CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ CHÚA BA NGÔI - C
MỤC LỤC
1. Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
2. Thiên Chúa, như Đức Giêsu muốn diễn tả
3. Hy vọng đã vươn lên
4. Chúa Ba Ngôi
5. Sống đời sống Thiên Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
6. Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời chúng ta
7. Mầu nhiệm tình yêu - ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
8. Duy nhất – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
9. Tình yêu kỳ diệu - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
10. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi – R. Veritas
11. Toàn bộ sự thật.
12. Mọi sự của Cha là của Thầy
13. Sống yêu thương hiệp nhất theo khuôn mẫu Ba Ngôi
14. Ba Ngôi huyền nhiệm tình yêu
15. Dâng lời chúc tụng Ba Ngôi
16. Tình yêu hiệp nhất
17. Nhìn thấy Thiên Chúa - McCarthy
18. Mầu nhiệm đức tin
19. Thiên Chúa là Cha – Lm Giacôbê Tạ Chúc
20. Thiên Chúa Tam vị nhất thể
21. Chúa Ba Ngôi
22. Mầu nhiệm
23. Ba Ngôi: mầu nhiệm
24. Lễ Chúa Ba Ngôi: ý nghĩa
25. Lãnh nhận một cái mền!
26. Thiên Chúa Ba Ngôi Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
27. Suy niệm của GP. Vĩnh Long
28. Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Thiên Chúa
29. Ơn vô ngộ – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
30. Suy Niệm Lễ Chúa Ba Ngôi
31. Nhìn thấy Chúa
32. Thiên Chúa Ba Ngôi
33. Lễ Chúa Ba Ngôi – Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
34. Sống đời sống Thiên Chúa
35. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
36. Thần Khí Sự Thật – Lm. FX Vũ Phan Long
37. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy Noel Quesson
Vai trò Ba Ngôi Thiên Chúa Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Tin nhận mầu nhiệm cao cả Lm Giuse Đinh lập Liễm
Ba ngôi huyền nhiệm tình yêu Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Thiên Chúa san sẻ với chúng ta Achille Degeest
Yêu thương hợp tác Suy niệm của JKN
Mối liên hệ yêu thương Fiches Dominicales
Thần khí sự thật Giáo Hoàng Học Viện
Sống yêu thương hiệp nhất Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Hai giờ trong mưa Cha Mark Link S.J.
Tình Chúa Ba Ngôi Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Lễ Chúa Ba Ngôi LM ĐAN VINH-HHTM
Mầu nhiệm Ba Ngôi JM. Lam Thy ĐVD
Tình yêu luôn là hy sinh PM. Cao Huy Hoàng
Mầu nhiệm cao cả Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Kính mừng một Chúa Ba Ngôi Catholic.org.tw
1. Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
2. Thiên Chúa, như Đức Giêsu muốn diễn tả
3. Hy vọng đã vươn lên
4. Chúa Ba Ngôi
5. Sống đời sống Thiên Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
6. Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời chúng ta
7. Mầu nhiệm tình yêu - ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
8. Duy nhất – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
9. Tình yêu kỳ diệu - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
10. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi – R. Veritas
11. Toàn bộ sự thật.
12. Mọi sự của Cha là của Thầy
13. Sống yêu thương hiệp nhất theo khuôn mẫu Ba Ngôi
14. Ba Ngôi huyền nhiệm tình yêu
15. Dâng lời chúc tụng Ba Ngôi
16. Tình yêu hiệp nhất
17. Nhìn thấy Thiên Chúa - McCarthy
18. Mầu nhiệm đức tin
19. Thiên Chúa là Cha – Lm Giacôbê Tạ Chúc
20. Thiên Chúa Tam vị nhất thể
21. Chúa Ba Ngôi
22. Mầu nhiệm
23. Ba Ngôi: mầu nhiệm
24. Lễ Chúa Ba Ngôi: ý nghĩa
25. Lãnh nhận một cái mền!
26. Thiên Chúa Ba Ngôi Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
27. Suy niệm của GP. Vĩnh Long
28. Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Thiên Chúa
29. Ơn vô ngộ – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
30. Suy Niệm Lễ Chúa Ba Ngôi
31. Nhìn thấy Chúa
32. Thiên Chúa Ba Ngôi
33. Lễ Chúa Ba Ngôi – Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
34. Sống đời sống Thiên Chúa
35. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
36. Thần Khí Sự Thật – Lm. FX Vũ Phan Long
37. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy Noel Quesson
Vai trò Ba Ngôi Thiên Chúa Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Tin nhận mầu nhiệm cao cả Lm Giuse Đinh lập Liễm
Ba ngôi huyền nhiệm tình yêu Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Thiên Chúa san sẻ với chúng ta Achille Degeest
Yêu thương hợp tác Suy niệm của JKN
Mối liên hệ yêu thương Fiches Dominicales
Thần khí sự thật Giáo Hoàng Học Viện
Sống yêu thương hiệp nhất Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Hai giờ trong mưa Cha Mark Link S.J.
Tình Chúa Ba Ngôi Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Lễ Chúa Ba Ngôi LM ĐAN VINH-HHTM
Mầu nhiệm Ba Ngôi JM. Lam Thy ĐVD
Tình yêu luôn là hy sinh PM. Cao Huy Hoàng
Mầu nhiệm cao cả Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Kính mừng một Chúa Ba Ngôi Catholic.org.tw
1. Sống mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi
Henry Kissinger, cựu ngoại trưởng Mỹ dưới thời tổng thống Nixon, có
viết một cuốn sách trong đó ghi lại biến cố xảy ra đêm 7.8.1974, đêm cuối cùng
trước khi tổng thống Nixon từ chức. Lúc đó vào khoảng 9 giờ tối, chuông điện
thoại vang lên, tổng thống gọi ông đến toà Bạch Ốc ngay lập tức. Khi đến ông
thấy tổng thống đang ngồi uể oải trong chiếc ghế màu nâu. Ánh sáng yếu ớt từ
chiếc đèn nhỏ dùng để đọc sách hắt xuống nền nhà. Hai người trao dổi với nhau
về nhiều vấn đề. Tổng thống tiễn ông đến tận chân cầu thang. Thình lình tổng
thống dừng lại và yêu cầu ông cùng quỳ gối cầu nguyện. Kissinger cho hay rằng
mình không biết là có quỳ xuống hay không, nhưng ông nhớ rất rõ là lúc ấy ông
cảm thấy lo sợ và không biết phải cầu xin điều gì.
Hình ảnh Kissinger sợ hãi quỳ xuống trong bóng đêm và không biết
phải cầu xin điều gì khiến chúng ta suy gẫm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi hôm nay.
Thực vậy, giống như Kissinger, chúng ta cũng có cảm giác đầy lo âu, nhưng chúng
ta lại không biết phải cầu xin gì với Chúa Ba Ngôi. Chúng ta phải áp dụng mầu
nhiệm này vào cuộc sống thường nhật ra làm sao?
Các tu sĩ thường coi ba lời khấn của mình là cách thế thuận tiện
giúp họ tận hiến cho Chúa Ba Ngôi. Với đức khó nghèo, họ tận hiến cho Chúa Cha
vì qua đó họ biểu lộ lòng phó thác vào sự quan phòng của Ngài: Các con đừng lo
mình sẽ ăn gì mặc gì. Cha trên trời biết rõ các con cần đến những thứ ấy. Với
đức khiết tịnh, họ tận hiến cho Chúa Con, bởi vì Đức Kitô đã sống độc thân như
họ. Người đã tự cho mình thuộc về mọi người chứ không thuộc riêng về một ai. Và
sau cùng với đức vâng lời, họ tận hiến cho Chúa Thánh Thần. Họ muốn lắng nghe
sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần và bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài.
Với chúng ta cũng vậy, dưới một góc độ nào đó, chúng ta có thể áp
dụng ba nhân đức trên vào cuộc sống chúng ta để tận hiến cho Chúa Ba Ngôi. Thực
vậy, trước một tình hình kinh tế đầy biến động, mỗi người chúng ta, nhất là
những người già cả và thất nghiệp, chúng ta cần phải tín thác vào Chúa Cha, như
chim trời hay như cánh hoa ngoài đồng nội. Tiếp đến, trước một thế giới đầy
tham lam ích kỷ, chúng ta cần noi gương Chúa Giêsu Đấng đã đến để phục vụ và
Ngài đã truyền cho chúng ta: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
các con. Và sau cùng, trước một xã hội bùng nổ về thông tin, chúng ta cần được
Chúa Thánh Thần dẫn lối để luôn đi đúng con đường phải đi.
Và như thế, mặc dù không tuyên hứa, nhưng chúng ta vẫn có thể áp
dụng tinh thần ba nhân đức ấy vào cuộc sống thường ngày. Thực vậy, hãy phó thác
vào sự quan phòng của Chúa Cha. Hãy thực thi giới luật yêu thương của Chúa Con
và hãy bước đi dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần.
2. Thiên
Chúa, như Đức Giêsu muốn diễn tả
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Thánh Gioan ghi nhận: Đức Giêsu trong diễn từ ly biệt đã khảng
định: Người muốn nói với các môn đệ nhiều điều, và toàn là những nội dung tối
quan trọng, có điều các ông hoàn toàn chưa sẵn sàng đón nghe: “Thầy còn nhiều
điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em chưa có sức chịu nổi.” Tôi vẫn
hay thắc mắc: điều gì mà có tầm quan trọng vượt bậc đến thế, để mà Đức Kitô gọi
nó là: ‘sự thật toàn vẹn’?
Giáo hội chọn bản văn Gio-an chương 16 cho lễ Chúa Ba Ngôi năm C
quả là có ý nghĩa, chính vì đoạn Tin Mừng này hé mở cho thấy nội dung đích thực
của cái thực tế vẫn thường được mệnh danh là mầu nhiệm ‘Chúa Ba Ngôi’. Điều
này, tôi thiết nghĩ: các môn đệ cũng như các tín hữu tiên khởi chắc chắn đã nắm
bắt rất rõ, trước cả khi nó được diễn đạt bằng công thức ‘Một Chúa Ba Ngôi –
Sancta Trinitas ’.
Sự thật toàn vẹn Người đề cập tới trước hết bắt đầu bằng chính con
người Đức Kitô Giêsu: “Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh
em”. Đức Giêsu đã lặp lại câu nói trên tới hai lần, điều này cho thấy: chỉ khi
nào ta khởi đi từ Giêsu, ta mới có thể hiểu biết cách chính xác, Thiên Chúa
thật sự là ai.
Trước mắt các môn đệ là: một ông Giêsu xuất thân từ làng quê
Na-da-rét; ông là một bậc thầy đang rao giảng một học thuyết rất kì lạ; còn hơn
thế nữa, ông đã có một đời sống và một cái chết không ai hiểu nổi. Ông khảng
định rằng: đó là cuộc sống và cái chết trọn vẹn hiến dâng và trao ban, không
chỉ cho người tốt mà cả cho kẻ xấu. Nhưng nếu chỉ là cá nhân ông như thế thì
dầu có anh hùng và đáng khâm phục thật, nhưng cũng chỉ cá lẻ một mình ông mà
thôi. Đàng này ông lại không ngừng tuyên bố rằng: con người và cuộc sống (nhất
là cái chết Thập Giá) của ông là biểu lộ trung thực nhất về Thiên Chúa, Đấng mà
ông không những gọi là Cha của mình, mà còn tự đồng hóa mình với Ngài. Và Đấng
đó, khác với suy nghĩ thông thường của người Do Thái, kể cả các thầy tiến sĩ
thông luật thời đó, cũng là Thiên Chúa - Cha đầy nhân ái của hết thảy mọi
người, cách riêng những người tội lỗi nhất; sau này qua việc ông được cho chỗi
dậy từ cõi chết, những lời khảng định trên của ông trở nên có sức thuyết phục
không ai cưỡng lại được.
Nhận biết được điều này mới là nhận biết Giêsu cách đích thực, đồng
thời cũng là nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa: “Giờ đây Con Người được tôn
vinh, và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi
Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình” (Ga 13:31-32). Tuy
nhiên qua phát biểu của một số môn đệ thâm tín nhất như Tô-ma (xem Ga 14:5-7)
Phi-lip-phê (xem Ga 14:8-11) Giu-đa không phải It-ca-ri-ốt (xem Ga 14:22-24)…,
ta biết: điều này xem ra không dễ dàng được chấp nhận. Tin rằng ‘Thiên Chúa là
Cha đầy nhân ái, yêu thương và tự hiến mình cho con người tội lỗi’ còn khó hơn
cả tin ‘ba là một hay một là ba’. Điều sau này mới chỉ là một nghịch lý về mặt
suy luận toán học, còn điều kia mới thực là nghịch lý làm đảo lộn mọi tương
quan trời đất cố hữu. Cần phải chính Chúa Cha trong Đức Kitô gởi một nhân vật
bí nhiệm là Thánh Thần - Đấng Bảo Trợ đến mới đưa nổi các tín hữu tới sự hiểu
biết và tin thác vào tình yêu vĩ đại này.
Như vậy công việc chính yếu của Chúa Thánh Thần là: làm cho Kitô
hữu chúng ta nhận biết Đức Giêsu Thập Giá là Lời tình yêu vô song của Chúa Cha.
Thánh Thần chính là đức tin đối thần của tín hữu chúng ta, là Đấng Sáng Soi cho
phép ta tiếp cận, hiểu biết và chấp nhận điều mà lẽ thường ta ‘không có sức
chịu nổi’; là Đấng dẫn ta ‘tới sự thật toàn vẹn’, vì chính sự thật này mới làm
cho ta được sống và sống dồi dào. Vì thế Thánh Thần chính là Hồng Ân tình yêu
vĩ đại nhất mà Chúa Cha nhân ái trong Đức Giêsu Kitô có thể ban, để ta tiến vào
tình yêu sinh động và phong phú nhất của Người.
Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là khởi nguồn và cùng đích của niềm tin
Kitô hữu. Mầu nhiệm đó không hệ tại ở việc, nó quá bí nhiệm tới nỗi không ai
kham nỗi, nhưng chính yếu hệ tại: nó quá phong phú, quá sinh động tới độ làm
thay đổi toàn diện cuộc sống con người chúng ta. Mầu nhiệm đó chính là cốt lõi
của Tin Mừng. Quả thực kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội để trở thành môn đệ
Đức Giêsu, mọi Kitô hữu sẽ không ngừng “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần” (Mt 28:19) như một tuyên tín về tình yêu nhân ái vô biên của Thiên
Chúa. Và bất cứ ai ngưng tuyên xưng khối tình yêu vĩ đại này như căn nguyên và
sức sống của đời mình thì sẽ lập tức không còn là Kitô hữu đích thực nữa. Chúa
Ba Ngôi quả thật là mầu nhiệm của các mầu nhiệm, nhưng không phải để hiểu biết
mà là để sống!
Lạy Chúa, lẽ ra con đã phải cảm tạ khôn nguôi về niềm tin vào Thiên
Chúa Ba Ngôi, lẽ ra mỗi lần thốt lên ‘nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần’ lòng con đã phải tràn ngập vui sướng. Nhưng tiếc thay thực tế đã
không được như thế, chỉ vì con cứ ngắm nhìn Thiên Chúa như một Đấng quyền uy
cao sang, nên nhiều khi con cảm thấy khó chịu về mầu nhiệm khó hiểu và khô khan
này; nhiều khi con chỉ lạnh lùng thốt lên ‘nhân danh Cha, và Con, và Thánh
Thần’ cách máy móc vội vàng, như một công thức vô bổ. Xin Thánh Thần tích cực
tác động trong con, để dạy con điều con không thể kham nỗi, là nhận biết tình
yêu nhân ái bao la của Thiên Chúa Cha, biểu lộ qua Thập Giá của Đức Kitô Giêsu.
