân loại, không có bất kỳ ngoại
trừ nào, thậm chí phải yêu thương kẻ thù nữa. Thánh Phaolô nêu lên không chỉ
luật Mô-sê, nhưng cũng luật Đức Ái Kitô giáo nữa. Thánh nhân không đề cập đến
huấn lệnh thứ nhất: “mến Chúa”, vì lời khuyên bảo của thánh nhân nhắm đến đức
ái huynh đệ. Vì thế, huấn lệnh yêu người bất khả phân ly với huấn lệnh mến
Chúa, từ mến Chúa mà yêu người được khơi nguồn. Nếu yêu người vô giới hạn,
chính là theo gương của Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người khôn cùng. Ở đây,
bằng thể thức đóng khung, vị sứ đồ nhấn mạnh yêu người là “chu toàn lề luật” (13,
8 và 9).
TIN MỪNG (Mt 18, 15-20)
Trong chương 18 nầy, thánh Mátthêu tập hợp
những huấn lệnh mà Đức Giêsu đã ngỏ lời với Nhóm Mười Hai, cộng đồng đầu tiên
của Giáo Hội Ngài, về đời sống huynh đệ trong lòng Giáo Hội. Chương 18 này có
thể chia thành hai phần: phần thứ nhất (18, 1-14) bắt đầu với “những kẻ bé mọn”
và kết thúc với dụ ngôn “con chiên lạc”; phần thứ hai (18, 15-35) bắt đầu với
việc “sửa lỗi cho anh em” và kết thúc với dụ ngôn “tên mắc nợ không biết xót
thương”. Đoạn Tin Mừng hôm nay thuộc phần thứ hai, ở đó Chúa Giêsu chỉ cho các
môn đệ cách thức sửa lỗi cho nhau trong đức ái.
1. Sửa lỗi anh em:
Việc Đức Giêsu mời gọi các môn đệ sửa lỗi
cho nhau đã được Luật Mô-sê đề cập đến như được ghi trong sách Lê-vi: “Ngươi
không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng
bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó” (Lv 19, 17). Câu trích dẫn nầy đặt
liền sau huấn lệnh: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Như
vậy, sửa lỗi cho anh em thuộc về luật đức ái.
Theo truyền thống Do thái giáo, người ta
không được truy tố kẻ phạm tội mà không cảnh báo trước trong chốn riêng tư. Vào
thời Chúa Giêsu, các kinh sư phàn nàn là người ta không thực hiện tập tục tốt
đẹp nầy. Đức Giêsu phục hồi tập tục nầy trong tinh thần yêu thương. Ngài đề
nghị ba giai đoạn trong việc sửa lỗi huynh đệ.
- Sửa lỗi anh em trong cuộc gặp gỡ riêng
tư chỉ giữa hai người, không ai khác hay biết.
- Nếu lần đầu tiên không có kết quả, tiếp
tục lần thứ hai với sự hiện của một hay hai người khôn ngoan để kẻ sai lạc thấu
tình đạt lý. Biện pháp nầy tránh cho tội nhân khỏi bị sỉ nhục ở nơi cộng đoàn.
- Nếu lần nầy cũng thất bại, lúc đó mới
thưa với cộng đoàn. Nếu người anh em nầy không chịu nghe cộng đoàn, chỉ lúc đó
người nầy mới có thể bị khai trừ hay bị kể như một người dân ngoại hay một
người thu thuế, tức là một người ngoan cố, không có tinh thần phục thiện, mà
người ta tránh giao tiếp.
Với những lời khuyên sửa lỗi cho nhau theo
ba giai đoạn như trên, chắc chắn Chúa Giêsu muốn dự phòng các môn đệ của Ngài –
sau họ, các cộng đoàn Kitô hữu – tránh tất cả mọi hình thức khai trừ một thành
viên quá tàn nhẫn. Nhưng Ngài còn muốn hơn nữa rằng chúng ta noi gương vị mục
tử nhân lành ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Chắc chắn không phải là ngẫu nhiên
khi những lời khuyên nầy theo liền ngay dụ ngôn “con chiên lạc”. Giáo Hội phải
bày tỏ sự ân cần như thế đối với người lỗi phạm.
2. Viễn cảnh Giáo Hội:
Đức Giêsu định vị bổn phận sửa lỗi anh em
và những biện pháp kỷ luật mà cộng đoàn Kitô hữu áp dụng trong khung cảnh thiết
lập Giáo Hội Ngài. Chính như vậy mà Ngài mở rộng năng quyền, mà trước đây Ngài
đã trao phó cho thánh Phê-rô, bây giờ cho Tông Đồ Đoàn: “Tất cả những gì dưới
đất anh em cầm buộc, trên trời cũng cầm buộc như vậy; tất cả những gì dưới đất
anh em tháo cởi, trên trời cũng tháo cởi”. Và Ngài sẽ tái khẳng định năng quyền
nầy cho họ sau khi Ngài phục sinh (Ga 20, 23).
Đức Giêsu thêm vào ở đây một lời hứa khác:
Ngài sẽ luôn luôn hiện diện ở giữa các tín hữu của Ngài khi họ họp nhau lại mà
cầu nguyện, dù chỉ hai hay ba người đi nữa. Cha Ngài, Đấng ngự trên trời sẽ
lắng nghe và đáp trả lời cầu xin của họ, bởi vì Đấng cầu bầu cho họ không ai
khác ngoài “Đức Giêsu đích thân ở giữa họ”. Khi đặt tính hiệu lực của lời cầu
nguyện như thế vào trong văn mạch sửa lỗi cho anh em, chắc chắn Chúa Giêsu nhắm
đến không chỉ việc tiến hành sửa lỗi cho anh em theo ba giai đoạn, nhưng còn
phải cầu nguyện cho anh em lỗi phạm nữa, ngõ hầu nhờ ơn Chúa mà anh em nhận ra
và sửa lỗi để cộng đoàn không phải mất bất cứ người anh em nào. Tấm lòng của vị
mục tử nhân lành là không muốn bất cứ con chiên nào phải hư mất.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Trong Giáo hội ngay từ thuở ban đầu, đã có
những người sai lỗi.
Nếu đó chỉ là những sai lỗi nhỏ giữa các
cá nhân trong cộng đoàn
thì cần tha thứ cho nhau (Lc 17, 3-4).
Nhưng nếu đó là những sai lỗi nghiêm trọng
đụng chạm đến cộng đoàn,
vô tình hay cố ý sống ngược với giáo huấn
căn bản của Đức Giêsu,
thì cộng đoàn không thể nhắm mắt làm ngơ
mà không sửa sai cho người anh em phạm
lỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh cách sửa lỗi
trong cộng đoàn thánh Mátthêu.
Người phạm lỗi nặng ở đây vẫn được gọi là
người anh em (c. 15).
Tiến trình sửa sai huynh đệ này diễn ra từ
từ, từng bước một.
Bước này thất bại mới chuyển qua bước kế
tiếp.
Bước một là cuộc gặp gỡ kín đáo giữa người
sửa lỗi và người phạm lỗi.
Mục đích là để giúp người phạm lỗi biết
lắng nghe lời góp ý chân tình,
nhận ra lỗi của mình và thay đổi cuộc sống
cho phù hợp.
Bước hai diễn ra khi bước một thất bại, khi
người phạm lỗi không chịu nghe.
Người sửa lỗi sẽ đem theo hai, ba người
nữa để tăng sức thuyết phục.
Nếu người phạm lỗi vẫn khăng khăng không
nghe,
thì bước kế tiếp là phải đưa chuyện này ra
trước Giáo hội địa phương (c. 17).
Bước cuối cùng chỉ xảy ra khi người anh em
ấy vẫn ngoan cố,
không muốn nghe tiếng nói của cộng đoàn
Giáo hội,
nghĩa là tự đặt mình ra ngoài sự hiệp
thông với cộng đoàn tín hữu,
thì Giáo hội đành lòng không nhận anh ấy
như phần tử của Giáo hội nữa.
Có thể ngày nay Giáo hội có những cách sửa
lỗi khác,
nhưng những nét dưới đây vẫn giữ nguyên
giá trị:
coi người phạm lỗi như anh em và không
muốn mất người ấy,
kiên trì đối thoại, cố gắng để người anh
em ấy nghe ra và nhận lỗi,
kín đáo giữ thanh danh cho người ấy, đi
từng bước trước khi quyết định.
Ngay cả khi Giáo hội đã đưa ra quyết định
cuối cùng,
thì việc trở lại với cộng đoàn vẫn luôn mở
ngỏ, nếu người ấy muốn làm hòa.
Đức Giêsu phục sinh đã cho Giáo hội dưới
quyền thánh Phêrô
được quyền tháo cởi và ràng buộc (Mt 16,
19b; Ga 20, 23)
khi phải đưa ra các quyết định về những
phần tử của mình (c. 18).
Sự hiện diện của những nhóm nhỏ trong cộng
đoàn là điều có từ xưa.
Tuy nhóm chỉ có hai người, nhưng nếu họ
đồng lòng xin một ơn nào đó,
thì Cha trên trời sẽ ban cho (c. 19).
Có nhóm hai hay ba người hội họp với nhau
nhân danh Đức Giêsu,
thì Ngài có mặt ở trong cuộc gặp gỡ đó, và
Ngài ở giữa họ (c. 20).
Đức Giêsu là Đấng Emmanuen, là Thiên Chúa
ở cùng chúng ta (Mt 1, 23).
Đức Giêsu phục sinh cũng hứa ở với các môn
đệ cho đến tận thế (Mt 28, 20).
Chính vì thế Ngài hiện diện một cách kín
đáo, thầm lặng
Thiên Chúa đã đi với dân Ngài trong hoang
địa.
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn đồng hành với chúng
ta khi ta để cho Ngài quy tụ.
Ngài vẫn hiện diện ở nơi nhóm bạn có chung
một niềm tin và tình yêu.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Cuộc đời chúng con
Diễn ra quanh những chiếc bàn,
Làm bằng những chất liệu khác nhau,
Kiểu dáng khác nhau, đặt ở những chỗ khác
nhau.
Nơi bàn học,
Ngài mở trí tuệ chúng con
Trước những chân trời mới,
Và dạy chúng con học đạo làm người.
Nơi bàn ăn,
Ngài nuôi dưỡng thân xác chúng con
Để chúng con có sức phục vụ tha nhân
Nơi bàn làm việc,
Ngài cho chúng con được cộng tác với Ngài
Trong việc xây dựng thế giới đại đồng
huynh đệ.
Nơi bàn thờ,
Ngài cho chúng con được hiệp thông với
Ngài,
Và hiệp nhất với nhau qua một tấm bánh
thánh.
Lạy Chúa
Giờ đây chúng con ngồi quanh chiếc bàn
này,
Để gặp gỡ, chia sẽ, để bàn bạc, thảo luận,
Để cùng nhau tìm ý Chúa và đem ra thực
hành.
Xin thánh hóa những chiếc bàn chúng con sử
dụng
Để tất cả trở nên con đường
Đưa chúng con đến hưởng bàn tiệc thiên
quốc. Amen.
Truyện kể: Một du khách đang rảo qua khu
danh lam thắng cảnh ở Thụy Sĩ, ông dừng lại trước hàng rào của một khu vườn hoa
đẹp đẽ bao quanh một lâu đài. Người làm vườn mừng rỡ và đón chào. Họ nói chuyện
với nhau về các loài hoa. Ông du khách hỏi: Cụ ở đây bao lâu rồi? Thưa, được 24
năm. Cụ đã gặp chủ nhân được mấy lần rồi? Tôi đã gặp 4 lần và lần cuối cách đây
ba năm. Vậy ông ta có thường liên lạc với cụ không? Thưa không. Vậy ai trả
lương cho cụ? Viên quản gia của ông chủ. Người quản gia có năng tới đây không?
Tôi chưa hề gặp ông ta, chúng tôi liên lạc bằng thơ từ thôi. Thế thì ai thưởng
lãm cảnh đẹp này, mà cụ phải mất công chăm sóc kỹ lưỡng như vậy? Ô, thưa ông,
tôi chu toàn trách nhiệm của mình và tôi làm như chủ tôi sẽ đến ngày hôm nay,
ngay bây giờ. Ngoài ra chính khi làm đẹp khu vườn của ông chủ, vợ chồng tôi
cũng được vui hưởng cảnh đẹp.
Ông Adong và bà Evà có hai con trai đầu,
Cain và Abel. Vào một ngày kia, Thiên Chúa đã hỏi Cain: Abel, em ngươi đâu rồi?
Cain thưa: Con không biết, con là người giữ em con sao? (Stk 4, 9). Vì ghen
tương, Cain đã giết em mình, nhưng Cain đã chối từ trách nhiệm. Thiên Chúa thấu
tỏ mọi sự trong lòng. Cain và Abel là anh em ruột, đương nhiên anh em là có
trách nhiệm nâng đỡ bao bọc lấy nhau. Bất cứ việc gì xảy ra trong cuộc sống cá
nhân, gia đình và xã hội, phải có người chịu trách nhiệm. Người ta thường nói
rằng: Tội qui vu trưởng. Thường là người đứng đầu một tổ chức sẽ chịu trách
nhiệm trước. Chúng ta không thể đổ thừa quanh. Nhân loại là một loài thụ tạo
cao quý có trí khôn, ý chí và tự do. Trách nhiệm của con người liên đới được mở
rộng qua các tổ chức xã hội để giúp nhau thăng tiến.
Khi dân số tăng trưởng, con người đã tổ
chức cơ cấu đời sống gia đình và xã hội. Gia đình là đơn vị nhỏ nhất để xây
dựng một cộng đoàn xã hội. Chúng ta biết mỗi một cá nhân đều có căn tính riêng
biệt. Trong gia đình xã hội có nhiều thành viên khác nhau hợp lại, bao gồm có
người khôn kẻ dại, người tốt kẻ xấu, người rộng kẻ hẹp và người mạnh kẻ yếu.
Mọi người cần tựa dựa vào nhau để sinh sống. Mỗi thành viên đều có trách nhiệm
liên đới để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Tiên tri Ezekiel đã rao giảng về sự
giúp nhau sửa đổi: Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu
nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng
ngươi cứu được mạng sống ngươi (Ez 33, 9). Chúng ta không thể nhắm mắt, bịt tai
và làm ngơ trước những sự dữ hay sự xấu nơi những người anh chị em. Chúng ta có
bổn phận nâng đỡ nhau nhận ra những sự sai trái và giúp nhau sửa đổi, đây là
một món nợ của tình người.
Vì mang bản tính yếu đuối, hằng ngày mỗi
người chúng ta đều phạm lỗi, kẻ ít người nhiều. Có những lỗi nhẹ, dễ dàng xí
xóa bỏ qua. Nhưng đôi khi có những thói hư tật xấu đã trở thành thói quen thì
cần được chỉ giáo và khuyên răn. Chúng ta biết sự xấu được ngụy trang dưới
nhiều cách thế, chúng ta khó có thể lật tẩy để nhận diện ngay. Đôi khi những
tật xấu núp dưới bóng của những cử chỉ và lời nói ngon ngọt, êm dịu và nhẹ
nhàng. Có những phát biểu tưởng là góp ý tốt lành, nhưng ẩn ý là phê bình, chỉ
trích, gièm pha, ăn không nói có… Tất cả cái xấu cũng do cái lưỡi không xương
lắt léo nhiều đường. Lời nói như chiếc dao hai lưỡi rất nguy hiểm. Lời nói có
thể xây dựng đoàn kết và cũng có thể gây hệ qủa xấu như chia rẽ, thù oán và hại
người hại ta. Nếu không xét mình một cách thành thật, chúng ta rất khó nhận ra
những lỗi lầm này.
Là anh chị em sinh hoạt chung trong một
nhóm, hội đoàn hay cộng đoàn, chúng ta có trách nhiệm nhắc bảo và giúp đỡ nhau
sửa sai. Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta sống tình tương thân tương ái giúp
nhau nhận lỗi và sửa lỗi: Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng
ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em (Mt 18,
15). Biết rằng sửa lỗi anh chị em không phải dễ, vì chúng ta ai cũng phạm lỗi.
Chúng ta biết người phạm lỗi là những người yếu đuối. Ít có ai muốn nghe những
điều tiêu cực về chính mình. Vì chúng ta dễ tự ái, nên rất khó chấp nhận sự sửa
sai của người khác. Thường thì việc người thì sáng, việc nhà thì đui. Chúa
Giêsu mách nước cho chúng ta về sự sửa lỗi, trước hết hãy sửa dạy cách kín đáo
và riêng tư. Chúng ta phải hết sức tế nhị gợi ý để người khác nhận ra lỗi của
họ. Khi nói đến vết thương lòng thì rất dễ nhạy cảm. Những phản ứng tự nhiên
của kẻ mắc lỗi thường thì gay gắt khó chịu. Nhưng với lòng từ bi và sự kiên
nhẫn, chúng ta có thể thuyết phục người anh chị em chịu nhận sai lầm và trách
nhiệm của việc sai trái.
Vì con người có ý chí tự do, nên mỗi người
phải chịu trách nhiệm về việc mình đã làm trong cả tư tưởng, lời nói, chữ viết
và hành động. Nơi cuộc sống chung, có những trách nhiệm cụ thể cá nhân và có
những trách nhiệm liên đới tập thể. Trong đời sống gia đình, người cha, người
mẹ và con cái có những bổn phận và trách nhiệm riêng biệt. Nơi cuộc sống xã
hội, mỗi tổ chức đều có người chịu trách nhiệm trong lãnh vực của mình. Mỗi
thành viên đều có bổn phận góp phần xây dựng cuộc sống chung tốt đẹp. Có phước
cùng hưởng, có nạn cùng chịu. Người dám nhận lãnh trách nhiệm là người trưởng
thành. Làm sai thì nhận lỗi sai. Công việc thành công hay thất bại là lẽ thường
của đời sống. Khi chối tội, chạy tội, dấu tội hay đổ thừa lỗi lầm cho người
khác là thiếu trách nhiệm. Sai thì sửa. Có lỗi thì xin lỗi. Làm tội thì chịu
tội. Đối diện với sự xấu, sự dữ và sự thất bại, đôi khi chúng ta cảm thấy ngại
ngùng, xấu hổ và chối từ, nhưng chỉ có sự thật sẽ giúp chúng ta tìm lại được sự
bình an đích thực.
Chúng ta đang trên đường lữ thứ trần gian.
Mỗi ngày chúng ta sống là một ngày hồng ân. Chúng ta không biết chắc chắn về
tương lai. Mọi sự cố đều có thể xảy ra. Anh chị em đừng để mắc nợ nhau sự gì.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Rôma đã khuyên: Anh em thân mến, anh em
chớ mắc nợ ai, ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn
lề luật (Rm 13, 8). Sống giây phút hiện tại cho tròn đủ. Đức ái là yêu thương,
tha thứ, nhường nhịn và quảng đại. Chúa Giêsu tóm kết các giới răn vào hai
điều: Mến Chúa và yêu người. Yêu thương nhau là tôn trọng nhau. Yêu thì không
gây sầu, oán giận, gây thiệt hại hay thù ghét làm khổ người khác. Yêu thương
nhau là muốn điều tốt cho nhau và cùng nhau tiến bước trên con đường hoàn
thiện: Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề
luật (Rm 13, 10).
Nếu không có ơn Chúa phù trợ, chúng con
không thể làm gì được. Cầu nguyện là hơi thở trong đời sống đạo. Chúa Giêsu đã
dạy chúng ta tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện. Nhưng đẹp ý Chúa hơn, nếu nơi
nào có hai ba người đồng lòng hợp ý cầu nguyện, thì ơn Chúa sẽ tuôn đổ dồi dào
hơn: Thầy bảo thật các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp
lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ
điều đó (Mt 18, 19). Hai người cùng cầu nguyện nói lên sự hỗ tương, yêu thương,
hòa thuận và chung lòng chung ý. Một hình ảnh rất thuyết phục, các dòng tu
thường sai từng hai tu sĩ ra đi rao giảng và phục vụ, giống khi xưa, Chúa đã
sai từng hai môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng.
Lạy Chúa, chúng con là những Kitô hữu,
mang danh của Chúa Kitô, xin cho chúng con biết yêu thương nhau và giúp nhau
thăng tiến trên con đường trọn lành.
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Yêu thương không làm
hại đồng loại” (Rm 13,10)
Yêu thương tha nhân nghĩa là gì? Thánh
Phaolô cắt nghĩa: “Yêu thương là không làm hại đồng loại” và “Yêu thương là chu
toàn lề luật”. Làm thế nào để cả 2 khía cạnh này tương tác với nhau, hình thành
một phương cách thực hiện đức ái Kitô giáo cách cụ thể. Một bên xem ra có vẻ
tiêu cực: không làm điều ác, và một bên lại rất tích cực: chu toàn lề luật. Khi
nào và thế nào, chúng ta có thể nhận ra rằng chúng ta đang thực hiện những giáo
huấn đó?
Không làm điều ác là một đòi hỏi xem ra có
vẻ tiên quyết. Nó mời gọi chúng ta suy xét về thái độ sống của chúng ta mang âm
hưởng đến cận nhận làm sao? Nó cũng tra vấn xem chúng ta đã hiện lộ lòng mến
trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó như thế nào. Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta thực
hiện một trong những cách thái để diễn bày tình yêu đối với tha nhân là kêu mời
họ quay trở về, khi họ lỗi phạm, hầu giúp họ thoát khỏi con đường tội lỗi. Có
lẽ không có con đường nào gian nan cho bằng việc sửa lỗi cho cận nhân. Cận nhân
đó có thể là một người bạn, một người thân trong gia đình. Cho dù chúng ta thực
hiện việc này với lòng thương cảm đích thực, thì đó vẫn là hành vi thực hiện
đức mến cao cả nhất.
Khi bạn bè hoặc gia đình báo cho ta biết
có ai lỗi phạm điều gì đó, thường chúng ta tức giận ngay lập tức và chẳng quan
tâm đến, ít nhất là lúc ban đầu, để lắng nghe xem họ phạm lỗi như thế nào.
Nhưng Đức Giêsu khuyến mời chúng ta phải thực hành, bởi vì sửa lỗi cho nhau là
hành vi thể hiện tình yêu thương. “ Nếu một người nào đó trong Hội Thánh phạm
tội chống lại anh”, Ngài nói “ Anh hãy đi và chỉ cho người đó biết lầm lỗi của
họ, khi chỉ có anh và người đó mà thôi”. Tuy nhiên Đức Giêsu cũng tiên liệu
nguy cơ là người đó không chấp nhận. “Nếu người đó không nghe anh , hãy mời
thêm một hoặc hai người khác cùng đi với anh để anh có thêm nhân chứng hỗ trợ”.
Cách thái này cũng rất khó khăn vì nó sẽ chạm vào tự ái và khơi dậy nỗi đau do
chính tội lỗi họ đã gây ra.
Phương cách này quả rất gian nan vì nhiều
lý do khác nhau. Có khá nhiều trường hợp một người bị anh chị em của mình kết
án chỉ dựa trên tiếng đồn hay dư luận, và điều này dễ làm gãy đổ mối tương
liên, làm rạn nứt sự thông hiệp trong Giáo hội. Phần đa chúng ta không biết đầy
đủ và chính xác về cuộc sống của người anh em chúng ta. Yêu thương tha nhân một
cách trọn vẹn để có thể sửa chữa lỗi lầm cho nhau, đòi hỏi chúng ta phải sống
với nhau thân tình một cách thật sự. Khởi đầu của lòng mến là không làm điều gì
đó hại đến anh em mình. Vì thế, chính chúng ta phải tìm hiểu kỹ càng về tha
nhân và phải dành nhiều thời gian để xây dựng mối tương giao huynh đệ cách sâu
xa.
Chúng ta sẽ bắt đầu hiểu biết về người anh
em khi chúng ta đối xử với họ trong mối tương giao thân hữu thực sự. Điều này
đặt căn bản trên tình yêu, theo sự chỉ dạy qua giáo huấn của Hội Thánh và các
giới răn. Thánh Phaolô nói rằng “Đây là điều chúng ta mắc nợ nhau”, mắc nợ lòng
yêu thương. Quả thật, Thánh Phaolô đã xác quyết, ai yêu mến anh em mình người
đó chu toàn lề luật. Ngài có ý nói rằng, tất cả lề luật “ chớ ngoại tình, chớ
giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian…” và những giới răn khác, được tóm
kết trong một điều duy nhất “Hãy yêu thương cận nhân như chính mình”.
Nhưng ý niệm “tóm kết” ở đây được dịch bởi
hạn từ “plêrioô” cũng có thể dịch là “chu toàn”. Theo Thánh Phaolô, chu toàn lề
luật không có nghĩa là tổng tóm các lề luật lại. Ngài còn diễn tả sâu xa hơn,
là tất cả những ai “chu toàn lề luật”, họ liên kết với Đức Kitô xuyên qua đời
sống của họ, được biểu thị bằng đức tin, được diễn tả trong đức ái, và được
Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Lề luật không phải được giản lược trong một phạm trù
duy nhất, như từ ngữ “tóm gọn” diễn tả, nhưng việc chu toàn lề luật chính là
biết dàn trải tình yêu đến mọi ngõ ngách của cuộc sống, để lòng mến đối với tha
nhân điều hướng cuộc sống chúng ta, ngay cả tại những nơi mà lề luật không nói tới
một cách cụ thể.
Chúng ta cũng nên ghi nhận rằng, điều mà
Thánh Phaolô nói ở đây và cả trong thơ Gal 5,14, khi đề cập tới việc tóm gọn lề
luật mà sách Lêvi 14,18 nói tới , chính là “hãy yêu đồng loại như chính mình”.
Song Ngài cũng gợi nhắc đến câu nói của Chúa Giêsu ở một chỗ khác “với hạn từ
Shenma”. Sách Đệ nhị luật 6,4-5 có viết: Đức Chúa, Chúa chúng ta là Đức Chúa
duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ hết sức
anh em. “Shenma” nói lên niềm tin của người Do Thái, quy tập vào tình yêu của
một đấng, là chính Thiên Chúa.
Tại sao? Thánh Phaolô đã trải nghiệm sự
hiện diện của tình yêu Thiên Chúa, nhưng Ngài còn có môt mục đích sâu xa hơn.
Trong khi chúng ta dễ dàng nói “yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng,
hết linh hồn, hết sức lực ngươi” ( Đệ Nhị Luật 6,5), chúng ta rất dễ lẫn lộn và
bối rối khi muốn thực hiện lòng mến đối với tha nhân cũng theo dạng thức này.
Thánh Phaolô hiểu điều đó, nên Ngài đã xác quyết cách thế để chu toàn lề luật
là đừng làm hại người khác. Đó cũng là phương cách để chúng ta diễn bày tình
yêu cụ thể của Thiên Chúa, một tình yêu mà chúng ta có thể sờ chạm đến được.
Chúa Giêsu đã muốn thiết lập Giáo hội của
Ngài như một cộng đồng Tình yêu, trong đó luật bác ái thương yêu là một giới
răn mới, một dấu chỉ để biết ai là môn đệ của Chúa.
Nhưng Chúa cũng biết rằng đâu đâu cũng có
những yếu đuối con người, đâu đâu cũng có những vấn đề giữa con người. Trong
cộng đoàn bé nhỏ 12 môn đệ sống với Ngài, Chúa đã nghiệm thấy như vậy.
Giáo hội là một cộng đồng anh em, nhưng là
một cộng đồng gồm người tội lỗi bên cạnh người lành.
Chúa phán: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy
đi sửa dạy nó”. Nhưng sửa dạy làm sao? Theo tinh thần Phúc Âm, việc sửa lỗi anh
em là một việc rất tế nhị và gồm 3 công tác sau đây:
- “Hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó
thôi. Nếu không kết quả thì hãy nhờ đến hai ba người làm nhân chứng. Và sau
cùng mới trình với cộng đoàn”. Đây là một thủ tục tình thương và bác ái dạy làm
hết mọi sự để giữ một người anh em đang muốn xa lìa cộng đoàn. Vì thế, việc sửa
lỗi anh em là một việc tế nhị, đòi hỏi vừa sự can đảm vừa sự thanh nhã, đồng
thời phải có sự khiêm nhường và thông cảm với anh em. Đừng khơi thêm hố chia
rẽ, nhưng hãy cầu nguyện để thành công, để đưa người anh em về đường công
chính.
Chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, chung
sống trong tu viện với một chị bạn tên là Marthe. Chị này có một tật xấu là quá
quyến luyến Bà Mẹ bề trên. Têrêxa, sau nhiều tháng chờ đợi và cầu nguyện, chị
quyết định nói. Trước khi nói, chị đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con nhìn
thấy đúng sự thật”, Chị đã nói với người bạn “với tất cả tâm hồn và với tất cả
kinh nghiệm đã có”. Chị Marthe như được giải tỏa tâm hồn và cũng nhìn nhận rằng
“Vị chăn chiên đừng nghe theo những lời dua nịnh dối trá, vì không có gì tai
hại cho bằng những lời ca tụng đầy nọc độc”.
- Giáo hội theo lối quảng diễn của Matthêô
còn là một cộng đồng tha thứ và liên đới, trong đó mỗi người có trách nhiệm về
đức tin của anh em mình. Nếu sau nhiều cố gắng để đưa người anh em lầm lỗi trở
về mà không có kết quả thì hãy trông cậy vào tình thương xót của Đấng chăn
chiên tối thượng.
Cái quyền “tuyệt thông” đối với một người
anh em làm cho ta nhớ lại một lời khác của Chúa về quyền năng của Giáo hội: “Sự
gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc và sự gì các con tháo gỡ
dưới đất trên trời cũng tháo gỡ”. Quyền năng tha thứ đó, Chúa đã hứa cho Phêrô
thì nay Chúa cũng ban cho các môn đệ. Đó là tập đoàn 12 Tông đồ Chúa đã tuyển
chọn và sai đi, trong đó Phêrô giữ một vai trò trọng yếu. Chúa trao cho họ sứ
mạng hòa giải và cứu rỗi. Như vậy dần dần Chúa đã thiết lập các cơ cấu của Giáo
hội.
- Sau cùng, Giáo hội là một cộng đồng cầu
nguyện. Nếu tội lỗi làm chia rẽ thì sự cầu nguyện nối kết và hiệp nhất chúng ta
lại với nhau. Vì thế, cả những lúc có sự bất bình không đồng ý kiến, nếu có
“hai hay ba người tụ họp với nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người
ấy”. Chúa ở đó như gạch nối niềm tin. Tám ngày sau phục sinh, một bầu khí chia
rẽ cũng bao trùm các môn đệ. Tôma nằng nặc không muốn tin rằng Thầy đã sống
lai. Chúa xuất hiện, sự hiện diện của Chúa đánh tan mối nghi ngờ, chia rẽ, đem
lại sự hiệp nhất.
Khi viết đoạn Phúc Âm này, hẳn là Matthêô
muốn nhắc nhở cho Giáo hội, đã lan rộng ra ngoài biên cương Do thái, đến Cận
đông, đến cả Lamã rằng Chúa là sự hiệp nhất. Muốn có sự hiệp nhất, muốn tránh
sự chia rẽ vì mầu sắc chủng tộc, văn hóa, thì Giáo hội phải cầu nguyện, phải
tập họp “nhân danh Thầy” vì có Thầy ở giữa. “Thầy là trung tâm hội tụ mọi động
lực” (Kinh của Teilhard de Chardin).
Lạy Chúa, xin dạy con biết khiêm tốn hòa
nhã khi phải sửa lỗi anh em, xin dạy con biết cầu nguyện khi phải đương đầu với
chia rẽ hiểu lầm, vì chỉ có Chúa là rường mối sự Hiệp nhất.
14. Tinh
thần bác ái trong việc sửa lỗi
Lời Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài,
dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng
trong đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc sửa lỗi nhau nhằm
mục đích tốt cho nhau. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc
Âm theo thánh Mátthêu.
Sống dưới bầu trời này mọi người đều là
anh em của nhau: "tứ hải giai huynh đệ". Giáo Hội là một cộng đoàn
huynh đệ, trong đó mọi người là anh em với nhau vì đã được làm con cùng một Cha
trên trời trong Đức Giêsu Kitô. Vì thế, mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm nâng đỡ
nhau, sửa lỗi nhau để sống xứng đáng là con cái của Chúa trong đại gia dình của
Ngài.
"Nếu người anh em của anh trót phạm
tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó".
Chúa Giêsu nhắc chúng ta trách nhiệm đó.
Vấn đề ở đây không có ý nói về việc tôi can thiệp vào đời tư của người khác,
nhưng chúng ta phải ý thức hơn đó chính là trách nhiệm phải giúp đỡ người anh
em mình, giúp cho tha nhân sống tốt hơn, vì ích lợi cho chính người anh em đó,
vì ích chung của Giáo Hội.
Tuy nhiên, việc sửa lỗi tha nhân, giúp đỡ
anh em sửa đổi con người mình là một công việc tế nhị, khó khăn, không mấy dễ
dàng. Nó đòi hỏi chúng phải hy sinh và kiên nhẫn. Khi sửa lỗi tức là tôi đang
can thiệp, đang đụng chạm trên sự tự do và nhân vị của mỗi con người. Chính vì
lẽ đó mà Chúa Giêsu đề ra ba giai đoạn: đầu tiên, cá nhân đối diện cá nhân.