Xin cho con biết không ngừng ca ngợi Ba Ngôi từ ái. Amen.
3. Hy vọng đã
vươn lên
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Hy vọng là động lực sống. Hướng sống và niềm vui sẽ mất đi, nếu
không còn niềm hy vọng. Nhưng làm cách nào nuôi niềm hy vọng trong tâm hồn? Đó
là bí quyết của Thánh Linh. Chỉ niềm tin nào đem lại hy vọng, mới có giá trị và
tồn tại.
NGUỒN HY VỌNG.
Cuộc sống luôn có những biến động. Niềm hy vọng luôn bị đe dọa khi
gặp những khó khăn. Nhưng không phải bất cứ ai gặp khó khăn đều đánh mất niềm
hy vọng. Niềm hy vọng cũng huyền nhiệm như niềm tin Kitô giáo. Đó là lý do tại
sao phải tìm hiểu niềm hy vọng do Ba Ngôi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta!
Trước hết, chỉ có Thiên Chúa mới đem lại và bảo đảm niềm hy vọng
cho chúng ta. Vì niềm hy vọng bắt nguồn từ Thánh Linh. Quả thế, “chúng ta không
phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ
Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” (Rm 5:5) Tình yêu Thiên Chúa là nguồn hy
vọng, vì chính trong tình yêu, Thiên Chúa đã sáng tạo và cứu độ. Không có tình
yêu, chẳng có một giá trị nào hiện hữu và tồn tại. Bởi vậy, Thiên Chúa đã đặt
nền tảng niềm hy vọng trên tình yêu tức là Thánh Linh. Chẳng có gì tạo nổi niềm
hy vọng ngoài tình yêu Thiên Chúa! Thiên Chúa yêu thương chúng ta mãnh liệt và
sâu đậm, nên niềm hy vọng của chúng ta chắc chắn phải lớn lao và bền vững hơn
bất cứ thực tại nào trên trần gian.
Nhưng tình yêu chưa đủ! Thiên Chúa muốn niềm hy vọng phải đặt vào
đúng chỗ. Mù quáng chỉ dẫn tới ảo tưỡng và sụp đổ. Cần phải có sự thật nữa. Bởi
thế, Đức Giêsu mới hứa: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới
sự thật toàn vẹn.” (Ga 16:13) Sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người!
Không thấy được sự thật toàn vẹn, con người không thể được giải thoát. Không
được giải thoát, không có tình yêu và niềm hy vọng đích thực. Thánh Linh đưa
các môn đệ vào sự thật toàn vẹn của tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa vô
cùng mãnh liệt và cao cả khiến các môn đệ không thể hiểu nổi. Quả thực, nếu
không có Thánh Linh soi sáng, làm sao nhận ra ơn cứu độ lớn lao nơi cái chết và
phục sinh của Đức Kitô?
Thần Khí chính là sự khôn ngoan, “một sự khôn ngoan soi sáng cho
thấy ý nghĩa thực tại.” (Faley 1994:387) Thánh Linh “luôn hiện diện với Thiên
Chúa trong toàn thể tiến trình tạo dựng.” (Faley 1994:384) Người# luôn hoạt
động để tạo dựng một vũ trụ có trật tự. Cuộc tạo dựng không chỉ xảy ra trong vũ
trụ, nhưng cả trong Giáo hội nữa. Thần khí không chỉ hoạt động trong thời gian
viết Thánh Kinh! Nhưng Người còn hoạt động trong Giáo hội qua dòng thời gian
nữa! Muốn bảo vệ sự thật toàn vẹn, Người phải làm việc trong trật tự. Cứ nhìn
vũ trụ sẽ thấy công việc Thánh Linh làm trong Giáo hội, không thể theo ngẫu
hứng hay tình cảm cá nhân!
Hơn nữa, Thánh linh còn đưa các môn đệ vào sự thật toàn vẹn về con
người. Mục đích cuối cùng của mạc khải là giao hòa con người với Thiên Chúa và
anh em. Nhưng làm sao giao hòa với Thiên Chúa và anh em, nếu con người không
biết hết sự thật về chính mình và những tương quan vô cùng phong phú của mình?
Không có gì khó bằng khám phá chính mình. Nhưng Thánh Linh sẽ giúp con người
nhận ra sự thật khó khăn đó. Khi biết rõ chính mình, con người sẽ khiêm tốn hơn
và hạnh phúc hơn. Khi biết rõ tương quan sâu xa giữa mình và Thiên Chúa cũng
như tha nhân, con người sẽ thấy mình phải cố gắng tới mức nào. Vì chính trong
tương quan này, con người sẽ tìm được hạnh phúc tròn đầy. Chỉ trong tương quan
với anh em, con người mới trở nên hình ảnh Thiên Chúa đích thực. Vì tự bản
chất, Thiên Chúa là một tương quan. Nếu không, đã chẳng có Ba Ngôi trong một
Thiên Chúa. Trong các tương quan phản ánh tình yêu Thiên Chúa nhất, chúng ta
phải kể đến gia đình. Chính trong gia đình, con người cảm nghiệm được tình yêu
thắm thiết của Ba Ngôi. Càng chia sẻ sâu xa tình yêu gia đình, càng đi sâu vào
huyền nhiệm Thiên Chúa.
Huyền nhiệm Thiên Chúa chính là sự thật toàn vẹn, đối tượng của
niềm tin. Bởi vậy, được đưa vào sự thật toàn vẹn là “được nên công chính nhờ
đức tin,” tức là được tham dự vào đời sống Thiên Chúa. Đời sống Thiên Chúa chan
hòa bình an! Không biết được sự thật toàn vẹn đó, cuộc sống sẽ tràn ngập đau
khổ. Trái lại, nhờ Thánh Linh, mọi vấn đề sẽ được giải quyết, kể cả vấn đề đau
khổ. Tín hữu không những không sợ đau khổ, nhưng nhờ ân sủng của Thiên Chúa, họ
“còn tự hào khi gặp gian truân.” (Rm 5:3) Tín hữu không tìm cách diệt trừ hay
phủ nhận đau khổ. Vì đau khổ dính liền với thân phận làm người. Nhưng họ quan
niệm đau khổ là một thử thách cần phải vượt qua. Cuộc vượt qua thử thách đó
không dựa vào sự thật bình thường, nhưng vào sự thật toàn vẹn do Thánh Linh mạc
khải.
Càng đi sâu vào sự thật toàn vẹn về Thiên Chúa và con người, càng
được giải thoát. Càng được giải thoát, càng vui tươi và bình an. Chính Thánh
Linh cảm thấy được niềm vui đó khi từ sự thật Thiên Chúa mà đến. Người mạc
khải: “Ngày ngày ta là niềm vui của Người, trước mặt Người, ta không ngớt vui
chơi, vui chơi trên mặt đất, ta đùa vui với con cái loài người.” (Cn 8:30-31)
Lối nhìn trần giới hoàn toàn khác hẳn. Khôn ngoan mang bộ mặt trang trọng, chứ
không thể đi đôi với “vui chơi”. Nhưng chính niềm vui mới là dấu chỉ hy vọng
lớn lao. Đó là lý do tại sao niềm vui tràn ngập tuổi trẻ đầy hy vọng. Hơn nữa,
càng khôn ngoan càng chứng tỏ đã nắm được chân lý toàn vẹn. Càng nắm chắc chân
lý toàn vẹn, càng đặt được nền tảng sâu xa cho niềm hy vọng và niềm vui. Do đó,
có một tương quan sâu xa giữa niềm hy vọng và sự khôn ngoan, sự khôn ngoan bắt
nguồn từ niềm tin nơi Thiên Chúa.
Đó là lý do tại sao niềm tin phát sinh hy vọng. Chính thánh Phaolô
quả quyết: “Còn chúng tôi thì nhờ Thần khí và dựa vào đức tin mà vững lòng chờ
đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng.” (Gl 5:5) Khi đặt niềm tin nơi
Thiên Chúa, con người có thể tìm được niềm hy vọng vững chắc, vì Thiên Chúa
hằng hữu. Thực vậy, “vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào
hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn
tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” (Rm 5:2) Đức tin
là bảo đảm cho chúng ta đạt được niềm hy vọng ngay tự đời này dù đầy những bất
trắc. Hơn nữa, đức tin còn có thể giúp con người bình an giữa cuộc đời đầy sóng
gió. Thật vậy, “chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp
gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung
kiên; ai được công nhận là người trung kiên, thì có quyền trông cậy.” (Rm
5:3-4) “Ngay cả những thử thách cũng góp phần giúp con người hy vọng đạt tới
vinh quang, và sự chịu đựng sinh ra sức mạnh củng cố niềm hy vọng. Đó là niềm
hy vọng có nền tảng, chứ không phải chỉ là ước vọng suông.” (Faley 1994:386) Niềm
hy vọng là cao điểm qui tụ tất cả sức mạnh của người tín hữu. Không có hy vọng,
không ai còn hứng khởi để vượt qua những thử thách muôn mặt. Khi đã vượt qua
những thử thách đó, con người có thể hãnh diện và đầy hy vọng. Nhưng sức mạnh
nào đã giúp họ vượt qua thử thách, nếu không phải là Thánh Linh? Có vượt qua
thử thách của đức tin, chúng ta mới có thể theo Đức Giêsu vào chung hưởng ân
sủng Thiên Chúa. Chính đức tin và hy vọng khiến Kitô hữu khác hẳn với mọi
người. Bình thường ai cũng run sợ trước đau thương thử thách. Nhưng người Kitô
hữu như tràn đầy hứng khởi và tự hào vì được trở nên giống Đức Kitô đau khổ
trong sứ mệnh cứu độ. Quả thế, thập giá là “sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa.” (1
Cr 1:18) Nếu không trung kiên gắn bó với thánh ý Thiên Chúa, chắc chắn Đức
Giêsu đã không thể đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Bởi thế, ai trung kiên
mới có quyền hy vọng!
Niềm hy vọng này lại trở thành mấu cứ cho niềm tin và tình yêu. Quả
thực, “lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên
trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng
đến với anh em.” (Cl 1:5) Lời chân lý gieo niềm hy vọng cứu độ vì phát xuất từ
Thiên Chúa và do chính Thánh Linh loan báo. Quả thế, Thần Khí “sẽ không tự mình
nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo
cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.” (Ga 16:13) Thánh Linh loan báo một
tương lai vững chắc, chắc như chính “những biến cố vào giờ Chúa Giêsu vậy.”
(NIB 1995:773) Không phải Thánh Linh sẽ cho người tín hữu biết trước tương lai.
Thật vậy, theo Bultmann, “người tín hữu chỉ có thể đo lường được tầm quan trọng
và họ mức chịu đựng khi thực sự đụng đầu với thực tế. Họ có thể đoán trước
tương lai trong niềm tin, chứ không biết trước về kiến thức.” (NIB 1995:773)
Nếu thế, Lời Chúa vô cùng cần thiết để củng cố lòng tin trước bất cứ thử thách
bất ngờ nào. Bởi vậy, vai trò Thánh Linh vô cùng quan trọng trong việc trao Lời
Chúa cho cộng đoàn niềm tin và trong tương lai (x. NIB 1995:773) Hoàn thành
trọng trách đó, Thánh Linh sẽ đem lại vinh quang cho Chúa Cha và Chúa Con. Thật
vậy, “Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo
cho anh em.” (Ga 16:14) Loan báo Tin Mừng vừa cứu độ muôn dân vừa vinh danh
Thiên Chúa.
CHIỀU HƯỚNG MỚI
Thánh Linh đã thực sự trở thành ngôi vị không thể thiếu trong công
cuộc cứu độ. Điều kiện thực tế không cho phép các môn đệ hiểu tất cả những gì
Chúa mạc khải trong một lúc. Cái gì cũng phải đợi thời gian mới chín mùi được!
Chính Chúa đã nói rõ điều đó: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng
bây giờ, anh em không có sức chịu nổi.” (Ga 16:12) Chúa Giêsu cũng tôn trọng
trình tự thời gian. Người cũng không thể đi trước thời gian hay giẫm chân lên
Chúa Thánh Thần. Tương lai thuộc về Thánh Linh. Chính Thánh Linh vừa tiếp tục
công cuộc mạc khải vừa ban sức mạnh và ánh sáng để các môn đệ được nâng lên mà
nắm chắc nguồn hy vọng là Lời Chúa. Không thể tiên đoán Thánh Linh đi xa tới
mức nào trong tương lai Giáo hội. Công đồng Vatican II chứng tỏ Thánh Linh đã
làm một cuộc “hiện xuống mới” giữa thời đại hôm nay. Cuộc hiện xuống mới bắt
đầu với cánh cửa Giáo hội mở ra thế giới. Từ sau Vatican II, Giáo hội không còn
tự cho mình ở trên và tách lìa trần gian. Trái lại, “Thánh Linh trong công đồng
đại kết đã dẫn Giáo hội qua một tiến trình tự đánh giá sâu sắc về mình như
thành phần thế giới.” (Faley 1994:388) Từ nay, Giáo hội không còn chỉ thấy Chúa
hiện diện trong Thánh Kinh, truyền thống, các nghi thức phụng vụ, “nhưng cả
trong các biểu tượng và nghi thức từ các văn hóa và tôn giáo khác nữa.” (Heim
1998:14) Nhờ Thánh Linh hướng dẫn, Giáo hội còn “tìm sự hiện diện Thiên Chúa
trong hoàn cảnh của người nghèo và bị bách hại, trong các tôn giáo thế giới, và
các giáo hội Kitô giáo khác. Có một sự khôn ngoan vô hạn trong tất cả những
thực tại này, một sự khôn ngoan làm giàu cho đức tin.” (Faley 1994:388) Khi đã
thoát khỏi tình trạng tự giam hãm mình trong vòng Công giáo chật hẹp, Giáo hội
có nhiều ảnh hưởng và tương quan phong phú hơn. Giáo hội đã bắt gặp nhiều cách
diễn tả và cảm nghiệm khác nhau về sự thật nơi các tôn giáo khác và các anh em
Tin Lành. Thánh Linh đã đánh thức Giáo hội sau bao thế kỷ triền miên trong
những giới hạn nhân gian.
Dĩ nhiên cuộc đối thoại với các tôn giáo và anh em Tin Lành không
được xa rời nguyên tắc “trung thành với Chúa Kitô và xác tín về ơn cứu độ dành
cho mọi người.” (Heim 1998:26) Phong trào đại kết đã có kinh nghiệm sâu xa về
liên tôn và suy tư về “hệ thống chân lý và những khả năng hiệp nhất không dựa
nhiều trền việc đồng thuận hoàn toàn về giáo lý.” (Heim 1998:13) Đó là chiều
cạnh lý thuyết cần thiết cho cuộc đối thoại. Về mặt thực tế, không thể không
nghĩ đến những nỗ lực của các nhà truyền giáo trong các thế kỷ qua. Kinh nghiệm
Alexandre de Rhodes, Nobili, Ricci cho thấy việc hội nhập văn hóa rất cần thiết
cho việc rao giảng Tin Mừng. Nói khác, “việc lột xác trong việc truyền giáo đòi
phải đối thoại với các tôn giáo khác, hoặc ở mức độ thân thiện, giáo thuyết,
hành động xã giao, hay kinh nghiệm tôn giáo.” (Heim 1998:14) Hơn nữa, cần phải
“chú ý tới tôn giáo phổ quát, thường gồm những yếu tố giao lưu văn hóa và tôn
giáo đa nguyên.” (Heim 1998:14) Chính Thánh Linh sẽ hướng dẫn Giáo hội khi mở
ra chiều hướng quá sâu rộng và phong phú như thế. Thực tế, Giáo hội vẫn tin
rằng “ý thức đức tin (sensus fidei) sẽ cung cấp một nền tảng luận lý để đánh
giá về hình thức biểu tượng của hòa điệu đa nguyên này.” (Heim 1998:14)
Thánh Linh đang mở ra một mùa xuân tràn đầy hy vọng trong lòng Giáo
hội, niềm hy vọng phát xuất tự và cũng phát sinh ra lòng tin và tình yêu. Tương
quan bộ ba tin cậy mến thật là huyền nhiệm, huyền nhiệm như chính Ba Ngôi Thiên
Chúa. Chính tương quan đó đã mở ra cho Giáo hội những chiều hướng mới đi vào
một thế giới đang ngóng chờ Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ.