Kế đến, nếu người phạm lỗi không chịu nghe
những lời góp ý để sửa lỗi lầm, thì chúng ta sẽ đem theo một hoặc hai người nữa
cho việc góp ý. Việc này sẽ thấu tình đạt lý và có sức hoán cải hơn.
Cuối cùng, nếu người mắc lỗi ngoan cố thì
sự việc sẽ được đưa ra trước cộng đoàn, tức là một thứ Giáo Hội địa phương và
nếu người mắc lỗi cũng không chịu nghe cộng đoàn, lúc đó người ta mới kể nó như
người ngoài cộng đoàn, như người ngoại giáo. Đây quả là một biện pháp khôn
ngoan và hữu ích. Nó làm cho người có trách nhiệm sửa lỗi luôn luôn giữ được
bình tĩnh, nhẫn nại, đồng thời thể hiện tấm lòng từ bi và thái độ tôn trọng
nhân vị, tự do của người phạm lỗi. Mặt khác, biện pháp đó còn giúp cho người có
lỗi có dịp hồi tâm, có cơ hội phản tỉnh để nhận ra sự thiếu sót, lỗi lầm của
mình. Khi đó, không một tội nhân nào còn có lý do gì khác để quy trách nhiệm về
tội mình, về cách xử lý mình cho anh em, sau khi đã đối diện với anh em qua ba
giai đoạn ấy.
Tóm lại, tất cả đều phải nhắm đến sự sống
của cộng đoàn, của tình nghĩa huynh đệ. Phải thi hành bác ái với tình yêu anh
em. Chúng ta giúp cho cá nhân và xã hội được tốt lành và hoàn thiện khi chủ ý
đóng góp đúng vai trò người giữ gìn, bảo vệ nơi nào chân lý và điều thiện có
thể bị tấn công, bị phá huỷ đồng thời có thể đẩy lui những điều xấu làm tổn
thương, sứt mẻ mối tương quan của con người với chính mình, với cộng đoàn và
với quyền bính hợp pháp.
Chúa Giêsu đang sống và ở giữa chúng ta.
Ngài soi sáng cho chúng ta biết sự thật về chính mình và tình liên đới với
nhau, để chúng ta trả cho nhau món nợ duy nhất, đó là món nợ tình yêu thương
nhau, món nợ phải ý thức đáp trả cho được.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết
tha thứ, biết giúp cho nhau được thăng tiến hơn, được sửa chữa những lỗi lầm
của mình, được hoàn thiện trong tình yêu của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật XXIII, chủ để nổi bật
hơn cả là "bác ái huynh đệ trong cộng đoàn tín hữu".
Sống trong Giáo hội
Chúa Kitô
"Hiệp nhất nhân danh Chúa
Giêsu", bác ái, tha thứ cho nhau và giúp nhau thăng tiến là điều ai cũng
muốn và cần làm. Đây không đơn giản chỉ là tương quan xã hội trong cuộc sống
hàng ngày. Việc sửa lỗi huynh đệ đã có trong sách Lêvi: "Ngươi không được
để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như
thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó " (Lv 19, 17). Vì bác ái với dân Israel,
Chúa đã làm cho Êdêkiel "trở nên người lính canh nhà Israel", và
truyền ông phải nói cho "kẻ gian ác bỏ đường lối mình", để được sống,
nếu không "thì chính kẻ gian ác sẽ chết" (x. Ed 33, 7-9).
Thánh Phaolô nói: "Anh em chớ mắc nợ
ai ngoài việc phải yêu mến nhau" (Rm 13, 8). Thì ra chúng ta phải mắc nợ
nhau về tình mến. Cùng một thân thể mầu nhiệm Đức Kitô, thánh Phaolô mời gọi ta
mặc lấy tâm tình của Đức Kitô, sống hiền lành, khiêm nhường và liên đới với
nhau. Bởi tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc,
chúng ta là anh em với nhau trong Chúa, nên hãy đối xử với nhau bằng tình yêu
và lòng mến, vì toàn bộ luật của Thiên Chúa được nên trọn trong tình yêu, kể cả
Mười Điều Răn "và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời
này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình" (x. Rm 13, 8-10).
Tình yêu và sự kiên
nhẫn
Lời thánh Phaolô trong bài ca đức ái:
" Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác "(1Cr, 9), cho thấy Giáo hội
được qui tụ làm thành Thân Thể Chúa Kitô, lãnh nhận sứ mạng bày tỏ Thân Thể này
theo ý muốn của Thiên Chúa. Chúng ta là những chi thể của cùng một Thân Thể,
tuy khác nhau, nhưng cùng qui về Giáo hội, liên đới với nhau như một bản giao
hưởng tình bác ái. Nên ai phạm lỗi, người ấy thiếu tình bác ái không chỉ với
một người, mà con đối với toàn thân thể.
Cứ sự thường ai xúc phạm đến ta, ta không
can thiệp gì hết. Viện cớ: nó đã xúc phạm đến tôi! Tôi sẽ không nói gì hết, dứt
khoát là không. Vậy làm gì bây giờ? Nó đã xúc phạm đến tôi: Mắt đền mắt, răng
đền răng ư? Đây không phải là giải pháp, làm thế sự xấu sẽ xấu hơn. Tôi sẽ đi
gặp anh em và nói: Anh đã làm tổn thương tôi, không được! Anh được Thiên Chúa
tạo dựng, vì tình bác ái, tôi phải kéo anh về. Chúng ta không loại trừ vì lỗi
cá nhân họ, nhưng giúp họ sửa mình để trở nên xứng đáng trong cộng đoàn mà họ
là thành viên.
Chúa Giêsu đưa ra các cấp độ hành xử với
anh em trong cộng đoàn, dựa trên sự tôn trọng và yêu thương lẫn nhau miễn sao
lợi được người anh em. Tin Mừng (Mt 18, 15-20) cho thấy, tình yêu huynh đệ chất
chứa trách nhiệm hỗ tương, nếu anh em có lỗi, tôi phải thể hiện tình yêu với
họ, trước hết, nói chuyện riêng với anh về sai lầm mà anh đã nói hay làm là
không tốt. Hành vi này được gọi là sửa lỗi huynh đệ: đây không phải là phản ứng
đối với hành vi người phạm lỗi, nhưng là cử chỉ yêu thương dành cho người anh
em. Thánh Augustinô nói: "Anh ấy đã xúc phạm bạn, và khi xúc phạm, anh ấy
đã làm cho bạn tổn thương: bạn không quan tâm đến thương tích của người anh em
bạn sao? (...) Vậy, hãy quên đi những sai lầm họ đã xử với bạn, chứ không phải
là vết thương bạn phải chịu vì người anh em" (Discours 82, 7).
Và nếu nó không chịu nghe ngươi? Cấp tiếp
theo, hãy nói chuyện về anh ta với hai hoặc ba người để giúp anh ý thức hơn về
những gì anh đã làm; nếu anh ta vẫn bỏ ngoài tai, bất chấp điều này, phải nói
cho cộng đoàn; và nếu anh ta không nghe cộng đoàn, thì phải làm cho anh ta nhận
ra rằng chính anh tự tách biệt khỏi cộng đoàn Hội Thánh. Đặt ra khỏi cộng đoàn
thành viên không chịu hối cải, không có nghĩa là lên án. Chúng ta cần phải giữ
liên hệ với nhau, vì đây là mối liên hệ do Thánh Thần thêu dệt. Chúng ta bước
vào trong cộng đoàn và xây đắp bình an để mang lại cho sức sống cho cộng đoàn.
Dù giới hạn cũng như khuyết điểm cá nhân ta, chúng ta vẫn được mời gọi đón nhận
sửa lỗi nhau trong tình huynh đệ và giúp đỡ người khác qua việc sự tế nhị này.
Đây trách nhiệm sống của chúng ta với nhau.
Hoa quả của đức ái
Khi áp dụng hết mọi cách, vẫn không có
hiệu quả, chúng ta hãy phó thác người anh em cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa:
"Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề
luật " (Rm 13, 10).
Hoa quả của đức ái trong cộng đoàn là cầu
nguyện: " Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở
giữa những người ấy "(Mt 18, 19-20). Chúng ta quả quyết: Ở đâu có tình
yêu, ở đó có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ngự trị. Cầu nguyện cá nhân
chắc chắn là quan trọng, cần thiết, nhưng Chúa bảo đảm sự hiện diện của mình
trong cộng đoàn ngay cả cộng đoàn nhỏ, vì nó qui chiếu vào sự hiệp thông hoàn
hảo của Thiên Chúa Ba Ngôi. Origen nói rằng "chúng ta phải thực hiện bản
giao hưởng này" nghĩa là sự hòa hợp trong cộng đoàn tín hữu.
Có người sẽ nói: chúng tôi đang tụ họp với
nhau trong cùng một khuôn viên nhà thờ, đang lắng nghe tiếng của mục tử chúng
tôi, cùng hát thánh ca và hiệp nhất trong lời cầu nguyện, chúng tôi chẳng đang
nhân danh Chúa mà tụ họp với nhau đó sao? Làm gì có sự bất hòa?
Đúng, chúng ta là một gia đình đang được
cùng một mục tử hướng dẫn, không có chia rẽ, nếu bình tĩnh lại, thinh lặng ra
khỏi nhà thờ, những lời chỉ trích, xúc phạm người khác, kèm theo là ghen tị, đố
kỵ và tham lam, hận thù, dối trá và gian lận ... tình bác ái được đặt ra. Vì
vậy, chúng ta hãy tôn trọng Bàn Tiệc Thánh, Chúa Kitô đã hy sinh vì chúng ta,
chúng ta hãy thông hiệp với nhau.
Giờ đây chúng ta hướng lòng lên Chúa và
dâng lên Ngài lời tha thiết nguyện xin cho cộng đoàn tín hữu khắp nơi được hiệp
nhất trong Chúa Kitô, nhờ sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa
và là Mẹ chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Bà Coritanbul, người Ba lan gốc Do thái.
Thời đệ nhị thế chiến, bà đã bị giam trong trại tập trung Đức quốc xã. Sau
chiến tranh, may mắn bà vẫn còn sống. Bà đi khắp châu Âu kêu gọi lòng tha thứ
cho Đức quốc xã, dù trên thân thể bà đầy những tàn tích của Đức quốc xã để lại.
Một hôm, một người lính Đức, trước kia đã làm nhục bà, đang đứng trước mặt bà.
Nhìn thấy người đã hành khổ mình trước đây, bà như chết lặng; sự câm thù lại
bùng lên. Lúc đó, bà thầm thì với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể
thực sự tha thứ cho người hành khổ con. Xin ban cho con tâm tình của Chúa, để
con có thể tha thứ như Chúa..." Câu chuyện của bài Tin mừng chúa
nhật hôm nay cũng cùng một chủ đề như câu chuyện chúng ta vừa nghe. Ý chính: là
sửa dạy anh em; nhưng căn bản của việc sửa dạy chính là sự kiên nhẫn, bác ái và
thứ tha nơi người sửa dạy, và tinh thần phục thiện nơi người được sửa... Kính
mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Mỗi người trong
cộng đoàn, trong Hội thánh đều có trách nhiệm với việc sửa lỗi anh em mình. Vì
mỗi Kitô hữu đều là chi thể trong Thân thể mầu nhiệm, mà Chúa Kitô là đầu, nên
có mối quan hệ hỗ tương chặt chẽ; lại vừa là con cái Thiên Chúa, vừa là anh em
với nhau, nên trách nhiệm sửa lỗi cho nhau càng thêm tế nhị và cần thiết. Lỗi ở
đây thường là lỗi nặng và công khai, có tính cách gây gương xấu và làm tổn
thương đến cộng đoàn.
Trách nhiệm sửa lỗi là trách nhiệm liên
đới với đời sống đạo đức của anh em, để giúp anh em nên tốt; dĩ nhiên trước
tiên bằng lời cầu nguyện, sau là bằng tình bác ái, khôn ngoan.
Cách sửa lỗi, ở đây chú trọng tới người
sửa lỗi hơn là tội nhân. Thiên Chúa đòi mọi người có trách nhiệm về sự hoàn
thiện của anh em. Nhưng để việc sửa lỗi có kết quả tốt, cần phải kiên nhẫn,
khôn ngoan, bác ái và tha thứ...Mạch văn ở đây muốn nói về chuyện sửa lỗi, hơn
là bắt lỗi. Tất cả đều được thực hiện trong tình yêu thương và kiên trì của Hội
thánh. Nếu người được sửa lỗi không nghe, đó là điều bất đắc dĩ, là do chính
họ...
b/. Trong việc sửa
lỗi, chúng ta cần phân biệt: người sửa lỗi và người có lỗi:
Phía người thiện chí giúp sửa lỗi:
cần kiên nhẫn, từ từ, bác ái và khôn ngoan: không phải thấy anh em mình có lỗi
là đã vội lên án. Vì thế, việc sửa lỗi được thực hiện trong tình bác ái, không
phải là một sự khiển trách đầy khinh miệt hay la mắng kiêu căng, nhưng với niềm
hi vọng tạo điều kiện cho tội nhân có cơ hội hối lỗi và sửa mình. Cách sửa dạy
này vừa có tính cách liên đới trách nhiệm, vừa có tính cách bác ái và phục
vụ...
Phía người có lỗi: cần có tinh thần
phục thiện. Người sửa lỗi cần gây ý thức, để họ biết nhận thiếu sót của mình,
biết phục thiện khi bị vấp ngã. Sẽ giúp họ không cố chấp chống lại cộng đoàn,
cũng không sống trong thảm nảo "gậm nhấm tội lỗi của mình", nhưng
biết nhìn nhận thiếu sót, yếu đuối, đồng thời mạnh mẽ vươn lên trong niềm tin
yêu và an bình...
Câu chuyện: Trong
sách tu hành xưa có kể: Có hai anh thanh niên sống không tốt lắm, họ muốn ăn
năn sửa lỗi. Họ đi vào nơi thanh vắng quyết tâm ăn chay đền tội. Sau một năm
trời, họ trở về. Một người thì vui vẻ, mặt mày sáng láng; người kia trái lại có
vẻ ốm yếu, tâm trạng lại bi quan nữa. Khi được hỏi: người vui vẻ trả lời: cả
thời gian qua, tôi nhận ra mình tội lỗi thật; nhưng tôi cũng nhận ra Thiên Chúa
yêu thương tôi quá chừng, vậy chính tôi phải sống tốt, phải vui vẻ để đền bù
lại tình thương của Chúa...Còn người bi quan đã trả lời: tôi thấy mình tội lỗi
vô vàn, đáng bị Chúa phạt. Tôi luôn bị tội lỗi dày vò, không phúc giây nào được
yên tâm, khi nghĩ mình không làm sao thoát khỏi án phạt đời đời... Qua câu
chuyện này, có người sẽ hỏi: đâu là kiểu ăn năn thật sự? Thưa đó chính là sự
phục thiện, tin cậy nơi Chúa của nguời vui vẻ, luôn tin vào Thiên Chúa. Dĩ
nhiên người thanh niên kia không phải không có lòng ăn năn, nhưng thực tế ăn
năn kiểu đó chưa đủ...
c/. Gợi ý sống và chia
sẻ: Sửa lỗi nhau để giúp nhau nên tốt là điều cần,
nhưng nếu việc làm đó vì phô trương, khoe khoang, sẽ không đem lại lợi ích cho
ai cả; trái lại hậu quả tai hại sẽ lớn hơn nhiều. Ước gì mỗi người Kitô hữu
chúng ta hiểu được rằng muốn sửa lỗi anh em, cần thiết phải thành tâm, yêu
thương họ như Chúa, nhất là ý thức để Chúa hoán cải họ hơn là chính mình hoán
cải...
Anh chị em thân mến.
Tham gia giao thông trên đường bộ, chúng
ta thấy nhiều biển báo được dựng trên đường. Những biển báo đó nhắc nhở cho
những ai tham gia giao thông tuân hành luật lệ quy định để bảo đảm an toàn cho
mình và cho người khác. Thỉnh thoảng còn có những người làm nhiệm vụ nhắc nhở
trực tiếp: những người công an giao thông, họ có trách nhiệm nhắc nhở cho những
người điều khiển các phương tiện giao thông tuân hành luật lệ để an toàn tính
mạng. Thế mà hằng ngày đều có những tai nạn giao thông, làm cho biết bao người
rơi vào hoàn cảnh mà không ai muốn bao giờ. Chúng ta thử nhìn xem tại sao có sự
kiện như thế: trước tiên là những người tham gia giao thông; được nhắc nhở cách
này hay cách khác, nhưng họ không lắng nghe, nhìn thấy những biển báo, nhưng họ
không thi hành, họ cứ làm theo những gì mình muốn, nên tai nạn xảy ra. Còn
những người có trách nhiệm nhắc nhở thì sao? Họ không hoàn thành trách nhiệm
của mình, nhưng họ lợi dụng tình hình, để tìm mối lợi riêng tư, khiến cho mọi
việc trở nên khó khăn hơn. Những người được nhắc nhở không thể nào lắng nghe họ
được, họ tìm cách trốn tránh và cứ làm theo những gì mình muốn. Thế là tai nạn
càng trầm trọng hơn. Nếu mỗi người ý thức được công việc của mình và thi hành
cho tốt thì mọi việc sẽ trở nên tốt hơn nhiều.
Chúa Giêsu nói đến trách nhiệm và bổn phận
để giúp cho anh em được tốt qua bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe. Hãy nhắc nhở anh
em trong tình bạn chân thành, để ngươi lợi được người anh em. Sự chân thành sẽ
làm cho mọi người dể chấp nhận. Với sự chân thành sẽ dễ làm cho người khác nhận
được những gì mình cần phải làm. Nếu vì một lý do nào khác mà không có sự chân
thành thì người nghe sẽ khó chấp nhận hơn, nếu sự chân thành càng ít thì kết
quả sẽ càng kém đi. Nếu với tất cả sự chân thành, bằng mọi phương pháp có thể
thực hiện mà vẫn không kết quả, thì một tai nạn xảy ra ngoài ý muốn, vì khi đó
người nghe nhưng như không nghe gì, thấy cũng như không thấy gì, họ chỉ biết
hành động mà không biết mình đang làm gì.
Thật khó chịu khi có người nào đó dám chỉ
ngay vào vào những khuyết điểm hay tật xấu của mình. Càng khó chịu hơn nữa, khi
việc làm của một người không muốn cho ai biết, lại có người dám đến chỉ ngay
vào việc bí mật đó và bảo hãy thay đổi. Câu nói: nhân vô thập toàn, mỗi người
đều biết. nhưng cái biết và đi đến chấp nhận thì thật là xa vời.
Có lúc nào trong cuộc sống, chúng ta chợt
suy nghĩ và nhìn lại con người của mình, xem hiện tại của ngày hôm nay như thế
nào, để nhìn lại quá khứ mà so sánh xem chúng ta có dám tự hào về hôm nay của
mình không? Ngày hôm nay có tốt hơn ngày hôm qua? Có tốt hơn một năm về trước?
Nếu so sánh nhiều hơn nữa thì niềm tự hào về tưổi đời của một người đối với
chúng ta như thế nào? Nếu ngày hôm nay chúng ta thấy mình nhẹ nhàn hơn, vui vẽ
hơn, dễ chấp nhận người khác hơn và biết giúp đỡ mọi người nhiều hơn thì thật
là hạnh phúc cho chúng ta. Khi đó, trong cuộc sống chúng ta biết lắng nghe,
biết chấp nhận và biết thay đổi những gì cần thiết. Còn nếu chúng ta chỉ biết
tự hào về tuổi đời của mình, để quá bảo vệ bản thân mà không muốn ai chạm tới
cho dù là lời nói, thì khi đó, chúng ta đã già rồi:
Già vì đôi mắt chúng ta mờ nên không còn
nhìn thấy gì nữa, không còn nhìn thấy điều tốt để thực hiên cũng không còn nhìn
thấy điều không tốt để tránh xa. Kể cả bản thân cũng không thể nhìn thấy để
biết phải sống thế nào cho đúng.
Chúng ta già vì đôi tai chúng ta không còn
khả năng lắng nghe, kể cả những lời hay, đẹp chúng ta cũng không thể nghe.
Những lời dạy bảo chúng ta cũng không để lọt tai được, thì làm sao chúng ta có
thể nghe được những lời kêu than chỉ trích những việc làm sai trái của chính
mình được. Như thế thì những hành động, những việc làm tốt làm sao chúng ta có
thể thực hiện được?
Nếu chúng ta biết lắng nghe, biết nói
những điều hữu ích và thực hành những việc làm tốt thì thật là hạnh phúc.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa soi sáng
cho mỗi người chúng ta để biết sống theo thánh ý Chúa.
(Suy niệm của Lm Phêrô Nguyễn Hương)
Chúng ta đang sống trong năm Thánh Phaolô,
năm đặc biệt chú ý tới vị Tông Đồ Dân Ngoại, ngài nổi bật như một ngôi sao sáng
trong lịch sử Giáo hội. Và rất thích hợp để nói về giáo huấn của Ngài trong thánh
lễ hôm nay. Sự nghiệp và giáo huấn của Ngài thật là phong phú và sâu sắc, chúng
ta chỉ dừng lại ở đây quan niệm về Tình yêu hay Đức Ái theo Thánh Phaolô.
Danh từ tình yêu (love, amore, caritas)
được dùng rất nhiều từ môi miệng chúng ta, từ báo chí, phim ảnh. Nhưng ngày hôm
nay khái niệm về tình yêu đã bị nhiều người hiểu sai và làm dụng.
Tôi đọc trên báo điện tử của Hội Đồng Giáo
Mục Việt Nam, tác giả Nguyễn Lan Hải đã tóm tắt những ngộ nhận đáng tiếc về
tình yêu nơi nhiều bạn trẻ hôm nay: - Tình yêu là sự cuốn hút. - Tình yêu là
chiếm hữu. - Tình yêu là tiền tài. - Tình yêu là sự thương hại. - Tình yêu là
tình dục.
Chính vì quan niệm méo mó này, nên nhiều
người suốt cả đời đi tìm tình yêu mà không gặp. Nhiều bạn trẻ thay người yêu
như thay áo vậy. Nhiều cặp vợ chồng trẻ tháng trước đám cưới linh đình vui vẻ,
anh nói em nghe, nhưng tháng sau thì anh em nói, cả làng cùng nghe. Tuần đầu
trăng mật, tuần sau giập mật!!! Nhiều gia đình đang êm ấm, nhưng chỉ một cú
điện thoại, một lá thư của người thứ ba, thế là mọi sự đổ vỡ, mọi sự được giải
quyết bằng tờ giấy li dị và chia tài sản.
Vậy thì theo Thánh Phaolô, Tình Yêu là gì,
phải yêu người khác như thế nào?
Bài đọc II mà chúng ta vừa nghe là những
lời thật tuyệt vời: «Anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau». Nghĩa
là chúng ta đừng mắc nợ nhau về tiền bạc, vật chất, ai mắc nợ thì phải trả.
Nhưng hãy mắc nợ nhau về tình thương, về đức ái. Chúng ta hãy yêu thương nhau.
Tình yêu là cốt lõi của Kitô giáo. Chính Phaolô nói: «Vì ai yêu người, thì đã
giữ trọn lề luật». Tình yêu làm cho chúng ta được hạnh phúc đích thực. Sống
không có tình yêu, không có lòng nhân ái, thì dù chúng ta có nhà lầu, xe hơi,
tiện nghi vật chất dư dã, vẫn cũng cảm thấy không hạnh phúc và vui vẻ. Các nhà
khoa học Mỹ đã nghiên cứu và cho thấy điều đó: 12 % dân Mỹ bị stress và bị tâm
thần, không phải vì họ nghèo đói về vật chất và vị họ bị cô đơn và không được
yêu thương chia sẽ.
Đối với thánh Phaolô tình yêu không phải
là một sự trao đổi kinh tế tiền bạc, không phải là một sự chiếm hữu ích kỷ,
không phải là một sự tìm kiếm mình trong người khác. Nhưng là một tình yêu vô
vị lợi, có trách nhiệm và hoàn toàn vì người khác, kể cả hiến mạng vì người
mình yêu. Tình yêu đó bắt nguồn và luôn dựa trên chính tình yêu Thiên Chúa mà
Đức Giêsu đã thể hiện trên Thập giá.
Tình Yêu, Đức Ái gắn liền với việc tuân
giữ lề luật, là sống có trách nhiệm và biết tôn trọng hạnh phúc của người khác:
«Đó là chớ có ngoại tình»: vợ của người ta chớ có được lớ rớ tới, không được
quan hệ tình dục bừa bãi. Vì hậu quả của nó là phá hoại phúc người khác và mang
bệnh tật cho mình. Quan hệ tình dục bừa bãi dễ sinh ra tội phá thai, tức là
giết người. Đó là trọng tội và còn có vạ kèm theo cho ai làm điều đó. Nên Thánh
Phaolô nói tiếp: «Chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ mê
tham, và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi
hãy yêu mến kẻ khác như chính mình. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy
yêu thương là chu toàn lề luật». Những lời chúng ta phải suy gẫm nhiều lần. Lỗi
những điều răn này là chúng ta lỗi Đức Ái cách nghiêm trọng. Thấy người khác
thành công mình phải mừng cho họ chứ đừng có ghen tỵ và tìm cách đạp đổ. Thấy
người khác gặp đau khổ thì không lấy làm vui mừng nhưng là nâng đỡ ủi an họ. Vẽ
đẹp của người kitô hữu là ở đó.
Đối với Phaolô, Đức ái là căn bản, là
chính yếu của đời sống kitô hữu. Trong một lá thư khác, thánh Phaolô quả quyết:
«Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các Thiên thần đi
nữa, mà không có đức mến (Caritas) thì tôi chẳng khác gì thanh la phèng phèng,
chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi có được ơn nói tiên tri và biết hết được mọi
điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả tài đức đến chuyển núi rời
non, mà không có đức mến (Caritas), thì tôi cũng chẳng là gì cả. Giả như tôi có
đem hết cả gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu chết,
mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,1-13).
Tất cả chúng ta đều được mời gọi để sống
Đức ái đó theo gương thánh Phaolô, như Ngài đã theo Đức Kitô, Người đã yêu
chúng ta đến cùng và đã hiến mạng vì chúng ta trên Thập giá. Xin Thánh nhân cầu
xin Chúa ban sức mạnh để chúng ta thực hành những giáo huấn này vào trong đời
sống chúng ta. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói tới một
trách nhiệm của người kitô hữu về việc sửa lỗi cho người anh em mình. Một công
việc rất tế nhị nhưng là cần thiết.
Người Lamã nói rằng: errare umanum est!
Làm người là sai lỗi. Người Việt Nam cũng có câu tương tự: Nhân vô thập toàn,
không ai hoàn hảo cả. Sinh ra trên đời này mỗi người đều có xã hội tính, nên ai
có liên hệ và có trách nhiệm đối với người khác, ai cũng cần đến sự giúp đỡ của
người khác để hoàn thiện mình, để sống tốt hơn, nhất là khi sai lỗi, lầm lạc,
ai cũng cần đến sự hướng dẫn, lời khuyên và lời cầu nguyện của người khác.
Việc sửa lỗi là một công việc khó khăn và
tế nhị. Nên hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta một bí quyết vàng để thực hiện công
việc này qua từng bước sau: Trước hết: «Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa
dạy nó, riêng ngươi và nó thôi». Đây là bước quan trọng nhất, khi sự thật còn ở
trong bóng tối, còn kín, chỉ có hai người biết thôi. Vì thế không được phép nói
cho người thứ ba biết sai lầm của người khác khi ta chưa giúp họ. Nếu bước này
không thành công thì mới đi bước tiếp: «Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem
theo một hoặc hai người nữa… Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Nếu
nó không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo». Đây là bước kế
tiếp phải làm trong tinh thần xây dựng, yêu thương và hiệp thông trong cộng
đoàn. Nhất là xin Cộng đoàn cầu nguyện để ơn Chúa biến đổi lòng của họ, để họ
cải tà quy chính. Khi họ không nghe ai nữa thì chỉ còn cách duy nhất là hãy phó
thác họ cho lòng từ bi của Thiên Chúa.
Trong thực tế, nhiều lúc chúng ta làm
ngược lại với hướng dẫn trên của Chúa. Thay vì chúng ta phải giữ kín sự thật và
thuyết phục người anh em sai lỗi trước khi nói người thứ ba cùng giúp, thì
chúng ta lại nói toạc móng heo lầm lỗi của họ ra, làm ai cũng biết. Như thế sẽ
làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn. Cần phân biệt việc sửa lỗi hoàn toàn khác
với việc nói xấu người khác. Sữa lỗi là một việc nên làm, còn nói xấu là một
trọng tội. Vì thế chúng ta cần tế nhị, khôn ngoan và đúng lúc.
Câu chuyện sau đây nói lên thái độ tế nhị
cần có khi sửa lỗi cho nhau:
Đức Hồng y Roncalli (sau là Giáo hoàng
Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh một nữ công tước mặc chiếc váy cực kì
ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối
bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói:
- Tôi không biết phải cám ơn ngài thế nào.
Nhờ đâu tôi được ngài ưu ái như thế? Ngài chăm chăm nhìn bà rồi nói:
- Sau khi Evà ăn quả táo, bà ta mới nhận
ra là mình thiếu quần áo. (hy vọng trong cộng đoàn chúng ta không có cô nào
được người khác cho ăn táo trong nhà thờ nhé!).
Người Ái nhĩ lan có một lời nguyện rất hay
mà tôi rất thích: God grant me the Serenity to accept the things I cannot
change, Courage to change the things I can, and Wisdom to know the difference.
Chúng ta có thể thưa với Chúa là: Lạy
Chúa xin cho con sự thanh thản để chấp nhận những điều con không thể thay đổi,
sự Can đảm để thay đổi những điều con có thể và sự Khôn ngoan để phân biệt sự
khác biệt. Amen.
Tuân Tử, một hiền triết Trung hoa đã nói
rằng: Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta, kẻ chê ta mà chê thật là thầy
ta, còn kẻ nịnh hót tâng bốc ta là những kẻ chỉ làm hại ta mà thôi.
Chê mà chê thật là sửa lỗi cho nhau trong
tình huynh đệ. Là con người ai mà chẳng lầm lỗi. Không ai trên trần thế có thể
tự hào mình vô tội. Chính Thánh Gioan đã quả quyết: “Nếu chúng ta nói là chúng
ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta”
(1Ga 1,8). Thú nhận mình tội lỗi không có nghĩa là chấp nhận thất vọng. Ngược
lại ý thức được sự yếu đuối của mình sẽ giúp con người mạnh tin hơn. Thánh
Gioan cũng viết: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt
Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1Ga 2,1b). Sửa lỗi huynh đệ là
cần thiết để giúp nhau thăng tiến và trưởng thành. Vì thế sửa lỗi cho nhau là
một nghệ thuật đòi hỏi người ta phải tuân theo một số kỹ thuật.
Trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy
nghệ thuật từng bước sửa lỗi cho anh em và mời gọi hãy cùng nhau cầu nguyện.
1. Sửa lỗi cho nhau:
- Bước 1: “Nếu
anh em ngươi phạm tội hãy đi sửa lỗi một mình ngươi với nó”. Một mình với anh
em là rất kín đáo. Sửa lỗi cá nhân, tôn trọng và giữ thể diện, biểu lộ sự tin
tưởng giữa hai người không để người thứ ba đựoc biết. Đây là cuộc nói chuyện
riêng tư, không phải hạ nhục người có lỗi nhưng là giúp người ấy nhận ra lỗi
lầm của mình. Phải nói sự thật, nhưng có những sự thật không nên nói hết.
Sự góp ý huynh đệ này đòi hỏi phải tế nhị,
xây dựng:
+ Người góp ý: Nhẹ nhàng, nói đúng lúc,
đúng chỗ, khôn khéo, thiện chí, nếu không sẽ phản tác dụng, khi đó góp ý chỉ là
chỉ trích, phê phán.
+ Người được góp ý: Khiêm nhường nhận lời
khuyên, không nóng nảy tự ái, sẵn sàng đón nhận, nhận ra sai lầm, không cố chấp
cứng đầu, can đảm sửa đổi. Có như thế việc sửa đổi cho nhau mới có kết quả.
- Bước 2: “Nếu
nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa để mọi công việc được
giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba nhân chứng”. Như thế, nếu bước một không
đem lại kết quả mong đợi, sẽ đến bước hai là gặp gỡ có hai hoặc ba nhân chứng.
Đây không phải là gây áp lực. Sự hiện diện của các chứng nhân bảo đảm cho tính
khách quan và cộng đoàn. Luật Môsê dạy: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng
lên buộc tội một người về bất cứ tội lỗi nào, phải căn cứ vào lời của hai hay
ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét” (Đnl 19,15). Tuy nhiên chỉ thị của
Chúa Giêsu nói đây không phải là nhân chứng buộc tội nhưng là những người trợ
lực có uy tín để giúp tội nhân dễ dàng sữa lỗi. Cần kiên nhẫn đối vơi người cố
chấp.
+ Người sửa lỗi chú ý hình thức xây dựng
và bác ái. Có nhiều khuyết điểm có thể tự nhiên được sửa chữa qua tính trung
gian, nhất là những khuyết điểm nhỏ.
+ Người được sửa lỗi chú ý nội dung được
góp ý.
- Bước 3: “Nếu
nó không chịu nghe họ thì hãy đi thưa Hội Thánh”. Hai bước không đạt kết quả,
đưa ra trước cộng đoàn Hội Thánh địa phương vì Hội Thánh được Chúa ban cho
quyền cầm buộc tháo cởi (x. Mt 18,18). Đưa ra Hội Thánh không phải để bị xét xử
nhưng để tỏ lòng sám hối và sẽ được ân xá. Nhưng nếu kẻ đó vẫn cố chấp không
chịu sữa lỗi thì tự loại mình ra khỏi Hội Thánh không còn thuộc về cộng đoàn.
- Bước 4: “Nếu
Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì hãy kể nó như một người ngoại”. Cộng đoàn
mà không chịu nghe thì phải chấp nhận thái độ tự cô lập của họ. Họ cố chấp
không muốn ở trong Hội Thánh thì họ sống trong lầm lạc về đức tin và luân lý.
Hội Thánh không còn trách nhiệm trực tiếp phải lo cho họ nữa, chỉ còn phó thác
họ cho lòng nhân từ của Chúa mà thôi.
2. Hiệp lời cầu nguyện:
Nếu nhìn cách sửa lỗi anh em của Chúa
Giêsu là một cách diễn tả tình yêu thì hiệp thông trong lời cầu nguyện lại là
một diễn tả khác của tình yêu “Khi hai hoặc ba người họp lại nhân danh Thầy thì
có Thầy ở giữa họ”.
Khi yêu ai, chúng ta không dửng dưng để
mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh tỉnh, nhắc nhở, khuyên bảo,
không “makeno”, không “đèn nhà ai nấy sáng”. Tương quan bác ái huynh đệ này rất
cần trong cộng đoàn, trong Giáo xứ. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của việc
sửa lỗi. Đó là chinh phục, cứu lấy anh em để nó đừng hư mất, liên đới trách
nhiệm sữa lỗi cho nhau để nhờ đó cộng đoàn “lợi thêm một người anh em”. Thánh
Giacôbê nhấn mạnh tới tình bác ái đáng khen của việc sửa sai huynh đệ “Ai đưa
một người tội lỗi ra khỏi sai lầm của họ là đã cứu được linh hồn người ấy khỏi
chết và đã bù đắp được vô số tội lỗi”.
Chúa Giêsu còn xác định rằng: “Thầy bảo
thật các con: nếu ở dưới đất hai người trong anh em hiệp ý cầu xin bất cứ sự
gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho họ”. Đây không đơn thuần là một
giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu Thiên
Chúa. Sự hiện diện của Chúa sẽ xóa giải mọi bất hòa giữa anh em. Chúng ta tin
và can đảm sống điều đó “Vì ở đâu có có hai ba người họp lại nhân danh Thầy,
thì có Thầy ở đấy, giữa họ”.
Trong Đạo Phật người ta thường nói “Phật
tại tâm”. Trong Đạo Thiền, người ta sống cuộc sống con người cách đơn sơ thanh
thản, không chấp mê, sống tự nhiên như bông hoa nở, như dòng suối chảy, như áng
mây bay, như làn gió thổi. Sống an bình với chính mình an hoà với tha nhân, là
“phá chấp ngã” nghĩa là không chấp, không chấp cả cái không chấp.
Đạo lý Chúa Kitô tự bản chất sâu xa là Đạo
nhân, Đạo của lòng nhân ái, Đạo của tình thương. Tình thương không phải là một
tư tưởng, cũng chẳng phải là một học thuyết. Tình thương là con đường ta phải
đi, một tình yêu để ta sống, để chia sẻ với người khác.
Đức Kitô đã làm người để chia sẻ tình yêu
của Chúa Cha cho chúng ta. Người mời gọi chúng ta chia sẻ lại tình yêu ấy cho
anh em. Tất cả đạo lý Chúa Kitô nằm gọn trong chân lý đó. Trong điều mà Người
gọi là điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm để con
nhận sự sửa lỗi của anh em, và ban cho con ơn khôn ngoan để con biết chân thành
sửa lỗi cho nhau, nhờ đó con xứng đáng nhận được lòng nhân từ Chúa xót thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước khi sửa lỗi ai, xin
Chúa nhắc con nhớ rằng con cũng là tội nhân, cũng yếu đuối và hay lầm lỗi, có
khi còn nặng nề hơn họ. Nếu vì bổn phận, con phải sưả lỗi cho người khác, xin
cho con biết lấy tinh thần bác ái và tôn trọng nhân vị mà cư xử, nâng đỡ hơn là
chỉ trích thoá mạ anh em. Xin cho cúng con luôn biết rộng lượng, bao dung với
người khác vì con biết chắc rằng Chúa vẫn tha thứ cho con từng ngày. Amen.
21. Trách
nhiệm liên đới
Sống trong xã hội, con người có sự liên
đới với người khác. Họ sống cùng và sống với người khác. Họ có trách nhiệm sửa
lỗi để xây dựng cho nhau. Khi đọc bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu
muốn nhắc nhở cho chúng ta về bài học sửa lỗi cho nhau.
Do tội nguyên tổ nên con người mang thân
phận yếu đuối, lỗi lầm...Khuynh hướng xấu cùng với những việc làm bất chính, đã
đi sâu vào trong bản ngã của con người. Nó không chỉ hiện diện mà còn hoành
hành, thao túng và gây nên biết bao tai hoạ cho con người. Trong thư Roma,
Thánh Phaolô cho ta thấy cái ác quả tai hại: "Vì một người mà tội lỗi đã
nhập vào thế gian, và bởi tội mà có sự chết". Tuy nhiên, Thiên Chúa yêu
thương muốn con người phải biết tha thứ, sửa lỗi cho nhau theo tinh thần bác
ái, tinh thần của Chúa Giêsu, đưa dẫn người khác về cùng Chúa: "Nếu anh em
ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó..."(Mt 15,18). Chúa dạy chúng ta hãy
biết lấy tình thương, tình người để cư xử với người khác, coi họ là anh em,
nhất là khi họ có lỗi lầm thiếu sót. Một cách tế nhị, kín đáo, chúng ta làm sao
để giúp cho anh em nhìn ra những sai sót của mình. Trường hợp chúng ta là người
có lỗi thì hãy khiêm tốn, ý thức lỗi lầm, thiếu sót của chính mình, để nhờ đó
cũng biết quay về cùng Chúa, theo Lời Ngài mời gọi, để được cứu sống.
Nếu việc làm một mình sửa lỗi cho anh em
chưa có hiệu quả, hãy kêu gọi sự cộng tác, góp phần của người thân hay những
người có uy tín: "Còn nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai
người nữa...(Mt 18, 16).
Còn nếu như có những lúc chúng ta cảm thấy
bó tay, bất lực trước những sự dữ, điều xấu của người này, kẻ khác..thì chúng
ta hãy cầu nguyện với Chúa, chạy đến cùng Chúa cầu xin Chúa ra tay giúp họ sửa
lỗi chính mình: "..Còn nếu nó không nghe , thì hãy kể nó như người ngoại
hay người thu thuế"...(Mt 18, 17).Khi lời nói của ta hay của nhiều người
chưa được chấp nhận thì chúng ta hãy tiếp tục giúp họ bằng lời cầu nguyện, bằng
gương lành là sự hy sinh, lòng quảng đại, tinh thần hiệp nhất,...Họ đang cần
nhiều thật nhiều sự trợ giúp của chúng ta, hãy sẳn sàng cho cách thức mới đầy
tình người, giàu lòng đạo đức,..
Trong thư Roma Thánh Phao nói: "Yêu
thương là chu toàn lề luật"(Rm 13, 10) . Chúa mời gọi chúng ta hôm nay,
yêu người không những là không làm thiệt hại cho người khác mà còn biết giúp
người khác khắc phục, sửa đổi bản thân, để họ luôn đi trong đường nẻo của Thiên
Chúa. Đây là trách nhiệm liên đới, là bổn phận của mỗi người.
Lạy Chúa, Chúa không muốn chúng con dửng
dưng trước những lỗi lầm của người khác, gương xấu của anh em, phần rỗi của
họ...mà là dạy cho chúng con có trách nhiệm với người anh em, sửa lỗi cho họ.
Không những thế Chúa còn muốn chúng con biết khéo léo, tế nhị, khi sửa lỗi cho
nhau. Đàng khác chúng con còn nhận ra rằng chúng con nên biết khiêm tốn để đón
nhận ý Chúa, lời Giáo Hội dạy bảo để chúng con sẳn sàng sửa chữa những lỗi lầm
của mình, siêng năng cầu nguyện để biết rõ và thi hành ý muốn của Thiên Chúa,
để ngày sau nhiều người được vào hưởng niềm vui Nước Trời.
22. Trừng
phạt hay phục hồi?
(Suy niệm của Lm Nguyễn Khoa Toàn)
Nếu ai đó am hiểu và theo dõi nội tình
chính trị tại tiểu bang New South Wales ở Úc Châu tuần qua, rồi lồng những bài
đọc Chúa Nhật 23 thường niên tuần này, chắc hẳn người ấy sẽ tìm được một vài
điểm trùng hợp thật ngẫu nhiên. Và một bài học đời vô cùng ý nghĩa...
Chuyện là một buổi chiều cuối tuần chỉ vài
ngày sau khi Thủ Hiến Bob Carr đột ngột từ chức, Thủ Lãnh Đối Lập John Brogden
đã không ngờ 'vận đỏ' đến với mình sớm đến thế. Cùng một vài nhân viên phụ tá,
John đã 'chén thù chén tạc' tại khách sạn năm sao Hilton ở Sydney vừa mới tân
trang.
Theo nhiều quan sát viên thời cuộc, với
tình hình hiện tại và với tình trạng kinh tế có chiều hướng đi xuống, ai cũng
chắc rằng chiếc ghế Thủ Hiến của tiểu bang đông dân nhất Úc Châu này sẽ lọt vào
tay một thanh niên một vợ một con mà tuổi đời chưa quá 40 này. Cả một tương lai
chính trị sáng tươi đang chờ đợi...
Nhưng sáng thứ hai tuần qua, hình như sau
một cuối tuần vật vã với luơng tâm, và có lẽ nhất là khi báo chí địa phương đã
đánh hơi được một vài lời nói và cử chỉ khiếm nhã với một vài phụ nữ buổi chiều
định mệnh ấy, John Brogden đột ngột từ chức. Đến chiều thứ ba, khi nhật báo The
Daily Telegraph quyết định phanh phui thêm một vài hành vi lem nhem khác trong
quá khứ, Brogden lặng lẽ rời nhà không một lời từ biệt cùng vợ Lucy và đứa con
trai đầu chưa tròn hai tuổi Flinders, tạt vào nhà thờ giáo xứ Thánh Tâm ở Mona
Vale rồi sau đó đến văn phòng riêng. Và bằng vài liều độc dược, Brodgen cắt gân
máu kết liễu đời mình.
Dư luận liền chia làm hai phía khi đuợc
hung tin. Một bên tố cáo báo chí đã đi quá trớn, xâm phạm thô bạo vào đời sống
tư riêng. Bên kia phản pháo cho rằng nhiệm vụ của báo chí là thông tin cho đại
chúng biết những gì cần biết nhất là từ những đại diện dân cử. Nói một cách
khác, theo lời ký giả Damien Murphy, John Brogden là nạn nhân của công lý trừng
phạt (punitive justice) chứ không phải công lý phục hồi (restorative justice).
Công lý phục hồi nhắm đến một sự cân bằng
giữa người gây ra sự cố, nạn nhân và gia đình cùng xã hội chung quanh. Vì thế,
mục đích tối hậu của công lý phục hồi không phải là trừng phạt những là hoán
cải người gây ra lầm lỗi. Hoán cải không phải là bưng bít che đậy mà là khôn
khéo nhẹ nhàng tế nhị nhưng dứt khoát cứng rắn giúp cho kẻ lỡ bước sa chân kia
thấy sự việc sai trái của mình đồng thời tạo mọi điều kiện để người ấy có cơ
hội trở về đuờng ngay nẻo chánh.
Bài Phúc Âm hôm nay là một biểu chứng hùng
hồn là nền công lý phục hồi cần đuợc triển khai trong mọi khía cạnh của đời
sống từng cá nhân, từng gia đình, từng cộng đoàn và từng xã hội. Bước đầu tiên
là phục hồi danh dự và nhân phẩm của nạn nhân và của cả người gây ra tội phạm.
"Nếu anh chị em ngươi lỗi phạm, hãy đi dạy sửa nó, riêng ngươi và nó
thôi." Chỉ riêng ngươi và nó thôi vì tiến trình hoán cải con nguời đòi
buộc khá nhiều nhạy bén tế nhị và rất nhiều tha thứ cảm thông.
Càng thiếu tế nhị cảm thông tha thứ bao
nhiêu thì càng dẫn đưa người lầm lỗi vào ngõ cùng hụt hẫng. Họ mất niềm tin. Và
chẳng còn hy vọng. Và khi không còn ai để cấy niềm tin và khi không còn nơi nào
để bấu hy vọng vào, cái chết là một kết luận đã rồi!
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay cùng nói đến
vấn đề cứu độ, nhắm đến trách nhiệm của chúng ta đối với nhau trong cộng đoàn.
Không ai là một hòn đảo, vì trong Đức Kitô, chúng ta đều là anh chị em, những
phần tử của chung một gia đình.
Cuộc đời con người thật ngắn ngủi, do đó
tất cả chúng ta cần phải nỗ lực hết mình để làm những việc lành phúc đức khi
chúng ta còn có cơ hội, bằng cách quan tâm tới những kẻ yếu đuối và hèn kém,
khi họ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Điều đó không có nghĩa làm cho chúng ta
trở thành những kẻ tò mò, thích xen vào chuyện của người khác hay can thiệp vào
cuộc sống riêng của họ. Tình yêu dành cho tha nhân phài được xử lý một cách lịch
thiệp và khôn ngoan và phải luôn nhớ rằng khía cạnh quan trọng nhất của một đời
sống tốt đẹp chính là quên đi tất cả những việc mình đã làm cho người khác.
Thật vậy, không có cuộc sống chung nào mà
con người không phải đau khổ vì đồng loại mình. Bài Phúc Âm hôm nay gợi ý cho
chúng ta một phương pháp hữu hiệu để khuyên giải cho những kẻ lầm đường lạc
lối. Tuy nhiên, việc sửa lỗi cho nhau rất khó thực hiện trong đời sống thường
ngày. Vì thế, khi phải can thiệp vào chuyện khó xử này, chúng ta phải thật sự
tế nhị, khéo léo và khôn ngoan. Bởi vì, thực tế đã chứng minh rằng, một lời nói
bất cẩn hoặc khuyên giải một cách thái quá có thể gây nên sự đổ vỡ lớn lao hơn.
Xét trên một khía cạnh nào đó, việc sửa
lỗi cho nhau giống như một “con dao hai lưỡi”, vì rất dễ dàng gây nên sự đụng
chạm, thậm chí có thể cướp mất đi tình bạn thân thiết mà ta đã có trước đây.
Cha ông ta thường nói, ‘im lặng là vàng’ nhưng cũng có lúc thì ‘im lặng là đồng
lõa’. Trong một số trường hợp, chúng ta cần có một quyết định dứt khoát vì nếu không
hành động kịp thời thì những việc làm sai trái đó tiếp tục có cơ hội hoành
hành. Hơn nữa, nếu chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ trước những lỗi lầm của anh em
mình thì chúng ta nên xét lại ý nghĩa và đòi hỏi của giới luật yêu thương mà
chúng ta hằng tuân giữ. Trong những hoàn cảnh đặc biệt đó, những gì chúng ta
làm phải được phát xuất từ lòng bác ái, chứ không phải là thái độ ‘bới lông tìm
vết’ hoặc lên lớp dạy bảo người khác.
Chúng ta không thể gây nên đau khổ cho
những người chung quanh, nếu chúng ta nói mình yêu thương họ. Thật vậy, một
chút tâm tình kèm theo những lời nói chân thành có thể làm cho bầu khí trở nên
nhẹ nhàng và làm cho vấn đề trở nên tốt đẹp hơn. Nên nhớ rằng, không một ai
trong chúng ta là người hoàn hảo, nên khi nói lên điều sai lỗi của người khác,
chúng ta cũng cần chuẩn bị để lắng nghe họ nhận định về những thiếu sót của
mình.
Nếu mỗi người có thể chấp nhận sửa lỗi cho
nhau và nếu chúng ta nhận thấy mình có sự khác biệt so với người khác, hãy sẵn
sàng chấp nhận thiếu sót của mình và mở rộng lòng mình để giao hòa với nhau.
Những ngôn từ nặng nề và thái độ hung hãn không phải là lối xử sự của những
người được mệnh danh là Kitô hữu. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc giao hoà với
anh chi em đồng loại khi Ngài nói: “Khi các con đến bàn thờ để dâng của lễ, nếu
nhớ ra rằng mình đang có đìều bất hoà với anh chị em, hãy để của lễ đó, quay về
làm hoà với anh chị em mình trước, rồi hãy đến dâng của lễ.” (Mt 5, 23-24).
Thử hỏi ai trong chúng ta là người chấp
nhận Lời Ngài và đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày của mình?
24. Nhắc
bảo.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay tôi muốn
chia sẻ về bổn phận nhắc bảo lẫn nhau.
Trước hết, điều chúng ta nhắc bảo phải là
những sai lỗi. Không phải chỉ những sai lỗi đến chúng ta hoặc gây thiệt hại cho
chúng ta, mà còn là những sai lỗi nói chung, những tội phạm bề ngoài, gây nên
gương mù gương xấu. Mục đích chúng ta nhằm tới không phải là để phê bình chỉ
trích, mà là để cứu thoát người anh em, trình bày cho họ biết những sai lỗi để
uốn nắn sửa đổi mà thăng tiến bản thân như lời Chúa phán:
- Nếu nó nghe con thì con sẽ cứu được nó…
và con được lợi thêm một người anh em.
Thực vậy, tội lỗi là sự ác to lớn và nặng
nề nhất, là sự lầm lạc tai hại nhất, vì thế nhắc bảo người anh em cũng là một
công việc bác ái cao thượng nhất. Hơn thế nữa, nếu không nhắc bảo, nhiều khi
còn có hại cho chúng ta và chính chúng ta cũng phải liên đới phần nào trách
nhiệm đối với linh hồn người khác mà một ngày kia chúng ta sẽ phải trả lẽ trước
tôn nhan Chúa.
Thế nhưng phải nhắc bảo như thế nào? Chúa
Giêsu đã phân chia thành ba giai đoạn. Trước hết là phải nhắc bảo riêng tư giữa
họ và ta. Nếu giải pháp đó không xong, thì dùng giải pháp thứ hai, đó là hãy
giải quyết với hai hay ba nhân chứng, chứ không phải là tố cáo và đưa nhau ra
tòa. Nếu giải pháp thứ hai cũng không xong, thì phải đem đến cho Giáo Hội. Giáo
Hội ở đây có thể là Giáo Hội địa phương hay Giáo Hội nói chung. Cụ thể là nhờ
đến quyền bính phần đạo, chứ không phải là quyền bính phần đời, vì đây không
phải là trường hợp để trừng phạt, mà là trường hợp để cải hóa. Đến lúc đó, mà
họ còn không nghe nữa thì phải coi như người ngoại giáo và bị loại ra khỏi Giáo
Hội.
Để xác quyết cho quyền bính của Giáo Hội,
Chúa Giêsu đã nói thêm:
- Sự gì các con cầm buộc, thì trên trời
cũng cầm buộc và sự gì các con tháo cởi thì trên trời cũng tháo cởi.
Như chúng ta cũng vừa nói: Nhắc bảo anh em
là một nghĩa vụ bác ái đòi buộc chúng ta phải thực hành, nhưng phải thực hành
với tinh thần siêu nhiên, và với cách thức phù hợp với tâm lý.
Trong việc phân rẽ đông tây của gia đình
Kitô giáo, những người con của Giáo Hội đã có những lầm lẫn đáng tiếc trải dài
nhiều thế kỷ chưa thể hàn gắn. Về lý, Giáo Hội có đủ lý nhưng về cách thức thi
hành thì đã xảy ra nhiều điều đáng tiếc, chính vì thế mà Đức Phaolô VI đã xin
lỗi anh em Chính Thống cũng như Tin lành về những điều đáng tiếc ấy. Đây là một
hành động đáng chúng ta suy nghĩ.
Trong việc nhắc bảo cũng vậy, nếu không
khéo léo và tế nhị thì có thể đi đến chỗ đổ vỡ. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã bảo
chúng ta tiên vàn hãy nhắc bảo riêng tư để tìm lấy một sự cảm thông chân tình.
Với chúng ta ngày hôm nay chúng ta thường
nghe nói nhiều đến từ ngữ đối thoại, tuy nhiên người ta đã lạm dụng hành động
này. Bởi vậy trong bức thông điệp “Ecclesiam Suam” Giáo Hội của Ngài. Đức Thánh
Cha Phaolô VI đã định nghĩa đối thoại là một nghệ thuật thông cảm siêu nhiên.
Sự đối thoại đòi cả hai bên những điều kiện sau đây:
Đó là phải rõ ràng và minh bạch, không úp
mở, không dấu diếm cũng như không thủ đoạn.Tiếp đến là phải hiền dịu, xuất phát
từ tình yêu và lòng kính trọng lẫn nhau và sau cùng là tín nhiệm, tin ở lời
mình nói và thiện chí chấp nhận của người nghe.
Hãy áp dụng những điều kiện ấy trong việc
nhắc bảo lẫn nhau, để chúng ta thực hiện được một hành vi bác ái cao thượng,
đẹp lòng Chúa.
Người Thiên Chúa giáo Việt Nam có thói
quen gọi người không cùng tôn giáo với mình là 'người ngoại'. Kiểu gọi vắn tắt
này gây hiểu lầm cho các tôn giáo bạn. Khi dùng từ 'người ngoại' người nói ngụ
ý chỉ người đó là người ngoài Thiên Chúa Giáo. Trong khi người nghe lại hiểu từ
'người ngoại' là người ngoại giáo, không có đạo. Cách hiểu thông thường, bình
dân này gây tai hại trong tôn giáo. Có người đặt vấn đề không lẽ chỉ có Thiên
Chúa giáo mới là đạo còn các tôn giáo khác đều không phải là đạo. Thực ra từ
nguyên thuỷ 'người ngoại' không có ý nói người khác vô đạo hay coi thường các
tôn giáo khác mà chỉ muốn nói người đó ngoài tôn giáo với mình. Kinh Thánh dùng
từ 'người ngoại' khác với cách hiểu thông thường chung trong đại chúng.
Kinh Thánh dùng từ 'người ngoại' với hai
ý. Ý thứ nhất chỉ những người không cùng tôn giáo Kitô. Ý thứ hai chỉ những
Kitô hữu không sống theo tinh thần Phúc Âm, thiếu yêu thương và tha thứ. Họ
sống trong cộng đoàn nhưng hành xử như người ngoài cộng đoàn. Đức Kitô còn dùng
hình ảnh khác nói đến các Kitô người ngoại, đó là hình ảnh sói đội lốt chiên
làm công việc cắn phá, âm thầm giết hại chiên. Bởi vì chúng mặc áo chiên nên
khó nhận ra tính lang sói ẩn núp sau dáng điệu hiền từ của chiên. Chỉ sau khi
trở thành nạn nhân lúc đó chiên mới nhận ra tính lang sói. Khi đã là nạn nhân
thì không còn tư thế để phanh phui tính lang sói. Cũng có thể chiên bị chết còn
đâu cơ hội để báo cho cộng đoàn biết sói đang sống giữa bầy chiên.
Như vậy trong đoàn chiên luôn có sói trá
hình, đội lốt. Trong cộng đoàn Kitô hữu luôn có 'người ngoại' sống chung. Kitô
hữu trở thành 'người ngoại' khi Kitô hữu chọn lối sống theo ý riêng mình. Bề
ngoài thì họ là Kitô hữu như những người khác nhưng bên trong họ không có chất
Kitô hữu trong mình. Chính vì thế mà khó phân biệt ai là Kitô hữu chân chính;
ai là Kitô hữu ngoại lai. Kitô hữu ngoại lai sống chung với các Kitô hữu chân
chính, ăn nói như những Kitô hữu chân chính. Họ cũng nhân danh cộng đoàn nói về
Chúa, cũng nói về yêu thương, bác ái, cũng đôi khi, thỉnh thoảng tham dự thánh
lễ, sinh hoạt chung trong cộng đoàn, đôi khi họ còn hăng say tranh đấu dành
quyền lợi cho cộng đoàn. Những sinh hoạt trên có thể qua mặt, làm cho một số
người hiểu lầm họ là Kitô hữu chân chính. Thực ra họ là Kitô hữu ngoại lai. Họ
qua mặt loài người mà không thể qua mặt Đức Kitô, Đấng không nhìn bề ngoài mà
thấu suốt bên trong tâm hồn con người. Đại đa số chúng ta đánh giá người khác
qua việc đạo đức mà quên phần thánh thiện. Đức Kitô không nhìn người khác bằng
hành động đạo đức bên ngoài. Ngài nhìn phần đạo đức xuất phát từ trong tâm hồn.
Đạo đức đến từ tâm hồn được gọi một từ riêng là thánh thiện. Đạo đức bề ngoài
không giúp cho người đó nên thánh. Chỉ có phần đạo đức thực sự đến từ trong tâm
hồn, phần thánh thiện mới giúp cho Kitô hữu nên thánh. Đạo đức thánh thiện thực
sự được thánh Phaolô nhắc lại điều Chúa dậy tóm gọn trong giới luật yêu thương.
Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật.
Đó là: Chớ ngoại tình; chớ giết người; chớ trộm cắp; chớ làm chứng gian; chớ mê
tham... Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình. Lòng yêu thương không làm hại
kẻ khác Rm13,8-10
Câu đáp ca trong thánh lễ hôm nay cho biết
dấu chỉ của Kitô hữu chân chính là Kitô hữu có lối sống khiêm nhường.
Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người:
Các ngươi đừng cứng lòng (c. 8).
Kitô hữu ngoại lai là Kitô hữu nghe tiếng
Chúa nhưng vẫn cứng lòng. Như thế nào là cứng lòng, biến hoá, thoái hoá thành
Kitô hữu dân ngoại. Phúc âm đưa ra thí dụ sau.
Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy
nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh
em. Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi
việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy
trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như
người ngoại giáo và như người thu thuế.Mt 18,15tt.
Kitô hữu không nghe lời giáo huấn của
người lãnh đạo cộng đoàn trở thành Kitô hữu ngoại lai, chọn sống theo lối sống
riêng, thích đấu tranh. Kitô hữu phạm lỗi mà từ chối nghe sửa dậy thì không thể
là Kitô hữu chân chính. Bởi Kitô hữu chân chính khi lỗi phạm họ nghe theo lời
chỉ dậy, sửa sai. Kitô hữu dân ngoại thiếu tinh thần khiêm nhường. Từ chối nghe
theo hướng dẫn của người lãnh đạo cộng đoàn. Coi mình quan trọng hơn cả mọi
người. Sống trong cộng đoàn để lợi dụng cộng đoàn làm bàn đạp gây thanh thế cho
mình thì không thể coi là thành tâm phục vụ cộng đoàn.
Chúng ta hãy xin ơn chớ cứng lòng khi nghe
tiếng Chúa.
Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người:
Đừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha
ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta.
Tv 94,9.
Sinh hoạt chung trong cộng đoàn dân Chúa
là một nghệ thuật. Nghệ thuật sinh hoạt chung trong cộng đoàn đòi chấp nhận
khác biệt và cảm thông. Cảm thông bao gồm cả việc chấp nhận thay đổi, quan tâm
đến khó khăn của người và thực thi tình bác ái. Những điều này mang lại bình an
và hài hoà trong đời sống mỗi thành viên và chung cho cả cộng đoàn. Mỗi người
có cách sông riêng của cá nhân mình và những thành viên khác cần tôn trọng, với
điều kiện cách sống riêng đó không ngược lại với tinh thần yêu thương, tha thứ
trong Kinh Thánh. Bất đồng, tranh cấp, bất hoà xảy ra trong sinh hoạt chung là
điều không thể tránh khỏi. Khi điều đó xảy ra tốt hơn hết là nên giải quyết
càng sớm càng tốt. Mong rằng cứ làm lơ đi một thời gian bất hoà, tranh chấp sẽ
chết theo thời gian là trốn tránh trách nhiệm của người lãnh đạo trong cộng
đoàn. Bất hoà có thể không chết nhưng trở thành điều tai tiếng chung cho cả
cộng đoàn và chia rẽ, bè phái là điều không thể tránh khỏi. Một khi đã có bè,
phái, rạn nứt thì việc hàn gắn trở nên khó hơn và vấn đề giao hoà trở nên khó
hơn gấp bội. Cá nhân và cộng đoàn thiệt thòi chỉ có kẻ ‘lợi dụng cơ hội’ là lợi
hơn cả. Bất đồng dù lớn hay nhỏ đều gây nên rạn nứt và người lãnh đạo cộng đoàn
cần tìm cách kiến tạo bình an cho cộng đoàn cũng như giúp các thành viên học
khôn từ bất đồng và mục đích quan trọng nhất là giúp thành viên trung thành với
đời sống đức tin. Danh Chúa không thể nào cả sáng nơi cộng đoàn có tranh chấp,
bất hoà.
Cộng đoàn giải quyết bất hoà trong tâm
tình yêu thương và công chính, không phải giải quyết theo phe phái hay thiên vị
phe nhóm nhưng công tâm trong bác ái, yêu thương. Khi gặp vấn nạn phức tạp
tiếng nói chung của người có trách nhiệm cần thể hiện tiếng nói của cả nhóm,
không phải tiếng nói của người có uy tín nhất trong nhóm mà là tiếng nói chung
cả nhóm đồng tâm như thế mới thể hiện được tiếng nói chung của cộng đoàn. Một
khi tiếng nói chung bị từ chối người đó coi như tự tách mình ra khỏi cộng đoàn
vì không công nhận quyền lãnh đạo chung của cộng đoàn. Từ chối như thế là tự chọn
sống ngoài cộng đoàn, dù vẫn đang sống trong cộng đoàn nhưng cách xử thế là
ngoài cộng đoàn. Trong truờng hợp này cộng đoàn không còn cách nào khác bằng
cách thừa nhận tính cách chọn lựa của cá nhân đó. Chọn sống ngoài cộng đoàn
chính là chọn đời sống của kẻ không tin Chúa hay đời sống của dân thu thuế.
Người thu thuế thời Đức Kitô là người không tôn thờ Thiên Chúa nhưng là người
cộng tác với thế lực ngoại bang để làm hại chính dân mình.
Tiếng nói chung của ban lãnh đạo là tiếng
nói của con người nhưng tiếng nói đó được chính Đức Kitô xác nhận là cần thiết.
Khi họ hội họp bàn về công việc chung trong tinh thần cầu nguyện chân thành,
cởi mở và tinh thần bác ái thì họ nhận được ân sủng Chúa. Đức Kitô hiện diện
trong các buổi sinh hoạt cầu nguyện thành tâm như thế. Cộng đoàn đức tin là nơi
giúp giải quyết những bất đồng, chia rẽ nhưng cũng là nơi phát sinh bất đồng,
chia rẽ. Cộng đoàn nâng đỡ, ủi an và chia sẻ khó khăn của mọi thành viên nhưng
thành viên cũng có trách nhiệm chu toàn bổn phận cộng đoàn.
Mọi người là anh em con cùng một Cha, do
đó chúng ta phải biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Khi anh em lỗi phạm, chúng
ta có bổn phận sửa lỗi và trợ lực cho họ bằng nhiều cách khác nhau như: cầu
nguyện, nhắc nhở, sửa dạy... theo từng bước: sửa dạy riêng, nhờ thêm vài người,
nếu không được thì trình với cộng đoàn giải quyết.
Để một phạm nhân sám hối, trước hết phải
cầu nguyện hết lòng cho người đó. Cần có ơn trợ giúp của Chúa thì phạm nhân mới
mau nhận thức rõ những sai lầm và ăn năn sám hối đúng mức. Khi đã cầu nguyện
cho họ, thì lời khuyên của chúng ta mới dễ đạt kết quả. Tôi biết một người bỏ
đi nhà thờ nhiều năm, không ai khuyên được ông ấy. Nhưng vì thương cho hoàn
cảnh ông nên nhiều hội đoàn cùng họp nhau lại cầu nguyện, làm việc hy sinh ... kết
quả là ông đã xin đi xưng tội và trở lại giữ đạo đàng hoàng trong tháng đó. Nếu
chúng ta biết cầu nguyện cho mọi người trong sự khiêm nhường thì Chúa sẽ ban ơn
dồi dào cho họ và cho chúng ta được ý thức sống trong tình mến Chúa luôn.