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi muôn đời vẫn là một mầu nhiệm cao vời nhất.
Vì Chúa Ba Ngôi không phải là kết quả của việc con người suy luận. Sở dĩ chúng
ta biết được là vì Thiên Chúa đã tỏ lộ. Thiên Chúa đã mạc khải, đã nói với con
người bằng chính ngôn ngữ nhân loại. Ngôn ngữ đó không đủ khả năng diễn đạt tất
cả những thực tại thuộc lãnh vực thần linh. Mầu nhiệm chỉ được mạc khải theo
khả năng lĩnh hội của con người trong tương quan với thời gian và không gian.
Để mạc khải về Ngôi Hai, Thiên Chúa đã chuẩn bị hằng mấy mươi thế
kỷ bằng việc kén chọn cho mình một dân tộc. Qua dân tộc đó, Ngài biểu dương sức
mạnh và tình thương để họ thấy rằng trên trời dưới đất, chính Ngài là Thiên
Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Chính Chúa của Israel là Thiên Chúa duy nhất,
mọi người phải tôn thờ và quy phục. Không có thần linh nào vượt trổi trên Ngài.
Ngài là Đấng toàn năng cao cả, mọi giới răn và huấn lệnh của Ngài đem lại sự
sống và sức mạnh cho những ai tuân giữ. Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài để hướng
dẫn chăm sóc bênh vực và nhất là yêu thương họ. Hình ảnh áng mây cột lửa nhà
tạm... nói lên sự hiện diện của Ngài. Ngài yêu thương họ bằng tình phụ tử chiến
đấu bên cạnh họ, nuôi dưỡng họ bằng mật ngọt và bằng lúa thơm.
Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai có thể trông thấy Ngài trừ khi
là Ngôi Con tự cung lòng Chúa Cha mà đến, và Người đã đến ở giữa chúng ta. Mầu
nhiệm ngôi hiệp chứng tỏ con người có khả năng tuân nhận và thông hiệp với
Thiên Chúa. Ngôi Hai làm người đê con người trở thành con Thiên Chúa. Chúa Cha
và Chúa Con là một, Chúa Cha yêu mến Chúa Con và Chúa Con yêu mến Chúa Cha. Cả
hai ở trong tình yêu và tình yêu ấy chính là Chúa Thánh Thần. Tình yêu liên kết
ngôi Cha ngôi Con nên một thân thể. Đến giờ Chúa Giêsu phải về cùng Chúa Cha,
nhưng Ngài không để các môn đệ mồ côi. Ngài sẽ xin Chúa Cha ban Thánh Thần cho
các ông. Ta đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Ta không đi thì Đấng yên ủi sẽ
không đến cùng các con, song nếu Ta đi, thì Ta sẽ sai Người đến. Chúa Thánh
Thần đã đến trong ngày lễ Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa. Các ông đã lấy cái
chết để làm chứng cho niềm tin nơi Thiên Chúa, là Cha, Con và Thánh Thần. Chỉ
có một Thiên Chúa, một đức tin, một phép rửa.
Công chúa Luise ngày kia bị một nữ tỳ trách móc. Không cầm nổi tức
giận, công chúa bảo: Ngươi hãy nhớ, ta là con của đức vua. Nhưng người nữ tỳ
trả lời: Còn tôi, tôi là con Thiên Chúa. Công chúa hiểu và về sau đã trở thành
một vị nữ tu dòng Kín.
Qua bí tích Rửa Tội mọi người chúng ta đều được đóng ấn hình ảnh
Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa đến cư ngụ trong linh hồn chúng ta. Hình anh đó
phải lớn lên, lớn lên mãi, để mỗi ngày chúng ta càng trở nên giống Thiên Chúa
trong tình yêu và trong sự thánh thiện. Yêu Chúa là tuân giữ những điều Chúa
dạy. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy.
5. Sống đời
sống Thiên Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
Năm 1961, sau khi người cộng sản Liên-xô phóng được lên không trung
phi thuyền đầu tiên có người điều khiển và trở về trái đất thì chính phủ
Liên-xô đã ra một thông cáo với lời lẽ phạm thánh như thế này: Người Nga chúng
tôi đã lục lọi khắp cùng thượng tầng không gian mà chúng tôi không gặp một ông
già nào có tên là Đức Chúa Trời cả.
Người ta phủ nhận Thiên Chúa, nhưng việc người ta phủ nhận Thiên
Chúa không làm chứng vì thế mà Thiên Chúa không có! Cũng như người ta có phủ
nhận mặt trời thì mặt trời vẫn là mặt trời, vẫn chói rọi trên đầu chúng ta.
Hôm nay, trong Bài đọc I, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng cách
đây 3 ngàn năm, có một dân Israen, đã khẳng định có Thiên Chúa, “chúng tôi đã
gặp Người”. Người đã tuyển chọn dân ấy, đã đưa ra khỏi Ai Cập, làm bao nhiêu sự
lạ và hôm nay, giữa chớp loè sấm vang đã ban Mười Điều Răn, khiến cho toàn dân
phải kêu lên: “Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, không có Chúa nào
khác”.
Thiên Chúa là một! Nhưng Chúa Giêsu ra đời, Ngài hé mở cho chúng ta
một mầu nhiệm khác: Thiên Chúa là một nhưng lại có ba Ngôi. Ngài mạc khải cho
chúng ta chính đời sống nội tâm của Thiên Chúa. Ngài nói cho chúng ta biết rằng
Thiên Chúa là Cha. Ngài và Chúa Thánh Thần là mối giây tình yêu liên kết Ngài
với Cha và liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Vậy những gì chúng ta biết về
Thiên Chúa Ba Ngôi là do chính kinh nghiệm và lời giảng của Chúa Giêsu. Ngài
cầu nguyện cùng Chúa Cha, Ngài nói lời của Chúa Cha cũng như Ngài hứa ban Thánh
Thần. Ngài hành động với sức mạnh Thánh Thần, rồi Ngài dạy ai muốn theo Ngài
phải được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phải sống mầu nhiệm Ba
Ngôi vì chính đó là sự sống của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy chúng ta mừng hôm nay. Vì là mầu nhiệm, trí khôn chúng
ta không thể hiểu hết được. Hình như khi tạo dựng người ta “giống hình ảnh
Chúa”, Thiên Chúa đã tạo nên chung quanh chúng ta và trong chúng ta những hình
ảnh Chúa là một mà ba, một Chúa nhưng có ba Ngôi. Ví dụ, con người ta có một
nhưng có 3 giai đoạn: trẻ, trung niên và già – ba giai đoạn nhưng một cuộc đời;
linh hồn có 3 cơ năng: trí nhớ, trí hiểu và trí lý luận – ba cơ năng một linh
hồn; nước là một, nhưng có 3 hình thức: mây vi vu trên trời, khối đá đông đặc,
nước chảy dưới cầu, đều là nước dưới 3 hình thức. Biểu hiệu trên quốc kỳ nước
Công giáo Ái-Nhĩ-Lan là một chiếc lá với 3 khía cạnh ám chỉ Thiên Chúa là một
nhưng có ba Ngôi.
Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi, vì chính đó là
đời sống căn bản nội tâm của Thiên Chúa. Chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa
Ba Ngôi. Tâm hồn ta trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi và Chúa mời gọi ta sống đời
sống của Chúa Ba Ngôi vậy.
6. Chúa Ba
Ngôi trong cuộc đời chúng ta
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm lớn lao nhất của Ki tô giáo, vì
mầu nhiệm này thuộc về đời sống thâm sâu của bản tính Thiên Chúa, mà trí khôn
con người không thể nào hiểu thấu. Sở dĩ chúng ta tin là vì chính Thiên Chúa đã
mạc khải cho chúng ta. Tuy nhiên câu hỏi chúng ta cùng chia sẻ hôm nay, đó là
Ba Ngôi Thiên Chúa nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta?
Ngôi thứ nhất là Cha của chúng ta.
Đúng thế, trong các tôn giáo không có một vị thần minh nào đã dám
mạc khải mình như thế. Hẳn chúng ta phải hãnh diện vì có được một Thiên Chúa
gần gũi chúng ta như một người cha. Và người cha ấy lại là một người cha toàn
năng, như thánh vịnh 115 đã diễn tả: Cha chúng ta ở trên trời và Ngài làm được
tất cả những gì Ngài muốn. Đồng thời, Ngài còn là một người cha đầy lòng nhân
từ và hay thương xót. Ngài biết chúng ta thiếu thốn và luôn ra tay cứu giúp. Có
lẽ nhiều người vẫn chưa cảm nghiệm được hết tình phụ tử này. Đa số trong chúng
ta mới chỉ biết nhìn vào những hoàn cản phiến diện bên ngoài, để rồi nghi ngờ
tình Chúa yêu thương: Tại sao chúng ta luôn ăn ngay ở lành mà vẫn cứ bị thiệt
thòi và thất bại? Trong khi đó, kẻ ác thì trái lại, cuộc đời họ cứ lên hương
như diều gặp gió? Người lành như thua chạy và chân lý như bị rút vào bóng tối?
Trước hết, chúng ta tin rằng Thiên Chúa là tình yêu. Ngài muốn biểu
lộ tình yêu ấy cho mọi người, người lành cũng như kẻ dữ. Nhưng tới một lúc nào
đó, sự công bằng của Ngài sẽ được thể hiện và Ngài sẽ xét xử tuỳ theo công việc
chúng ta đã làm.
Đối với những thử thách đang gặp, phải chăng Chúa muốn chúng ta
kiên nhẫn và vững lòng cậy trông, bởi vì kiên trì trong gian truân sẽ dẫn đưa
chúng ta tời hạnh phúc. Hơn thế nữa, rất có thể Chúa đang thử thách để xem
chúng ta có bằng lòng vâng phục hay không, bởi vì vâng lời thì trọng hơn của
lễ. Đồng thời để xem đức tin của chúng ta đã thực sự trưởng thành hay chưa? Một
đức tin trưởng thành sẽ không bao giờ nao múng trước mọi nghịch cảnh. Một người
cha đích thực thì phải biết uốn nắn con cái, chứ không được muông chiều và làm
cho chúng hư đi: Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi…Hẳn chúng ta còn
nhớ câu chuyện ông Gióp trong Cựu Ước. Giữa những hoàn cảnh đen tối, ông không
hề oán trách, nhưng một mức phó thác cho Chúa. Cách giải quyết của ông là ở mọi
nơi và trong mọi lúc phải luôn tin tưởng và tình thương của Chúa. Sau khi đã
được tôi luyện trong đau khổ như thế, chắc chắn chúng ta sẽ xứng đáng lãnh nhận
phần thưởng Nước Trời mà Ngài đã hứa ban.
Tiếp đến, Ngôi thứ Hai là Đấng Cứu độ chúng ta.
Sau khi nguyên tổ phạm tội, thì tất cả chúng ta đều phải sống dưới
ách nô lệ tội lỗi. Không ai có thể giải thoát chúng ta, bởi vì tội là sự vấp
phạm đến Thiên Chúa, nên chỉ một mình Ngài mới có thể giải thoát chúng ta. Và
Thiên Chúa đã thực hiện điều ấy. Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta chính là
Ngôi Hai nhập thể, như lời thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương
nhân loại đến nỗi đã ban chính Con Một của mình cho nhân loại…Ngài đã chịu chết
trên thập giá để cứu độ chúng ta và tỏ cho chúng ta thấy một tình yêu tuyệt
vời, đó là tình yêu của một người dám hy sinh mạng sống vình vì bạn hữu.
Sau cùng, Ngôi thứ ba là Đấng an ủi chúng ta.
Hẳn rằng trong cuộc sống, có những lúc chúng ta chán nản, không
biết phải cầu xin thế nào cho đẹp lòng Chúa. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta
hãy nhờ Chúa Thánh Thần mà cầu nguyện. Ngài nắm giữ một vai trò quan trọng và
cần thiết trong tâm hồn chúng ta. Ngài sẽ thêm sức, soi sáng và chỉ cho chúng
ta cách thức cầu nguyện. Ngài nhắc nhở cho chúng ta biết những nhu cầu cân
thiết để kêu xin. Chính Ngài sẽ làm cho tâm hồn chúng ta được lắng đọng và bình
an, để rồi chúng ta sẵn sàng vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Ngài thấu suốt mọi
tâm tư nguyện vọng và Ngài luôn ra tay nâng đỡ, để rồi chúng ta tìm lại được
niềm an ủi và khích lệ, vui mừng và hạnh phúc.
Bởi đó, hãy mở rộng cõi lòng để Chúa Thánh Thần ngự đến và biến đổi
tâm hồn chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi và đừng bao giờ làm buồn lòng
các Ngài.
7. Mầu nhiệm
tình yêu - ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm
vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu
thấu mầu nhiệm đó. Nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện
của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Đó là tình yêu hiệp thông. Ba Ngôi Thiên Chúa liên kết với nhau trong tình
yêu. Tình yêu đó khiến cho Ba Ngôi trở nên một. Đây là điều Chúa Giêsu nhiều
lần khẳng định: “Ta và Cha Ta là một”; “Xin cho chúng nên một như Cha ở trong
Con và như Con ở trong Cha” (Ga 17,21). Nên một trong tư tưởng. Nên một trong
hành động. Nên Chúa Giêsu luôn làm theo thánh ý Chúa Cha: “Nếu anh em giữ các
điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ
các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15,10). Và
Đức Chúa Thánh Thần cũng không làm gì ngoài ý muốn của Chúa Giêsu như Chúa
Giêsu khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay: “Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người
sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”. Sự hiệp thông trọn vẹn đến
nỗi một Ngôi chính là biểu hiện của cả Ba Ngôi như Chúa Giêsu cho biết: “Ai
thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Thật là một sự kết hiệp trọn vẹn.
Đó là tình yêu dâng hiến. Chúa Cha có gì thì ban cho Chúa Con tất cả. Như lời Chúa Giêsu
nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy”. Chúa Cha
ban cho Chúa Con cả chính bản thân mình nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của
Chúa Cha. Đến nỗi ai thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha (cf. Ga 14,9). Ngược lại,
nhận được gì thì Chúa Con dâng lại cho Chúa Cha. Dâng cả bản thân. Dâng cả ý
muốn. Dâng cả mạng sống. Khi hấp hối trong vườn Giệtsimani, Chúa Giêsu sợ hãi
cái chết theo thánh ý Chúa Cha. Người đã tha thiết cầu nguyện: “Áp ba, Cha ơi,
Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn,
mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Quả thật tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa là
một tình yêu dâng hiến hoàn toàn. Dâng hiến đến không còn giữ gì cho bản thân
mình.