Việc sửa lỗi có thể được thực hiện cách
nhẹ nhàng bằng lời khuyên của bạn bè, của người thân trong gia đình, của việc
nêu gương sáng về tình yêu thương và niềm tin mạnh mẽ vào Chúa. Thường thì tội
nhân dễ có ý nghĩ tiêu cực sau khi phạm lỗi, do đó cần có người giúp cho họ vượt
qua sự ngại ngùng, sự cố chấp do tự ái hoặc sự sợ hãi, thất vọng...
Việc sửa lỗi cho anh em là điều cần thiết
nhưng cũng hết sức tế nhị để bảo toàn thanh danh cho anh em đó. Chính Chúa
Giêsu đã nói rõ ràng từng bước sửa dạy cho các môn đệ và các ngài truyền lại
cho chúng ta. Nếu anh em trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh
với nó mà thôi, nên cầu nguyện trước, sau đó đến gặp gỡ, khuyên răn... Vấn đề
là giúp người anh em hoán cải, nên người tốt chứ không có ý chỉ trích hay bêu
xấu họ. Tuy nhiên, nếu người đó không chịu nghe thì phải gọi thêm vài người có
uy tín để giúp họ nhận thức về tội của mình. Nếu người đó vẫn cố chấp, không
hối lỗi thì còn giải pháp cuối cùng là trình với người có trách nhiệm trong
Giáo hội để giúp cho tội nhân có thái độ dứt khoát sửa mình. Nếu họ vẫn khăng
khăng không hối lỗi thì họ phải tự gánh lấy hậu quả.
Chúa Giêsu có quyền tha bắt tội nhưng Ngài
đến trần gian không nhằm để trừng phạt hay dùng quyền bắt mọi người tùng phục
mình, Ngài có cách sửa dạy rất hay bằng lời giảng dạy, bằng dụ ngôn và bằng
chính đời sống thánh thiện của Ngài. Ngài đối xử nhân từ với mọi người, dù họ
là người tội lỗi hay đạo đức, người đơn sơ khiêm tốn hay kẻ cứng lòng không
tin. Chúa Giêsu tỏ ra kiên nhẫn đối với nhân loại. Trước khi về trời, Chúa
Giêsu đã trao cho Hội thánh quyền tha bắt tội dưới đất: "dưới đất, anh em
cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo
cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy" (Mt 18,18). Tuy nhiên,
Hội thánh cũng đang noi theo gương Chúa kitô đối xử nhân từ với tội nhân và sẵn
sàng ban ơn tha tội cho những ai thật lòng thống hối. Hội thánh dùng quyền để
phục vụ, để cứu chữa, không nhằm để trừng phạt. Chúng ta hãy tin tưởng vào Chúa
Giêsu và Hội thánh là Thân thể mầu nhiệm của Người để sống trung thành với lời
Chúa dạy, sống đúng theo huấn quyền của Hội thánh và tỏ lòng quý mến mọi anh
em.
Nếu mọi người biết yêu thương nhau và
quyết một lòng một ý xin Chúa điều gì, chắc Chúa không nỡ từ chối chúng ta.
Chúa Giêsu tuy đã lên trời vinh hiển nhưng Ngài không bỏ chúng ta mồ côi. Ngài
đang ở giữa chúng ta, ban các Bí tích cho chúng ta, ở trong chúng ta để hướng
dẫn, gìn giữ và giúp sức cho những ai thành tâm kêu cầu Người.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con là những con
người yếu đuối, còn kém lòng tin cậy mến Chúa và lơ là bổn phận sửa dạy lẫn
nhau, xin cho chúng con luôn biết nhận ra tình yêu Chúa đối với bản thân mình,
để yêu mến Chúa và khiêm tốn đón nhận những lời khuyên răn, góp ý của những
người xung quanh cũng như dám khuyên bảo anh em khi cần thiết. Từ nay, chúng
con quyết tâm sống tương trợ, yêu thương, hiệp nhất với mọi người để công việc
truyền bá Phúc Âm được lan rộng và thấm sâu vào lòng mọi người.
Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy mà thái
độ ứng xử trước lầm lỗi của người khác lại không giản đơn. Đối với lỗi lầm của
người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá
thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ
sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ
lãnh đạm sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho xã hội suy thoái.
Giáo Hội là một cộng đoàn những con người.
Lầm lỗi là không thể tránh khỏi. Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi
là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh hưởng đến đời sống
cộng đoàn.
Tuy nhiên sửa lỗi là việc khó. Không khéo
thì lợi bất cập hại. Lời Chúa hôm nay đưa ra những hướng dẫn cần thiết giúp
việc sửa lỗi có kết quả.
Muốn sửa lỗi phải quan tâm.
Chúa nói: Khi anh em ngươi sai lỗi. Vâng, người sai lỗi đó không phải ai xa lạ.
Đó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần của đời tôi. Nếu lầm
lỗi giống như một cơn bệnh, làm sao tôi không lo lắng chạy chữa cho người thân,
nhất là cho chính bản thân khi bị mắc bệnh? Nếu lầm lỗi giống như mất mát người
thân, làm sao tôi không đau xót lên đường đi tìm ngay tức khắc?
Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng
ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng. Dại gì nói những chuyện
không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa lỗi, cần phải can đảm.
Can đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về lỗi lầm của họ. Can đảm
chấp nhận những rủi ro do việc sửa lỗi đưa đến như sự giận ghét, sự công kích,
chấp nhận bị phê bình ngược lại.
Muốn sửa lỗi phải trân trọng.
Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em tôi, là đáng quí trọng đối với
tôi. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa
lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi
người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.
Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị.
Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói
không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn
cách. Vì thế Chúa dạy tôi phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng
một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn,
kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho
việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa
người lầm lỗi trở về cộng đoàn.
Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên
trì. Việc sửa lỗi không giản đơn. Không phải làm một lần là thành công
ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục
dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công.
Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh phục người anh em: Gặp riêng,
gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn.
Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một
việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn
phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì
khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một
sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.
Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn bác ái
đầy tế nhị của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1/ Sửa lỗi anh em, góp ý phê bình, dễ hay
khó?
2/ Khi biết anh em lầm lỗi, bạn làm gì?
Vạch mặt chỉ tên hay giả điếc làm ngơ?
3/ Trong gia đình, trong xứ đạo bạn, đã có
sự góp ý tốt đẹp chưa?
"Nhân vô thập toàn": một câu nói
như gói ghém phận người. Là người, có ai dám tự cho mình, tự nhận mình là hoàn
hảo.
Lỗi: sống trên cái cõi trần này ai là
người không mắc lỗi!
Nhớ lại thời đệ tử. Một lần đi chợ với cha
giáo. Người bán mới nói giá này, bỗng nhiên vài phút sau chị ta tăng giá. Thấy
khó chịu nên tôi nói là sao hồi nảy chị nói giá khác sao giờ chị nói khác!? Lát
sau về đến nhà dòng, cha phụ trách mới kéo tôi ra riêng và dặn dò cách cư xử
của tôi như thế không được. Chị ta nói thế kệ chị ta, mình không nên nói thế vì
nói như thế sẽ làm bẽ mặt người ta!
Ngẫm nghĩ thấy cha giáo quá tế nhị để sửa
cho tôi những điều nho nhỏ trong cuộc sống mà không để cho ai biết. Sau này
cũng thế, sống với ngài một thời gian khá dài của thời đệ tử và tôi đều được
ngài
Kéo riêng ra để mà chỉnh sửa mỗi khi cần
chứ chưa bao giờ ngài nói đi nói lại cho người khác hay là chỉnh tôi trước mặt
người khác.
Trải qua thời gian Đệ Tử tử rồi đến Tập
Viện rồi đến Học Viện. Thời Học Viện thì khác, có lỗi gì thì tôi thấy cha giáo
không sửa trực tiếp cho mình mà thường ngài sửa theo kiểu trung gian. Nghĩa là
mỗi lần phạm lỗi gì, Ngài không gọi tôi vào nhưng ngài mang tôi ra bàn cơm
"mổ". Khi Ngài đem ra bàn cơm "mổ" rồi thì hình như cả Học
Viện đều biết vì thời đại này công nghệ thông tin quá ư là hiện đại.
Trên đây là 2 cách sửa lỗi của 2 cha giáo.
Với tôi thì cách sửa lỗi của cha giáo thời Đệ Tử vẫn là cách sửa lỗi tế nhị
nhất, nhẹ nhàng nhất và cũng đỡ làm tổn thương tôi hơn cách của cha giáo thời
Học Viện.
Lỗi thì dĩ nhiên lúc nào cũng có nhưng
cách sửa lỗi rất khác nhau. Với cái nhìn và cái suy nghĩ hết sức bình thường
của mình, tôi thiển nghĩ rằng ai cũng muốn được hành xử với nhau, được người
khác sửa lỗi như Cha giáo thời đệ tử của tôi chứ chẳng ai muốn cách hành xử như
Cha giáo thời Học Viện. Vì lẽ là con người, ai cũng có danh dự, cũng có lòng tự
trọng cả và vì thế, chuyện sửa lỗi là một vấn đề không phải là nhỏ trong cuộc
sống nhưng là vấn đề lớn mà chúng ta thường gặp trong đời thường.
Trang tin mừng theo Thánh Matthêu mà chúng
ta vừa nghe thuật lại cho chúng ta cách sửa lỗi hết sức tế nhị của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu nhạy cảm và phải nói là hết sức nhạy cảm trước những người phạm lỗi.
Chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu là một nhà giáo dục tài ba, khéo léo, thu
phục lòng người. Ngài chinh phục con người bằng cái tâm, bằng tấm lòng chứ
không phải bằng luật lệ, bằng lý trí. Chúa Giêsu là thầy dạy nhân bản vì lẽ cách
cư xử của Ngài với những con người tội lỗi, yếu đuối hết sức là nhân bản.
Ngày hôm nay, giữa cái xã hội phát triển
hết sức chóng mặt, thành tựu khoa học đạt mức này tầm kia nhưng bên dưới đó
toát lên một lối sống nhân bản, lối sống chỉ biết mình mình. Không biết nói có
quá hay không nhưng hình như ngày hôm nay người ta sống thiếu nhân bản, sống
thiếu tình con người với nhau.
Trở lại với sách ngôn sứ Edêkien mà chúng
ta vừa nghe, chúng ta thấy Đức Chúa - Thiên Chúa của Israel - về sự quảng đại,
về lòng bao dung, về lòng tha thứ của Đức Chúa: "Phần ngươi, hỡi con
người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Israel. Ngươi sẽ nghe lời từ
miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết ... nếu ngươi đã báo cho kẻ
gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại ...". Chúng ta thấy đó, từ
Cựu Ước đến Tân Ước Thiên Chúa tỏ cho con người, cho chúng ta biết Ngài là Đấng
giàu lòng thương xót, đầy lòng mến với con người, cách riêng là những con người
tội lỗi. Thiên Chúa sẵn sàng chờ đợi sự cải hoá của con người. Dù con người có
lầm lỗi đến đâu đi chăng nữa nhưng Thiên Chúa vẫn chờ và vẫn đợi.
Nhìn lại cuộc sống của mỗi người chúng ta
qua trang Tin mừng theo Thánh Matthêu và sách Êdêkien xong chúng ta cảm thấy
quá xấu hổ. Xấu hổ vì lẽ lúc nào chúng ta cũng hăm hăm bêu xấu người khác hơn
là hơn là sửa lỗi chân tình. Điều nghịch lý vẫn diễn ra trong chính con người
chúng ta. Vẫn oang oang và thật to tiếng để đọc mỗi ngày: "Và tha nợ chúng
con như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ chúng con". Mình muốn Chúa tha cho
con người tội lỗi của mình còn anh chị em mình xúc phạm đến mình mình lại không
chịu.
Thử đặt mình trước mặt Chúa chúng ta thấy
buồn cười cái con người của mình. Mình thì phạm biết bao nhiêu tội mà toàn là
những tội tầy đình. Tội mình phạm mình rất khéo bưng bít nhưng nào bưng bít
trước mặt Chúa. Thế nhưng chúng ta thấy đó, Chúa vẫn lặng yên và chờ đợi sự
hoán cải của chúng ta còn chúng ta thì sao trước con người yếu đuối. Cái bệnh,
cái tật xấu của người Việt Nam đó là buôn dưa lê. Hễ ngồi đâu là bươi móc và
nói xấu anh chị em đồng loại mình. Hễ cứ tụm năm tụm ba lại là đem anh chị em
mình lên bàn mổ. Rất buồn cười, trong tập thể, trong cộng đoàn, trong sở làm
hay trong các hội đoàn, các ca đoàn khi người ta tụ tập với nhau một nhóm người
thì bỗng chốc những câu chuyện qua lại trao đổi của họ khó có thể tránh được
cái chuyện là đem một người trong cộng đoàn, trong nhóm, trong hội đoàn lên bàn
mổ. Khi ấy thì mạnh ai nấy nói và nói một cách hết sức vô tư không hề để ý đến
danh dự của người mà mình đang đem lên bàn mổ. Tại sao mình không tìm dịp, tìm
cách để mà sửa lỗi những người mình muốn sửa mà phải làm như thế. Thử đặt
trường hợp ta là người bị đem lên bàn mổ thì ta sẽ nghĩ thế nào? Ta thấy khó
chịu, bực mình mà tại sao ta lại đối xử với người khác như vậy? Ta sống sao
thiếu bác ái, sống bất công vậy?
Lý do tại sao ai cũng biết, đó chính là do
lòng bác ái nơi con người ngày càng hẹp lại. Con người người ngày hôm nay đã đi
vào lối sống mackeno, lối sống chủ nghĩa cá nhân để rồi chỉ biết mình chứ ngoài
ra không biết ai khác nữa. Vì không biết ai khác ngoài ta nên ta mới hành xử
với anh chị em đồng loại như thế.
Nhiều lần nhiều lúc trong cuộc sống chúng
ta mang luật đời, luật Giáo hội, luật hội dòng, luật tu hội ra để mà hành xử
với anh chị em đồng loại. Chúng ta quên đi trên luật hay giữ luật không gì đẹp
hơn là chu toàn lề luật như Thánh Phaolô tông đồ gửi cho giáo đoàn Rôma mà
chúng ta vừa nghe: "Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân
tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật ... Đã yêu thương người thì
không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm
13,8.10). Chúng ta cứ chăm chăm vào luật lệ và quên đi tình bác ái, lòng mến
nên chúng ta cứ đi làm hại đồng loại bằng cách nói hành nói xấu ném đá anh chị
em đồng loại khi anh chị em đồng loại phạm lỗi thay vì phải hết sức tế nhị đi
sửa cho họ.
Hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy, đã nhắc lại
cho chúng ta bài học hết sức là tuyệt vời về sửa lỗi cho nhau. Muốn hành xử như
Ngài, không khác gì hơn là chúng ta phải có lòng mến. Lòng mến đấy không tự
nhiên mà có nhưng lòng mến đó phát xuất từ đời sống chiêm niệm, đời sống cầu
nguyện và lòng biết ơn. Nếu chúng ta chiêm niệm chúng ta sẽ thấy được Chúa yêu
ta thế nào và khi nhận ra Chúa yêu thương ta thì ta sẽ sống yêu anh chị em đồng
loại như vậy. Khi yêu anh chị em đồng loại thì chúng ta sẽ sửa lỗi, sẽ hành xử
với những con người yêu đuối khác lối hành xử của con người ích kỷ, độc ác.
Nguyện xin Thiên Chúa là Vua của tình yêu
đến, ở lại và đổ tràn đầy tình yêu của Ngài xuống trên cuộc đời mỗi người chúng
ta để chúng ta biết yêu thương anh chị em đồng loại và hành xử bác, ái tế nhị
với anh chị em đồng loại hơn. Amen.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong cộng đoàn Hội Thánh, các Kitô hữu là
anh chị em của nhau (Mt 23,8) và là anh chị em với Đức Kitô nhờ biết thi hành ý
Cha trên trời (Mt 12, 48-50).
Thế nhưng Hội Thánh vẫn có người lỗi phạm.
Đời sống của họ nghịch với đòi hỏi của đức tin.
Chúng ta không thể lạnh lùng khi thấy anh
em mình sa ngã, bởi lẽ tất cả chúng ta làm nên một thân thể. Chúng ta mang vết
thương của nhau.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho thấy thái độ
ta phải có trước một người lầm lỗi.
Trước hết, phải mạnh dạn góp ý. Chỉ ai yêu
thực sự mới dám góp ý thẳng thắn. Nhiều khi chúng ta chỉ dám nói sau lưng.
Nhiều khi chúng ta không đủ can đảm góp ý. Vì sợ người khác giận mình, vì sợ
mất một số quyền lợi hay vì sợ chính mình bị góp ý. Góp ý xây dựng là một dấu
chỉ yêu thương, chứ không phải là đi tìm cọng rơm trong mắt người. Nhưng phải
biết cách góp ý. Cần giữ sự kín đáo và tôn trọng nhau.
Nếu người sai lỗi cứ bướng bỉnh, cố chấp,
thì nên đem theo vài người nữa, không phải để gây áp lực, nhưng để cho thấy
tính khách quan hơn.
Nếu họ vẫn không chịu nghe, thì phải đưa
ra cộng đoàn.
Nếu họ cũng không chịu nghe cộng đoàn, thì
phải chấp nhận thái độ tự cô lập của họ.
Như thế góp ý có nhiều giai đoạn.
Cần tế nhị, kiên nhẫn, yêu thương, vì
Thiên Chúa không muốn một ai phải hư mất, tuy Ngài cũng không muốn có gương xấu
xảy ra.
Góp ý là một bổn phận của yêu thương,
nhưng bản thân tôi cũng cần được góp ý.
Một cộng đoàn trưởng thành là cộng đoàn có
khả năng ngồi lại để góp ý cho nhau, trong giáo xứ, trong gia đình và từng nhóm
nhỏ.
Chúng ta đang sống trong tinh thần Sám Hối
- Canh Tân.
Chúng ta cần yêu thương để dám góp ý, cần
khiêm tốn để được góp ý.
Có khi chúng ta quen sống trong bầu khí
chịu đựng nhau, giữ kẽ, dĩ hoà vi quý. Như thế là duy trì một sự trì trệ kéo
dài.
Mong sao mau đến ngày các Kitô hữu trên
thế giới ngồi lại với nhau để dàn xếp những bất đồng và trở nên hiệp nhất như ý
Chúa muốn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Góy ý và được góp ý đều là những điều khó
làm và khó chịu. Có khi nào bạn thành công về chuyện này chưa? Xin bạn chia sẻ
kinh nghiệm nếu có?
Có thể vào năm Hai Ngàn Lẻ?, một Công Đồng
Chung sẽ được tổ chức, quy tụ mọi Kitô hữu thuộc Công Giáo, Chính Thống, Tin
Lành? Bạn hy vọng gì nơi một Công Đồng như vậy?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa có người bạn thân
là La-da-rô.
Chúa cũng coi các môn đệ là bạn hữu.
Tạ ơn Chúa đã cho con những người bạn để
nâng đỡ con trên đường đời.
Dù chúng con có nhiều điểm khác biệt,
nhưng xin hiệp nhất chúng con trong tình yêu.
Xin cho chúng con biết yêu thương nhau
thật tình, chia sẻ cho nhau mọi nỗi buồn vui, nâng nhau dậy khi vấp ngã, phấn
khởi trước những thành công, khích lệ trước một cố gắng nhỏ, và nhất là thẳng
thắn góp ý cho nhau, để cùng nhau tiến bộ.
Lạy Chúa, xin mở rộng vòng tay con, để có
thể đón nhận những người bạn mới.
Xin cho con đừng trở nên nghèo nàn vì chỉ
muốn làm bạn với ai giống con.
Xin dạy con biết thế nào là gặp gỡ.
Gặp gỡ không phải chỉ là quảng đại cho đi,
mà còn là khiêm nhưởng nhận lãnh.
Gặp gỡ không phải chỉ là tâm sự về mình,
mà còn là lắng nghe người khác.
Gặp gỡ không phải chỉ là phân phát sự giàu
có của mình, mà còn là nhìn nhận và đón nhận sự phong phú của tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên
bạn của Ngài, nhờ đó, chúng con mãi mãi là bạn thân của nhau. Amen.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ -
Achille Degeest)
Ba đoạn trong bài Tin Mừng mà Giáo Hội đem
ra làm bài học có vẻ khác nhau xa, như thể Chúa đã lần lượt nói về những vấn đề
riêng biệt. Cứ sự thực thì những lời nói của Chúa Giêsu đều gặp nhau trong cái
thực tại là cộng đoàn Kitô giáo. Trong cộng đoàn thường có những luật lệ sống
chung, và hơn nữa, giáo quyền có phép ban hành những luật sống đó và cuối cùng
tất cả đều được thực hiện nhân danh Đức Kitô và chính vì thế mà có Chúa Kitô
hiện diện trong đó.
1) Những luật sống
chung trong Giáo Hội –trong cộng đoàn Kitô giáo đều nhắm đến đối tượng chính là
làm cho Đức Ái được mọi người tôn trọng. Chúa chỉ dẫn cho
chúng ta cách thức phải giữ trong trường hợp có tranh chấp. Công việc đầu tiên
phải làm là tạo sự gặp gỡ, giữa cá nhân và cá nhân trong ước muốn tìm hiểu nhau
hơn. Có hai trường hợp có thể xảy ra, dựa trên ý nghĩa của câu nói: “Nếu người
anh em của con phạm tội”. Theo nghĩa đầu tiên thì hễ người nào phạm đến Thiên
Chúa cách tỏ tường, trong trường hợp này, phải bắt đầu bằng cách giữ kín điều
lầm lỗi mà mình biết được, rồi với thái độ thông cảm, tìm cách đưa người anh em
ra khỏi chỗ lầm lạc. Theo nghĩa thứ hai, hễ người nào đó có lỗi với chúng ta,
tức là làm hại đến chúng ta, lúc đó phải tìm cách giúp người anh em có lỗi hiểu
rõ sự thiệt hại đã gây ra cho chúng ta, rồi không làm nữa. Nếu công việc đầu
tiên ấy tỏ ra không có kết quả, lúc đó người ta mới chạy tới cộng đoàn để xin
sửa trị kẻ lầm lỗi. Và nếu lúc đó kẻ ấy cũng không sửa mình, ta vẫn không có
quyền khai trừ, không cầu nguyện và không tha thứ cho kẻ ấy, nhưng ta có cớ để
cắt đứt ít nhiều mối tương quan thuộc phạm vi xã hội.
2) Điều mà chúng con
ràng buộc ở dưới đất… Ta vừa thấy Chúa ban cho “Giáo Hội”, cho cộng đoàn Kitô
giáo, quyền xét xử cách ăn ở của một trong các thành phần của Giáo Hội. Giáo
Hội chỉ có thể làm được điều này nhờ những kẻ cứng đầu, những người có trách
nhiệm. Người ta có quyền đi từ Giáo Hội, quan niệm dưới khía cạnh quyền bính,
đến con người của các vị thủ lãnh. Trong Giáo Hội toàn thể các tín hữu sống Đức
tin, nhưng do ý muốn của Chúa Kitô, cũng có những người mang trách nhiệm giáo
dục đức tin và giúp kẻ khác thực hành đức tin cách trung thành. Đó là các tông
đồ với vị thủ lãnh là Phêrô. Ngày nay ta có các giám mục và vị thủ lãnh là Đức
Giáo Hoàng. Ở điểm này, một đoạn khác trong Tin Mừng Matthêu có nói rõ về vai
trò nổi bật của Phêrô và qua đó vai trò của Đức Giáo Hoàng (Mt 16, 19). Xin xác
định điểm này là Phêrô xưa vốn là Giám mục của giáo phận La mã. Đức Giám mục
của La mã đích thân là người kế vị của Phêrô. Người tiếp tục giữ quyền hành và
chức vụ của Phêrô. Các vị tông đồ khác lập thành Giám mục đoàn đầu tiên, mặc
dầu không được cơ cấu hóa nhưng là có thực. Ngày nay các vị Giám mục là những
người kế vị tập thể các tông đồ với các quyền hạn và chức vụ của các ngài. Do ý
muốn của Chúa Kitô, Phêrô có quyền trên toàn thể các tông đồ. Cũng thế, Đức
Giáo Hoàng ngày nay cũng có quyền trên đoàn thể các Giám mục. Cái quyền ấy nằm
trong địa vị nổi bật đối với cá nhân Người và cũng là quyền quyết định trong
việc chia sẽ một công việc chính yếu là cai quản Cộng đoàn của Giáo Hội.
3) Cộng đoàn sống
trung thành với đức tin và đức ái lôi kéo sự hiện diện của Chúa Kitô. Khi
các Kitô hữu, dầu là ít ỏi và nếu chỉ có hai người đi nữa, mà tụ họp với nhau
nhân danh Đức Giêsu thì Người ở giữa họ. Điều ấy có nghĩa là, khi chỉ có hai người
công giáo với nhau, và nếu họ biết thông cảm trong đức tin và đức ái, họ làm
thành một tế bào của giáo hội. Không biết người ta có thấy được tầm quan trọng
của điều này trong đời sống gia đình, lúc hội họp anh chị em trong khu phố hay
trong những hoạt động chung để mở rộng Nước Chúa? Một nhận xét quan trọng: lẽ
dĩ nhiên là một tế bào của Giáo Hội chỉ có giá trị khi giữ được liên lạc và
đoàn kết với Giáo Hội phổ quát cách mật thiết.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong quyển sách về truyền thống của các
vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây:
Ngày kia khi Đức Giám Mục Amolas đến thăm
mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với Ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối
với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.
Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối
tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám Mục Amôlas đến, họ
xúm lại vây quanh Ngài và nói: hôm nay Ngài đã đến đây thì Ngài phải chấm dứt
ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu
trên núi kia.
Sau khi nghe những lời kết án gây gắt của
dân làng, Giám Mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt
nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình, ông ta hoảng
sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một cái thùng gỗ rỗng.
Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước
túp lều, và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh
và hiểu ngay tình tình. Ung dung, Ngài đi thẳng đến chỗ ngồi ngay trên chiếc
thùng gỗ để nghỉ chân, nơi người phụ nữ ẩn trốn. Rồi bình thản khoát tay gọi
dân làng vào và bảo:
- Vào đây, các người hãy vào mà lục xét
túp lều để tìm người phụ nữ. Khi họ không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà,
Đức Giám Mục mới nói:
- Bây giờ các ngươi phải quỳ xuống xin lỗi
Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ.
Nhưng sau đó, khi mọi người đã lục tục kéo
nhau xuống núi, Đức Giám Mục Amôlas tiến gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của
ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi
nói:
- Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình
kẻo mất linh hồn đấy!
Anh chị em thân mến, hai thái độ khác nhau
giữa dân làng và Giám Mục Amôlas đối với một người lầm lỗi, có thể giúp chúng
ta hiểu rõ hơn giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sửa chữa lỗi lầm của anh em.
Ngược lại với phản ứng của dân làng, Đức Giám Mục Amôlas đã cố gắng áp dụng lời
khuyên của Chúa Giêsu: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi
sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi”. Trong một tình trạng khó xử, Ngài đã
tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân để
có dịp thuận tiện nói chuyện diện đối diện với vị ẩn tu. Tiếp đến, Ngài đã
không sửa lỗi ông như một người có thẩm quyền. Trái lại, Ngài đã dùng thẩm quyền
của mình bảo vệ cho vị ẩn tu, để sau đó có thể khuyên nhủ ông như một người anh
em. Và sau cùng, dù không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên án vị ẩn
tu đang vấp phạm, cũng như nêu mối nguy hiểm của lỗi lầm này với phần rỗi của
đương sự, qua một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn: “Hỡi người anh em, hãy
cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn”.
Thưa anh chị em, Giáo Hội là một cộng đoàn
huynh đệ, trong đó mọi người là anh em với nhau vì đã được làm con cùng một Cha
trên trời trong Đức Giêsu Kitô. Vì thế, mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm nâng đỡ
nhau, sửa lỗi nhau để sống xứng đáng là con cái của Chúa trong đại gia đình của
Ngài. “Chị ngã, em nâng”; “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy
đi sửa lỗi nó”. Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta trách nhiệm đó. Ở đây không có ý
nói về việc ai đó xía vô đời tư của người khác, nhưng có ý nói về một người anh
em ý thức trách nhiệm phải giúp đỡ người anh em khác sống tốt hơn, vì ích chung
của Giáo Hội.
Đây là một việc làm tế nhị, khó khăn, đòi
hỏi phải nhẫn nại, bởi vì người ta làm việc trên sự tự do và nhân vị của mỗi
con người. Chúa Giêsu đề ra ba giai đoạn: Trước hết cá nhân đối diện với cá
nhân. Nếu người phạm lỗi không chịu nghe nhưng lời góp ý để sửa chữa lỗi lầm,
người ta sẽ đem theo một hoặc hai người nữa cho việc góp ý được thấu lý đạt
tình và có sức mạnh hoán cải hơn. Nếu người mắc lỗi ngoan cố thì sự việc sẽ
được đưa ra trước cộng đoàn, tức là một thứ Giáo Hội địa phương và nếu người
mắc lỗi cũng không chịu nghe cộng đoàn, lúc đó người ta mới kể nó như người
ngoài cộng đoàn, như người ngoại giáo.
Đó quả là một biện pháp khôn ngoan. Nó làm
cho người có trách nhiệm sửa lỗi luôn luôn giữ được sự bình tĩnh, nhẫn nại,
đồng thời thể hiện tấm lòng từ bi và thái độ tôn trọng nhân vị, tự do của người
phạm tội có dịp hồi tâm, phản tỉnh để nhận ra sự sai quấy của mình. Lúc đó,
không một tội nhân nào còn có lý do để quy trách nhiệm về tội mình, về cách xử
lý mình cho anh em, sau khi đã đối diện với anh em qua ba giai đoạn ấy.
Tóm lại, tất cả đều phải nhắm đến sự sống
của cộng đoàn, phải thi hành với tình yêu huynh đệ. Giáo Hội chỉ giúp cho cá
nhân và xã hội được tốt lành, hoàn thiện khi đóng đúng vai trò người giữ gìn,
bảo vệ nơi nào chân chính và điều thiện có thể bị tấn công, bị phá hủy, đồng
thời đẩy lui những điều ác, điều xấu làm tổn thương, sứt mẻ mối tương quan của
con người với chính mình, với cộng đoàn và với quyền bính hợp pháp.
Khi chúng ta cùng cộng đoàn hay Giáo Hội
lên án những bất công và tệ đoan xã hội cũng như sự suy thoái đạo đức… chính là
lúc chúng ta thực thi trách nhiệm sửa chữa lỗi lầm của nhau, cho mình và cho xã
hội. Trách nhiệm này, Chúa đã trao cho chúng ta trong tư cách là người con cái
của Chúa và Giáo Hội.
Anh chị em thân mến, chúng ta họp nhau đây
nhân danh Chúa Giêsu Kitô, để cầu nguyện, để gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Chúa
Giêsu đang sống và ở giữa chúng ta. Ngài soi sáng cho chúng ta biết sự thật về
chính mình và tình liên đới với nhau, để chúng ta trả cho nhau món nợ duy nhất,
đó là món nợ tình yêu thương nhau, món nợ không bao giờ trả được.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ –
Charles E. Miller)
Bộ phận dự báo thời tiết bị buộc phải báo
trước những cảnh báo cho mọi người về những hoàn cảnh nguy hiểm có thể xảy ra,
ví dụ như bão tố, lụt lội. Những nhân viên trong bộ phận dự báo thời tiết không
bị tố cáo bởi bổn phận của họ phải đưa ra những giả định mà dân chúng lại không
muốn nghe cảnh báo theo cách đó, hoặc cảnh báo áp đặt trên họ và làm cho họ
giận dữ hay mang các tin tức xấu đến làm làm cho dân chúng cảm thấy bất an.
Phụng vụ trong Chúa Nhật này làm cho chúng
ta ý thức rằng, chúng ta có trách nhiệm đối với những người khác. Những cơn bão
đã nổ lên trong đời sống của nhiều người, những người mà các bạn quen biết và
yêu thương. Bộ phận dự báo thời tiết không thể ngăn cản được lũ lụt hay bão tố,
nó chỉ có thể đưa ra những lời cảnh báo sớm bao nhiêu có thể, để cho mọi người
chuẩn bị đón nhận hay tránh xa tai hoạ. Không giống như những nhân viên dự báo
thời tiết, chúng ta có thể thật sự xoay chuyển được những cơn bão cá nhân ra
chỗ khác, đặc biệt là khi chúng ta cảnh báo kịp lúc.
Chúng ta phải chấp nhận sự kiện là Thiên
Chúa chỉ định chúng ta là người canh chừng người khác như Người đã chỉ định
tiên tri Êzêkiel. Chúng ta phải nhận ra rằng món nợ trói buộc chúng ta với tình
yêu tha nhân, bao gồm trong việc can đảm cảnh báo cho người khác những nguy
hiểm hoặc những tai hoạ sắp xảy ra.
Nhiều thiếu niên đã bực tức với vha mẹ và
thầy cô giáo của chúng vì các ngài đã cảnh báo chúng về những điếu thuốc, những
chai rượu, say xỉn và chuyện phái tính. Bọn chúng nghĩ rằng mình đã đủ lớn “để
thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa”, rằng bọn chúng không còn “khờ” đâu. Bọn chúng ước
ao được đối xử giống như những người trưởng thành và nói về những chuyện khác.
Áp lực trên những người có trách nhệm với lũ trẻ thật lớn lao, nhưng chúng ta
chỉ hối tiếc khi chuyện đã xảy ra mà chúng ta không cảnh báo trước.
Những người trưởng thành biết rõ hơn những
bạn trẻ, nhưng họ vẫn mắc sai lầm. Thường thường chuyện đó xảy ra khi một cuộc
hôn nhân tan vỡ, một người bạn nói: “Tôi chẳng ngạc nhiên chút nào, tôi thấy
trước chuyện này sẽ đến thôi”.
Một số người sẽ lắc vai người bạn và hỏi:
“Vì sao anh không báo hay nói trước với tôi về chuyện ấy?”
Một người đàn ông hay một phụ nữ mất việc
vì ông hay bà ấy quá say xỉn do uống nhiều bia rượu. Đó là điều xảy ra mà không
hề bất ngờ, thường thường người ta không chú ý đến vị hôn phu, bạn bè hoặc
người cộng tác. Thật là xấu hổ nếu không có người can đảm đứng lên và nói: “Bạn
cần sự giúp đỡ. Hãy đến với tôi trong một buổi họp mặt của nhóm AA”.
Dân chúng của những thời đại khác nhau có
thể dần dần lạc xa khỏi Giáo Hội. Họ trở nên bất thường trong việc đi tham dự
thánh lễ. Chẳng mấy lúc, họ chỉ còn đi hai lễ là Giáng sinh và Phục sinh, rồi
sau đó là chẳng đi một lễ nào hết. Họ mất đi cảm thức về sự định hướng và mục
đích của đời sống. Có thể là bởi không có người nào nồng nhiệt mời họ lưu lại
Giáo Hội, hoặc khẩn nài họ trở lại với việc thực hành đức tin công giáo của họ?
Thật không dễ dàng chút nào khi phải cảnh
báo người khác. Họ có thể ra đi và mất luôn. Nhưng giống như tiên tri Êzekiel,
chúng ta phải làm một người canh chừng những người khác. Món nợ mà chúng ta nợ
trói buộc chúng ta vào tình yêu dành cho người khác, bao gồm việc buộc phải
cảnh báo người khác về những nguy hiểm thiêng liêng trong đời sống của họ, hay
tha lỗi cho những người không tin chúng ta hay bổn phận của chúng ta. Chúng ta
không thể lạm dụng khi cho rằng người hay thắc mắc sẽ không muốn lắng nghe
chúng ta, hoặc ông (bà) ấy sẽ bỏ đi và giận dữ, hoặc là vì chúng ta không thích
hợp với loại công việc như vậy.
Trong Thánh lễ chúng ta hợp giọng cùng mọi
người để cầu nguyện cho tha nhân. Sự cầu nguyện này sẽ dẫn chúng ta tới lẽ
phải. Chúng ta biết rằng lẽ phải là chấp nhận trách nhiệm đối với những người
khác.
Tôi biết có ít người có thể thành công làm
điều mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy
đi sửa bảo anh em và chỉ ra lỗi lầm của người đó khi chỉ có mình ngươi với
người đó mà thôi”. Chúng ta có nói, phải, chúng ta có nói nhưng
nói sau lưng người khác. “Cô bé tóc nâu ấy, bạn có biết không? Nó chẳng đáng
thương chút nào cả!” Hoặc chúng ta xem họ có sạn trong đầu, chúng ta la lên,
hung dữ, vụng về, Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta khéo léo và đầy yêu thương: “Bạn
hãy chỉ cho người đó biết lỗi lầm của họ, nhẹ nhàng khuyên bảo họ khi chỉ có
hai người mà thôi. Nếu người đó lắng nghe bạn thì bạn đã chinh phục được người
đó rồi”. Chinh phục họ. Để hiểu rõ thiếng này, cần phải nghĩ đến tiếng la lên
của người cha có đứa con hoang đàng: “Con ta đã mất và nay đã tìm lại được!”.
Khi nói về một tội phạm với những tình cảm này, chúng ta có cơ may chinh phục
họ. Chinh phục họ! Chứ không phải giao chiến với họ. Chúng ta thường khiển
trách, nhưng có lẽ chúng ta không tin rằng đó là một hành vi Tin Mừng, do đó
điều này đòi buộc có một con tim của Tin Mừng.
Cái gì nổi lên trong tim tôi lúc tôi sắp
sửa chửi mắng? Người bị chất vấn sẽ nhanh chóng phát hiện ra ý thích dễ sợ đó
là làm nhục mà ít người sửa phạt tránh được. Hoặc nêú chúng ta đặt mệnh lệnh và
danh dự lên trên tất cả, thì chúng ta khó mà chủ được cơn giận của chúng ta:
“Bạn có biết bạn đặt chúng tôi vào hoàn cảnh nào hay không?” Nói chung, họ bất
cần: “Đây là vấn đề của tôi!”.
Chúng ta có tìm ra được giọng nói để bảo
họ: “Đây cũng là vấn đề của tôi!”. Tôi không thể tỏ ra dửng dưng. Bạn hãy bỏ
qua những vụng về của tôi, có điều bạn hãy nghe tôi nói điều tôi âu lo về bạn,
tôi yêu thương bạn”.
Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta luôn yêu
thương ngay cả khi đó là điều rất khó, nếu không thì “yêu thương” có nghĩa là
gì? Chúng ta có lẽ sẽ phải đóng khung những điều rất khó khăn gay go. Tất cả
các bậc cha mẹ và những người có trách nhiệm đều nói điều đó. Giờ đây, khi
chúng có nguy cơ bị lưu ý, chúng ta băát đầu tấn công: “Bạn rao giảng, nhưng
bạn có thực hành đạo đức của bạn hay không?” Hãy thử nói vui (nếu có thể
được!): “Bạn có lý, tôi thấy cọng rơm của bạn chứ không phải cái xà nhà của
tôi. Nhưng dầu sao thì chúng ta cũng hãy nói về cọng rơm của bạn”. Những lời
khiển trách thì khó mà được tiếp nhận và chúng ta cần đến an bình đến nỗi chúng
ta sẽ cố gắng tránh né bổn phận khó nhọc này. Ít ra chúng ta không phải là một
kẻ hay la rầy bẳm sinh, và thế là ở đây phải xem xét kỹ vấn đề! Thường thì
chúng ta cho qua, nhưng ý muốn yên lành bằng bất cứ giá nào chắc chắn không
phải theo tinh thần Tin Mừng. Biết bao lần một lời nói thông minh, yên lành và
yêu thương đã cứu được một kẻ nào đó? Có chung quanh họ những người bạn là
những người thấy rõ ràng và than vãn mà không dám tiến bước: “Phải nói với
họ...”. Thế thì bạn hãy nói đi. Bạn hãy để cho Chúa Giêsu thúc đẩy. Đấng đã nói
với bạn: “Hãy cố gắng chinh phục”.
1) Giáo huấn của Giáo Hội
Trong trường hợp xảy ra tranh chấp cá
nhân, người Công giáo không nại đến quyền bính ngay, nhưng haỹ cùng nhau giải
quyết công việc, ở đây phải tuyệt đối dè dặt. Tuy nhiên, nếu thấy thực hiện như
thế không ích gì, bởi vì vấn đề khá quan trọng, phải tìm đến nhân chứng; nhờ
đó, cuộc tranh luận tuy còn tính cách cá nhân, những mỗi bên sẽ có nhiều lý do
thuận lợi hơn để xác định lập trường. Tuy vậy, nếu bên nào cố chấp làm cho cuộc
tranh luận bế tắc, phải cần đến quyền bính Giáo Hội phân xử. Quyền bính Giáo
Hội là toà án luân lý và tôn giáo tối cao, không chịu một kháng án nào nữa:
Phán quyết do quyền bính Giáo Hội cũng có giá trị ở dưới thế như ở trên trời.
nhưng ngày nay, ta còn có thể chấp nhận giá trị bất khả kháng của phán quyết
Giáo Hội nữa không?
Giáo Hội vẫn có chức vụ chính thức và
quyền bính đích thực. Giáo Hội có quyền xử án và tuyên án. Ai bất tuân Giáo
Hội, không còn là chi thể của Giáo Hội, họ bị coi như lương dân hay một tội
nhân công khai. Quả thực, trước hết, Giáo Hội chuyên lo về lãnh vực thiêng
liêng, nhưng điều đó không có nghĩa là Giáo Hội chỉ chú trọng đến nội giới,
linh ứng, ơn sủng. Giáo Hội còn là một cộng đoàn có quyền lợi, nhiệm vụ và thẩm
quyền. Giáo Hội vô thể chế, vô quyền bính, không phải là Giáo Hội Chúa Kitô.
Đức Kitô vô cùng sáng suốt đã lưu ý đến những yếu đuối khốn nạn của nhân loại
để giúp chúng ta vượt qua, nhờ tinh thần nội tâm biết hoan hỉ dễ dàng tuân phục
quyền bính. Khi tình yêu càng mãnh liệt, việc tuân phục càng dễ dàng, và lúc
đó, có quyền bính cũng không mấy cần thiết. Nhưng hiện nay, tình yêu chưa ngự
trị mọi nơi, nên còn phải lo củng cố quyền bính và công lý. Vậy nên Giáo Hội
Đức Kitô mới vừa quan tâm đến tinh thần bên trong và phận vụ bên ngoài.
2) Cộng đồng cầu nguyện
Giáo Hội không phải chỉ là một tổ chức do
quyền bính và những người nắm giữ quyền bính tạo thành, nhưng mỗi lần các tín
hữu họp nhau nhân danh Đức Kitô, là một Giáo Hội nhỏ bé hiện hình. Kinh nguyện
liên kết nhân loại với nhau và với Đức Kitô, để làm thành một cộng đoàn của Đức
Kitô. Ngoài lối cầu nguyện riêng tư trong phòng kín, còn có loại kinh nguyện
cộng đoàn có tầm quan trọng và hiệu quả đặc biệt, vì loại kinh nguyện này không
những chỉ liên hệ đến các cá nhân, nhưng đến cả cộng đoàn. Đức Kitô ngự giữa
các tín hữu đang tụ họp. Đó là Đức Kitô mầu nhiệm, cầu nguyện để bảo đảm lời
xin sẽ được chấp nhận. Vậy ngoài yếu tố chế định pháp lý và yếu tố thiêng liêng
nội tâm, Giáo Hội còn ẩn chứa yếu tố mầu nhiệm của Đức Kitô. Mầu nhiệm kỳ diệu
là chính sự hiện diện huyền nhiệm của Đức Kitô giữa chúng ta. Đó là dữ kiện tiên
quyết giúp ta nhìn nhận quyền bính chế định và tuân theo đòi hỏi luân lý siêu
nhiên, đồng thời tin tưởng vào lời hứa nhận lời ta cầu nguyện. Giáo Hội không
có Đức Kitô chỉ là một tập hợp nhân loại. Đức Kitô không có Giáo Hội chỉ là một
cá nhân đơn độc. Đức Kitô và mầu nhiệm Giáo Hội đó là chân lý thấy trong Tin
Mừng. Cũng như cành nho kết hợp với đầu mình, người tín hữu phải kết hợp với
Đức Kitô. Chỉ khi nào hiểu biết như thế ta mới nắm trọn chân lý.
Có một câu chuyện kể với tựa đề ‘Chiếc thùng
bị thủng’ như sau: Một người kia có hai chiếc thùng lớn để gánh nước. Một trong
hai chiếc thùng ấy bị thủng. Vì thế, khi gánh từ giếng về, nước trong thùng chỉ
còn một nửa. Chiếc thùng còn nguyên rất tự hào về sự hoàn hảo của mình, còn
chiếc thùng bị thủng cứ luôn áy náy vì đã không chu toàn nhiệm vụ.
Một ngày kia, chiếc thùng bị thủng mới
thưa với ông chủ: - Tôi thật sự xấu hổ về mình, tôi muốn xin lỗi ông!
Ông chủ ngạc nhiên hỏi lại:
- Nhưng ngươi xấu hổ về chuyện gì?
Chiếc thùng buồn bã trả lời:
- Chỉ vì cái lỗ thủng trên thân tôi mà ông
không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông!
Đến đây thì ông chủ ôn tồn bảo:
- Không đâu, ngươi cứ yên tâm. Mỗi khi đi
từ giếng về nhà, ngươi hãy chú ý nhìn xem những luống hoa bên vệ đường. Quả thật,
dọc theo bên đường là những luống hoa thật rực rỡ.
Chiếc thùng bị thủng cảm thấy vui vẻ hơn
được một lúc, nhưng rồi về đến nhà, nó vẫn chỉ còn được một nửa thùng nước.
Chiếc thùng lại thấy ân hận:
- Tôi xin lỗi ông!
Ông chủ lại hỏi:
- Ơ hay, thế ngươi không nhận ra rằng hoa
chỉ mọc ở bên này đường, phía của ngươi thôi sao? Ta đã biết được cái lỗ thủng
của ngươi và ta đã tận dụng nó. Ta đã gieo những hạt giống hoa bên vệ đường
phía bên ngươi, và trong những năm qua, chính ngươi không ngờ mình đã tưới cho
chúng được tốt tươi. Ta đã hái những đóa hoa để trang hoàng cho căn nhà. Nếu
không có ngươi, căn nhà của ta đâu có được tươi mát và duyên dáng như thế này!
Ông chủ đã sửa chữa khuyết điểm của chiếc
thùng bị thủng rất là tế nhị và tài tình. Thay vì đem hàn lại lỗ thủng hoặc bỏ
hẳn chiếc thùng đi, ông lại sử dụng nó vào hai nhiệm vụ, vừa gánh nước vừa tưới
hoa. Điều này đã khiến nó không còn áy náy, mà trái lại, càng thêm hãnh diện vì
đã đem lại lợi ích cho chủ nó.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy chúng
ta hãy khéo léo sửa lỗi cho nhau như thế: “Nếu người anh em của ngươi trót phạm
tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó”. Như vậy, đây là một bổn phận, một trách nhiệm
trong cộng đoàn. Bổn phận này rất khó làm vì nó gây khó chịu cho người lỗi
phạm.
Đức Giêsu đề nghị chúng ta theo tiến trình
ba bước. Trước hết hãy sửa lỗi anh em trong chốn riêng tư, kín đáo, để có sự
tin trọng họ. Nếu anh em còn cố chấp thì đem theo một hai người có uy tín giúp
họ nhận thức rõ về tội của mình. Nếu họ cũng không nghe thì phải trình với vị
có trách nhiệm trong Hội thánh để giúp họ có thái độ dứt khoát nhận lỗi sửa
mình.
Như thế, tội lỗi nào cũng liên hệ với cộng
đoàn, lỗi lầm nào cũng xúc phạm đến Chúa và thiệt hại cho anh em. Nhưng tội lỗi
là điều không sao tránh khỏi trong các cộng đoàn, cho dù cộng đoàn ấy là do
chính Chúa thiết lập. Giáo Hội thánh thiện, nhưng cũng bao gồm những tội nhân.
Vậy việc sửa lỗi trong cộng đoàn là điều phải có, cho dẫu là một việc rất ái
ngại, vì nó đụng đến cái thành trì kiên cố nhất của con người, đó là cái tôi
đầy kiêu hãnh. Henry Ford có nói: “Đừng chỉ lo tìm lỗi lầm nhưng hãy tìm cách
chữa trị”. Vậy phải chữa trị cách nào? Hay nói cách khác, thái độ nào cần phải
có khi sửa lỗi cho anh em?
Trước hết, hãy bày tỏ một tâm tình yêu
thương họ. Hãy nghĩ rằng đây là công việc giúp đỡ anh em nên tốt hơn: Đừng lên
án, chỉ trích gay gắt, nhưng luôn tế nhị dịu dàng. Tán dương ưu điểm của họ, và
cho họ thấy việc sửa đổi lỗi lầm cũng dễ dàng thôi.
Thứ đến, hãy kính trọng họ cách chân tình,
luôn giữ thể diện cho họ đừng chà đạp lòng tự ái của họ. Vì chính chúng ta cũng
không hoàn hảo, cũng tội lỗi yếu đuối như bao người, nên khiêm tốn nhận mình
cũng lầm lỗi. Hãy đặt câu hỏi cho họ thấy lỗi của họ, và kiên nhẫn lắng nghe,
khích lệ họ sửa đổi.
Cuối cùng, hãy kiên trì cầu nguyện cho họ,
nhất là cầu nguyện cùng với cộng đoàn, vì “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh
em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban
cho”.
Như nhiều lần chúng ta đã xác quyết: chúng
ta không sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi hay như một pháo đài
biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác, trong một cộng đồng,
trong một xã hội. Và trong cuộc sống chung này, chúng ta phải nương tựa vào
nhau rất nhiều.
Chẳng hạn: về phương diện xã hội, chúng ta
lao động sản xuất ra lúa gạo hầu người khác có cơm ăn, thì đồng thời người khác
cũng có bổn phận lao động đem lại cho chúng ta vải vóc và những vật dụng cần
thiết khác.
Về phương diện con người. Mỗi lời nói, mỗi
hành động của chúng ta, đều tạo nên một ảnh hưởng trên người khác, đồng thời,
mỗi lời nói mỗi hành động của người khác cũng ảnh hưởng trên chúng ta. Bởi vậy,
chúng ta có bổn phận phải giúp đỡ nhau cả về vật chất lẫn tinh thần.
Một trong bổn phận về mặt tinh thần đó là
hãy nhắc bảo những lầm lỗi cho nhau, để nhờ đó mà uốn nắn, sửa đổi hầu thăng
tiến bản thân, vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi khuyết điểm của
mình. Đây cũng là điều mà Chúa Giêsu nhấn mạnh đến qua bài Tin Mừng sáng hôm
nay.
Thực vậy, Chúa Giêsu không bao giờ khuyến
khích chúng ta dò xét kẻ khác, nhất là những người ở trong cùng một xứ đạo với
mình. Tất cả những lời khuyên của Chúa Giêsu mà chúng ta vừa nghe chỉ có thể
được hiểu như là một biểu lộ của tình bác ái. Vì chính Chúa đã nói: Cha các
ngươi, Đấng ngự trên trời không muốn cho một người nào bị hư đi.
Như thế, ở đây Chúa Giêsu muốn nhắc lại
cho chúng ta bổn phận phải ân cần chăm sóc đến anh em về mặt tinh thần và
thiêng liêng. Giúp người anh em đang gặp khó khăn, đưa tay nâng đỡ người anh em
đang trong vòng tội lỗi, là một đòi hỏi của tình yêu.
Nếu có một vài Kitô hữu chuyên môn xía vào
chuyện thiên hạ, theo kiểu bới bèo ra bọ, vạch áo cho người xem lưng thì ngược
lại, có một số giáo dân khác lại kém dấn thân, chỉ biết có mình với Chúa, theo
kiểu an phận, mũ ni che tai.
Thế nhưng, ở đây Chúa Giêsu đưa ra một
quan điểm khác, Ngài dạy rằng tất cả chúng ta đều có trách nhiệm với nhau. Tôi
không thể hờ hững trước tình trạng thiêng liêng của anh em tôi. Hơn nữa, chẳng
ai thoát khỏi lầm lỡ, hay yếu đuối, nên rất có thể một ngày kia người khác cũng
có dịp thi hành cái bổn phận nâng đỡ thiêng liêng ấy đối với tôi. Có lẽ họ sẽ
sẵn sàng làm việc này, nếu họ thay chính tôi thi hành với tất cả sự tế nhị và
nhân ái cần thiết.
Nói tóm lại, trước những sai lỗi của kẻ
khác, chúng ta hãy có can đảm nói cho họ biết trong tình thương và tế nhị. Đồng
thời, khi được người khác nhắc bảo, chúng ta hãy có can đảm lắng nghe. Nếu sai
thì chúng ta sẵn sàng bỏ qua, còn nếu đúng, thì chúng ta hãy coi đó như một
tiếng chuông báo động Chúa gửi đến để cảnh tỉnh chúng ta. Vì như tục ngữ Tây
phương đã bảo: Ai khen ta mà khen phải, ấy là bạn ta còn ai chê ta mà chê phải
ấy là thầy ta.
Một vị linh mục chánh xứ nọ nghe tin có
một giáo dân sắp bỏ nhà thờ, không chịu tham dự thánh lễ nữa. Người giáo dân
phản kháng này trước đây đã thường lập luận rằng ông có thể liên hệ trực tiếp
với Thiên Chúa một cách dễ dàng giống như đi ra ngoài cánh đồng tiếp xúc với
thiên nhiên. Vào một tối mùa đông, linh mục chánh xứ đã đến thăm người con miễn
cưỡng này trong tình thân hữu. Hai người ngồi nói chuyện hàn thuyên với nhau
trước lò sưởi, cố ý tránh né đề cập đến vấn đề đi nhà thờ. Sau một lúc, vị linh
mục chánh xứ cầm lấy cái kẹp than trên kệ kế bên lò sưởi, lôi kéo một cục than
lớn ra khỏi ngọn lửa. Ngài đặt cục than hồng đang cháy giở ra ngoài lò sưởi. Cả
hai đều chăm chú nhìn cục than trong im lặng. Cục than bị rút ra khỏi ngọn lửa
liền ngưng cháy thật nhanh, và biến thành màu xám tro, trong khi các cục than
khác trong lò cứ tiếp tục cháy sáng. Lời nhắn nhủ lặng lẽ của linh mục chánh xứ
đối với người giáo dân ương ngạnh đã được đón nhận. Sau một hồi lâu thinh lặng,
ông quay sang cha xứ và nói: “Chúa nhật tới con sẽ đi lễ”.
Bài Phúc âm hôm nay có ba phần: phần thứ
nhất nói về việc sửa sai lỗi lầm của người anh chị em, phần thứ hai nói về sự
tha thứ, và phần thứ ba là hiệu quả của lời cầu nguyện. Yếu tố chung nối kết
tất cả các phần lại với nhau chính là cộng đoàn, hay Giáo Hội. Đức tin, cậy,
mến của chúng ta không thể bị cô lập, nhưng phải sống trong sự liên hệ với
những người khác. Không có cộng đoàn, đời sống tinh thần của chúng ta sẽ chết
giống như cục than hồng đưa ra khỏi ngọn lửa.
Cộng đoàn của Matthêu đa số là người gốc
Do Thái, nhưng cũng pha trộn những tín hữu ngoại kiều. Vì thế, nên có những bất
hoà, đụng chạm, tranh chấp. Để phân giải những chia rẽ xảy ra trong cộng đoàn,
thánh sử nhìn vào lời Chúa khuyên dạy, dựa trên uy tín và sức mạnh của thần khí
hiện diện trong cộng đoàn hay Giáo Hội để sửa dạy những sai lầm, kêu gọi sự hoà
giải, tha thứ và cùng đồng tâm nhất trí với nhau trong lời cầu nguyện.
Phúc âm hôm nay cũng được công bố trong
bối cảnh phân rẽ hiện tại của thế giới và đặc biệt của nước Hoa Kỳ tưởng niệm
những nạn nhân của vụ khủng bố xảy ra ngày 11.9.2001 ở thành phố New York,
Washington D.C., và Pennsylvania. Biến cố đã qua đi, nhưng điều làm tôi lưu ý
nhất là những thánh lễ Chúa nhật sau ngày khủng bố 11.9, nhà thờ đầy nghẹt giáo
dân tham dự. Tại sao thế? Tôi tin rằng vì tất cả mọi người đang cố gắng đi tìm
cho mình một ý nghĩa giữa những thảm kịch giết người tàn bạo vô nghĩa. Chúng ta
cần đến sức mạnh, sự nâng đỡ và hướng dẫn của cộng đoàn và Giáo Hội. Chúng ta
cần đến nhau để tìm về với Thiên Chúa.
Theo bản tính yếu đuối của con người, sự tha
thứ không phải là việc dễ làm, và không phải ai cũng có thể dễ dàng tha thứ
được. Nhất là tha thứ cho kẻ thù giết hại chính mạng sống của mình. Phải là
những người có tâm hồn cao cả, noi gương Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã làm khi
Ngài chết trên cây Thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ
làm”.
Tám mươi chín người thân thuộc họ hàng của
Simon Wiesenthal đã bị giết chết bởi những người lính Đức quốc xã. Sau chiến
tranh, Simon đã trở thành một con người đi săn bọn Đức Quốc xã để trả thù. Ông
bắt đầu cuốn sách bằng một kinh nghiệm của chính ông, một tù nhân trong trại
tập trung. Một ngày nọ ông bị lôi kéo ra khỏi hàng lao động và được đưa lên cầu
thang phía sau đi tới một căn phòng tối om trong bệnh viện. Một người y tá dẫn
ông vào phòng, rồi bỏ ông ở đó một mình với một khuôn mặt được băng bó trắng
xoá đang nằm trên giường. Một người lính Đức đã bị thương rất nặng, toàn thể
khuôn mặt được băng kín. Với một giọng nói run rẩy, người lính Đức đã tự thú
tất cả tội lỗi với Wiesenthal. Anh nói về những phương pháp tàn bạo mà đơn vị
của anh đã sử dụng để giết người Do Thái. Rồi anh tự thú nhận những tội ác do
chính anh đã làm.
Một vài lần Wiesenthal đã cố gắng rời bỏ
căn phòng, nhưng mỗi lần như thế cái hình hài giống như bóng ma đã vươn tới và
van xin anh ở lại. Cuối cùng, sau 2 giờ đồng hồ, người lính đã nói với
Wiesenthal lý do tại sao anh được mời đến đây. Anh nói: “Tôi biết rằng điều tôi
đang xin hầu như quá lớn đối với anh. Nhưng không có câu trả lời của anh, tôi
không thể chết bình an được”. Anh van xin sự tha thứ vì tất cả những người Do
Thái anh đã giết. Wiesenthal ngồi im lặng một lúc. Ông nhìn vào khuôn mặt băng
bó của người lính Đức. Sau cùng, ông đứng dậy bỏ căn phòng ra đi không nói lời
nào. Ông đã bỏ lại người lính trong nỗi thống khổ không được tha thứ!
Đây là câu chuyện thật về Wiesenthal. Nó
được coi như một trường hợp cực đoan, tuy nhiên, tôi tin rằng trường hợp như
vậy không phải là không thường xảy ra đối với chúng ta. Tha thứ cho một người
đã gây ra đau khổ cho chúng ta là một trong những điều khó khăn nhất mà một
người Kitô hữu được kêu gọi để làm.
Vào ngày 11.9.2001. Alfred Braca là một
trong số hàng ngàn người đã chết trong những cuộc tấn công vào toà nhà Thương
Mại Thế Giới. Bà quả phụ Jean, và bốn người con đã mất đi một người chồng,
người cha trong buồn sầu. Một tháng sau, Jean Braca đã nhận được một cú điện
thoại từ tổng đài điện thoại hãng MCI. Người tổng đài đã chuyển cho bà một tin
quan trọng: những lời cuối cùng của Alfred Braca, chồng bà.
Trước khi toà nhà tháp đôi sụp đổ, Alfred
Braca đã gọi điện thoại cho nhân viên tổng đài của hãng điện thoại MCI và yêu
cầu bà chuyển lời cuối cùng của ông cho gia đình. Ông đã nói với họ rằng ông
rất yêu thương mọi người trong gia đình. Ông biết rằng ông đang ở trong một
tình thế rất nghiêm trọng. Và muốn cho gia đình biết ông và 50 người khác đã
quy tụ lại với nhau để cầu nguyện trong giây phút nguy kịch này. Và đây là hành
động cuối cùng của họ trước khi chết.
Căn nguyên của khủng bố có thể là sự hiểu
lầm, hận thù và bạo động. Sức mạnh quân sự không thể bứng rễ được nó. Bom đạn
và tên lửa không thể bay tới phá huỷ sự hận thù trong lòng con người được. Trái
lại, sự hận thù càng gia tăng hơn nữa. Nó chỉ có thể được cải hoá bằng sự cảm
thông, lòng yêu thương và cầu nguyện.
Đây chính là lời kêu gọi tha thứ, hoà
giải, yêu thương và cùng nhau cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm
nay: “Ở đâu có hai hay ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những
người ấy”.
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Lời Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài,
dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng
trong đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc xét đoán, phê bình
người khác. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc Âm theo
thánh Mátthêu (x. Mt 18,15-20).
Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, hẳn mỗi
người chúng ta đều bật cười và lẩm bẩm rằng: Chúa Giêsu dạy thật có lý, vì rõ
ràng đức bác ái dạy rất phù hợp với đạo tự nhiên của con người, bằng chứng là
lúc chưa được may mắn nghe Tin Mừng của Chúa, mọi người chúng ta đã từng dạy
con cháu trong đạo xử thế: "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ".
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu
cũng lặp lại cùng một tư tưởng đó nhưng với kiểu văn châm biếm: "Hãy lấy cái
đà ra khỏi mắt ngươi trước đã thì ngươi sẽ thấy rõ để lấy hạt bụi ra khỏi mắt
anh em ngươi". Qua đó chúng ta nhận thấy rằng, trong cái triết lý đời sống
nơi trần gian này cũng như của đời sống vĩnh cửu, chúng ta phải tôn trọng vì
theo nguyên tắc: "Muốn cho đi thì phải có trước đã, vì không ai có thể cho
cái mình không có bao giờ". Cũng như muốn làm việc gì, chúng ta phải biết
mình có khả năng hay không. Và trong lời dạy của Chúa Giêsu bao giờ cũng tiềm
tàng đức bác ái và tinh thần khiêm nhượng trong đó. Trong việc giúp đỡ người
khác là anh em thì tôi phải kính trọng họ, tôi phải nhận thấy rõ chính tôi cũng
là người tội lỗi yếu đuối như bao người khác trước mặt Thiên Chúa chí tôn chí
thánh.
Trong đời sống thực hành hằng ngày, cụ thể
qua việc sửa sai cho nhau, phải thực sự là một việc giúp đỡ chứ không phải là
cuộc xét xử, chỉ trích, lên án nhau. Để được như thế, mỗi người chúng ta phải
hiểu rằng, con người được Chúa dựng nên không phải để xét xử, chỉ trích, lên án
anh chị em mình, nhưng để sống đời sống làm con Thiên Chúa và để giúp đỡ anh
chị em khác trở thành con Chúa và cùng chung sống đời sống gia đình mà có Thiên
Chúa là Cha. Đó chính là đức bác ái Công Giáo mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin
Mừng.
Hôm nay trong tinh thần bác ái của Chúa
dạy, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những lời phê bình, kết án, xét đoán, chỉ
trích, thiếu bác ái. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tinh thần tha thứ cho
anh em trong cùng một Cha trên trời là Đấng luôn ban cho người công chính cũng
như cho những kẻ lầm đường lạc lối. Chính vì thế mà trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ
Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi tất cả con cái của Giáo
Hội hãy làm một cuộc tự vấn lương tâm và sám hối về những lầm lỗi của mình
trong quá khứ. Giáo Hội đã nhận ra rằng, trong quá khứ con cái của mình đã có
những hành động thiếu khoan nhượng trong khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta không
thể quên được những cuộc thập tự viễn chinh để triệt hạ người Hồi Giáo, các tòa
điều tra để thiêu sống những người bị xem là lạc giáo trong thời Trung Cổ,
những cuộc chiến tranh giữa Công Giáo và Tin Lành hồi thế kỷ XVII. Chúng ta
cũng khó quên được những hoạt động truyền giáo, vì nhiệt tình loan báo Chúa
Kitô, các tín hữu đã không ngần ngại dùng võ lực và nhiều sức ép khác để bóp
nghẹt niềm tin và tư tưởng của người khác.
Lịch sử đã sang trang, ngày nay Giáo Hội
thấy cần phải sám hối và quay trở lại gần với Tin Mừng của Chúa hơn. Tin Mừng
của Chúa thiết yếu là chính con người của Chúa Giêsu, Đấng đã đồng bàn ngồi với
những người bị xã hội gạt ra bên lề, cảm thông tha thứ không ngừng cho những
người tội lỗi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cư xử
như Ngài. Từ sáng chói nhất mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng
hôm nay phải là hai chữ "Anh Em". Khi người anh em lỗi phạm thì ngươi
hãy đến với nó, chuyện vãn với nó, khuyến dụ nó, dù tội lỗi đốn mạt xấu xa đến
đâu thì tha nhân vẫn là người anh em của chúng ta. Chúa dạy ta hãy đến với
người anh em không phải với thái độ miệt thị, loại trừ, mà bằng sự cảm thông
tha thứ.
Tựu trung đi bước trước để gặp gỡ, lắng
nghe, đối thoại, cảm thông tha thứ, đó là cách cư xử giữa những người anh em
con cùng một Cha trên trời. Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta đến gặp gỡ trong tình
anh em ấy, Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Nếu ngươi đến dâng của lễ nơi Bàn
Thờ mà chợt nhớ có điều bất bình với người anh em, hãy bỏ của lễ mà đi làm hòa
với người anh em trước đã, rồi hãy đến dâng của lễ" (Mt 5,23-24).