Đó là tình yêu tác sinh. Sự dâng hiến không làm cho tình yêu nghèo nàn đi. Trái lại càng
làm cho tình yêu thêm sung mãn. Càng cho đi lại càng thêm phong phú. Càng nhận
lãnh lại càng thêm năng lực cho đi. Tình yêu đó lan toả đến cả muôn loài muôn
vật trong vũ trụ. Tình yêu tràn trề sung mãn nơi Ba Ngôi Thiên Chúa tuôn đổ
xuống muôn loài, làm cho muôn loài được hiện hữu, được sống, được tham dự vào
nguồn tình yêu vô biên để được hạnh phúc vĩnh cữu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là
tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta
chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội
lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho
khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống
hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ,
biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ ý
riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ
nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta
sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng.
Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho con ngày càng trở nên giống hình
ảnh của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Về lý thuyết, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thật khó hiểu. Nhưng
thực ra Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi rất cụ thể trong đời sống ta. Bạn hiểu
điều này thế nào?
2. Ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Ta phải sống
thế nào để là hình ảnh trung thực của Người?
3. Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch hạnh phúc. Muốn được hạnh phúc
ta phải kết hiệp với nguồn mạch hạnh phúc này. Nhưng để kết hiệp với Chúa Ba
Ngôi, ta phải làm gì?
8. Duy nhất – Lm.
Giuse Trần Việt Hùng
Sách Phương Ngôn còn gọi là Châm Ngôn (Proverb) nói về sự Khôn
Ngoan. Người Do thái ví sự khôn ngoan như người phụ nữ cố gắng kiên trì dẵn dắt
mọi người ra khỏi con đường gian tà và tội lỗi. Trong đoạn sách Châm Ngôn hôm
nay, sự Khôn Ngoan được diễn tả như một nhân vật đã hiện diện với Thiên Chúa
trước khi tạo dựng vũ trụ: "Đức Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay
của Người, trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất." (Cn 8,22).
Sự Khôn Ngoan ở cùng Thiên Chúa qua mọi công trình sáng tạo. Tiến trình lịch sử
cứu độ được hé mở một cách rất tiệm tiến. Dân Dothái tôn thờ một Thiên Chúa duy
nhất và độc thần. Mầu nhiệm về Ngôi Ba Thiên Chúa được mạc khải từ từ từng
bước. Hình bóng Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần còn được ẩn giấu. Sự Khôn Ngoan
được nhân cách hoá trong cách diễn tả: "Khi chưa có các vực thẳm, khi chưa
có mạch nước tràn đầy, ta đã được sinh ra." (Cn 8,24).
Nguồn Kinh Thánh mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi. Thuở xưa, Thiên
Chúa đã dùng nhiều cách phán dạy cha ông qua các ngôn sứ, nay Chúa dạy chúng ta
qua chính Con Một của Người. Chúa Giêsu đã mạc khải về ngôi vị Thiên Chúa:
"Tôi và Chúa Cha là một." (Ga 10,30). Chúa Giêsu là hiện thân và là
Ngôi Lời của Thiên Chúa, khi chúng ta biết Chúa Giêsu, là biết Chúa Cha:
"Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em
biết Người và đã thấy Người." (Ga 14,7). Thánh Luca diễn tả hình ảnh Thiên
Chúa trong ngôi vị khác nhau qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông
Giođan: "Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại
có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra
Con." (Lc 3,22). Chính Chúa Giêsu đã dùng cách tuyên xưng Ba Ngôi Vị Thiên
Chúa khi sai các Tông đồ ra rao giảng Tin Mừng: "Vậy anh em hãy đi và làm
cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần." (Mt 28,19).
Giáo Hội tin kính Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta không thể
hiểu thấu mầu nhiệm vì sự giới hạn của ngôn ngữ, sự hiểu biết và trí khôn con
người. Qua sự tìm hiểu và kinh nghiệm, chúng ta cũng chỉ học biết một chút về
cơ cấu của các sự vật hiện hữu. Chúng ta bị giới hạn mọi thứ từ thời gian,
không gian, kiến thức hẹp hòi và sự hiểu biết nông cạn. Tin vào lời Chúa. Chúa
Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta đòi
hỏi hiểu thấu về Thiên Chúa, tôi sợ rằng đó chỉ có thể là chúa do con người nắn
nên. Dựa vào lời mạc khải, Kinh Thánh không bao giờ dùng từ Chúa Ba Ngôi.
Khoảng năm 115-120, thời Giáo Hội sơ khai, một triết gia tin đạo là Tertullian
đã dùng từ ‘Chúa Ba Ngôi’ (Trinity) để cố gắng tìm cách đưa đức tin vào ngôn
ngữ của loài người. Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa Cha là ‘Abba’, Thánh Tôma Tông đồ
khi nhận diện ra Chúa đã thưa: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của tôi."
Chúa Giêsu là Chúa và Ngài gọi Thiên Chúa là Cha.
Giáo Hội đã suy tư rất nhiều qua sự đóng góp của các Thánh Giáo phụ
và các vị tiền bối như Origen, Tertullian, Arius, Thánh Basil, Thánh Gregory of
Nyssa, Thánh Gregory of Nazienzen và Thánh Augustinô… Đã mất khoảng hơn 300 năm
để suy tư tìm tòi, bàn cãi tranh luận và đôi khi là nguyên cớ gây tù đày, phân
rẽ và hành khổ nhau. Cho tới khi các giáo phụ họp Công đồng Nicea 325 để định
nghĩa về sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha. Rồi chờ đợi cho tới hơn nửa
thế kỷ sau, Công đồng Constantinople mới định nghĩa về Ngôi Thánh Thần. Thánh
Augustinô tóm gọn ý nghĩa mầu nhiệm: Chúa Cha là Thiên Chúa. Chúa Con là Thiên
Chúa. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Chúa Cha không phải là Chúa Con. Chúa Con
không phải là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần không phải là Chúa Cha, chỉ duy
nhất có một Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là ba ngôi riêng
biệt nhưng kết hợp làm một Chúa. Thiên Chúa của tình yêu.
Chúng ta nhận biết được tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người
qua sự hy sinh của Chúa Giêsu chết trên cây Thánh giá. Mỗi lần chúng ta ghi dấu
Thánh giá trên thân mình, tuyên xưng rằng: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần,
chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi kết hợp
trong tình yêu; trao ban tình yêu và hiến mình vì tình yêu. Chúng ta không thể
hiểu thấu mầu nhiệm tình yêu vì tình yêu như biển trời mênh mông có thể dung
chứa mọi thứ. Chúng ta được ngụp lặn trong biển tình yêu của Thiên Chúa. Tình
Chúa lan toả như khí trời. Tình Chúa bao la hơn biển cả. Mỗi tâm hồn đều được
mời gọi để mở đón tình yêu, sống tình yêu và trao ban tình yêu. Tình yêu Thiên
Chúa không bao giờ vơi cạn.
Chúa Giêsu trao ban Thánh Thần cho các Tông đồ: Người thổi hơi vào
các ông và nói: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần." (Ga 20,22). Chúa
Thánh Thần là nguồn mạch sự sống. Ngài tiếp tục hoạt động canh tân Giáo Hội do
Chúa Giêsu thiết lập. Qua mọi thời, nguồn ơn Chúa Thánh Thần luôn tràn đổ trong
tâm hồn các tín hữu. Luôn có những nhân chứng đích thực giữa dòng đời để chấn
hưng, cải đổi và thắp niềm hy vọng cho mọi người trên đường lữ hành. Chúng ta
đều là con cái Thiên Chúa vì được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Phaolô dạy:
"Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên
Chúa." (Rm 8,14).
Qua Bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta được tham dự vào sứ vụ làm
nhân chứng cho Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta trở nên con cái và được tháp nhập
vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Chúng ta là những người được thừa kế ân sủng cứu
độ: "Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế,
thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người,
chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người." (Rm 8,17). Mỗi người
đều phải chu toàn sứ vụ Kitô hữu của mình. Chúng ta không thể sống dựa, ăn nhờ,
ở bám hay tùy thuộc vào người khác. Quan sát rừng cây, chúng ta thấy có cả ngàn
ngàn các loại cây chen nhau mọc trong rừng. Rừng xanh được tạo nên bởi cả rừng
cây muôn loại và muôn màu sắc. Các cây cùng chen nhau mọc vươn lên trong khoảng
không, nhưng mỗi cây đều phải bám rễ sâu để giữ thân mình. Mỗi cây có sự sống
và có các kết cấu riêng biệt. Mỗi cây tự mình hút chất bổ để nuôi dưỡng thân
mình qua những cách thế được tạo hóa phú bẩm. Cây nào không bám rễ sâu sẽ dễ bị
tróc gốc khi gặp mưa to gió lớn. Chúng ta hãy bám rễ niềm tin sự sống vào Chúa
Kitô Phục Sinh.
Đời sống người Kitô hữu phải gắn bó với tình yêu Chúa Kitô Thập
Giá. Tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta đặt niềm hy vọng vào
sự sống vĩnh cửu của ơn cứu độ. Hãy trông cậy vào nguồn ân sủng hướng dẫn của
Chúa Thánh Thần. Chúng ta sẽ nhận biết ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống này.
Tất cả quy về sự thật là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã chịu chết và sống
lại để chuộc tội cho nhân loại. Thánh Gioan viết: "Khi nào Thần Khí sự
thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói
điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại và loan báo cho anh
em biết những điều sẽ xảy đến." (Ga 16,13).
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mọi nơi
và mọi lúc. Mỗi khi làm dấu thánh giá trên thân xác, xin cho chúng con ý thức
và nhận biết tình yêu tuyệt vời Thiên Chúa đã dành cho loài người chúng con.
Chúng con tôn thờ, ca ngợi và cảm tạ hồng ân Chúa đến muôn muôn ngàn đời.
9. Tình
yêu kỳ diệu - Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày 22-5-2013, Nick Vujicic, chàng trai không chân không tay tới
Việt Nam. Từ ngày 22 đến 26 tháng 5, Nick sẽ có 8 buổi diễn thuyết (45
phút/buổi) với các đối tượng khác nhau. Anh sẽ trình bày trước 25.000 sinh viên
tại sân vận động Mỹ Đình (Hà Nội) từ 18g30 – 21g30 và ngày 23-5 trước 15.000
người tại sân vận động Thống Nhất, Sài Gòn từ 18g – 21g ngày 25-5. Anh đến Việt
Nam để truyền cảm hứng cho các bạn trẻ về niềm tin tình yêu và nghị lực.
Nick Vujicic sinh ngày 4-12-1982 tại Melbourne, Australia và hiện
đang sống tại Mỹ. Không may mắn như những đứa trẻ khác, Nick đã ra đời với cơ
thể không lành lặn, thiếu chân, thiếu tay. Bố mẹ Nick gần như ngất đi sau khi
nhìn thấy đứa con bé bỏng đáng thương của mình chào đời. Thế nhưng, họ luôn cố
gắng giúp con trai có một cuộc sống bình thường như bao đứa trẻ khác.
Bằng nghị lực phi thường cùng phương châm sống: "Tật nguyền
lớn nhất trong đời là khi mất hy vọng. Hãy tin tôi đi, mất hy vọng còn tồi tệ
hơn nhiều so với chỉ mất chân tay", Nick Vujicic đã vươn lên để trở thành
nhà diễn thuyết nổi tiếng thế giới. Anh là người "kỳ diệu nhất hành
tinh". Qua những bài diễn thuyết, Nick Vujicic luôn nói về niềm tin và hy
vọng vào Thiên Chúa Tình Yêu đã cho anh nghị lực vươn lên để trở thành người có
ích, sống vui tươi hạnh phúc.
Có người nông dân dạy con trai mới lớn: muốn cho mướp ra nhiều trái
phải bấm ngọn.
Cậu bé hỏi: tại sao?
Người cha trả lời: vì nó tức nên nó đâm trái.
Có thể cậu bé không bằng lòng với câu trả lời của cha, nhưng sau
này khi vào đại học nông nghiệp, cậu sẽ biết rõ lý do.
Một em bé đứng trước thi hài ông nội, hỏi mẹ: Mẹ ơi sao ông nội
chết vậy hả mẹ?
Mẹ đáp: vì ông nội già rồi.
Bé lại hỏi: thế bà nội già rồi sao không chết? Chú Tư trẻ vậy sao
lại chết.
Người mẹ vui mừng vì thấy con thông minh lý sự nhưng lúng túng
không tìm ra câu trả lời thoả đáng. Khi lớn lên bé sẽ hiểu lý do.
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn
không bao giờ hiểu thấu. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông
ngày xưa mới đố nhau: Đố ai biết lúa mấy cây, Biết sông mấy khúc, biết mây mấy
tầng. Đố ai quét sạch lá rừng, Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Có lẽ trong tất cả mọi điều khó hiểu của cuộc sống con người thì
tình yêu là khó hiểu nhất. Chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao
tổn bao công sức và giấy mực qua các thời đại mà vẫn không có được một định
nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa nên người ta
mới coi tình yêu như là mầu nhiệm.
Thế nhưng, mầu nhiệm tình yêu có đáng là gì so với các mầu nhiệm
của Thiên Chúa. Trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Chúa Ba
Ngôi là cao cả nhất, khó hiểu nhất. Như sách giáo lý Giáo Hội Công Giáo khẳng
định: Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời
sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà
cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa "cho chúng ta".
Trước mầu nhiệm Ba Ngôi, một mầu nhiệm cao sâu, trí khôn nhỏ bé của
con người không thể hiễu nổi.Tại sao Một Chúa mà Ba Ngôi? 1 là 3 và 3 là 1?.
Vậy phải hiểu và đón nhận mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào?
Ba Ngôi là một mầu nhiệm thuộc đời sống nội tại của Thiên Chúa,
vượt quá mọi khả năng hiểu biết và suy luận của trí khôn hữu hạn con người. Qua
bao thời đại, trí khôn con người dựa vào mạc khải để tìm hiểu huyền nhiệm sâu
thẳm này.
Thánh kinh có bàn nhiều về mầu nhiệm Ba Ngôi.
- Mạc khải Cựu ước chủ yếu là mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất nhưng
cũng có mầm móng về mầu nhiệm Ba Ngôi. Niềm tin độc thần là tín điều lớn nhất
của Cựu ước (Đnl 6, 4-5). Điều này cần thiết cho bối cảnh đa thần giáo ở Trung
đông thời bấy giờ.
- Mạc khải Tân ước dạy rõ ràng hơn về Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ thần
Gabriel đến báo tin cho Đức Maria: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và
quyền năng Đấng Tối Cao sẽ che chở bà, vì thế Hài Nhi bà sắp sinh ra sẽ được
gọi là Con Thiên Chúa". Những lời đó cho biết: Đấng Tối Cao là Chúa Cha
cùng với Chúa Thánh Thần sẽ lo cho Hài Nhi sắp sinh ra là Đức Giêsu, Con Thiên
Chúa. Hình ảnh đặc trưng nhất là khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan,
chim bồ câu ngự xuống đậu trên Ngài (Ga1, 32-34). Tiếng Chúa Cha tuyên phán:
Con là con Ta yêu dấu (Mt 1, 11). Tiếng nói, chim câu, Chúa Giêsu, ba hình ảnh
này tạo nên chân dung sống động về Ba Ngôi. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hứa
với các tông đồ: "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng
Bàu Chữa khác, đó là Thần Khí sự thật..." Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban Đấng
Bàu Chữa là Thần Khí sự thật, nghĩa là Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Trong
phúc âm Matthêu có câu nói nổi tiếng về Ba Ngôi "Các con hãy đi giảng dạy
muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28,
19). Thánh Phaolô luôn cầu chúc: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và
ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.
Chỉ có một Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi và là Ba Ngôi:
Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần. Mỗi ngôi vị đều là Thiên Chúa, dù vậy
vẫn chỉ có một Thiên Chúa mà thôi. Mỗi ngôi vị đều bằng nhau về thần tính và ưu
phẩm, nhưng không có ba Thiên Chúa ngang nhau mà chỉ có một Thiên Chúa. Mỗi
ngôi vị đều có trọn vẹn sự sống thần linh trong mình dù chỉ có một sự sống thần
linh duy nhất. Nói theo từ ngữ của Công đồng Vatican II: Sáng kiến cứu độ là
của Chúa Cha. Chúa Cha chia sẻ và bàn bạc sáng kiến ấy với Chúa Con và Chúa
Thánh Thần.Việc thực hiện sáng kiến ấy giống như một bản trường ca gồm hai phần
chính. Đức Kitô thực hiện phần đầu. Ngài nhập thể, mạc khải về Chúa Cha dâng
lên Cha hy lễ thập giá để cứu độ. Phần hai dựa vào công trình ấy mà nâng con
người lên, đưa con người về cùng Cha, đó là phần vụ của Chúa Thánh Thần. Thánh
Ignatio Loyola trong một lần cầu nguyện, bổng nhiên nhận ra Ba Ngôi dưới hình
dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là
cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau hướng về nhau. Ba Ngôi là một gia đình. Giáo
hội là một gia đình của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Trưởng Tử,
mọi người là anh chị em của nhau. Đạo lý Đông phương vốn trọng chữ trung, chữ
hiếu và chữ nhân, rất gần gũi với tinh thần Kitô giáo. Trung với Chúa, hiếu
thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ, nhân ái với mọi người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại
thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết, chỉ có thể đón nhận bằng
đức tin. Thực tại Ba ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và
siêu lý. Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói loà rực rỡ, ánh sáng ban sự sống
cho những ai khiêm nhường đón nhận và sẽ là bóng tối dày đặc đầy mâu thuẫn đối
với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.
Nhìn lên cung thánh, ta thấy Thánh Giá, Nhà Tạm, Bàn Thờ. Đó là
trung tâm niềm tin của người Kitô hữu.Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã tự hiến làm
hy lễ dâng lên Chúa Cha.Ngài tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trong tinh thần
vâng phục và yêu mến đối với Cha, để thiết lập giao ước mới với Giáo hội trong
máu của Ngài. Ngài đã phục sinh về với Cha nhưng vẫn luôn ở lại với Giáo hội
qua Bí Tích Thánh Thể mà Nhà Tạm là nơi Ngài hiện diện thường trực. Bàn thờ
tượng trưng cho Chúa Kitô.Khi linh mục cử hành thánh lễ là tưởng niệm hy lễ
thập giá và cử hành mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô.
Ba Ngôi sống bằng một lương thực thần linh, cùng một sự sống đó là
tình yêu thần linh. Chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi khi đi vào cử
hành mầu nhiệm vượt qua trong thánh lễ. Với chúng ta sự sống ấy là sự sống của
Đức Kitô, Mình và Máu Đức Kitô trao ban qua thánh thể "Ai ăn Thịt Ta và
uống Máu Ta thì có sự sống đời đời" (Ga 6, 34). Khi chia sẽ chén hiệp
thông cuả Ba Ngôi, chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau để trở nên một như
Ba Ngôi là một(Ga 17, 21).
Chúng ta đến Nhà thờ để tìm Chúa và gặp Chúa. Nói theo kiểu nói của
Đức Hồng y Henry de Lubac: Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại
dương. Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng. Bơi lội giữa đại dương làm cho
con người khiếp đảm lo sợ không tới bến. Nhưng Thiên Chúa vừa là bến bờ vừa là
đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng tới
Chúa đã là ở trong Chúa, tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự tìm
kiếm nào mà không phải phấn đấu, không gặp mâu thuẫn đau khổ. Nhưng chúng ta
tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với
sức mạnh Chúa Thánh Thần.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại
trong tình yêu. Mỗi ngày người tín hữu chúng ta làm dấu Thánh giá nhiều lần
trên thân xác "Nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh thần". Ước
gì mỗi người cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, hiệp thông chia sẻ trong cuộc sống
hàng ngày của mình.
10. Chúc tụng Thiên
Chúa Ba Ngôi – R. Veritas
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
“Chúc tụng Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần ,
Vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta”.
Đó là mở đầu thánh lễ mừng kính Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ
không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có Ba Ngôi: Cha,
Con và Thánh Thần. Mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được
hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô, nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng đã không giải thích tại sao Thiên Chúa duy
nhất mà lại có Ba Ngôi.
Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn
từ biệt dài trong bữa Tiệc Ly về sự hiện diện và tác động của từng ngôi: Cha,
Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa Ba Ngôi mà không giải
thích lý do tại sao. Các tông đồ lúc đó cũng đã không thắc mắc tại sao như vậy,
nhưng các ngài đã yêu mến, chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành.
“Ta và Cha Ta, Chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữ giới răn Ta truyền
thì Chúng ta sẽ đến ngự trong người đó”. Trong Phúc âm thánh Gioan
được dùng trong thánh lễ kính Chúa Trời Ba Ngôi là những lời của Chúa Giêsu mạc
khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần. Chúa Giêsu đã mạc
khải cho các môn đệ như sau: “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng
bây giờ chúng con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy
chúng con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe
gì thì sẽ nói như vậy và Người sẽ dạy bảo các con biết những việc tương lai.
Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người đã lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền
cho các con. Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói là
Người sẽ lãnh nhận nơi Thầy mà loan truyền cho các con”.
Đó là những lời trích từ bài diễn văn dài được ghi lại nơi ba
chương của Phúc âm thánh Gioan, từ chương XIV-XVI, trong đó mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi được Chúa Giêsu nhắc đến mà không giải thích cho các tông đồ. Vấn
đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa mà là
sống mầu nhiệm Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần
nào về Thiên Chúa nhưng không thể nào biết trọn được cả.
Sự việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về
mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày nay. Trí khôn
con người hữu hạn làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng, nếu muốn
hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong
một lỗ nhỏ như trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển.
“Thầy con nhiều điều phải nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng
con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết
tất cả sự thật, Ngài sẽ đưa các con vào trong trọn cả sự thật”. Mỗi ngày chúng
ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi
sáng, hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm bao la của Thiên Chúa Ba
Ngôi. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi không bao giờ ngừng, cả cho đến khi
chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Mỗi ngày chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng
dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng
thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa trở nên
giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em xung quanh như chính Thiên Chúa
muốn.
Càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu
nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa thì chúng ta càng có tâm hồn quảng
đại, mở rộng đón nhận anh chị em xung quanh và phục vụ họ trong mọi hoàn cảnh
cụ thể. Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không chứng minh
hay giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu thánh
giá chúng ta mang lấy hy sinh mình hàng ngày trước mỗi công việc quan trọng ban
cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi,
được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để sống trọn cuộc
sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi vĩnh phúc mai
sau.
11. Toàn bộ sự thật.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ, anh
em không có sức chịu nổi."
Đức Giêsu khi sắp về với Cha, đã chấp nhận giới hạn của các môn đệ.
Ngài chưa nói hết được những điều Ngài muốn nói, nhưng Ngài không muốn ép họ
phải cố hiểu. Cần có thời gian, và nhất là cần Thánh Thần...
Đức Giêsu chấp nhận ra đi khi việc huấn luyện còn dang dở. Ngài
chấp nhận mình không phải là vị thầy duy nhất: Sau này, Thánh Thần sẽ dạy anh
em mọi điều (Ga 14,26).
Ngài cũng chẳng phải là Đấng Bảo Trợ duy nhất vì còn một Đấng Bảo
Trợ khác đến sau Ngài (x. Ga 14,16).
Ngài đã vén mở cho các môn đệ thấy sự thật, sự thật về Cha, về bản
thân mình và về con người. Nhưng Ngài biết rằng cần có Thánh Thần từ từ dẫn dắt
các môn đệ mới hiểu thấu và đi vào toàn bộ sự thật.
Vì lợi ích của họ, Đức Giêsu sẵn sàng ra đi (x. Ga 16,7), để nhường
chỗ cho Đấng Cha và Ngài sai đến.
Đức Giêsu chẳng tìm mình, và Thánh Thần cũng vậy.
Thánh Thần chỉ có sứ mạng là đưa con người đến với Cha và Con là
Đức Giêsu. Ngài chẳng tìm vinh quang cho mình, nhưng chỉ tìm tôn vinh và làm
chứng cho Đức Giêsu.
Cha cũng chẳng tìm mình. Cha chẳng giữ gì làm của riêng.
"Mọi sự Cha có đều là của Thầy" (c.15) Cha là nguồn mạch
luôn trào dâng qua Con. Con là Con vì đón nhận tất cả từ Cha.
Tình yêu liên kết Cha và Con là Thánh Thần,
Khi chiêm ngắm thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy đó là
một cộng đoàn lý tưởng. Mỗi ngôi vị đều sống cho hai ngôi vị kia.
Yêu thương và hiệp thông với nhau đòi từ bỏ. Nhưng từ bỏ lại làm
cho mỗi ngôi vị trọn vẹn là mình, và sống trong hạnh phúc viên mãn.
Thiên Chúa của Kitô giáo là một cộng đoàn yêu thương, nhưng thế
giới của Thiên Chúa Ba Ngôi lại không khép kín.
Thế giới ấy vươn ra ngoài mình, để cho hạnh phúc tuôn đổ trên toàn
bộ công trình sáng tạo.
Cha yêu loài người đến độ sai Con Một làm người. Con yêu loài người
đến độ dám sống và chết cho họ. Thánh Thần yêu loài người đến độ luôn ở bên để
ủi an nâng đỡ. Cả Ba Ngôi cùng nhau lo cho loài người.
Ước mơ lớn nhất của Ba Ngôi là đưa cả nhân loại đi vào thế giới
thần linh của mình, để mỗi người được hưởng hạnh phúc làm con trong Chúa Con.
Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu mở ra, chia sẻ, mời gọi.
Tình yêu đích thực bao giờ cũng khiêm hạ đợi chờ. Chúng ta tự hỏi
mình có sẵn sàng mở ra để Chúa đi vào thế giới của mình và để mình đi vào thế
giới của Chúa không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cha là Đấng Sáng Tạo, Con là Đấng Cứu Độ, Thánh Thần là Đấng đem
lại sự sống, sự canh tân, sự hiệp nhất. Bạn là hình ảnh Chúa Ba Ngôi, bạn thấy
mình giống Ngài ở điểm nào?
Thế giới hôm nay bị đổ vỡ vì lòng ích kỷ của nhiều người, bị xâu xé
giữa tôi và chúng ta. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi giúp gì để giải quyết vấn đề trên?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết
phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết
yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác
và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi
người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho
các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha
nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng co tin vào sự hiện diện của
Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
12. Mọi sự của
Cha là của Thầy
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Mỗi ngày chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần, chúng ta nhắc đến
Chúa Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần. Chúng ta muốn ghi dấu của Ba Ngôi trên
thân thể, và trên mọi hoạt động của ta, hay đúng hơn, chính Ba Ngôi đã không
ngừng ghi dấu trên cuộc đời ta và trong suốt dòng lịch sử.
Mầu nhiệm Một Thiên Chúa Duy Nhất trong Ba Ngôi vị là mầu nhiệm
được Đức Giêsu mạc khải cho ta.
Cha là Đấng yêu Con và hằng sinh ra Con. Con là người được yêu và
được Cha sai vào thế giới. Thánh Thần là tình yêu, nối kết Cha và Con.
Như vậy Thiên Chúa của Kitô giáo không phải là một ngôi vị đơn độc,
nhưng là Ba Ngôi hiệp thông chặt chẽ với nhau.
Ba Ngôi chia sẻ cho nhau mọi sự mình có: "Mọi sự Cha có đều là
của Thầy" (Ga 16,15).
Ba Ngôi cùng nhau hành động trong sự hoà hợp. Thánh Thần không tự
mình mà nói nhưng chỉ nhắc lại và đào sâu lời Đức Giêsu, giống như Đức Giêsu đã
chẳng tự mình mà nói nhưng chỉ nói những gì mình nghe được từ Cha.
Thánh Thần sẽ tôn vinh Đức Giêsu như Đức Giêsu đã suốt đời tôn vinh
Cha.
Nếu sống là sống với, sống cho, sống nhờ thì ta có thể gặp được mẫu
mực sống tuyệt vời nơi Ba Ngôi Thiên Chúa.
Mỗi Ngôi đều không tìm mình, chỉ sống cho Ngôi khác, và từ đó tạo
ra khuôn mặt riêng của mình. Thiên Chúa vừa là một, vừa là ba. Hội Thánh cũng
vừa duy nhất, vừa đa dạng. Mười hai tông đồ, bốn sách Tin Mừng, hai kinh Lạy
Cha... Để sự duy nhất đừng trở thành độc khối nghèo nàn, để sự đa dạng đừng trở
thành cớ chia rẽ, cần có sự hiệp thông sâu xa trong Hội Thánh.
Đời sống của Ba Ngôi là mẫu mực cho mọi tổ chức của con người trên
trần thế.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta chiêm ngắm sự hiện diện của Ba Ngôi
ở nơi ta.
"Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga
14,23), "Thánh Thần ở lại bên cạnh anh em và sẽ ở trong anh em" (Ga
14,17).
Đây là tin mừng quá đỗi lớn lao: Thiên Chúa siêu việt xa thẳm lại ở
rất gần ta, chỉ cần quay vào nội tâm, là ta gặp được Ngài.
Kitô hữu là người mang trời cao, mang thiên quốc trong mảnh đời yếu
đuối của mình. Hãy cung kính trước sự hiện diện đó, và để cho Tình Yêu Ba Ngôi
tự do hoạt động nơi bạn, và qua bạn mà lan đến toàn thế giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai."
Bạn có kinh nghiệm gì về việc sống hết mình cho người khác, mà vẫn không đánh
mất chính mình?
Một em bé nói: "Thiên Chúa là một người cha yêu con cái như
một người mẹ." Đâu là hình ảnh của bạn về Thiên Chúa? Có khi nào bạn cảm
nghiệm được Ngài yêu bạn không?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết
phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết
yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác
và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi
người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho
các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha
nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng co tin vào sự hiện diện của
Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
13. Sống yêu
thương hiệp nhất theo khuôn mẫu Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Mầu nhiệm Ba Ngôi tuy cao siêu nhưng không viển vông xa rời thực
tế. Trái lại đây là một mầu nhiệm rất thiết thân, rất gắn bó với đời sống người
tín hữu. Mầu Nhiệm nầy mời gọi các ki-tô hữu luôn sống yêu thương hiệp nhất
theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Gia đình Thiên Chúa" hiệp nhất trong yêu thương: ba Ngôi nên
một.
Trước hết, chúng ta hãy chiêm ngắm "Gia đình" ba Ngôi
(xin tạm dùng cụm từ ‘Gia đình’ để diễn tả sự hiệp thông rất mật thiết giữa ba
Ngôi Thiên Chúa). "Gia đình" nầy có ba Vị hay ba Ngôi riêng biệt (Vị
/ Ngôi đồng nghĩa với nhau): Vị thứ nhất là Chúa Cha, Vị thứ hai là Chúa Con,
Vị thứ ba là Chúa Thánh Thần, tuy vậy ba Vị chỉ là một Thiên Chúa. (sách bổn cũ
ghi: Thiên Chúa nhất Thể tam Vị).