Nguyện xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp sức
cho chúng ta, để mỗi ngày Chúa Nhật, sau khi ra khỏi nhà thờ chúng ta cảm thấy
được bổ sức hơn, hầu sống và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa một cách tốt đẹp
hơn.
Cộng đồng được xây dựng trên sự liên đới
của nhiều cá nhân. Các cá nhân sẽ ảnh hưởng trên cộng đồng, để rồi cộng đồng lại
ảnh hưởng trên từng cá nhân. Đó là một liên đới có tính cách hỗ tương. Như vậy,
trước cộng đồng, mọi cá nhân đều có trách nhiệm liên đới đối với nhau. Tôi làm
xấu là xấu cho chính tôi, và cũng xấu cho cộng đoàn. Bạn làm tốt là tốt cho
chính bạn, và cũng là tốt cho cộng đoàn.
Một xứ đạo, một đoàn thể Công Giáo hay một
tu viện cũng vậy - và còn hơn thế nữa, vì chúng ta được kêu gọi trở nên một
thân thể, một cây nho; do đó, trách nhiệm liên đới càng quan trọng hơn. Bài đọc
1, và nhất là bài Phúc âm hôm nay nhấn mạnh đến trách nhiệm này. Chúa Giêsu
nói: "Nếu anh chị em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó..." Thực ra,
không ai hoàn hảo, cũng không ai nhìn rõ tất cả những điều mình làm, nhất là
những điều xấu; đó, tôi cần đến bạn, bạn cần đến tôi. Chúng ta cần đến nhau để
sửa lỗi cho nhau, cùng xây dựng cho nhau, giúp nhau trở nên tốt hơn. Khi mỗi cá
nhân không chấp nhận và thi hành trách nhiệm liên đới nầy, vì những lý do như:
quá nể nang, quá sợ sệt, sợ bị liên lụy, sợ bị thiệt thòi, hay vì nhu nhược,
tất nhiên nhiều điều đáng tiếc sẽ xảy ra cho cộng đồng và cá nhân. Trái lại,
nếu các phần tử biết quan tâm đến nhau và đến ích lợi của cộng đồng, qua các
sáng kiến tích cực và xây dựng, trong việc nhắc nhở anh chị em mình khi họ sai
lỗi, thì chắc chắn cộng đồng và cá nhân trong cộng đồng sẽ mỗi ngày một tốt đẹp
hơn. Tuy nhiên, để công việc mang lại ích lợi, chúng ta cần lưu ý:
- Người sửa lỗi: luôn thực tâm muốn cho
tha nhân trở nên tốt, đồng thời phải khiêm nhượng và khôn ngoan trong cách thức
sửa lỗi, như Chúa Giêsu đã chỉ dạy.
- Người sửa lỗi: luôn khiêm nhượng, nhận
ra những sai trái của mình, chấp nhận sự nhắc nhở của tha nhân và cố gắng sửa
đổi.
Sách Samuel 1 kể rằng: vì ghen tương, vua
Saolo quyết tâm giết Davit, nhưng hoàng từ Gionathan đã lợi dụng cơ hội thuận
tiện, khôn khéo và chân thành trình bày với vua cha: "Thưa Cha, con trộm
nghĩ: Davit không làm gì chống lại Cha. Tất cả những điều anh ta làm đều tốt
đẹp và hữu ích cho Cha cũng như cho dân Israel... Chính Cha đã thấy những việc
anh ấy làm và Cha đã vui mừng..." Những lời nói chân thành và hợp tình hợp
lý của Gionathan, khiến nhà vua suy nghĩ. Sau đó, nhà vua trả lời: "Vậy,
nhân danh Thiên Chúa hằng sống, cha hứa sẽ không tìm giết Davit nữa."
Được Chúa Kitô quy tụ qua bí tích Rửa Tội,
thành một dân thánh, một đoàn chiên, một gia đình, chúng ta phải chân thành và
tích cực giúp đỡ nhau, bằng việc sửa sai cho nhau. Biết rằng đây là công việc
khó khăn và là một thứ thuốc đắng, nhưng rất cần thiết và hiệu nghiệm, nên
chúng ta phải nhẫn nại, khôn khéo và can đảm. Ngoài ra, còn cần sự trợ lực của
Thiên Chúa, qua lời cầu nguyện và hy sinh. Chính khi chúng ta cầu nguyện và hy
sinh, Chúa sẽ biến đổi chúng ta thành những dụng cụ tốt, để biến đổi con tim
của tha nhân.
Câu hỏi gợi ý:
1. Giữa lầm lỗi của mình và của người
khác, giữa việc sửa sai lỗi của mình và sửa sai lỗi người khác, cái nào quan
trọng hơn? Có cần phải sửa lỗi cho anh em mình không? Tại sao?
2. Cộng đoàn, xã hội hay Giáo Hội trong đó
mình đang sống có thể có những sai lỗi không? Mình có trách nhiệm sửa sai tập
thể không?
Suy tư gợi ý:
1. Trên đời, ai cũng
có lỗi. Bản thân ta cũng có lỗi
Trên đời này, ngoại trừ Đức Giêsu mà ta
tin tưởng là hoàn toàn vô tội và không hề lầm lỗi, thì chẳng ai là người hoàn
hảo: «nhân vô thập toàn». Ai cũng có lầm lỗi, và ai cũng đều được mời gọi «nên
hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48). Vì thế, ai cũng
cần được sửa lỗi.
Tự nhận ra lầm lỗi hay sai trái của mình,
rồi tự sửa đổi, là điều tốt nhất, lý tưởng nhất, nhưng quả rất khó. Tâm lý
chung của mọi người là «thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà
trong con mắt của mình thì lại không để ý tới» (Mt 7,3). Vì thế, mình dễ thấy
lỗi của người khác hơn lỗi của mình; ngược lại, người khác dễ thấy lỗi của mình
hơn thấy lỗi của họ. Vì thế, để trở nên hoàn thiện, chúng ta hãy giúp nhau nhìn
thấy lỗi của mình, bằng cách người này chỉ lỗi cho người kia. Chẳng hạn trong
gia đình thì vợ chồng chỉ lỗi cho nhau, cha mẹ con cái chỉ lỗi cho nhau. Trong
các cộng đoàn, trong giáo xứ hay trong Giáo Hội cũng vậy.
Điều ấy nói thì dễ, nhưng trong thực tế,
không ai thích người khác chỉ lỗi cho mình. Khi có ai chỉ lỗi cho ta, dù có
nhận ra người ấy nói đúng, ta vẫn cảm thấy bị xúc phạm khiến ta nóng mặt, nổi
quạu, huống gì trường hợp người ấy nói không đúng, hoặc ta không nhận ra người
ấy nói đúng. Vì ai cũng coi «cái tôi» của mình quá lớn! Người chỉ lỗi cho ta,
dù thiện chí, nhiều khi cũng phải hứng chịu những «trận lôi đình», sự giận hờn,
ác cảm, thậm chí sự trả đũa của ta. Nhưng nếu ta ý thức mình chỉ là con người
bất toàn, có những lầm lỗi mà mình không hề biết, và nếu ta thật sự mong muốn
mình trở nên hoàn thiện, ta sẽ cảm thấy vui mừng và biết ơn khi có người cho ta
biết sự sai trái hay thiếu sót của ta. Sự vui mừng và biết ơn khi được sửa lỗi
là một điểm thực tế để biết mình có thật sự khiêm nhường và thánh thiện không.
2. Ai cũng phải sửa
lỗi. Bản thân ta cũng phải sửa lỗi
Một khi đã nhận ra lỗi của mình, vấn đề kế
tiếp là quyết tâm sửa lỗi. Điều này cũng không luôn luôn dễ dàng, vì những sai
lỗi nhiều khi là những thói quen cố hữu, lâu năm, hoặc phát xuất từ một quan
niệm hay một thành kiến. Bỏ đi một quan niệm hay thành kiến quả rất khó khăn.
Ngoài ra, những sai lỗi có thể gắn liền với một quyền lợi hay một thú vui nào
đó " đôi khi rất lớn" của ta. Từ bỏ sai lỗi nhiều khi đồng nghĩa với
từ bỏ một quyền lợi, một thú vui, một chứng ghiền. Nhưng dẫu thế nào, hễ là
điều xấu, là sai trái, thì ta phải sửa sai, nhất là khi nó tai hại cho tha
nhân, xã hội, hoặc cho chính bản thân ta. Có chịu sửa lỗi, ta mới trở nên hoàn
thiện hơn.
3. Sửa lỗi cho người
khác là một việc bác ái
Tự sửa lỗi mình là điều quan trọng nhất
trước khi sửa lỗi người khác. Nhiều người chỉ quan tâm sửa lỗi người khác, còn
mình thì … chẳng bao giờ chịu sửa:
«Chân mình những lấm mê mê,
lại cầm bó đuốc mà rê chân người» (Ca
dao).
Điều đó thật đáng mỉa mai! Tuy nhiên, nếu
chỉ sửa lỗi mình mà không hề quan tâm giúp tha nhân sửa lỗi, thì một cách nào
đó ta chưa đủ tình thương chân thành đối với họ. Chính Đức Giêsu trong bài Tin
Mừng hôm nay cũng khuyên ta phải sửa lỗi cho anh em.
Nhưng hãy xét xem động lực nào thúc đẩy ta
sửa lỗi cho anh em? Động lực vị kỷ hay vị tha? Ta muốn sửa lỗi anh em vì yêu
thương họ và muốn họ nên hoàn thiện hơn? Hay ta muốn lên mặt chứng tỏ họ kém ta
và ta hơn họ? Hay ta chỉ muốn giải quyết ổn thỏa sự thiệt thòi khó chịu họ gây
ra cho ta? Cùng là việc sửa lỗi anh em, nhưng một đằng có giá trị yêu thương,
được Thiên Chúa chúc phúc, và người được sửa lỗi đón nhận vui vẻ; một đằng chỉ
là một hành vi ích kỷ, chẳng mấy giá trị trước mặt Thiên Chúa, và thường gây
bực tức nơi người bị sửa lỗi.
4. Phương cách sửa lỗi
người khác
Tình thương, tính vị tha là điều hết sức
cần thiết khi ta muốn sửa lỗi anh em. Nhưng không đủ, cần khéo léo, có nghệ
thuật, nhất là thể hiện được tình thương hay đức ái. Đức Giêsu có đưa ra một
tiến trình sửa lỗi anh em.
a) Một mình mình với người anh em có lỗi:
«Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình
anh với nó mà thôi». Khi ta có lỗi, ta không muốn lỗi của ta được quảng cáo để
ai cũng biết ta có lỗi. Nếu có ai muốn sửa lỗi cho ta, ta muốn người ấy kín đáo
nói với ta, và chỉ nói với ta thôi, để sau khi sửa lỗi xong, ta như người không
hề phạm lỗi ấy. Tại sao ta không làm như thế khi sửa lỗi người khác? Làm như
thế, ta chứng tỏ mình tôn trọng danh dự và uy tín của người kia, đó là điều tối
thiểu của lòng bác ái.
Nếu lầm lỗi ấy chỉ mang tính cá nhân,
không gây tại hại hay tổn thất cho người khác hoặc cộng đoàn, thì ta nên dừng
lại ở đây. Bổn phận bác ái của ta tới đây kể như xong. Hãy để cho đương sự
quyền tự do, sửa lỗi hay không là tùy họ. Ta phải công nhận điều này: ai cũng
có một số tật xấu, sai lỗi, và ai cũng có quyền có một số tật xấu hay sai lỗi
nào đó, miễn là không làm hại đến người khác hay xã hội. Nếu con người trong xã
hội không có quyền này thì xã hội ấy rõ ràng là thiếu tự do, thiếu nhân quyền.
Ta cần tôn trọng tự do của người khác. Chỉ trừ trong gia đình hay trong tu
viện: khi con cái hay tu sinh cần được giáo dục, thì tất cả mọi tật xấu đều cần
được sửa sai cho dù không đến nỗi có hại cho tha nhân hay xã hội.
b) Dùng biện pháp mạnh hơn: «Còn nếu nó
không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được
giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân». Để sửa lỗi, không phải lúc
nào nhỏ nhẹ riêng tư cũng thành công, nhất là khi người được sửa lỗi không đủ
thiện chí, hoặc người sửa lỗi chưa đủ uy tín hay tiếng nói chưa đủ mạnh. Nếu
lầm lỗi này có hại cho nhiều người hoặc cho xã hội, thì người sửa lỗi có bổn
phận phải áp dụng một phương pháp mạnh hơn, nhưng cần tiệm tiến, không nên đốt
giai đoạn.
- Trước hết nên tìm một hai người khác có
uy tín và tình thương đối với người sai lỗi để cùng họ sửa lỗi cho người ấy.
Như thế sẽ có một tiếng nói mạnh hơn khiến người kia phải suy nghĩ và sửa lỗi.
- Nếu vẫn không được thì sao? Đức Giêsu
nói: «Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh», nghĩa là nên báo cho
những người có trách nhiệm đối với người ấy. Chẳng hạn trong gia đình thì có
cha mẹ, trong giáo xứ thì có cha sở, trong tu viện thì có cha bề trên, trong
giáo phận thì có giám mục, ngoài xã hội thì có chính quyền hay tòa án các cấp…
Nếu là người trong Giáo Hội thì nên xử lý nội bộ trước, chừng nào không được
thì mới nên đưa ra ngoài đời. Nói chung, sửa lỗi cần phải theo một tiến trình
tiệm tiến, từ riêng tư đến công khai, từ nội bộ ra ngoại bộ, từ nhỏ thành lớn,
từ đề nghị thành ép buộc… Không nên đốt giai đoạn.
c) Biện pháp cuối cùng khi tất cả mọi biện
pháp đều thất bại: Đức Giêsu nói: «Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy
kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế». Nếu đã tìm đủ mọi cách để
sửa lỗi mà đương sự không nghe, vẫn tiếp tục con đường sai lầm có hại cho tha
nhân và cộng đoàn, thì phải dùng một biện pháp thật mạnh, là loại trừ họ khỏi
cộng đoàn, coi họ như người ngoại hoặc người thiếu thiện chí. Nên nhớ, cho dù
có dùng đến biện pháp này, thì biện pháp này vẫn chỉ là một phương tiện bất đắc
dĩ của tình thương, nghĩa là vẫn phải duy trì họ trong tình thương của mình.
5. Can đảm sửa lỗi cho
Giáo Hội và xã hội
Không chỉ trên bình diện cá nhân mà một
tập thể, một cộng đoàn, một xã hội hay một Giáo Hội cũng có thể sai lỗi và cũng
cần được sửa lỗi.
Nếu cộng đoàn của mình có những khiếm
khuyết phương hại tới trật tự hay sự phát triển chung của chính cộng đoàn, của
xã hội hoặc Giáo Hội, thì các thành viên, nhất là những người lãnh đạo trong
cộng đoàn ấy, có nhiệm vụ tìm cách sửa sai. Sống trong một xã hội có cơ chế bất
công, đàn áp, chỉ phục vụ cho một đảng phái hay một thiểu số, bất chấp quyền
lợi của đa số dân chúng, thì người trong xã hội ấy, nhất là Kitô hữu, có nhiệm
vụ tìm cách cải thiện, đem lại sự công bằng, hợp lý và ổn định cho xã hội.
Nếu trong Giáo Hội mình đang sống có những
sai trái, thì tất cả các thành viên, nhất là hàng giáo phẩm và giáo sĩ, có nhiệm
vụ tìm cách sửa sai để Giáo Hội nên hoàn chỉnh hơn. Chẳng hạn hiện nay Giáo Hội
đang quá quan tâm tới những lễ nghi, hình thức bên ngoài, mà thiếu chiều kích
sống đạo nội tâm: rất cần điều chỉnh lại. Hoặc trong ba chức năng quan trọng
ngang nhau của người Kitô hữu, Giáo Hội đang có chiều hướng chỉ quan trọng hóa
chức năng tư tế (thờ phượng) mà coi nhẹ hoặc bỏ lửng chức năng vương đế (làm
chủ bản thân, gia đình, xã hội, ngoại cảnh) và ngôn sứ (làm chứng cho Thiên
Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương). Vì thế, trong một xã hội đầy bất
công và đàn áp, lối sống đạo què quặt như thế có thể trở thành một thứ thuốc
phiện tinh thần làm tê liệt sức đấu tranh cần phải có của quần chúng để chống
lại những bất công hay tệ nạn của xã hội.
Thiết tưởng Giáo Hội cần có những nỗ lực
sửa sai hơn tất cả mọi tổ chức hay thế lực khác, để Giáo Hội trở nên hoàn
thiện, vì chính Giáo Hội luôn luôn rao giảng và cổ võ sự thánh thiện, hoàn hảo
như một lệnh truyền của Đức Kitô. Giáo Hội cần phải làm gương trong lãnh vực
này.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin giúp con ý thức bổn phận
trước tiên và trọng đại nhất của con là trở nên hoàn thiện. Nhưng con không thể
nên hoàn thiện một mình, con cũng có bổn phận giúp người khác, trong đó có
những người chung quanh con, và hơn nữa, cộng đoàn của con, xã hội và Giáo Hội
con đang sống. Tất cả đều được Cha mời gọi nên hoàn thiện. Xin cho con biết
khéo léo trong việc làm cho tha nhân nên hoàn thiện. Amen.
Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được
người anh em
Chúng ta đã nghe nhiều lần về câu chuyện
người đàn bà ngoại tình trong Phúc âm. Chúa Giêsu đã đối xử với bà như thế nào?
Chúa đã không xét đoán hành động của bà; Ngài đã nói: Ta cũng không lên án bà,
về đi và đừng phạm tội nữa (Gn 8,11).
Qua bài Phúc Âm hôm nay, một lần nữa Chúa
muốn dạy chúng ta đừng xét đoán kẻ khác, nhưng hãy giúp đỡ, sửa dạy người anh
em.
Việc sửa dạy người anh em không phải là
chuyện dễ dàng, vì mình không thể lường được phản ứng của người kia như thế
nào, không biết họ có chấp nhận thiện chí của mình hay lại cho là mình nhiều
chuyện, vì đèn nhà ai người ấy sáng, mắc mớ gì tới mình. Hơn nữa mình cũng chưa
hoàn hảo thì làm sao dám sửa chữa người khác, mình cần sửa mình trước đã.
Thái độ của người sửa dạy: Người sửa dạy
hãy dùng tình yêu để chia sẻ những nhận định, ý kiến của mình, lời nói thành
thật, khiêm nhường, nêu lên những cái lợi, cái hại của sự việc hơn là nói những
lời ép buộc bắt người khác nghe theo ý mình. Sửa dạy khác với xét đoán, vì khi
xét đoán, có thể vì ác cảm hoặc chỉ biết có một khía cạnh mà xét đoán sai lầm.
Còn sửa dạy là muốn cho người đó được trở nên tốt đẹp, trở nên hoàn hảo hơn,
hoặc giúp sửa lại một việc vì vô tình đã có những hành vi sai lầm.
Thái độ của người được sửa dạy: Khi có
người sửa dạy mình thì hãy bình tĩnh, mỡ rộng tâm hồn để lắng nghe, sáng suốt
nhận ra sai lầm, khiêm nhường nhận những lời khuyên và cố gắng sửa chữa càng
sớm càng tốt. Không nên cố chấp, cứng đầu, thiếu tinh thần cảnh giác.
Những ai có thể sửa chữa người khác? Tất
cả mọi người đều có thể dùng lời lẽ tốt đẹp để sửa chữa người khác. Vì tình
thương sẽ hoán đổi được con người. Cha mẹ sửa chữa cho con cái, ngược lại con
cái cũng giúp cho cha mẹ sửa chữa các lỗi lầm. Thầy sửa chữa trò, vợ chồng sửa
chữa cho nhau để tình yêu thêm đằm thắm hơn. Bề trên sửa chữa cho người dưới,
hoặc ngược lại người dưới giúp bề trên sửa lỗi mình.
Ngoài ra những vị có quyền rao giảng Lời
Chúa cần phải nói thằng, nói thật để người khác sửa chữa lối sống cho phù hợp
với tinh thần Phúc Âm. Nếu ta nuôi con chó giữ nhà, khi có người lạ hoặc kẻ
gian đến mà chó không biết sủa thì nào có ích gì? Cũng vậy, người có nhiệm vụ
giảng dạy mà vì lý do nào đó không dám nói sự thật thì cũng chẳng có ích gì,
thà rằng không có còn hơn.
Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con sống tốt
lành như Chúa, và Chúa cũng muốn chúng con giúp những anh em khác sống tốt
lành. Xin cho con lòng yêu mến Chúa hết lòng, yêu mến tha nhân, vì yêu thương
là chu toàn lề luật. Xin cho chúng con biết kết hợp với nhau trong việc cầu
nguyện, để Chúa ở giữa chúng con nơi trần gian này và ngày sau vô cùng.
(Suy niệm của Lm Gioan B. Phan Kế Sự)
“Nếu anh em ngươi lỗi
phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi”
Sửa dạy anh em, sửa sai những lầm lỗi hay
nắn lại những lệch lạc thường là những công việc “tế nhị nhạy cảm” và ai cũng
muốn tránh; trừ một số người sinh ra để kết án anh em: kẻ độc tài và gian ác!
Trách người cũng chính là trách mình. Nhận
xét người cũng chính là vạch trần những cái xấu của mình. Sửa sai người cũng
làm cho chính mình bị nhột nhạt và khó chịu. Một điều thật đơn giản là ai trong
chúng ta cũng thật nhiều lầm lỗi, lắm khi còn nhiều thiếu sót hơn anh em mình.
Tệ hơn, nó còn là bình phong, là tấm lá chắn cho những lầm lỗi của mình.
* Chúa yêu thương và đặc biệt
quan tâm đến từng người chúng ta. Chúa luôn luôn muốn chúng ta thuộc về
Người và không muốn ai trong chúng ta phải hư đi. Nhắc nhở anh em, tạo điều
kiện giúp anh em trở lại con đường ngay, là Chúa muốn từng người chúng ta, cùng
với Ngài, giúp cho người anh em mình trở về chính lộ, tránh đi những sai lầm
đáng tiếc để trở thành một con người tốt. Trong cách xử thế, Chúa dạy chúng ta
trước hết phải biết tôn trọng anh em “riêng ngươi và nó thôi”. Tình thương của
Thiên Chúa luôn tạo điều kiện, dịp may, cơ hội để mỗi người chúng ta sống tốt
hơn. Ngừơi đời vẫn thường dạy “chị ngã em nâng”.
* Phải có lòng tự trọng.
Việc sửa sai phải đặt nền tảng trên đức bác ái Kitô giáo, chứ chẳng phải là sự
bố thí của kẻ trên với kẻ dưới, càng không phải là sự kết án độc tài, độc ác
như là một quan tòa đối với một tội nhân. Thái độ đặt anh em như là đối thủ để
lên án, mà không hề biết tôn trọng, hỏi han lý lẽ, tìm hiểu cặn kẽ nguyên nhân,
chỉ làm cho anh em ngày càng đi sâu vào sự hận thù, mất niềm tin và thất vọng.
“Hãy đi sửa dạy nó” Chúa muốn mỗi người khi sống bên cạnh nhau, luôn là những
người bạn chân thành, quảng đại và có trách nhiệm với nhau trước những lầm lỗi
của anh em mình. Ai trong chúng ta mà chẳng có lần lầm lỗi và yếu đuối. Chính
vì thế, việc bảo ban, nhắc nhở cho anh em mình, cũng chính là cơ hội để mỗi
người “tự thức tỉnh mình”. Hãy hết sức tránh thái độ kẻ cả với anh em, với cộng
sự của mình.
* Nền tảng của luân lý rất rõ
ràng “Phương tiện xấu không thể biện minh cho mục đích tốt”. Vì thế,
việc sửa dạy nhau không dựa trên “những lời đồn đóan”, càng không thể dựa trên
những lời vu khống, bịa đặt, bêu giễu của những kẻ ác tâm. Chuyện không đơn
giản là sửa sai, trách móc hay trừng phạt anh em bằng mọi thủ đọan; mà chính là
tính minh bạch, công tâm và nhất là vì lợi ích cho cộng đòan chứ không phải
nhằm vào việc thi hành quyền lực.
Việc sửa dạy anh em không phải là chuyện
dễ, càng không được tùy tiện! Mỗi người trong chúng ta đều có cái hay cái dở,
vì chẳng ai trong chúng ta là hòan hảo. Phải biết đặt mình vào chính hòan cảnh
cụ thể của anh em, bởi chính chúng ta khi sống trong hòan cảnh đó, nhiều khi
tình trạng của chúng ta coi chừng lại còn tệ hại hơn. Cũng đừng đem bụng ta để
suy đóan bụng người, vì nhiều khi chúng ta suốt đời chỉ sống trong nhung lụa,
môi trường “đi nâng về hứng”, còn anh em luôn phải đối diện với bao khó khăn,
nhục nhằn. Mục đích của việc sửa dạy là “Phải được lợi cho người anh em”, chứ
không phải lợi dụng cơ hội để đạp anh em tận xuống đáy bùn đen!
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, con người chúng con thật yếu
đuối lầm lỡ, bởi chúng con mãi mãi là một thụ tạo bất toàn và hay sa ngã. Xin
Chúa cho mỗi người chúng con luôn ý thức về sự bất tòan của mình để có đủ thiện
chí tiếp nhận những lời nhắc nhủ của anh em và luôn sẵn lòng tha thứ cho anh
em. Xin hãy uốn nắn chúng con thành những người con ngoan hiền, dễ dạy để mãi
mãi là những người con yêu dấu của tình thương Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Tin Mừng Thánh Matthêu chương 18 tập chú
vào chủ đề đời sống đoàn. Thoặt nghe bài Tin Mừng Mt 18,15-20 với những lời căn
dặn của Đấng Cứu Thế về việc sửa bảo anh em, chúng ta dễ liên tưởng đến việc
cần có thái độ tế nhị tôn trọng anh em trong khi sửa bảo nhau. Điều này thì
không ai chối cãi. Yêu thương và tôn trọng là hai động thái tất yếu phải đi
sóng đôi. Tuy nhiên, qua những lời dạy của Thầy Chí Thánh, chúng ta còn phải
lưu ý đến tính triệt để của việc sửa sai, dạy bảo nhau. Nghĩa là khi thấy anh
em, thấy tha nhân sai lỗi thì cần phải tích cực sửa bảo nhau cách triệt để, tức
là cho đến cùng.
Số phận của tha nhân cũng là số phận của
chính ta:
Ngôn sứ Êdêkiel đã minh nhiên lời dạy của
Thiên Chúa: “Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta nói cho chúng
biết. Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: “Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải
chết”, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính
kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, thì Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó”
(Ed 33,8). Không ai được phép vào Nước Trời một mình. Thiên Chúa không phải là
Cha của mình tôi. Người là Cha của “chúng ta”, của mọi người (x.Kinh Lạy Cha).
Thái độ dửng dưng, kiểu sống mặc kệ nó, là kiểu sống, là thái độ không xứng với
người con cái Chúa.
Người ta có thể không ghét bỏ tha nhân,
không tìm cách mưu hại tha nhân, thế nhưng chính khi không màng đến số phận của
tha nhân cũng là khi ta góp phần hãm hại tha nhân cách gián tiếp. Đã nhiều lần
Chúa Kitô nhấn mạnh chân lý này khi Người trách cứ tấm lòng dửng dưng của những
luật sĩ biệt phái trước bao nổi khổ của đồng loại. Thấy anh em đang sai lỗi
cũng như thấy anh em đang đứng bên bờ vực thẳm mà ta không lên tiếng cảnh báo
hay sửa sai thì chính ta đã vô tình, đúng hơn là đã vô tâm để người anh em rơi
xuống vực. Không cứu người theo khả năng và hoàn cảnh của mình là đã giết
người. Dưới cái nhìn này chúng ta mới hiểu những lời đanh thép của Thiên Chúa
qua miệng Ngôn sứ Êdêkiel ở trên: “Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó”.
Khi vạch rõ lộ trình sửa bảo anh em, bắt
đầu từ hình thức cá nhân đến cộng đoàn, thì ngoài việc tôn trọng phẩm giá, danh
dự người có lỗi, Chúa Kitô đã minh nhiên dạy ta tích cực sửa bảo người anh em
cho đến cùng. Khi người anh em lỗi phạm không nghe cộng đoàn thì hãy xem họ như
người ngoại giáo hay người thu thuế thì vẫn không là buông xuôi mà là trao phó
cho Chúa, Đấng không có sự gì là không thể (x.Mt 19,26). Ngay cả khi trao phó
người anh em lỗi phạm cho Chúa thì ta vẫn còn đó bổn phận góp phần bằng lời cầu
nguyện. Để làm rõ hiệu quả của lời cầu, thì liền sau đó Chúa Kitô đã khẳng
định: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời
cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu
có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20).
Chúng ta cần phân biệt các hành vi sai
trái mang tính cá nhân và hậu quả của hành vi lỗi phạm thì hạn chế với những
sai lầm mang tính tập thể và hậu quả di hại cho xã hội là rộng lớn hoặc hành vi
lỗi phạm của cá nhân trở thành gương xấu gương mù cho xã hội, cho những kẻ bé
mọn. Cung cách hành xử của Chúa Kitô thật rõ ràng. Nguời từ tâm, nhân hậu với
những trường hợp đầu mà trái lại rất thẳng thắn và cương quyết với những trường
hợp sau. Người tỏ lòng nhân hậu với chị phụ nữ phạm tội ngoại tình. Người thật
khoan dung với sự yếu hèn của Phêrô khi chối Người, nhưng Người lại nghiêm khắc
trước sự sai trái cũng của chính Phêrô khi ông ngăn cản Người lên Giêrusalem để
thực thi công trình cứu độ bằng sự khổ nạn. Và với nhiều vị lãnh đạo Do Thái
giáo hay các bậc vị vọng thời bấy giờ là Biệt Phái, Luật sĩ…thì thái độ của
Chúa Kitô là rất thẳng thừng và cương quyết. Tuy nhiên dù cương quyết hay nhân
hậu, dù nghiêm khắc hay dịu dàng thì các hành vi của Chúa Kitô đều ắp đầy lòng
xót thương. Đến trần gian, một sứ mạng của Đức Kitô là mạc khải cho nhân trần
chân dung của Thiên Chúa, Đấng từ bi và hay thương xót, Đấng không muốn bất cứ
một ai phải hư mất.
Đức ái là động lực, là hình thức và là mục
đích của việc sửa sai nhau:
Chúng ta dễ dàng chân nhận sự cần thiết
của việc sửa bảo nhau. Tuy nhiên cần biết sửa bảo nhau vì yêu thương nhau, muốn
cho nhau đổi thay và nên tốt lành, thánh thiện hơn, bằng những hình thức, những
phương thế chính đáng và phải đạo. Làm sao minh chứng được động cơ và mục đích
của việc ta sửa bảo nhau là vì yêu thương nhau? Quả là khó khi thẩm định những
gì thuộc chiều sâu của tâm hồn. Với lời mạc khải, qua tấm gương của các ngôn
sứ, đặc biệt của Chúa Kitô chúng ta có thể xác định rằng đức ái chính là động
cơ và mục đích của việc sửa bảo nhau dựa vào một vài dấu chỉ sau:
- Có nhổ thì có trồng; có phá thì có xây:
Ta không chỉ nói lên cái sai trái, sự lầm lỗi của nhau mà ta còn vạch ra cách
thế sửa đổi, còn đề xuất phương hướng khắc phục cho nhau.
- Sẵn sàng đón nhận những sự hiểu lầm,
những nghịch cảnh và cả những ngược đãi khi ta chân thành sửa bảo nhau bằng
lòng khoan dung, tha thứ.
“Anh em đừng mắc nợ gì
ai, ngoài món nợ tình yêu” (Rm 13,8). Đã mắc nợ là phải trả.
Một trong những món nợ tình yêu chúng ta cần phải trả liên lĩ đó là món nợ liên
đới trong lỗi phạm của nhau. Để trả món nợ này, chúng ta không chỉ can đảm đón
nhận các hậu quả do tội lỗi của nhau mà còn phải tích cực sửa bảo nhau trong
đức ái. Nếu ngươi không sửa bảo kẻ có tội thì “Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó”
là một lời cảnh báo thật đáng sợ. Tuy nhiên để cho việc sửa bảo nhau đạt kết
quả thì chúng ta đừng quên rằng ngoài việc cầu xin ơn Chúa soi sáng, nâng đỡ,
thì bản thân chúng ta trước hết cần làm thanh sạch bản thân mình một cách nào
đó. Vì khi đã lấy cái xà ra khỏi mắt mình thì mình mới thấy rõ và biết cách lấy
cái rác ra khỏi mắt anh em (x.Mt 7,1-5). Xin đừng viện cớ rằng tôi chưa hoàn
thiện, nghĩa là vẫn còn vương nhiều lầm lỗi, nên tôi không được phép sửa bảo
ai. Ngoại trừ Mẹ Maria, chúng ta thảy đều là tội nhân, mức này, mức kia. Hãy
nhớ lời dạy của thánh Giacôbê: “Thưa anh em, nếu có người nào trong anh em lạc
xa chân lý và có ai đưa người ấy trở về, thì anh em hãy biết rằng: kẻ nào làm
cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn người ấy
khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình.” (Gc 5,19-20)
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Khi đảm nhận vài trò sửa lỗi cho anh chị
em, hẳn chúng ta đều cảm thấy quá khó! Khó là vì không ai muốn nhận lỗi về
mình, và nếu có nhận ra lỗi của mình thì cũng khó lòng chấp nhận sửa sai vì cái
“tôi” quá lớn.
Tại sao vậy? Thưa! Đơn giản là vì tâm lý
chung của mọi người đa phần là bảo thủ nên dễ nhận thấy lỗi của người khác hơn
là lỗi của mình, còn người khác thì dễ nhận ra lỗi của ta hơn là lỗi của họ.
Hôm nay, Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ
của mình hãy sửa lỗi cho anh em. Tuy nhiên, theo lẽ thường, muốn thành công,
người môn đệ phải có được tâm tình như: yêu thương chân thành, tôn trọng, tế
nhị, kiên trì và cầu nguyện. Bỏ một trong các bước trên, thành công là điều khó
có thể xảy ra!
1. Sửa lỗi nhau trong
yêu thương chân tình:
Trước tiên, khi muốn sửa lỗi cho người
khác, chúng ta phải luôn tâm niệm rằng: “Nhân vô thập toàn” và lỗi của người
anh em đôi khi cũng là lỗi của mình. Chính thánh Gioan đã quả quyết: “Nếu chúng
ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở
trong chúng ta” (1Ga 1,8). Khiêm tốn nhận ra mình tội lỗi, yếu đuối và bất toàn
sẽ mang lại cho ta bài học về sự thông cảm, nhẹ nhàng và bao dung. Ngược lại,
nếu không khiêm tốn, ta dễ rơi vào tình trạng vô cảm, dửng dưng với người tội
lỗi. Và như một lẽ tất yếu, hẳn chúng ta không những không được Thiên Chúa tha
thứ cho chính mình, nhưng Người sẽ đòi nợ ta theo lẽ công bằng. Lúc ấy, chúng
ta cũng là những người sẽ bị kết án vì sự bất nhân của mình với anh chị em đồng
loại.
Điều này được quảng diễn qua dụ ngôn người
mắc nợ không biết thương xót, ông chủ đã lên án con người “cạn tình ráo máng”
này khi nói: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi
đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như
chính ta đã thương xót ngươi sao? Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính
hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông" (Mt 18,32-34).
Như vậy, khi sửa lỗi cho nhau dựa trên
tình yêu nhờ động lực của đức ái, chúng ta mới có thể đi vào tình yêu của Thiên
Chúa để đón nhận sự tha thứ cho chính mình và diễn tả tình yêu đó cho người
khác trong khi sửa lỗi cho họ.
2. Sửa lỗi trong tâm
sự nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị và tôn trọng:
Thứ đến, là sửa lỗi cho anh chị em mình
trong tâm sự nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị và tôn trọng: Đức Giêsu đã nói rất rõ:
"Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một
mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người
anh em mình” (Mt 18, 15).
Thường thì con người dễ nghe những lời tâm
sự, kín đáo, tế nhị, chân tình hơn là những sự nạt nộ, kết tội... hơn nữa, một
mình ta với người được sửa lỗi nói lên tính riêng tư và mang lại cảm giác an
toàn, kính trọng vì họ đang được yêu thương.
Thật vậy, nếu không có sự tôn trọng, nhẹ
nhàng, tế nhị và kín đáo, chúng ta không thể hiểu được tâm trạng của người tội
lỗi!!! Bởi vì, thường những người phạm tội luôn mang hai trạng thái, một là tự
ái, hai là mặc cảm, xấu hổ. Mặt khác, người sai lỗi thường rơi vào tình trạng
bất ổn về lương tâm, nên tinh thần, thái độ của họ rất mỏng dòn, yếu đuối và dễ
buông xuôi. Chỉ cần một lời nói thiếu tế nhị là có thể đổ bể mọi vấn đề... và
vô tình, chúng ta lại đào thêm hố ngăn cách cho anh chị em, làm cho sự việc trở
nên trầm trọng hơn. Thiếu đi sự tôn trọng thì chỉ còn những lời chỉ trích,
nguyền rủa. Có được sự tôn trọng, chúng ta sẽ nhẹ nhàng, khiêm tốn khi sửa lỗi.
Như vậy, cần phải có thái độ trân trọng
với người mà tôi đang muốn giúp đỡ họ. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người
anh em, là bạn, và trên hết là hình ảnh Thiên Chúa. Trân trọng nữa là vì nơi họ
vẫn còn đó những suy tưởng tích cực và lương tâm chân chính thủa ban đầu mà
Thiên Chúa đã phú bẩm nơi tâm hồn họ, vì thế, tận sâu thẳm của tâm hồn, họ vẫn
được tiếng nói lương tâm thúc đẩy để “làm lành lánh dữ” và cách nào đó họ vẫn
khao khát tìm về Chân, Thiện, Mỹ.
Mặt khác, khi chúng ta nhẹ nhàng để chỉ
cho người anh chị em của mình thấy được lỗi của họ mà sửa, ấy là lúc biểu hiện
của tâm hồn một người thánh thiện, chân thành chứ không phải nhân cơ hội này,
mình hạ thấp nhân phẩm và nhấn chìm họ xuống để mình được vươn lên trong sự
huênh hoang, tự mãn... hãy mặc lấy tâm tình của một người bạn hơn là người chỉ
giáo; có tâm tình của một người cha hơn là một quan tòa...
Làm được điều đó, chúng ta sẽ loại bỏ điều
oán ghét, giận hờn... để chỉ vì một động lực duy nhất là tình yêu, một mục đích
nguyên tuyền là muốn cho người anh chị em chúng ta được trở nên tốt hơn mà
thôi.
3. Sửa lỗi trong kiên
trì và cầu nguyện:
Cuối cùng, khi thi hành việc sửa lỗi là cả
một quá trình. Chuyện liên quan đến toàn thể con người, nó đụng đến tận gốc rễ
của cái “tôi”, vì thế, không phải là chuyện làm một lần là xong. Cần phải có
nhiều phương án. Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta những phương án như sau: gặp
riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn (x. Mt
18,15-17). Hãy nhớ lại sự kiên trì của thánh nữ Mônica với thánh Âu tinh!
Tuy nhiên, kiên trì là điều cần, nhưng
không thể đóng vai trò quyết định. Thật vậy, mọi chuyện sẽ không thể thành công
và sẽ trở thành “công dã tràng” nếu phủ nhận ơn Chúa và cậy dựa vào khả năng
thuần túy của ta.
Như thế, đời sống cầu nguyện, kết hợp với
hy sinh là điều quan trọng để quyết định thành công hay thất bại. Chúng ta nên
nhớ rằng sửa lỗi là việc của chúng ta, nhưng kết quả là việc của Chúa. Chúng ta
không có khả năng để thay đổi người khác. Bởi vì: “Mưu sự tại nhân, thành sự
tại Thiên”.
Bên cạnh đó, người sửa lỗi phải có sự can
đảm chấp nhận sự thiệt thòi về mình khi dám nói lên sự thật, bởi vì đôi khi bị
hiểu lầm, ghen ghét, ganh tỵ và bị trả thù ngang qua những sự thật mà ta đã
nâng đỡ...
Mong sao, khi đứng trước lỗi lầm của người
khác, chúng ta đừng rơi vào tình trạng: khắt khe hoặc vô cảm. Bởi vì khắt khe,
chúng ta sẽ hướng chiều về sự loại trừ khi can thiệp cách thô bạo nhằm đẩy lui
người anh chị em vào bóng tối. Còn thờ ơ, chúng ta lại rơi vào tình trạng lãnh
cảm, tức là không cần quan tâm, bỏ rơi. Tất cả những điều đó hoàn toàn là một
“tấm vải đen”, “một bầu trời u ám” cho cả người sửa lỗi và người được sửa lỗi.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết ý thức
mình cũng là con người bất toàn nên cần đến ơn Chúa trợ giúp. Đồng thời, xin
cho chúng con biết sửa lỗi anh chị em trong tinh thần khiêm tốn và thánh thiện.
Xin Chúa cũng ban cho chúng con ơn can đảm, trung thành trong sự thật khi thi
hành công việc khó khăn này. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Trong quyển sách về truyền thống của các
vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây: Một hôm, khi Đức Giám Mục A-mô-la đến
thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với ngài lòng bất mãn tột độ của
họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.
Vị ẩn tu này đã không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên
án: "Hôm nay ngài đã đến đây thì ngài phải giải quyết dứt khoát tình trạng
bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia". Sau khi
nghe những lời kết án gay gắt của dân làng, Đức Giám Mục quyết định leo lên
núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo
đến túp lều của mình thì hoảng sợ và bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một chiếc
thùng rỗng.
Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước
túp lều và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh
và hiểu ngay tình hình. Ngài ung dung đi thẳng đến chiếc thùng gỗ và ngồi trên
đó để nghỉ chân, rồi bình thản ra hiệu gọi dân làng vào và bảo: "Vào đây,
anh chị em hãy vào mà lục soát túp lều để tìm người phụ nữ". Họ lăng xăng
lục lọi, nhưng không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà. Khi ấy, Đức Giám Mục
mới nói: "Bây giờ anh chị em phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói
xấu vị ẩn tu này vô cớ". Nhưng sau đó, khi mọi người đã kéo nhau xuống
núi, Đức Giám Mục tiến lại gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt
nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói:
"Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy".
Hai thái độ khác nhau đối với một người
lầm lỗi giữa dân làng và Đức Giám Mục A-mô-la có thể giúp chúng ta hiểu giáo
huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay về việc sửa chữa lỗi lầm của nhau.
Chúng ta thấy, ngược với phản ứng của dân làng, Đức Giám Mục A-mô-la đã cố gắng
áp dụng lời khuyên của Chúa Giêsu. Trong một tình trạng khó xử, chúng ta thấy,
trước hết, ngài đã tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một
vấn đề cá nhân, để có dịp thuận tiện nói chuyện diện đối diện với vị ẩn tu.
Tiếp đến, ngài đã không sửa lỗi ông như một người có thẩm quyền, trái lại, ngài
đã dùng thẩm quyền của mình bảo vệ cho vị ẩn tu, để sau đó có thể khuyên nhủ
ông như một người anh em. Sau cùng, dầu không cấu kết với đám đông để khinh
thường và lên án vị ẩn tu đang vấp phạm, nhưng cũng không im lặng làm ngơ, ngài
đã nêu bật mối nguy hiểm của lỗi lầm này đối với phần rỗi của đương sự, qua một
lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn: "Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ
mình kẻo mất linh hồn".
Sửa chữa anh em là một điều rất hợp thánh
ý Chúa. Ngài không muốn cho tội nhân phải hư mất mà được hối cải và được sống.
Sửa chữa nhau là điều luật của bác ái: yêu tha nhân như Chúa yêu thương chúng
ta. Mà yêu người là muốn sự lành cho người, là lo lắng kéo người ta ra khỏi
tình trạng tội lỗi, đưa đến chỗ thánh thiện.
Nhưng để việc sửa chữa anh em đem lại kết
quả mong muốn, thì ngoài sự cầu nguyện là việc rất cần thiết cho mọi cuộc trở
lại, chúng ta phải thực hiện theo phương pháp và thứ tự như Chúa Giêsu dạy.
Trước hết là gặp gỡ riêng giữa hai người, chỉ hai người thôi, ta và người sai
lỗi, nếu chưa kết quả, nhờ một hay hai người khác cùng góp ý, nếu không kết quả
mới đưa ra cộng đoàn hay trình lên những vị có thẩm quyền để giải quyết, hoặc
tiếp tục cầu nguyện. Nếu làm hết cách theo khả năng mà chưa kết quả, hãy nhận
sự giới hạn của mình và phó dâng người anh em cho lòng nhân từ của Chúa.
Như vậy, giúp nhau sửa chữa lỗi lầm, thiếu
sót là một việc rất tốt và rất cần, nhưng khi làm việc này chúng ta phải nhớ là
chỉ nên gặp gỡ trực tiếp cá nhân mà thôi, cùng lắm chúng ta mới nên nói qua
trung gian, vì như vậy tránh được một người khác biết lỗi lầm đó, và càng tránh
được nhiều bao nhiêu càng tốt. Đồng thời chúng ta hãy tự hỏi: "Nếu tôi là
người được sửa sai đó, tôi sẽ phản ứng thế nào?". Tự hỏi mình như thế
chúng ta sẽ biết mình phải nói gì và phải cư xử ra sao, bởi vì mỗi người đều có
lòng tự ái.
Tóm lại, cầu nguyện cho nhau, cầu nguyện
với nhau và sửa chữa lẫn nhau, đó là ba đặc tính của các cộng đoàn Ki-tô hữu
hoặc trong các đoàn thể, các gia đình, các giáo xứ. Cầu nguyện cho nhau thì dễ,
cầu nguyện với nhau khó hơn một chút, vì phải đồng tâm nhất trí, nhưng sửa chữa
nhau là điều khó hơn cả. Việc sửa chữa nhau đòi hỏi một tình yêu thương cao độ,
thứ tình yêu mà thánh Phaolô nói là chu toàn được tất cả mọi điều luật, nghĩa
là gồm tất cả các đức tính khác, thứ tình yêu thành thật, thiết tha, thông cảm,
cởi mở, đến nỗi người sửa lỗi có thể nói được tất cả và người được sửa lỗi có
thể đón nhận tất cả. Tình yêu nơi người sửa lỗi nhiệt thành, muốn cho anh em
nên tốt thật, và sẵn sàng hy sinh thời giờ, sức khỏe, nhẫn nại, chịu đựng, cũng
như đem tất cả tài năng để tìm ra những biện pháp cần thiết, không kém tế nhị,
để đưa người anh em tới chỗ tốt lành thánh thiện. Tình yêu nơi người được sửa
lỗi phải thiết tha với sự trọn lành, tỏ ra biết ơn người sửa chữa mình, khiêm
tốn và vui vẻ đón nhận, cũng như cương quyết thi hành những điều sửa bảo để nên
tốt.
Đã là con người, khi đã biết sử dụng trí
khôn, hay khi còn sử dụng được trí khôn bình thường, thì còn lầm lỗi, và còn
lầm lỗi là còn cần được sửa chữa, như ca dao tục ngữ đã nhìn nhận: “Tha thứ là
bệnh của trời, lỗi lầm là bệnh con người chúng ta”. Quả thực, Thiên Chúa sinh
ra chúng ta, mỗi người mỗi vẻ, mỗi người mỗi tính, không ai giống ai: người thì
nhanh nhẹn, người thì chậm chạp, người thì hăng say năng nổ, nhiệt tình, người
thì tiêu cực, ơ hờ, lười biếng, người thì mau miệng, người thì chậm nói, người
thì mạnh bạo, người thì nhút nhát: “Bá nhân bá tánh”, trăm người thì có trăm
tính cách khác nhau. Vì thế, mỗi người phải phát huy ưu thế của mình, và tận
dụng nó trong việc giúp đỡ anh em mình cái mặt yếu kém của họ, không được ỷ vào
ưu điểm Chúa ban mà lên mặt tự phụ khinh thường người khác.
Hơn nữa nhân vô thập toàn, không ai là
hoàn hảo, tuyệt đối không bao giờ sai lầm hay thiếu sót. Trái lại, còn thường
xuyên lầm lỗi và thiếu sót nữa, nên chỉ bảo cho nhau, góp ý xây dựng cho nhau,
sửa lỗi lẫn nhau là một điều cần thiết. Đây là một cách cư xử rất khó khăn, rất
phức tạp, đòi hỏi phải hết sức tế nhị và phải làm.
Chúa Giêsu hiểu biết tâm lý con người,
Ngài biết rõ chúng ta yếu đuối, hay lầm lỗi, thiếu sót và cần sửa chữa, nên
Ngài đã chỉ dạy chúng ta một cách sửa lỗi nhau rất hay, rất tế nhị. Đó là khi
chúng ta muốn sửa lỗi ai, chúng ta phải ý tứ làm từng bước như Chúa chỉ dạy
trong bài Tin Mừng hôm nay, thì mới kết quả và thành công.
Bước thứ nhất hay việc đầu tiên là gặp gỡ
riêng giữa hai người, chỉ hai người thôi, ta và người sai lỗi. Gặp gỡ và nói
chuyện với nhau trong tình thân ái, kín đáo và chân thành. Gặp gỡ như vậy, một
đàng sẽ giúp chúng ta hiểu nhau, thông cảm nhau và biết đúng sự thật hơn. Đàng
khác, sẽ giúp cho người sai lỗi thấy được lỗi lầm của họ để sửa chữa và phục
thiện.
Sau khi đã gặp gỡ riêng rồi mà vẫn không
kết quả, người sai lỗi vẫn cứng lòng, tự ái, cố chấp, thì mời một hoặc hai
người làm nhân chứng và cùng góp ý. Nhiều người nhiều bộ óc, tất nhiên sẽ uy
thế hơn, cao kiến hơn, vừa minh chứng cho lòng thành thật của chúng ta, vừa cho
người sai lỗi thấy rõ và phải nhìn nhận điều sai trái của họ.
Nếu vẫn không kết quả, khi ấy mới đưa ra
cộng đoàn hay đưa đến người có thẩm quyền để giải quyết. Chúng ta hãy nhớ đưa
ra người có thẩm quyền trong Giáo Hội chứ không phải người có thẩm quyền ngoài
xã hội. Tức là chúng ta không bao giờ kiện cáo nhau để đem nhau ra tòa án phần
đời. Chẳng hay ho gì mà còn mang tiếng cho đạo nữa. Chúng ta cũng phải nhớ là
chỉ sau khi đã gặp gỡ riêng và nhờ người khác góp ý rồi mới đưa tới người có
thẩm quyền. Có những người đưa ngay vụ việc tới người có quyền, hoặc là để ton
hót, lấy điểm hoặc là vì lòng ghen ghét, ganh tị, tức giận, như thế sẽ làm tổn
thương tự ái và hậu quả sẽ tệ hại hơn.
Nếu đã làm hết cách theo khả năng mà vẫn
không kết quả, thì hãy nhận sự giới hạn của mình và phó dâng người anh em cho
lòng nhân từ của Thiên Chúa là cầu nguyện cho họ. Chúng ta cầu nguyện và cộng
đoàn cầu nguyện, chắc chắn lời cầu nguyện ấy sẽ được Chúa nhận lời. Chúng ta
hãy nhớ: việc góp ý xây dựng hay sửa lỗi nhau phải nhằm mục đích là để giúp họ
trở nên tốt hơn. Chúng ta phải sửa lỗi anh em trong tình mến chứ không phải vì
lòng tự ái, không phải vì ganh tị, lại càng không phải vì tức giận, thù ghét.
Đàng khác, chúng ta cũng phải để ý đến vấn
đề tâm lý nữa, tức là để ý đến thời gian, không gian và cách cư xử nữa. Có việc
chúng ta góp ý lúc này thì không kết quả, nhưng lúc khác lại có kết quả, hoặc
chỗ này thì được việc, nhưng chỗ khác lại thất bại. Nhất là cách hành sử: “Lời
nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, “Lời ngọt thì lọt
đến xương”. Như thế sẽ không làm tổn thương lòng tự ái hay danh dự của người
sai lỗi và họ dễ dàng phục thiện hơn.
Vì vậy, về phía người góp ý hay sửa lỗi
phải ý tứ: đừng bao giờ đứng vai trò quan tòa xét đoán anh em. Có khi một điều
không đáng gì, nhưng chúng ta lại quan trọng hóa hay phóng đại to ra, khiến vấn
đề trở nên phức tạp và khó khăn hơn. Như thế, người sai lỗi sẽ rút lui về chính
mình, căm hờn và tức giận, rồi phản ứng mạnh hơn.
Còn về phía người được góp hay sửa lỗi,
thì phải bình tĩnh và khiêm tốn. Đây là một dịp ơn Chúa đến với mình, đây là
một lần Thiên Chúa quan phòng gửi sứ giả của Ngài đến với mình, nên hãy khiêm
tốn đón nhận. Bởi vì ai phản đối ta, ai chê trách ta, mà chê phải, trách đúng,
thì đó là ông thày dạy ta mà ta không phải trả tiền, như những câu danh ngôn mà
các nhà giáo dục thường nói: “Ai khen ta mà khen phải, đó là bạn ta. Ai chê ta
mà chê đúng, đó là thầy ta. Ai nịnh hót ta, nịnh hót cả điều sai lỗi của ta, đó
là thù địch của ta. Ai phản đối ta, mà phản đối đúng, đó là thày dạy ta mà
không lấy tiền”.
Sau hết chúng ta nhớ, trước khi góp ý xây
dựng hay sửa lỗi ai, chúng ta phải cầu nguyện xin Chúa soi sáng và hướng dẫn:
“Lạy Chúa, trước khi con sửa lỗi anh em, xin Chúa nhắc con hãy nhớ rằng: con
cũng là tội nhân, cũng thiếu sót và lầm lỗi, có khi còn nặng hơn họ nữa. Xin
Chúa, nếu vì bổn phận, con phải sửa lỗi, xin cho con biết lấy tinh thần bác ái
yêu thương mà cư xử hơn là chỉ trích, xét đoán anh em. Xin cho con luôn biết
rộng lượng bao dung với người khác, vì con biết chắc rằng Chúa vẫn tha thứ cho
con”.
KỶ LUẬT CỦA GIÁO HỘI VÀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA
ĐỨC KITÔ
1.- Ngữ cảnh
Với ch. 18 của Tin Mừng Mátthêu, chúng ta
đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong lòng Hội Thánh,
cộng đoàn Kitô hữu. Bài Diễn từ được chia thành hai phân đoạn, phân đoạn thứ
nhất đề cập đến "những kẻ bé mọn" (18,1-14) và phân đoạn thứ hai liên
hệ đến "người anh em phạm tội" (18,15-35). Mỗi phân đoạn kết thúc với
một dụ ngôn: con chiên lạc (18,12-14), và ông vua và người đầy tớ (18,21-35).
Sau đây là bố cục chung cho cả bài Diễn
từ:
I. Mối quan tâm đến những kẻ bé mọn
(18,1-14):
A. Người lớn và kẻ bé mọn (cc. 1-5),
B. Đừng khinh những kẻ bé mọn (cc. 6-10),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Quan tâm đến
những kẻ lầm đường lạc lối (cc. 12-14)
II. Kỷ luật và Tha thứ (18,15-35):
A. Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện
của Đức Kitô (cc. 15-20),
B. Tha thứ không giới hạn (cc. 21-22),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một
sự biết ơn (cc. 23-35).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Kỷ luật của Giáo Hội (18,15-17);
2) Cầm buộc và tháo cởi (18,18);
3) Sự hiện diện của Đức Kitô (18,19-20).
3.- Vài điểm chú giải
- Người anh em (15):
Từ ngữ adelphos này nói về những người có liên hệ huyết thống trong một gia
đình, nhưng cũng để gọi những người có tương quan với nhau trong một cộng đoàn
thiêng liêng. Cũng như các "con cái Israel" thuộc về cùng một
"nhà", các môn đệ Đức Kitô, được quy tụ nhân danh Người, làm thành
một "nhà thiêng liêng" (x. 1 Pr 2,5).
- phạm tội (15):
TM Mt chưa bao giờ xác định rõ "phạm tội" ([h]amartanô) có nghĩa là
gì. Dựa vào ngữ cảnh, một đàng độc giả liên kết động từ này với động từ
"làm cớ cho sa ngã" (skandalizô; cc. 6.8-9), thì hiểu tội là một cái
gì nghiêm trọng. Đàng khác, khi liên kết với truyện con chiên lạc, độc giả biết
là tội có thể được tha thứ. Bản văn ở đây nói riêng đến tội của "người anh
em".
- sửa lỗi nó, một mình
anh với nó (15): Đây không phải là một lời khuyên
mới do sáng kiến của Đức Giêsu. Đọc Lêvi 19,17, chúng ta ghi nhận một quy định
tương tự ("Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn
quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó"). Phái
Êxêni ở Qumrân cũng có những lời dạy tương tự (Thủ bản kỷ luật 5,25 truyền:
"Không ai được nói với anh em với sự giận dữ hoặc hiềm khích hoặc trịch
thượng hoặc với trái tim cứng rắn hoặc tâm trí gian tà". Xem thêm Văn kiện
Đamát 9,2-8).
- chinh phục (15):
Động từ kerdainô có nghĩa là "thủ đắc được, chiếm được" vật gì.
Thường các bản văn Hy Lạp và Kinh Thánh không dùng cho nghĩa bóng là
"chinh phục một con người". Thế nhưng động từ này được dùng hai lần
khi nói về sứ mạng của Hội Thánh sơ khai (1 Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1).
- không nghe (17):
Động từ parakouô có nghĩa là "nghe những gì không nhắm cho tai họ; nghe
không đầy đủ; nghe không đúng đắn", nên cũng có nghĩa là "không nghe;
không vâng lời".
- một người ngoại...
một người thu thuế (17): Ở đây, hai hạng người được nêu
ra với giọng miệt thị dưới cái nhìn thông thường, để làm biểu tượng cho những
người ngoan cố, không có tinh thần phục thiện.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu không coi cộng đoàn các môn đệ
như một hiệp hội các cá nhân, trong đó mỗi người có thể làm bất cứ điều gì mình
muốn và chẳng có ai quan tâm đến ai cả. Người đã dạy rõ ràng đâu là cách xử sự
bắt buộc đối với những ai đang bước theo Người. Bắt buộc bởi vì cần thiết để
vào được Nước Trời (x. Mt 5,20; 7,21). Trong cộng đoàn các tín hữu, mọi người
đều được liên kết vào các quy tắc chung này và mọi người phải cảm thấy mình có
trách nhiệm về việc không được để một ai bị hư mất. Khởi đi từ mối quan tâm
huynh đệ này, là một hình thái cốt yếu của tình yêu đối với người thân cận tùy
thuộc ý muốn của Thiên Chúa, có thể là cần phải nhắc đến đòi buộc quan tâm đến
một người anh em lầm lạc và mời người ấy hoán cải.
Đi trước các lời dạy về cách chăm sóc một
người anh em có lỗi là một đoạn cho thấy sự quan tâm vô giới hạn của Thiên Chúa
đối với mỗi một tín hữu, cho dù nhỏ bé nhất và không đáng kể gì (18,10-14). Mỗi
con người có một giá trị vô song, bởi vì họ luôn luôn hiện diện trước mặt Ngài.
Không một ai bị Thiên Chúa quên lãng một lúc nào cả; tình yêu cũng như sự trợ
giúp của Ngài không hề phai nhạt đi.
* Kỷ luật của Giáo Hội (15-17)
Vấn đề là người anh em "phạm
tội" (ho adelphos hamartêsê). "Tội" là một điều có tính trầm
trọng, nhưng cũng là điều có thể được tha thứ. Những người có thể lấy sáng kiến
can thiệp không phải là vì họ có trách nhiệm chính thức về cách thức mà các
thành viên của Hội Thánh theo mà cư xử, nhưng bởi vì họ bị trực tiếp liên lụy
đến do tội của người anh em ("đối với anh; chống lại anh", eis se).
Tuy thế, "tội" mà một thành viên phạm đối với một thành viên khác
không phải là vấn đề riêng tư, không can dự gì đến Hội Thánh. Có một xác tín
trong Kinh Thánh, trong Do Thái giáo và Kitô giáo là mỗi một tội đều ảnh hưởng
đến toàn thể Hội Thánh.
Về mối quan tâm đến người anh em, phải nói
là có nhiều cấp độ; nhưng dù ở cấp độ nào, sự quan tâm này cũng phải kín đáo,
kiên nhẫn và thanh thoát khỏi mọi kiểu nhìn cá nhân riêng tư. Cách tốt nhất hẳn
là tránh mọi cớ vấp phạm, bằng cách dàn xếp công chuyện giữa hai người: không
có người chứng, người anh em có tội không bị ngượng ngùng. Vấn đề không phải là
đề cập đến những thiếu sót của kẻ khác, nhưng là liên hệ với người đã sai lầm,
để "tranh thủ" người ấy. Vậy, ở đây không được nóng giận (x. Lv
19,17). Câu Lv 19,17 đi trước điều răn về tình yêu đối với người thân cận ở Lv
19,18, để nói rằng việc khuyến cáo một người anh em Israel phải là cách diễn tả
tình yêu đối với người thân cận và tình liên đới bên trong lòng Dân Thiên Chúa.
Cách làm này có thể đạt một kết quả tích cực: "chinh phục (ekerdêsas) được
người anh em" (x. 1 Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1). Hẳn đây là đưa người anh em về
lại với Dân Thiên Chúa hay với Hội Thánh.
Cấp độ tiếp theo tiên liệu có nhiều người
khác can thiệp vào, khi việc đối thoại riêng tư không đạt kết quả (c. 16). Họ
phải thuyết phục người có lỗi về sự thiếu sót đã xảy ra. Bằng cách đó, những
người này cho thấy rõ ràng là lời nhắc nhở của người đầu tiên không phải chỉ là
cái nhìn riêng tư cá nhân, nhưng cũng được các anh em khác chia sẻ. Như thế,
càng rõ là cả người lầm lạc cũng như người nhắc nhở đều không được phán đoán
theo các tiêu chuẩn chủ quan. Cả hai đều được tháp vào cộng đoàn các tín hữu,
nên cả hai đều được liên kết vào những quy tắc mà Đức Giêsu đã ban cho cộng
đoàn.
Tính cách cộng đoàn của đời sống Kitô hữu
này và của các quy tắc của cộng đoàn càng hiển nhiên hơn nữa ở cấp độ thứ ba
(c. 17). Nếu vụ việc không thể làm sáng tỏ giữa vòng ít người, "nếu nó
không nghe (parakousê) họ", thì phải đưa ra trước Giáo Hội (ekklêsia). Đây
là cộng đoàn Kitô hữu địa phương, trong tư cách không tách biệt, nhưng được
tháp vào trong Hội Thánh duy nhất mà Đức Giêsu đã thiết lạp trên "tảng
đá" Phêrô (x. 16,18). Không phải là từng người Kitô hữu, nhưng là Hội
Thánh mới có thể tuyên bố một phán đoán dứt điểm, nhằm nói rằng một hành vi có
phù hợp hay không với các quy tắc của Hội Thánh. Ai không nghe lời có khả năng làm
sáng tỏ của Hội Thánh, thì tự đặt mình ra ngoài Hội Thánh: "hãy kể nó như
một người ngoại hay một người thu thuế". Đây không phải là lời kết án
chung cuộc, nhưng theo cái nhìn của các Kitô hữu gốc Do Thái vẫn trung thành
với Lề Luật, là không còn gì để làm với người ấy nữa. Quả thế, người ta không
thể cho rằng mình thuộc về một cộng đoàn, đồng thời lại từ chối các quy tắc
điều hành và đảm bảo đời sống cho cộng đoàn ấy. Ở đây vấn đề không chỉ là vi
phạm một quy tắc, mà là từ chối chính quy tắc do người ta chống lại phán đoán
của Hội Thánh. Ai nhìn nhận mình sai lỗi và thiếu sót với quy tắc, thì được cứu
(x. c. 15); ai từ khước quy tắc, thì rời bỏ cộng đoàn.
* Cầm buộc và tháo cởi
(18)
Rất có thể câu nói về "cầm buộc và
"tháo cởi" này đã thuộc về truyền thống có trước Mt. Nếu Hội Thánh có
thể công bố một phán đoán dứt điểm về điều gì phù hợp và điều gì không phù hợp
với lối sống của mình, là vì dựa trên quyền tháo cởi và cầm buộc Đức Giêsu đã
ban (c. 18); quyền này phải được thực thi phù hợp với các cơ cấu mà Người đã
ban cho Hội Thánh (x. 16,18t; 10,1-42; 28,16-20). Trong quyền này có hàm chứa
khả năng biết cách thuyết phục bằng các quy tắc của Đức Giêsu, phán đoán cách
đáng tin cậy các trường hợp riêng lẻ và cho thấy các ranh giới của sự thuộc-về
Hội Thánh.
* Sự hiện diện của Đức
Kitô (19-20)
Thêm vào nguyên tắc tổng quát của c. 18,
một lần nữa (palin) tác giả nói đến một nguyên tắc về cơ cấu. Lời Đức Giêsu dạy
về cầu nguyện chung và về việc hội họp nhân danh Người lại nêu bật tầm quan
trọng của hành động chung (cấp độ thứ hai ở trên). Ý tưởng ở đây không phải là
việc cầu nguyện chung thì quan trọng hơn việc cầu nguyện cá nhân. Tác giả chỉ
muốn nói đến việc những người cầu nguyện đồng ý với nhau về điều mà họ đang cầu
xin. "Hai" là số người tối thiểu có thể đồng ý hay không đồng ý về
một điều gì. Vậy lời đáp cho việc cầu nguyện tùy thuộc tương quan giữa các
thành viên trong Hội Thánh. Những lời thỉnh cầu chỉ tập trung vào cá nhân sẽ
không được chấp nhận.