Chính Chúa Giêsu khẳng định chân lý nầy khi Ngài phán: "Thầy
với Chúa Cha là một" (Ga 10,30). Vì thế, "ai thấy Thầy là đã xem thấy
Chúa Cha" và Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra (kinh tin
kính).
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn nói rõ hơn cho chúng ta biết
tình hiệp thông khắng khít giữa Người với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần:
"Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy" (Ga 16,15).
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn dạy cho chúng ta biết: "Chúa Cha yêu
thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người” (Ga 3,35). Rồi "Con
yêu Cha nên Con làm mọi sự đúng như Chúa Cha đã truyền dạy" (Ga 14, 31)
cho dù phải "vâng lời Chúa Cha trong mọi sự cho đến chết và chết trên thập
giá" (Phi 2,8).
Như thế, trong "Gia đình" nầy, tình yêu thương đậm đà
thắm thiết giữa ba Ngôi đã liên kết Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần nên
một với nhau, thế nên Hội Thánh dạy rằng dù có ba Ngôi, nhưng chỉ có một Chúa.
Thiên Chúa kiến tạo các gia đình nhân loại theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Thế rồi, Thiên Chúa đã chọn "Gia đình ba Ngôi" như một
khuôn mẫu lý tưởng để dựng nên gia đình Ađam- Evà. Kinh thánh cho biết:
"Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng
tạo con người có nam có nữ" (St 1,27) và đôi vợ chồng đầu tiên nầy tuy gồm
hai ngôi vị khác nhau nhưng cũng chỉ là một.
Để trình bày tính cách 'hai mà một' nầy, kinh thánh mô tả cách thi
vị như sau: Sau khi tạo dựng Ađam, Thiên Chúa khiến cho ông ngủ say rồi rút
xương sườn của ông mà dựng nên E-và rồi dẫn bà đến với ông. Bấy giờ A-đam nói:
"Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23). Bởi đó, “Người
đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một
thịt" (St 2, 24).
Qua Tin Mừng Mat-thêu, Chúa Giêsu một lần nữa khẳng định với mọi
người rằng trong hôn nhân, hai vợ chồng “không còn là hai nhưng chỉ là một
xương một thịt” nên không bao giờ được chia lìa. (Mt 19,6).
Thiên Chúa kiến tạo Hội Thánh theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Tiếp theo, Thiên Chúa cũng chọn "Gia đình" Ba Ngôi làm
khuôn mẫu lý tưởng để dựng nên gia đình thứ ba, rộng lớn hơn nhiều là đại Gia
đình Hội Thánh.
Để thực hiện dự án nầy, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích thánh tẩy
để tháp nhập mọi tín hữu vào thân mình Người (như những cành nho được tháp vào
thân nho, như bàn tay được tháp vào cơ thể.) Thánh Phao-lô dạy:"Bất cứ ai
trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không
còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà;
nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô. (Ga 3, 27-28). Thế là cả hàng
tỉ người tin Chúa và được thanh tẩy trong Đức Giêsu Ki-tô không còn là nhiều
nhưng đã hiệp thông nên một: một nhiệm thể Chúa Ki-tô.
Chúa Giêsu lại còn dùng bí tích Thánh Thể để tăng cường sự hiệp
thông nầy nên mật thiết hơn. Nhờ hiệp thông với Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong
thánh lễ, các tín hữu được trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giêsu và nên một
với nhau.
Chúa Giêsu muốn rằng sự hiệp thông giữa những người con cái Chúa
phải bền chặt như sự hiệp thông giữa ba Ngôi. Thế nên, trước khi lìa xa các môn
đệ, Ngài thành khẩn cầu xin cùng Chúa Cha: "Lạy Cha, xin cho họ nên một,
như Cha ở trong con và con ở trong Cha".(Ga 17, 21)
* * *
Trong ngày lễ Chúa ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy quyết tâm chọn
“Gia đình ba Ngôi Thiên Chúa” làm mô hình lý tưởng để xây dựng gia đình chúng
ta, xây dựng giáo xứ chúng ta thành gia đình yêu thương và hiệp nhất bền chặt
như “Gia đình Thiên Chúa ba Ngôi”, nhờ đó mỗi gia đình sẽ trở nên hình ảnh sống
động về Thiên Chúa ba Ngôi như lời nhắn nhủ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
trong thư mục vụ gửi cộng đoàn dân Chúa năm 2002 (số 6):
“Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh
hiệp thông giữa ba Ngôi Thiên Chúa.”
14. Ba
Ngôi huyền nhiệm tình yêu
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Trong thiên nhiên và vạn vật còn có biết bao nhiêu những điều kỳ
thú, bí ẩn mà với trí óc hạn hẹp của con người vẫn chưa khám phá hết được những
bí ẩn đang tổn tại trong thiên nhiên. Con người chỉ biết thinh lặng và kính
phục trước những huyền nhiệm vẫn diễn ra trong thế giới chung quanh. Thực vậy,
mỗi khi đứng trước một vấn đề nan giải, khó hiểu và vượt quá trí tưởng tượng
như thế, chúng ta thường đóng khung vấn đề bằng một từ gọi là huyền nhiệm. Huyền
nhiệm hay mầu nhiệm thường là vấn đề không kiểm chứng được bằng khoa học mà chỉ
bằng niềm tin. Thế nên, có rất nhiều mầu nhiệm trong đạo được đóng khung bằng
mầu nhiệm và đòi buộc các tín hữu phải tin, điều đó cũng đúng. Vì đức tin của
chúng ta không dựa trên khoa học hay cảm tính mà dựa trên mạc khải. Chính Chúa
đã mạc khải chính mình qua giòng thời gian. Qua các tổ phụ, các tiên tri và
thời sau hết qua Con Một chí ái là Đức Giêsu Kytô. Chúng ta tin vì chính Chúa
đã nói với chúng ta. Chúng ta tin vì Chúa là Đấng chân thật và lời Người thì
không bao giờ sai lầm. Nhưng, có bao giờ chúng ta tự hỏi Chúa đã mạc khải điều đó
để làm gì? Lời mạc khải của Chúa có liên hệ gì với đời sống chúng ta hay không? Đó mới là điều quan yếu
mà chúng ta cần bàn hỏi để hiểu và để sống những điều Chúa muốn nơi chúng ta.
Hôm nay lễ kính Chúa Ba Ngôi. Đây là một mầu nhiệm. Một mầu nhiệm
mà chắc chắn Thiên Chúa đã mạc khải không nhằm mục đích cho chúng ta đóng khung
để thờ, để "kính nhi viễn chi" mà là để chúng ta sống theo mẫu gương của
Ba Ngôi Thiên Chúa. Thế nên, mừng lễ Chúa Ba Ngôi không phải là dịp để chúng ta đưa
ra những luận điệu, chứng cứ để chứng minh về một Thiên Chúa Ba Ngôi mà là để
chúng ta chiêm ngắm về căn tính, về bản chất của Ngài để bắt chước, noi theo.
Vì chứng cứ về Ba Ngôi Thiên Chúa đã được Ngôi Hai Thiên Chúa nói với chúng ta
bằng cả cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Người.
Thánh Gioan tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa thật ngắn ngọn và
đầy đủ: Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì luôn trao ban sự sống, luôn hy sinh chính mình và
luôn giúp nhau thăng tiến. Chúa Giêsu đã nói về Ba Ngôi Thiên Chúa với cách
biểu lộ tình yêu như thế.
Chúa Cha trao ban sự sống cho nhân loại, qua công trình tạo dựng
vạn vật và đỉnh cao là tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài.
Chúa Con đã hy sinh chính mình để cứu chuộc nhân loại bằng việc tự
nguyện nộp mình chịu chết để đền thay tội lỗi nhân loại.
Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá con người nên nghĩa tử của Chúa
và luôn tác động để con người hoàn thiện chính mình mỗi ngày nên tốt đẹp hơn.
Như vậy, sự tỏ bầy mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là tỏ bày tình yêu.
Tình yêu tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá. Chính Ngài đã làm tất cả vì yêu
chúng ta và cũng đòi buộc chúng ta phải noi gương Ngài mà sống để yêu thương
nhau. Thiên Chúa không đòi chúng ta phải bù đắp tình yêu cho Ngài, vì Ngài đã
tròn đầy. Ngài không cần chúng ta thêm gì cho Ngài. Ngài chỉ cần chúng ta mặc
lấy tình yêu đó để đối xử tốt với nhau trong cuộc đời hôm nay.
Thế giới hôm nay đang thiếu vắng rất nhiều về tình yêu như thế.
Ngay tại gia đình, nhiều cha mẹ đã đang tâm chối bỏ quyền sống nơi các thai nhi
vô tội. Nhiều đôi vợ chồng tan vỡ vì thiếu sự hy sinh và lòng bao dung tha thứ
cho nhau. Nhiều cuộc tình đã đau khổ vì thiếu sự bổ túc và tôn trọng lẫn nhau,
mà chỉ tìm đến với nhau để khai thác tiền bạc và thú vui thể xác.
Ở ngoài xã hội lại càng thiếu vắng nhiều hơn. Khoa học tiến bộ
nhưng nguy cơ giết người hàng loạt luôn là mối lo cho toàn thể nhân loại. Vũ
khí hạt nhân và các chất hoá học độc hại luôn bị người ta dùng để kiếm tiền và
củng cố quyền lực. Mới đây ở Việt Nam đã phát hiện ra hàng loạt các đồ dùng mỹ
phẩm và thức ăn có chất độc hại gây ung thư như: ở trong son môi, trong kem
đánh răng, trong nước tương, trong bột nêm, bát phở và trên các loại hoa quả
tươi xanh. Xem ra nhân loại hôm nay chỉ cần tiền và quyền bính, còn các giá trị
đạo đức nhân văn chỉ là những trang sách được mở ra ở học đường nhưng không ứng
dụng ở trừơng đời. Xã hội càng văn minh con người càng thiếu hy sinh cho nhau.
Thế giới quá quen với cụm từ "mac ke no", tất cả chỉ lo cho bản thân
mình, lo hửơng thụ và tìm kiếm danh lợi thú cho bản thân.
Giữa một thế giới mà các giá trị đạo đức đã bị sự gian ác và ích kỷ
làm đảo lộn như thế, liệu người kytô hữu có dám lội ngược dòng để sống đúng với
đòi hỏi của tình yêu hay không? Chúa đòi chúng ta yêu người yêu đời nhưng cuộc
đời có quá nhiều người gian dối, bất trung và phản bội liệu rằng chúng ta có
dám sống chứng nhân cho tình yêu hay không?
Chính Chúa đã sống điều đó. Cho dù con người có phản bội, bất trung
Chúa vẫn trung thành với tình yêu của mình. Cho dù con người đã cố tình sống xa
tình Chúa, Chúa vẫn tìm muôn nghìn cách để cứu chuộc con người. Chúa vẫn nhẫn
nại, từ bi và rất mực khoan nhân. Cho dù con người có ngỗ nghịch phạm thượng
chối bỏ Thiên Chúa, chống đối lại Chúa, Chúa vẫn cho mưa thuận gió hoà trên kẻ
lành người dữ.
Nguyện xin Chúa là tình yêu giúp cho mỗi người chúng ta biết sống
yêu như Thiên Chúa đã yêu, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ cuộc sống, cũng như
luôn quảng đại giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người hơn. Amen.
15. Dâng lời chúc
tụng Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
‘Xin dâng lời tôn vinh chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần’ (Kh 1,8a)
Một đan sĩ nọ đã nói: “Nếu ngày xưa Moisen đã không bước vào chỗ
tăm tối và mù mịt trên núi Sinai, ông đã không gặp thấy Chúa. Cũng vậy, nếu chúng ta
không thấy mình dốt nát và mù tối khi suy hiểu về Thiên Chúa, chúng ta sẽ không
bao giờ nhận biết được Ngài”. Điều này rất đúng khi chúng ta suy niệm về mầu
nhiệm một Chúa Ba Ngôi mà Giáo hội hôm nay mừng kính. Đây là mầu nhiệm căn bản
nhất của đức tin Công giáo, đồng thời cũng là chân trời vĩ đại và tối tăm nhất
đối với đầu óc suy lý của con người. Mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu và thực ra
chúng ta không thể hiểu nổi. Khi đối diện trước các thực tại của Thiên Chúa,
chúng ta không thể nhận thức bằng lý trí nhưng chỉ có thể trải nghiệm bằng đức
tin. Thái độ cần thiết nơi chúng ta không phải là đứng lên cách ngạo nghễ để vắt
óc tìm tòi, nhưng phải quỳ gối xuống cách khiêm tốn trong cung chiêm và thờ
lạy.
Thực hành đức tin khi tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trước khi bắt đầu làm bất cứ công việc gì, người Công giáo chúng ta
luôn bắt đầu bằng dấu Thánh giá với lời tuyên tín: Nhân danh Cha và Con và
Thánh Thần. Thánh Phaolô thường gửi lời chào thăm đến các cộng đoàn với văn
thức xưng tụng Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo hội cũng dùng lại văn thức này để khởi
đầu Thánh lễ khi vị linh mục chào chúc cộng đoàn: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu
Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần
ở cùng tất cả anh chị em (2 Cor 13,13; Eph 1,2). Chúng ta nhớ lại giai thoại về
thánh Augustinô. Khi Ngài đi bách bộ bên bờ biển và suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba
Ngôi, Ngài gặp một em bé đang dùng cái vỏ sò để múc nước biển đổ vào một cái lỗ
nhỏ tí xíu. Em bé nhắc nhở cho thánh nhân biết rằng, việc lấy một cái vỏ sò bé
tí teo đong đầy nước biển xem ra khá xuẩn ngốc, nhưng việc dùng đầu óc chật
chội của con người để cố nhét vào cả bầu trời bao la của mầu nhiệm Thiên Chúa
còn xuẩn ngốc hơn gấp bội. Vì vậy, đi vào thế giới của mầu nhiệm, chúng ta phải
hết sức khiêm tốn và nhận ra những bất toàn nơi đầu óc mình.
Các thánh giáo phụ vay mượn ý nghĩa của 3 lời khuyên phúc âm để
minh họa tình yêu đối với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sống tinh thần khó nghèo chính là
thể hiện niềm tin vào Chúa Cha, đấng quan phòng và luôn yêu thương con cái
mình. Đức Khiết tịnh diễn bày tinh thần từ bỏ để sống với một tình yêu thuần
khiết theo gương Chúa Giêsu. Sự Vâng phục của người tu sĩ mời gọi chúng ta mở
lòng cho Chúa Thánh Thần tác động. Đó chính là ân ban của Thần Khí giúp chúng
ta luôn biết tìm kiếm và quy thuận thánh ý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng đã
mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha và về Thần khí tác sinh. Khi Ngài lãnh phép
rửa tại sông Giorđan, mầu nhiệm Ba Ngôi từ từ được vén mở, qua tiếng Chúa Cha
từ trời vọng xuống và Thánh Thần đậu xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu.
Ngoài những điều mà Kinh thánh mạc khải, giáo huấn của Giáo hội cũng đầy ắp những
gợi mở cho chúng ta về mầu nhiệm cao cả này. Đây là giáo lý căn bản và chúng ta
vẫn thường xuyên tuyên xưng mầu nhiệm ấy mỗi khi chúng ta giơ tay làm dấu Thánh
giá để cầu nguyện cùng Chúa Ba Ngôi.
Phẩm tính căn bản của mầu nhiệm Ba Ngôi chính là tình yêu.
Trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan, vị tông đồ đã định nghĩa về
Thiên Chúa qua một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: “Thiên Chúa là tình yêu”
(1Ga 4,16). Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khẳng quyết rằng, ‘Lòng thương xót’ là
tên gọi thứ hai của Thiên Chúa, bởi vì thương xót là cách hiển thị rõ nét về
tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Khi chiêm niệm về mầu nhiệm Ba
Ngôi, chúng ta hãy cảm nghiệm như Thánh Phaolô đã từng diễn tả: “Thiên Chúa đã
đổ đầy tình yêu của Người vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho
chúng ta (Rm 5, 5b). Để mặc khải về tình yêu của Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với
Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một của Ngài để ai
tin vào người Con, sẽ được sống. (Ga 3,16). Vì thế khi chúng ta được rửa tội
nhân danh Chúa Ba Ngôi, chúng ta bắt đầu sống ơn gọi làm con và khởi đầu sứ vụ
thực hành tình yêu như Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đã nói: “Mỗi người chúng ta
được trao ban một sứ vụ để chu toàn, đó là sứ vụ của tình yêu”.
Kết luận
Một bữa nọ, Ông Voltaire, một triết gia vô thần đi bách bộ với một
anh bạn trên con đường quê ven rừng. Giữa giao lộ có một cây Thánh giá phủ đầy
tuyết. Voltaire đã công khai bỏ đạo từ lâu, và hoàn toàn không còn tin vào
Thiên Chúa nữa. Ông còn ngạo nghễ chế diễu niềm tin của các Kitô hữu. Nhưng
người bạn đang đi với ông lại có niềm tin rất sâu xa. Voltaire chỉ vào cây
Thánh giá phủ đầy tuyết và nói với anh bạn: “Đây là hình ảnh của tôn giáo ngày
nay. Thiên Chúa của các anh đã bị văn minh khoa học phủ kín mặt mày và niềm tin
tôn giáo đã bị sự lạnh lùng băng giá của con người hôm nay che lấp. Vì vậy,
Thiên Chúa của các anh không còn lý do để hiện hữu nữa”. Chợt lúc đó, có một
cơn gió mạnh thổi đến hất tung chiếc mũ trên đầu Voltaire và quăng xuống đất,
đồng thời cơn gió đã làm tan chảy lớp tuyết bao phủ cây Thánh giá. Gương mặt
Chúa Giêsu từ từ hiện lộ một cách rõ nét. Người bạn của Voltaire lúc đó mới trả
lời ông:”Này bạn, đây mới là hình ảnh đích thực của niềm tin tôn giáo ngày hôm
nay. Cho dù con người vẫn lạnh lùng và chai cứng như lớp tuyết trắng che kín
Thánh giá, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa vẫn dư sức hất tung sự kiêu ngạo của
con người và làm tan chảy sự lạnh lùng nơi con tim sỏi đá của mọi người. Ngài
luôn hiện hữu cho dù con người vẫn đang ra sức loại trừ Ngài”.
Một nhà tu đức đã nói: “Chúng ta hãy kiếm tìm Thiên Chúa chứ đừng
tìm nơi ở của Ngài”. Chúa ở khắp mọi nơi và đang ở trong tâm hồn mỗi người.
Chúng ta hãy không ngừng đi kiếm tìm Ngài.
16. Tình
yêu hiệp nhất
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một linh mục ngồi trong phi trường đợi chuyến bay. Một người đàn
ông đến ngồi bên cạnh và đề cập về tôn giáo. Ông khoe rằng: “tôi không chấp
nhận điều gì tôi không hiểu, vấn đề “ba Chúa trong một Chúa” hay bất cứ điều gì
tương tự, không ai có thể giảng nghĩa cho tôi, nên tôi không tin”.
Chỉ vào luồng sáng qua cửa sổ, linh mục hỏi: “bạn có tin mặt trời
không?”. Kẻ hoài nghi trả lời: “dĩ nhiên có chứ”. Linh mục nói tiếp: “được, ánh
sáng bạn thấy qua cửa sổ, là từ mặt trời cách đây 150 triệu km chiếu tới, sức nóng
chúng ta cảm thấy phát xuất từ mặt trời và ánh sáng.
Chúa Ba Ngôi có phần tương tự như vậy: mặt trời Thiên Chúa Cha. Mặt
trời chiếu sáng: ánh sáng là Thiên Chúa Con. Từ mặt trời và ánh sáng tỏa ra sức
nóng: từ Chúa Cha và Chúa Con phát xuất Chúa Thánh Thần. Bạn có thể giải thích
được mặt trời, ánh sáng và sức nóng được không?” người hoài nghi im lặng.
Anh chị em thân mến,
Khi chúng ta họp nơi đây để chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi,
trước tiên chúng ta chấp nhận rằng: đây là một mầu nhiệm, một
chân lý không ai có thể hiểu được, giảng giải được. Chúng ta biết đó là sự
thật vì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi nhiều lần, nhất là
trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta đón nhận, chúng ta tin, vì Chúa Giêsu đã
dạy chúng ta tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguồn mạch mọi
sự thiện hảo.
Chúa Ba Ngôi như mặt trời trên bầu trời. Mặt trời là nguồn năng
lượng vật lý. Chúa Ba Ngôi là nguồn sống trong chúng ta. Mặt trời chiếu tỏa ánh
sáng. Chúa Ba Ngôi soi sáng lòng trí con người. Mặt trời tỏa sức nóng. Chúa Ba
Ngôi tuôn đổ sức nóng thiêng liêng: tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người.
Chúa Ba Ngôi không phải là bộ ba năng lượng không hồn, nhưng là những ngôi vị
sống động, thông biết và yêu thương.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của đời sống nội tại thâm
sâu nhất của Thiên Chúa. Đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa là yêu
thương: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Chúa Cha yêu thương Chúa Con, Chúa Con yêu
thương Chúa Cha và mối tương quan tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con là Chúa
Thánh Thần. Tình yêu hoàn toàn thân, cho đi, để làm giàu người khác và làm nên
một với người khác. “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Ngài không đơn độc một mình. Nếu
như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô
cùng... nhưng Ngài là ba, ba nhưng hoàn toàn hiệp nhất với nhau đến nỗi chỉ là
một Thiên Chúa duy nhất. Trong Ba Ngôi, mỗi ngôi hoàn toàn là tặng phẩm hiến
dâng cho nhau, hoàn toàn tương qua với nhau, hoàn toàn yêu thương nhau: Cha hoàn
toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha, và sự trao đổi hoàn toàn giữa Cha và
Con là Thánh Thần. Vì thế, Thiên Chúa là một nhưng lại là ba; là ba nhưng lại
là một. Chúa Giêsu đã nói: “Mọi sự của Con là Cha, và mọi sự của Cha là của
Con” (Ga 17,10). “Cha Thầy và là một” (Ga 10,30). “Ai thấy Thầy là thấy Cha”
(Ga, 14,9).
Thưa anh chị em,
“Thiên Chúa là Tình Yêu”, vì thế mọi hoạt động bên trong cũng như bên ngoài của Thiên Chúa
đều là yêu thương: từ việc tạo dựng vũ trụ, vạn vật, loại người cho đến việc cứu
chuộc loài người chúng ta đều là hành động của tình yêu, một tình yêu không
ngừng ban phát, chia sẻ, nhân lên. Thiên Chúa đã ban phát, đã chia sẻ tình yêu
của Ngài cho loài người chúng ta và Ngài muốn cho tình yêu ấy tiếp tục tràn lan
từ trong lòng chúng ta đến những con người khác: “Nếu chúng ta yêu thương nhau,
thì Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài nên hoàn tất trong chúng
ta”(1 Ga 4,12). Bởi vậy, “Ai không yêu thương anh em thì không biết Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa là tình yêu thương” (1Ga 4,8). Còn ai đã biết chúng ta trở nên
hình ảnh của Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài. Loài người chúng
ta trở nên hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi khi trở nên một cộng đoàn huynh đệ
do tình yêu từ Thiên Chúa Ba Ngôi đến nối kết chúng ta lại với nhau trong Ngài.
Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao xa, tuyệt vời, vì đó là
chính mầu nhiệm đời sống tình yêu bên trong Thiên Chúa. Tuy nhiên, mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi lại là một mầu nhiệm thiết thân nhất với chúng ta; vì đó là
chính sự sống Thiên Chúa ban cho chúng ta. Thiên Chúa đã ban Con của Ngài để
Con Ngài đưa chúng ta vào trong cung lòng Chúa Cha nhờ Chúa Thánh Thần. Chính
Chúa Thánh Thần là tình yêu luôn nối kết Chúa Cha với Chúa Con, bây giờ lại đến
nối kết chúng ta với Chúa Con và Chúa Cha. Vì vậy, Thiên Chúa Ba Ngôi không
phải là Thiên Chúa xa cách ngự nơi cao thẳm trên trời, nhưng Ngài đang ngự
trong chúng ta và đang hoạt động trong chúng ta. Nếu chúng ta yêu mến Thiên
Chúa và yêu thương anh em, Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ đến ở trong chúng ta: “Ai yêu
mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy; Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến ở
trong người ấy” (Ga 14,23). Chúng ta sẽ là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Ba
Ngôi. Chúng ta sẽ là những Đền Thờ sống động của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như thế, thưa anh chị em, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mới thực sự
là lẽ sống cho đời chúng ta và mỗi lần đọc lên “Nhân Danh Chúa Cha , Chúa Con
và Chúa Thánh Thần” chúng ta sẽ không còn đọc một cách vô ý thức nữa, nhưng với
lòng cung kính mến yêu.
Vậy, giờ đây, chúng ta kính cẩn tuyên xưng lòng tin của chúng ta
vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong
Kinh Tin Kính.
17. Nhìn
thấy Thiên Chúa - McCarthy
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. NHỮNG HÌNH ẢNH VỀ THIÊN CHÚA
Có một câu chuyện ở Châu Phi về Thiên Chúa như sau. Một ngày nó lúc
Thiên Chúa du hành qua các đại lục mênh mông, khi lên cao khi xuống thấp. Đặc
biệt Thiên Chúa nhận thấy một bộ tộc đã đánh mất đức tin vào Người. Vì thế,
Người hiện ra trong một cánh đồng nơi có bồn người làm việc, mỗi người một góc.
Những người làm ruộng thấy Thiên Chúa đứng đó, giữa một cánh đồng, liền nhìn
thật kỹ và rồi họ sấp mình thờ lạy Người.
Kế đó, Thiên Chúa biến mất nhưng vẫn theo dõi việc gì xảy ra sau
đó. Bốn người nông dân chạy về ngôi làng của họ, tập họp dân làng và tuyên bố
không còn nghi ngờ gì nữa: Thiên Chúa thật sự hiện hữu và chăm sóc họ khi Người
ngự xuống viếng thăm họ. Vì vậy, tất cả mọi người phải bắt đầu thờ phụng Người
một cách nghiêm chỉnh. Dân làng tiếp nhận tin tức với sự nồng nhiệt. Họ muốn
biết những người ấy đã có thị kiến hay không. Thế nên một dân làng hỏi: “Thiên
Chúa ăn mặc như thế nào?”.
“Người mặc một cái áo choàng đỏ”, người thứ nhất đáp.
“Không, Người mặc một cái áo choàng xanh lam”, người thứ hai đáp.
“Cả hai anh đều sai”, người thứ ba nói. “Đó là một áo choàng màu
xanh lá cây”.
“Các anh điên rồi”, người thứ tư gào to. “Người mặc một cái áo
choàng màu vàng”.
Và đến đây, họ bắt đầu cãi nhau. Hết cãi nhau lại đánh nhau. Sau
cùng, họ khinh miệt nhau và thù ghét lẫn nhau, và phân chia ra thành bốn bè
phái.
Với một chút suy nghĩ, họ có thể dễ dàng đạt đến sự nhất trí. Mỗi
người chỉ được nhìn Thiên Chúa thoáng qua. Thay vì nhấn mạnh đến thị kiến toàn
diện, họ nên thừa nhận mỗi người chỉ có được một phần thị kiến.
Nếu họ cởi mở đối với quan điểm của người khác thì cuối cùng họ có
thể đạt được một hình ảnh rộng rãi hơn và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa cao cả hơn tất cả chúng ta. Chúng ta có thể không bao
giờ hiểu đầy đủ về Thiên Chúa. Chúng ta đã phải vất vả để hiểu biết những sự
vật trần gian. Vậy làm thế nào chúng ta có thể hiểu hết mọi việc trên trời? Chỉ
có ơn khôn ngoan mới có thể giúp chúng ta biết những đường lối của Thiên Chúa.
Người ta có thể biết những chân lý đức tin nhưng vẫn chưa biết Thiên Chúa.
Có một hình ảnh chính xác về Thiên Chúa là rất quan trọng. Nếu
chúng ta có một hình ảnh sai lầm, mọi sự việc khác sẽ mù mờ. Làm thế nào chúng
ta có thể cầu nguyện đúng đắn, hoặc có một quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa, nếu
chúng ta có một hình ảnh sai lầm hoặc không phù hợp với Người? Người Kitô hữu
quan niệm đời sống là một lời đáp lại tình yêu Thiên Chúa.
Để nói Thiên Chúa giống với cái gì, tất cả chúng ta chỉ cần nhìn
vào Đức Giêsu. Trong ngôn ngữ của Thánh Phaolô: “Người là hình ảnh của Thiên
Chúa vô hình”. Vậy Đức Giêsu giống cái gì? Trong tất cả những hình ảnh mà chúng
ta có về Đức Giêsu, một hình ảnh đáng yêu nhất là người Mục Tử Nhân Từ. Chính
Đức Giêsu đã dùng hình ảnh ấy. Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Từ, đã thí mạng sống
mình cho đàn chiên. Trong Đức Giêsu, chúng ta thấy tình yêu của Chúa Cha đối
với chúng ta. Còn về Chúa Thánh Thần? Chúa Thánh Thần là dây liên kết yêu
thương giữa Chúa Cha và Chúa Con, và giữa hai ngôi Cha và Con với chúng ta.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải để bàn cãi hoặc nghiên cứu
mà để cầu nguyện và để sống. Người Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới ấy không phải là một nơi nào đó ở bên
ngoài không gian. Nó cũng là thế giới của mỗi ngày. Như trong câu chuyện Châu
Phi cho chúng ta thấy Thế giới mỗi ngày là nơi Thiên Chúa biểu lộ chính Ngài
cho chúng ta.
Suy Niệm 2. Ý NGHĨA CỦA THIÊN CHÚA
Đức tin không phải là thứ tự kỷ ám thị. Đây là ân sủng của một sự
gặp gỡ mầu nhiệm với một Đấng nào đó. Nó ở bên ngoài mọi lý lẽ và cảm xúc,
nhưng lý lẽ và cảm xúc cũng có thể hiện diện. Chúng ta có thể hiểu Thiên Chúa
bằng trí óc và bằng giác quan. Thật vậy bằng toàn bộ cong chúng ta. Chúng tôi
không nói về một xác tín của trí tuệ, mà về một cảm thức về Thiên Chúa – một
cảm giác. Đó là một kinh nghiệm tuyệt vời làm sao.
Nhà văn Ngài, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu
nguyện Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của
Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như
mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một vẻ
lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những
cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế nào mà người ta không tin vào
linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại vô biên như thế trong bản thân
mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng nói trong nội tâm nói với tôi:
Người đấy, ông hãy bái quỳ Người và thinh lặng”.
Người nào có cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện của Người
trong đời sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang có. Như
một người đã nói: “Tôi không cần tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn quan trọng
nữa. Tôi biết chính điều ấy”.