Ở cuối lênh truyền giáo, Đức Giêsu đã nói
với các môn đệ: "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt
18,19t). Người ta sẽ không còn thấy được Người, nhưng Người sẽ hiẹn diện và hỗ
trợ mạnh mẽ khi họ đi chu toàn lệnh Người truyền. Các môn đệ không bị bỏ mặc
một mình, nhưng được Người để ý cùng đi với và giúp đỡ hữu hiệu. Người cũng hứa
hiện diện như thế với những ai quy tụ lại nhân danh Người. Nguồn gốc và trung
tâm của cuộc quy tụ là "danh Đức Giêsu". "Danh" là chính
bản thân Đức Giêsu mà các môn đệ đều quen biết; "nhân danh" có nghĩa
là: vì tình yêu đối với Người, trong sự hiểu biết rõ ràng Người là ai và trong
sự tuyên xưng về địa vị của Người. Đây là một cuộc quy tụ với ý thức sống động
và tin tưởng vào ý nghĩa của Đức Giêsu và của tất cả những gì thuộc về Người,
của sứ điệp và hành trình của Người. Các Kitô hữu quy tụ lại trong tinh thần
này thì không bao giờ bị bỏ mặc cho chính mình, nhưng họ có Đức Giêsu ở giữa
họ. Chính Người sẽ nâng đỡ sự hiệp nhất và hoạt động của họ.
+ Kết luận
Tình huynh đệ chân chính đòi hỏi các môn
đệ của Đức Giêsu không được bỏ mặc một người anh em đi vào cuộc phiêu lưu nguy
hiểm ("phạm tội"), nhưng phải hết sức cố gắng đưa họ trở lại với
đường ngay nẻo chính. Đàng khác, do tôn trọng đặc tính bó buộc và cứu độ của sứ
điệp của Đức Giêsu, trong Hội Thánh, ta không được tùy nghi xử sự theo bất cứ
cách nào, nhưng phải tôn trọng những giới hạn, phải tiến hành theo những cấp độ
khác nhau. Dù sao, tất cả những gì cổ võ sự hiệp nhất nhân danh Đức Giêsu thì
đều có thể chắc chắn là sẽ được Thiên Chúa hỗ trợ đặc biệt, và như thế sẽ góp
phần vào việc kiến tạo Hội Thánh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Như người mục tử không bỏ rơi nhưng đi
tìm một con chiên lạc, Thiên Chúa cũng không bỏ rơi bất cứ người nào. Trên nền
tảng là cách hành động đó của Thiên Chúa, không một ai được phép nói về một
người anh em: Tôi không quan tâm đến anh/chị ta! Trái lại, chúng ta buộc phải
quan tâm đến người anh em chị em đi lạc. Chúng ta không được phép tránh né vì
ích kỷ, lười biếng hay sợ hãi, hoặc bi quan về kết quả. Cũng không được rơi vào
thái cực kia, đó là chỉ trích, trịch thượng và tự hào mình công chính.
2. Đức Giêsu tha thiết quy tụ những con
người lại quanh Người để làm thành một cộng đoàn tín hữu và huynh đệ. Chúng ta
nhớ: Đức Giêsu kêu gọi từng người để họ sống với nhau và cùng đi thi hành sứ
mạng (x. Mt 4,18-25). Cách sống này ngược lại với cách mỗi người đi theo con
đường của mình và không quan tâm đến đặc tính cộng đoàn của đời sống Kitô hữu
(x. 18,15). Đàng khác, một nhóm lo lắng săn sóc một anh em có tội (c. 16) thì
phải được quy tụ không phải nhân danh chính mình, nhưng nhân danh Đức Giêsu, để
Cha Người sẵn lòng nhận các lời họ cầu xin.
3. Đức Giêsu không hề có ý đề nghị các
thành viên trong cộng đoàn phải theo giám sát nhau và phân loại con người theo
bậc thang giá trị luân lý. Các cách thức Người đề nghị chỉ là nhằm diễn tả đức
bác ái. Chính Mt 18,14 cho ta hướng đúng để hiểu những lời khuyên này:
"Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ
bé mọn này phải hư mất". Đây là bổn phận săn sóc anh em về mặt thiêng
liêng. Giúp đỡ một người anh em chị em đang gặp khó khăn, chìa tay ra cho một
người anh em chị em đang rơi vào tội lỗi, là một đòi hỏi của tình yêu, một sự
trung thành với công trình của Đức Giêsu. Chúng ta chịu trách nhiệm về nhau.
4. Chúng ta đi cầu nguyện để thờ phượng
Đức Giêsu hiện diện trong Lời Người và trong Thánh Thể, nhưng cũng là để gặp
anh chị em để hòa với lời cầu nguyện của họ. Khi chúng ta khiêm tốn và sốt sắng
hòa hợp tâm trí và giọng điệu với nhau mà cầu nguyện, chúng ta nên một trong
Thân Mình Chúa Kitô, chúng ta làm thành Nhiệm Thể Đức Kitô.
Đức Giêsu bảo các môn
đệ:"Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một
mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người
anh em mình".
Đoạn Tin Mừng ngày hôm nay được trích từ
bài giảng lớn thứ tư của Đức Giêsu, theo cách bố cục Tin Mừng của Matthêu. Đây
là những giáo huấn về đời sống "cộng đoàn".
“Cộng đoàn" mà chắc chắn Matthêu nghĩ
đến chính là nhóm nhỏ Kitô hữu, tập hợp mỗi Chúa nhật để cữ hành Thánh Thể, và
tạo thành một Giáo hội địa phương. Ngay từ đầu, chúng ta nhận thấy tính chất
thực tế của Đức Giêsu: "Nếu người anh em của anh trót phạm tội…” Giáo hội
không phải là một cộng đoàn gồm những "người thanh khiết các thánh",
nhưng những "người tội lỗi". Đức Giêsu đã rất sáng suốt tiên liệu
rằng "các Kitô hữu không tốt hơn những người khác", như thỉnh thoảng
người ta vẫn nói. Giáo hội được tạo nên bởi những con người mỏng dòn như xã hội
thế tục. Đức Giêsu không mơ đến một Giáo hội không có vấn đề. Người sẽ đưa ra
một thủ tục để thử giải quyết những khó khăn mà có ngày sẽ phát sinh trong mọi
nhóm người.
Thật vậy điều Đức Giêsu nói ở đây có thể
được áp dụng cho mọi môi trường sống của chúng ta với một tỉ lệ nào đó:Gia
đình, nhóm, hiệp hội, nhóm bạn, các đồng nghiệp… Biết bao nhiêu là xung đột,
căng thẳng, chống đối nhau!
Đôi khi lúc mới khởi đầu, mọi sự xem ra
đơn giản và hài hòa. Và rồi với thời gian trôi qua, nhiệt tình xuống dần, nhóm
có nguy cơ tan rã nếu không ai quan tâm đến sự liên kết và hiệp thông.
Không một nhóm con người nào tránh được
tội lỗi, sự khốn khổ của con người... kể cả Giáo Hội!"Nếu anh em của anh
trót phạm tội…”
Phải làm gì, bây giờ?
Anh hãy đi sửa lỗi nó,
một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi của
người anh em mình...
Chúng ta nhận thấy ngay, trong những chữ
cô đọng ấy bầu khí mà Đức Giêsu đặt chúng ta vào. Đó là một bầu khí của tình
yêu chứ không phải là của sự phán xét.
Than ôi, có những "vị quản giáo mắc
khuyết điểm" lẫn lộn hết mọi sự, và lúc nào cũng sẵn sàng lên lớp những
người khác trong một thái độ phê phán có hệ thống. Như thế là làm sai lạc tư
tưởng của Đức Giêsu, vì đã có xu hướng "buộc tội" và "đè
nặng" lên kẻ có tội. Tất cả Tin Mừng rõ ràng nói với chúng ta điều ngược
lại. Và văn cảnh trực tiếp của bài giảng này về cộng đoàn chỉ nói về sự tế nhị
và lòng nhân hậu đối với anh em mình. Ngay trước đoạn văn mà chúng ta đọc hôm
nay, Đức Giêsu đã kể lại dụ ngôn con chiên lạc: "Anh em hãy coi chừng, chớ
khinh một ai trong những kẻ bé mọn này… Hãy như người chăn chiên mất một con
chiên chạy đi tìm nó…Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai
trong những kẻ bé mọn này phải hư mất" (Matthêu 18,10-14). Và ngay sau bản
văn của chúng ta về sự sửa lỗi anh em, Đức Giêsu sẽ đòi hỏi Phêrô "tha thứ
bảy mươi lần bảy" (Matthêu 18,21-22) Kế đó Đức Giêsu sẽ lên án thái độ của
người đầy tớ không biết thương xót, không có trái tim, không biết tha thứ một
món nợ cho người bạn mình (Matthêu 18,23-35).
Như thế, chúng ta phải can thiệp, chỉ với
một bầu khí của tình yêu thương. Người ta chỉ có quyền phê bình một người anh
em nếu người ta " yêu thương người ấy!Toàn bộ Tin Mừng cao rao với chúng
ta Đức Giêsu nhân hậu với những người tội lỗi.
"Hãy đi sửa lỗi
nó, một mình anh với nó..." “Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi
là người anh em mình..”
Người ta cảm thấy rằng Đức Giêsu rất muốn
đó là giải pháp cho sự xung đột. Khi một người được món lợi là anh em mình thì
trời cao sẽ xuống với đất?Đó chính là niềm vui của giải pháp ấy!
Còn nếu nó không chịu
nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết
căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa
Hội Thánh.
Đức Giêsu thực hiện thêm một bước với biết
bao sự tế nhị tâm lý!
Trước tiên là mặt giáp mặt trong sự kín
đáo, để cho nếu có thể không ai biết có điều xấu và người phạm lỗi có thể giữ
được tiếng- tăm và danh dự của mình... và rồi, đến lúc phải đem theo một, hai
anh em khác là để tránh những phán đoán quá chủ quan trong đó người ta có thể
đánh giá sai lầm, và cũng để ý số đông tìm thấy những lập luận có thể thuyết
phúc hơn. Phải làm mọi sự để tránh sự hấp tấp và sự độc đoán.
Chỉ sau khi đã dùng hết cách khuyên nhủ,
người ta mới phải cắt bỏ một cách đau đớn.
Nếu Hội Thánh mà nó
cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.
Công thức này đụng chạm đến chúng ta, nhất
là lại do Đấng là người ta đã gọi "bạn của những người thu thuế và những
người tội lỗi (Matthêu 1 1, 19). Sự lên án khắc khe này chỉ có thể hiểu được
một cách chính xác bởi người ta đã thử hết cách để cứu người anh em. Người ta
cũng có thể nói rằng chính người anh em đã tự mình loại mình ra khỏi cộng đoàn
với việc nhiều lần khước từ sửa lỗi. Đã ba lần, người ấy gạt bỏ bàn tay mà
người ta đã giơ ra cho người ấy. Sau khi đã nhẫn nại đem lại cho người ấy mọi
cơ may, cộng đoàn thấy mình bất lực đối với người anh em đó…
Nhưng phải nói thêm rằng, cả trong những
trường hợp tối hậu ấy, chúng ta không giảm bớt lòng yêu thương người ấy, kẻ tội
lỗi ấy... bới lẽ chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù của mình (Matthêu 5,43~8).
Và Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai của Chúa nhật này, nhắc chúng ta rằng
"Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái" một món
nợ không bao giờ trả hết (Rm 13,8).
Thầy bảo thật anh
em:"Dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì trên trời cũng cầm buộc như
vậy, dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì trên trời cũng tháo cởi như vậy.”
Đức Giêsu không bao giờ chỉ là một nhà
luân lý, một hiền giả, một nhà nhân bản. Những lời khuyên mà chúng ta đã nghe
cho đến nay là những nguyên tác tâm lý sơ đẳng, có giá trị đối với mọi quan hệ
của con người. Nhưng Đức Giêsu giờ đây đưa ra thêm một khía cạnh "thần
học". Người mạc khải một mầu nhiệm ẩn giấu. Thiên Chúa hiện diện trong
toan tính cứu vớt anh em mình... Thiên đàng liên quan với những gì xảy ra trên
mặt đất.
Ý muốn của Thiên Chúa là không một con
chiên nào bị hư mất, nên sự sửa lỗi anh em trở thành một con đường của lòng nhân
hậu của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, nhiều người chỉ khám phá sự tha thứ của Thiên
Chúa (trên trời) nếu họ khám phá sự tha thứ của anh em (dưới đất) được thực
hiện bằng một thái độ nhân bản của lòng yêu thương cứu độ.
Vại trò “cầm buộc và tháo cởi" mà Đức
Giệsu đã ban cho cá nhân Phêrô một vài ngày trước đó (Matthêu 16,19), cũng được
ban cho toàn thể cộng đoàn, trong cùng những từ ngữ (Matthêu 18,18). Giáo hội
là môi trường của lòng thương xót, nhân hậu. Những Kitô hữu đưa về Thiên Chúa.
Ôi trách nhiệm to lớn biết bao?
Giữa "đất” và "trời” có sự tương
giao?
Giữa "thời gian" và "vĩnh
cửu”, có sự tương giao?
Sự mạc khải của Đức Giêsu là ở điều
này:Điều mà người ta cầm buộc được hay tháo gỡ được ở trần gian này, trong lúc
này... được "cầm buộc" hoặc "tháo gỡ" nơi Thiên Chúa mãi
mãi…
Và không chỉ cho chúng ta, nhưng cũng cho
những người khác Giáo Hội là một cộng đoàn ở đó mỗi người chịu trách nhiệm về
đời sống Đức Tin của anh em mình. Chúng ta có thật sự gánh trách nhiệm cho nhau
không?Giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái?Thông thường, chúng ta hay -hèn
nhát chúng ta không quan tâm đến đức tin của những người khác, Một vấn đề thời
sự nóng bỏng... Biết bao đứa trẻ đã từ bỏ đức tin của cha mẹ chúng. Biết bao
anh em dường như đi theo con đường rời bỏ cộng đoàn đức tin..
Vậy có nên tuyệt vọng không?
Thầy còn bảo thật anh
em: "Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời- cầu xin bất cứ điều
gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho"
Đức Giêsu lặp lại công thức nhấn mạnh long
trọng:Thầy còn bảo thật anh em!Công thức ấy thường chỉ một mạc khải về mầu
nhiệm đức tin, được che khuất khỏi sự nhận xét của con người. Và Đức Giêsu trở
về chủ đề về sự tương quan giữa "đất" và "trời".
Có nên tuyệt vọng khi chúng ta không
"nhìn thấy" kết quả của những nỗ lực đối với những anh em, tội lỗi từ
chối sống đời thánh thiện theo ơn gọi Kitô hữu của họ? ít ra bề ngoài là như'
thế? Đức Giêsu đáp lại "không" với chúng ta!
Bỏ vì, Người nói, cộng đoàn - Giáo Hội
không phải là một hiệp hội như – những hiệp hội khác. May mắn thay!
Cộng đoàn đức tin này ít lệ thuộc vào
những nỗ lực của con người để có thể kết thúc bằng sự thất bại mà lệ thuộc
nhiều hơn vào: Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải
tin vào hiệu quả... ẩn giấu ở trên trời của lời cầu nguyện, những hiệu quả mà
những phương tiện thông thường của con người không thể nhận thấy được. Sự cầu
nguyện ấy không phải là sự lười biếng, bởi vì người ta đã làm hết sức trước đó.
Nhưng là phương sách cuối cùng Đức Giêsu khẳng định với chúng ta phải tin vào
hiệu quả của phương sách đó. Đối với nhiều bậc cha mẹ trong gia đình, lời nói
ấy của Đức Giêsu phải là ánh sáng quyết định mặc dù không kiểm chứng được...
"Nếu ở dưới đất hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì
lời cầu nguyện của họ sẽ có hiệu quả với Chúa Cha; Đấng ngự trên trời"…
Vì ở đâu có hai ba
người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy giữa họ.
Không, Giáo hội, cộng đoàn những người tội
lỗi như mọi người khác, không phải là một hiệp hội như các hiệp hội khác:Đức
Giêsu sống lại với tất cả quyền năng tinh thần của Thiên Chúa ở đấy giữa những
người quy tụ nhân danh Người. " '
Rõ ràng chúng ta không còn ở trong lãnh
vực luân lý xã hội học, hay nhân bản. Chúng ta ở trong lãnh vực đức tin. Sự
thống nhất của Giáo Hội ở bên trên những xung đột chia rẽ con người. Mọi nỗ lực
hòa giải luôn phải được thực hiện. Nhưng khi những bàn tay chúng ta đưa ra
không được tiếp nhận, thì chúng ta vẫn phải tin rằng điều mà con người không
làm được, Thiên Chúa làm được" (Mt 17,20-19.26; Lc 1,37).
Một giấc mơ điên rồ chăng? Một ảo tưởng
không có thật chăng? Không phải thế! Nhưng đó là một bí quyết tuyệt vời của chủ
nghĩa lạc quan đi đến mức tin rằng không môt người nào, không một hoàn cảnh nào
mà sau cùng không thể cứu vãn được (1Cr 8,11).
"Người anh em này mà Đức Kitô đã chịu
chết để cứu chuộc...". Làm thế nào mà chúng ta lại thất vọng vì người ấy.
51. Cha Ta
sẽ ban cho
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang
Tiến)
Đoạn 18:15-20 nằm trong văn mạch chương 18
bàn về đời sống cộng đoàn. Các chủ đề chính được bàn đến là các trẻ nhỏ và
những người bé mọn (18:1-14), hoà giải và tha thứ (18:15-35). Ngay sau khi nói
về sự lầm lạc của một trong những người bé mọn (18:10-14), Matthêô bàn về việc
sửa lỗi anh em, hoà giải (18:15-20), và tha thứ (18:21-35).
Trong đoạn nầy, từ ean, “nếu”
xuất hiện nhiều lần (cc. 15[2x], 16.17[2x], 18[2x], 19[2x]). Các câu 15-17 dùng
các đại danh từ ngôi thứ hai số ít, “anh”, sy ; trong khi các
câu còn lại, 18-20, dùng “các anh”, hymin. Có thể phân chia đoạn
nầy như sau: - Sửa lỗi người anh em (cc. 15-17); - Quyền bính buộc tội và tha
tội (c. 18); - Chúa Cha nhậm lời và Chúa Giêsu hiện diện (cc. 19-20).
Sửa lỗi người anh em (cc. 15-17)
Matthêô đặt ra vấn đề là phải đối xử như
thế nào với người anh em của mình khi họ phạm lỗi đến mình. Ở đây tất cả mọi chuyện
được đặt ra bằng những câu điều kiện, ean, “nếu”. Có thể phân bố
cục các câu nầy như sau: - Đặt ra một trường hợp xúc phạm đặc thù (15a), - Các
cách sửa lỗi (cc. 15b-17a), - Cách đối xử với người không hoán cải (c. 17b).
Mở đầu câu thánh sử nói đến việc “phạm
lỗi”, hamartanò. Trong mạch văn của chương 18, động từ nầy chỉ tội
“gây vấp ngã”, skandalizò, cho một trong những người bé mọn tin vào
Chúa Giêsu (cc. 6.8.10). Cấu trúc hamartanò + eis +
một người: chỉ phạm lỗi đến cá nhân một người (Kh 20:6.9; 34:9). Tội “gây vấp
ngã” là tội làm tổn hại đến lòng tin vào Chúa Kitô. Tội nầy tuy phạm trực tiếp
đến một cá nhân, nhưng cũng có ảnh hưởng trên cộng đoàn. Bởi đó, việc sửa lỗi
cần đến cả cá nhân lẫn cộng đoàn.
Chúa Giêsu muốn “người anh em” được sửa
lỗi (c. 15). Cách sửa lỗi đầu tiên là giữa cá nhân người phạm lỗi và người bị
xúc phạm. Động từ elenchò là hapax trong
Matthêô. Trong tin mừng Luca động từ nầy được dùng trong ngữ cảnh khác, và rất
hữu ích giúp chúng ta hiểu nghĩa của động từ. Gioan Tẩy Giả “khiển
trách”, elenchò, Hêrôđê vì đã lấy bà Hêrôđia làm vợ” (Lc 3:19).
Gioan cho ông Hêrôđê thấy việc ấy là sai, và không nên làm. Elenchò trong
ngữ cảnh của Matthêô cũng mang ý nghĩa tương tự là “mở ra, trải ra, chỉ cho một
người thấy những sai lỗi của mình”, và “thuyết phục họ nhận mình sai lỗi” (x.
Lc 3:19; Dt 12:5; Khải huyền 3:19; Lv 19:17).
Kết quả của việc sửa lỗi có thể là tích
cực, “nếu người anh em nghe ngươi”. Động từ akouò, mang ý nghĩa
nhiều hơn là “nghe”, mà là “làm theo điều đã được soi sáng/cho biết”, đúng hơn
là “hoán cải” (7:24; 10:14; 13:9); Luca dùng từ metainoia “hoán cải” trong
trường hợp nầy (Lc 17:3). Động từ kerdainò, “kiếm được”, mang ý
nghĩa sự sở hữu, sở hữu vật chất (16:26; 25:16tt). Giúp hoán cải một người anh
em là “kiếm được” người ấy cho Chúa Giêsu Kitô và cộng đoàn (18:15; 1 Co 9:23;
1Ph 3:1); tuy nhiên một cách nào đó việc ấy cũng được kể là thuộc về người đi
sửa lỗi, “anh em của ngươi”.
Kết quả có thể là tiêu cực, “Người anh em
không nghe ngươi” (c. 16.17), việc sửa lỗi đòi hỏi nhiều cố gắng hơn. Phải cần
đến người khác và cộng đoàn. Trước tiên là cần đến hai hoặc ba người, như thấy
điều nầy được áp dụng ở vài nơi trong Tân ước (x. 26:60; Ga 8:17-18; 2 Co
13:1). Và nếu không có kết quả nữa, phải cần đến cộng đoàn. Ekklèsia ở
đây chỉ cộng đoàn kitô hữu địa phương, chứ không mang nghĩa phổ quát như trong
16:18.
Nếu cách sửa lỗi cuối cùng vẫn không đạt
kết quả tốt, “người đó đối với ngươi như người ngoại, người thu thuế”. Câu kết
luận quy chiếu lại trên người bị phạm lỗi (c. 15a) 1à chỉ “đối với ngươi” mà
thôi. Xem họ như “người ngoại, người thu thuế”, nghĩa là như người chưa hoán
cải, chưa có một cách sống của các môn đệ của Chúa Kitô (x. 4:56-57). Bản văn
không nói đến cách cư xử của cộng đoàn đối với người nầy.
Việc Matthêô kể ra đến ba giai đoạn sửa
lỗi cho thấy thánh sử nhấn mạnh đến sự rất cần thiết của việc giúp người anh em
sửa lỗi. Cá nhân cũng như tập thể phải cố gắng hết sức và bằng mọi cách đưa
người anh em trở về.
Quyền buộc tội và tha tội (c. 18)
Từ thái độ đối với người không “chịu nghe”
(c. 17), Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc về quyền buộc tội và tha tội của các
môn đệ (18:18). So sánh giữa câu nầy và câu 16:19 mà Chúa Giêsu nói với Phêrô
trong trình thuật trước, chúng ta thấy có nhiều điểm khác biệt. Trong câu 16:19,
các động từ deomai, “buộc” và luò, “tháo” đểu ở ngôi
thứ hai số ít. Chúa ban quyền nầy cho Phêrô; trong khi ở câu 18:18, các động từ
được dùng số nhiều. Quyền nầy được ban cho các môn đệ. Do ngữ cảnh của câu nầy,
nói về gây cớ vấp phạm (cc. 6.8.10), phạm tội (c. 15), việc sửa lỗi (cc.
16-17), việc “buộc” và “tháo” nầy được hiểu như là phán quyết về tội.
Chúa Cha nhậm lời và Chúa Giêsu hiện diện
(cc. 19-20)
Hai câu 19 và 20 được đặt chung với nhau
vì chúng được dẫn vào bởi cùng một câu: “Quả thật, Ta lại bảo các ngươi”. Các
câu cuối nầy liên hệ với các câu trên bởi cấu trúc câu: ean (c. 19), “nếu”,
“hai”, “ hoặc ba” (c. 16 và 19.20), “trên mặt đất”, “trên trời” (cc. 18.19).
Như các câu 15-17 đề cập đến giữa hai người trong vấn đề “phạm lỗi”, ở đây cũng
nói đến “hai người” (c.19), “hai hoặc ba người” (c.20), nhưng trong việc “đồng
tâm” (c.19) và “tụ họp nhân danh Ta” (c. 20); và kết quả là “Cha Ta sẽ nhậm
lời” (c. 19) và Chúa Giêsu “sẽ ở giữa họ” (c. 20).
Ở đây Chúa Giêsu thêm một nguyên tắc nữa.
Đó là “Nếu trong các ngươi hai người dưới đất đồng thanh xin về bất cứ việc gì,
thì Cha Ta, Đấng Ngự trên trời sẽ ban cho” (c. 19). Xét về mặt hình thức, hai
câu 19-20 nầy có liên hệ với các câu trước như đã phân tích ở trên. Xét về nội
dung, xem ra Matthêô đưa vào đây một chủ đề mới. Thật ra, điều Matthêô nói
trong các câu 19-20 có liên hệ rất mật thiết với các câu trước.
Sau khi nói đến việc một người anh em sai
lỗi (18:12.15), việc sửa lỗi, chủ yếu là không thành công (cc. 16-17) và quyền
buộc tội và tha tội của các môn đệ (c. 18), thánh sử nói đến sự hoà hợp của các
môn đệ trong cầu nguyện và tụ họp như là điều kiện để được Chúa Cha nhậm lời về
“những điều họ kêu xin”, và Chúa Giêsu “hiện diện giữa họ” (c. 20). Động
từ symphòneò, nghĩa đen của nó là “vang lên cùng một giọng”, nghĩa
là “hòa hợp”, “có một lòng một ý” (x. 20:3.13), aiteò ở đây có
nghĩa là “cầu xin” trong bối cảnh cầu nguyện (21:22), và panta pragma,
“bất cứ điều gì”; hiểu theo nghĩa là “việc liên quan đến luật lệ” (Thayer; x.
Rom 16:2; 1 Co 6:1). Nếu đúng như thế, panta pragma nầy ám chỉ những chuyện
“gây vấp ngã” (cc. 6.8.10), đi lạc (c.12), phạm lỗi (c. 15a). Và điều các môn
đệ cầu xin chính là sự hoán cải của những người ấy, vì các môn đệ đã tìm cách
sửa lỗi họ mà không thành công.
Câu 20 khai triển ý tưởng việc cầu nguyện
trong trường hợp cụ thể ở câu 19; gar, “vì” (c.20) mang ý nghĩa
giải thích. “Tụ họp nhân danh Chúa Giêsu Kitô" là tụ họp để cầu nguyện, là
tụ họp của các môn đệ của Chúa Kitô. Lời hứa nầy được tuyên bố lại trong 28:20
bởi Chúa Giêsu Kitô phục sinh. Vậy Chúa Giêsu Kitô phục sinh hiện diện giữa
những người tụ họp lại cầu nguyện nhân danh Ngài.
Sửa lỗi người anh em phạm lỗi là việc phải
làm. Nhưng cầu nguyện cho người ấy thì có sức mạnh và hiệu quả hơn cả việc sửa
lỗi, vì lúc ấy chính Thiên Chúa hành động. Hãy cầu nguyện để mọi người được ơn
cứu độ.
I. Giải thích bản văn
c.15 + "Anh
em": Bài diễn từ về nếp sống cộng đoàn (chương 18) đặt cơ sở trên sự
kiện là các Kitô hữu phải coi nhau là "anh em". Thật vậy "anh
em" không phải chỉ là những người cùng cha cùng mẹ với nhau, mà còn là
những người cùng thuộc một cộng đoàn tín ngưỡng với nhau. Đức Giêsu sẽ nói về
sau rằng "tất cả chúng con là anh em nhau" (23,8). Bởi đó trong Giáo
hội khởi thủy, các Kitô hữu quen gọi nhau là "anh em" (x. TđCv 9,17
15,23 16,40 Rm 14,10 1Cor 15,6 Col 1,2).
+ Lỗi phạm: chi tiết này chứng
tỏ Đức Giêsu không ảo tưởng về nếp sống cộng đoàn của Giáo hội Ngài:không phải
là luôn hoàn hảo đâu, vẫn còn có lỗi phạm. Vấn đề là: bản chất của lỗi phạm ấy
thế nào: lỗi kín hay lỗi công khai? lỗi trực tiếp đến ta hay lỗi không trực
tiếp hại ta? TOB cho rằng đây là lỗi công khai và lỗi nặng, lỗi này không nhất
thiết phải đụng chạm trực tiếp tới ta (nếu Kitô hữu chỉ can thiệp khi người
khác lỗi phạm trực tiếp tới mình thì không có tinh thần cộng đoàn. Ở đây đang
bàn về tinh thần cộng đoàn). Bởi vậy lối dịch "Phạm đến con" là không
đúng.
+ Hãy đi sửa bảo: không nên
hiểu là "đi xét đoán" vì ở Mt 7,1-5 Đức Giêsu đã khuyên môn đệ đừng
xét đoán ai. Động từ ở đây là "sửa bảo" elegcho có nghĩa là cố gắng
sữa chữa trong tình bác ái để thu phục 1 người có lỗi. Nói cách khác, mục đích
không phải để kết án mà là để thu phục.
+ "Được lợi" (tiếng
Pháp: gagner): không có nghĩa là đã thắng được 1 kẻ thù, cũng không có nghĩa là
giữ được 1 người ban cho ta, mà có nghĩa giáo hội:giữ được 1 phần tử giáo hội
khỏi tách rời xa giáo hội.
c 16- Đnl 19,15 "Theo
miệng 2,3 nhân chứng thì việc mới vững". Đức Giêsu trích dẫn câu này
nhằm dạy ta kiên nhẫn và khôn ngoan:chớ vội 1 mình kết luận về lỗi người khác;
nhờ có 2,3 người nữa thì cũng tránh được ý kiến chủ quan nhiều khi độc đoán.
c 17 -
"Trình với giáo hội":không phải cho Giáo hội lên án, mà cho GH long
trọng khuyên bảo một lần nữa kẻ có lỗi hãy hối lỗi.
- "Kẻ ngoại hay người thu
thuế": Đức Giêsu không hề khinh chê 2 hạng người này. Ngài đã từng
khen đức tin của 1 người ngoại (Mt 8,10 15,28), đã từng ăn chung với những
người thu thuế (9,11). Vậy những chữ "kẻ ngoại và thu thuế" Đức Giêsu
dùng ở đây chỉ có nghĩa là những người mà Kitô hữu bất lực không hoán cải được,
không còn trách nhiệm đối với họ nữa. Một người phạm lỗi mà ngoan cố không nghe
lời thân tình của 1 người bạn, của 1 nhóm bạn, và của cả tập thể Giáo hội, thì
không phải GH khai trừ người đó, nhưng chính người đó do tội và do sự ngoan cố
của mình, đã tự lìa khỏi Giáo hội.
c 18- Lý do giáo hội có
tiếng nói sau cùng mang tính quyết định là vì GH đã được Đức Giêsu ban quyền
"chìa khóa". Vấn đề là quyền này được ban cho ai? Có người hiểu chữ
"chúng con" ở đây là từng người trong GH. Lối giải thích này đã bị
công đồng Triđentinô lên án. Ở Mt 16,19 quyền chìa khóa được trao cho một mình
Phêrô với tư cách thủ lãnh GH. Ở đây không phải Đức Giêsu lấy lại quyền ấy từ
tay Phêrô để trao cho từng phần tử GH, nhưng là trao cho tập thể GH trong tinh
thần liên kết với vị thủ lãnh là người duy nhất nắm quyền chìa khóa.
- Những câu 19,20 xem ra bàn về 1 chuyện
khác không ăn nhập gì với chuyện ở những câu trên. Nhưng thực ra có liên quan
vì đều cùng chung tinh thần cộng đoàn:sửa lỗi nhau cùng trong tinh thần cộng
đoàn, cầu nguyện cũng phải trong tinh thần cộng đoàn. Vì thế không nên hiểu chữ
"hai người" theo nghĩa 1 nhóm nhỏ tách ra khỏi nhóm lớn mà được Chúa
chúc lành.
II. Nhận định.
Đoạn này soi sáng ý nghĩa của tội:tội
không chỉ là 1 việc cá nhân ai làm nấy chịu, mà là việc của cộng đoàn:mọi phần
tử trong cộng đoàn đều có trách nhiệm về tội của 1 người trong cộng đoàn, do đó
đều phải cố gắng hoán cải để người có tội không vì tội đó mà bị xa cách khỏi
cộng đoàn.
Đoạn này cũng cho ta 1 hình ảnh đẹp về
Giáo hội:GH là 1 cộng đoàn "anh em" trong đó mọi phần tử đều liên kết
nhau trong việc sửa lỗi nhau và trong lời cầu nguyện.