Khi người ta biết một điều gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong
tâm hồn họ, người ta không cần biện luận hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng
điều đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa. Người ta
tin với tâm hồn dù không biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết.
Một sự chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn người ta cũng đủ.
Khi chúng ta có một cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong
thế giới, chúng ta không còn cảm thấy lẻ loi cô độc trong thế giới. Chúng ta có
thể nhìn thấy với sự thán phục và yêu thương mọi tạo vật như là công trình của
một Đấng Nghệ Nhân là bạn của chúng ta.
Cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới là một phúc
lành cao cả, nhưng cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta là
một phúc lành còn cao cả hơn. Suốt đời, thánh Âu Tinh đã học theo điều đó. Ngài
viết:
“Ôi Đấng Toàn Mỹ từ muôn đời cho đến muôn đời, con đã yêu Chúa chậm
trễ, vâng, con đã yêu Chúa chậm trễ. Chúa ở bên trong con, nhưng con ở bên
ngoài, và tìm kiếm Chúa ở bên ngoài ấy. Và thật vô duyên, con đắm chìm trong
những sự vật khả ái mà Chúa đã tạo dựng. Chúa ở với con mà con không ở với
Chúa. Những vật thụ tạo giữ con xa cách Chúa; tuy rằng nếu chúng không ở trong
Chúa thì chúng sẽ không còn hiện hữu. Tại sao con lại cầu xin Chúa đến với con
khi mà nếu Chúa không ở với con, con sẽ không còn hiện hữu”.
Chúng ta gặp Thiên Chúa không phải chỉ trong thế giới bên ngoài
chúng ta nhưng trong thế giới bên trong chúng ta, và thấy rằng Người gần gũi
chúng ta hơn là chúng ta vẫn nghi ngờ. Người tham dự vào chúng ta như lời Thánh
Phaolô đã nói: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv
17,28).
Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi dù không rõ ràng ở nơi nào.
Người giống như một nhà viết tiểu sử mà công việc là kể lại câu chuyện trong
lúc ông vẫn đứng ở hậu cảnh.
Đối với nhiều người, sự im lặng của Thiên Chúa là một vấn đề lớn.
Nhưng “Một Thiên Chúa ồn ào và hiển nhiên sẽ là một bạo chúa áp bức, không an
toàn thay vì là một sự động viên không giới hạn đối với bản chất yếu đuối và
hay sợ sệt của chúng ta. Câu đáp lại của Người hoà nhập vào cuộc hành trình
dài, gồm những sự kiện to lớn của đời sống, sâu thành chuỗi xuyên suốt mọi vật”
(John Updike).
Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà chúng ta quy phục nhưng không bị mất
chính mình.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Isaac Newton là một nhà toán học và khoa học vĩ đại của mọi thời.
Tuy nhiên về cuối đời ông, ông nói về những thành tựu của mình:
“Tôi không biết tôi xuất hiện với thế giới như thế nào, nhưng đối
với tôi, tôi giống như một cậu bé chơi đàn trên bãi biển và thỉnh thoảng thích
thú vì tìm thấy một viên sỏi bóng loáng hơn hoặc một vỏ sò xinh đẹp hơn thường
gặp, trong khi đại dương bao la của chân lý chưa khám phá vẫn còn trải ra trước
mắt tôi”.
Cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa,
thì chúng ta chỉ mới bắt đầu. Chúng ta vẫn chỉ là những đứa bé chơi đùa trên
bãi biển. Mầu nhiệm tăng lên thay vì giảm bớt với mỗi khám phá mới.
Một số người muốn biết mọi sự, muốn giải thích mọi sự, muốn tháo gỡ
mọi sự thành những sự kiện. Nhưng sống với mầu nhiệm là một điều lý thú. Albert
Einstein đã nói: “Kinh nghiệm đẹp nhất chúng ta có thể có là kinh nghiệm về
điều mầu nhiệm ”. cả khi có đức tin thì mầu nhiệm, bóng tối đều không thế biết
vẫn còn. Chúng ta không thể thấy toàn bộ đời sống. Như lới Van Gogh đã nói:
“Trên trần gian này, chúng ta chỉ nhìn thấy một nửa bán cầu”
18. Mầu nhiệm đức
tin
Thánh Tôma, một nhà thần học nổi tiếng, đã nói:
- Sống trên trần gian, chúng ta chỉ biết rằng Thiên Chúa vượt lên
trên tất cả những gì trí khôn chúng ta có thể mường tượng ra.
Bất kỳ một ai suy nghĩ, đều phải công nhận Thiên Chúa là một mầu
nhiệm. Mà cái nhân của mầu nhiệm này chính là Ba Ngôi. Một điều trí khôn chúng
ta chẳng bao giờ có thể khám phá ra.
Trong Cựu ước, chúng ta không tìm thấy một dấu vết nào về mầu nhiệm
cao siêu này. Chỉ mình Đức Kitô mới tỏ lộ cho chúng ta hay mà thôi. Thực vậy,
Tân ước đã trình bày cho chúng ta thấy mối liên hệ mật thiết giữa Ba Ngôi cực
thánh. Tín điều này là nền tảng, là khung cửa dẫn chúng ta vào miền đất của đức
tin Kitô giáo.
Từ thưở đời đời, Thiên Chúa đã không cô độc lẻ loi, đã không khép
kín, nhưng luôn ngập tràn yêu thương, mở ra và và chuyển thông sự sống. Cách
riêng là đối với con người, Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một đặc ân cao quí,
đó là được tham dự vào cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Nhờ bí tích rửa tội, Chúa Cha ban cho chúng ta quyền được làm con
Ngài, cũng như quyền được thừa kế nước trời, do công nghiệp tử nạn của Đức
Kitô, người anh cả của gia đình nhân loại.
Hơn thế nữa, Chúa Cha và Chúa Con còn ban Chúa Thánh Thần cho chúng
ta. Ngài là sợi dây tình yêu liên kết chúng ta lại với Chúa và với nhau. Chính
vì thế, bí tích rửa tội là một ơn huệ vô cùng trọng đại. Nối kết chúng ta lại
với Đức Kitô và qua Đức Kitô nối kết chúng ta lại với Chúa Ba Ngôi.
Ngoài ra, bí tích rửa tội còn giúp chúng ta nhận biết bản tính đích
thực của Thiên Chúa, bản tính ấy chính là tình yêu. Thánh Gioan, vị tông đồ có
diễm phúc tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly, không ngừng nói với chúng ta
rằng:
- Thiên Chúa là tình yêu.
Thực vậy, tất cả mọi yêu thương của chúng ta chỉ là một mảnh nhỏ
tách ra từ trái tim ngập tràn yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả mọi yêu thương
của chúng ta chỉ là một phản ảnh yếu ớt cho tình yêu của Ngài. Tất cả mọi yêu
thương liên kết chúng ta lại trong tình bác ái, rập theo khuôn mẫu của Thiên
Chúa, nguồn mạch tình yêu tuyệt vời. Đó chính là đỉnh cao của sự thánh thiện,
của địa vị và phẩm giá nơi con người.
Thế nhưng, chúng ta phải thành thật thú nhận rằng: Tình yêu là một
danh từ quá mung lung và chúng ta chỉ là những kẻ mò mẫm đi tìm một cách thức
diễn tả. Chúng ta chỉ có thể thấy được tình yêu đích thực trong việc chiêm
ngắm, thờ lạy và vâng phục thánh ý Thiên Chúa mà thôi.
Kể từ năm 1934, Đức Thánh Cha Gioan 22 đã khuyến khích và phát động
việc tôn thờ Chúa Ba Ngôi, một điểm quan trọng và nền tảng cho đức tin Kitô
giáo, bằng cách mặc cho ngày lễ hôm nay một vẻ long trọng khác thường, đặt nó
vào ngày Chúa nhật đầu tiên sau lễ Hiện Xuống, như một kết thúc cho chương
trình của Thiên Chúa: tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa.
Hãy dâng lên Chúa Ba Ngôi tâm tình thờ lạy và ngợi khen, dù ngôn
ngữ loài người chỉ là những lời bập bẹ trước vẻ cao siêu tuyệt vời của Thiên
Chúa.
Giáo hội luôn thấy ở trước mặt mình mầu nhiệm Ba Ngôi, không phải
chỉ trong ngày lễ hôm nay, mà hơn thế nữa, mọi bí tích được thực hiện, mọi lời
kinh chính thức được kêu cầu…tất cả đều được làm nhân danh Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần.
Rồi mỗi khi làm dấu thánh giá cũng như mỗi khi đọc kinh sáng danh,
chúng ta đều tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Và nhiều lúc, Giáo hội đã mượn
lời thánh Phaolô để cầu chúc cho chúng ta:
- Nguyện xin ơn sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông
hiệp của Chúa Thánh Thần hằng ở cùng anh chị em.
Hãy đáp lại lời mời gọi của Giáo hội bằng cách dâng lên Chúa Ba
Ngôi những tâm tình thờ lạy và cảm tạ, đồng thời hãy cố gắng sống xứng đáng với
tình yêu thương mà Chúa Ba Ngôi đã dành cho mỗi người chúng ta.
Tháng năm có ngày của Mẹ, tháng sáu có ngày của Cha. Cha Mẹ sinh
con ra, qua bao tháng năm nhọc nhằn nuôi con khôn lớn. Ôi tình cha nghĩa mẹ bao
là thiết tha.
Người công giáo gọi Thiên Chúa là Cha, nhưng trong bóng dáng của
người cha đó, vẫn đong đầy tình mẹ chứa chan. Thiên Chúa là Phụ tử và Ngài cũng
là Mẫu tử. Lễ Chúa Ba Ngôi diễn tả một cách tròn đầy một Thiên Chúa duy nhất
nhưng phong phú trong đa dạng: Ngài là Cha-Con-Thánh Thần. Nơi Ngài vừa là tình
yêu của một người Cha, nhưng không hề thiếu vắng tấm lòng bao la của một người
Mẹ.
Như ánh mặt trời cùng lúc cho vạn vật ánh sáng, sức nóng dù nó cách
chúng ta đến 150 triệu cây số. Thiên Chúa Ba Ngôi hoạt động và mang lại ân sủng
cho con người. Chúa Cha tác thành vạn vật, Ngài sai Người Con nhập thể để cứu
vạn chúng sinh. Chúa Thánh Thần được Chúa Giê-su sai đến để soi sáng và thánh
hóa con người. Thật vậy, từ đầu lịch sử của công trình sáng tạo, Ba Ngôi Thiên
Chúa đã cùng hoạt động, với nhau, cho nhau và vì nhau. Mặc dù trong cựu ước,
chưa có một sự quả quyết rõ ràng về Thiên Chúa Ba Ngôi, bởi lẽ, não trạng của
dân Do Thái là niềm tin độc thần. Hãy tưởng tượng người nhạc sỹ sáng tác một
bản nhạc, anh ta viết ở cung đô trưởng, muốn đánh hợp âm đô trưởng cùng một lúc
người ta phải kết hợp một loạt ba note: đô-mi-sol. Ba note tạo thành một hợp âm
đô trưởng, khi hát lên bản nhạc nghe du dương vô cùng. Niềm tin vào Mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi do chính Đức Giê-su truyền dạy. Giáo Hội qua rất nhiều công
đồng đã khẳng định một cách xác tín về điều này. Các Công Đồng quan trọng nhất
đã định tín về chân lý này là công đồng Ni-xê-a năm 325, Công Đồng
Constantinopoli năm 381, công đồng Latran IV năm 1215, công đồng Lion II năm
1274, công đồng Floren năm 1439. Dùng lý lẽ hạn hẹp của mình để đào sâu chân lý
về Thiên Chúa là điều khó khả thi, nhất là những ai có ý định đem khoa học để
giải thích sự hiện diện của Thiên Chúa thì quả là một điều khó hơn “ mò kim đáy
biển”. Cũng giống như một người muốn ôm hết biển cả vào lòng, nhưng khi nhảy
vào đại dương và bơi vào trong biển khơi thì ngày càng mịt mù ngăn cách. Chỉ
trong niềm tin và tình yêu, chúng ta mới có thể thấy Thiên Chúa không đơn độc,
ở Ngài tình yêu làm phát sinh muôn điều thiện hảo, và điều thiện hảo lớn lao
quá đỗi là khi Thiên Chúa đã ban chính con một mình cho chúng ta. Tình yêu có
Ngôi vị của Ngài là nguồn cảm hứng dạt dào để Thiên Chúa như một họa sỹ tài ba,
đã vẽ nên một bức tranh tuyệt vời là vũ trụ và con người, nó không ở thể tĩnh
mà luôn động. Một khi đặt con người vào trong vũ trụ, Thiên Chúa muốn bộc bạch
cho con người thấy, nơi Ngài, tình yêu chính là điểm phát xuất Mầu Nhiệm Ba
Ngôi.
Tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi là nét đẹp của hiệp nhất trong
những khác biệt. Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Nhìn
mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ lăng kính của tình
yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn toàn xa lạ với Thiên
Chúa. Vì “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa". Chỉ những ai dám sống
và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong Thiên Chúa. Chỉ những ai dám tự
hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng nhân của một Thiên Chúa Tình
Yêu.
20. Thiên
Chúa Tam vị nhất thể
(Suy niệm của Lm Giacôbê Tạ Chúc)
Mỗi lần đọc kinh, hay đi tham dự thánh lễ, mỗi người Kitô hữu đều
biết làm dấu Thánh Giá trên mình: “Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần, Amen”.
Cách tuyên xưng Mầu nhiệm Ba Ngôi rất đơn giản và rất hiện sinh
trong đời sống bình thường khi thờ phượng một Chúa: Cha-Con-Thánh Thần, mà
chúng ta đã thể hiện.
Sách Giáo lý công giáo dạy rằng: “Người Kitô hữu được rửa tội” nhân
danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Trước khi lãnh nhận
Bí tích, họ phải trả lời ba lần “Tôi tin” để đáp lại những câu thẩm vấn về đức
tin vào Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đức tin của mọi Kitô hữu đều dựa
trên mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi (số 232). Trong dòng chảy của lịch sử cứu độ, mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chỉ được tỏ tường trong những lời dạy của Đức Kitô:
“Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Chúa Giêsu luôn khẳng định Ngài làm
theo ý của Cha, và Ngài với Cha là một. Cuộc vượt qua của Chúa Giêsu không phải
là một dấu kết của một bản nhạc mà là khởi đầu của một sáng tác mới trong Thần
Khí của sự thật: “Thầy sẽ xin cùng Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng
Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14, 16). Rõ ràng Chúa Giêsu là một
Mạc khải trọn vẹn về một Thiên Chúa duy nhất-Ba Ngôi. Chúa Cha là tình yêu, mà
tình yêu thì phải có đốii tượng để trao ban, đối tượng đó chính là Chúa Giêsu.
Tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con là một tình yêu trao dâng và hướng về. Tình
yêu ấy đạt trọn vẹn dưới tác động của Thần Khí, hay tình yêu của Chúa Cha và
Chúa Con nhiệm sinh Chúa Thánh Thần. Bức Icône “Ba Ngôi” của Rubliov đạt tới
mức kỳ diệu của ảnh đạo, khi ông diễn tả một khía cạnh thâm sâu của Mầu Nhiệm
Ba Ngôi: Ba Ngôi hòan tòan hướng về nhau. Như thế Thiên Chúa không cô độc trong
Mầu Nhiệm Ba Ngôi. Từ tình yêu giữa các Ngôi vị, mà Thiên Chúa đã tác thành con
người để chia sẻ tình yêu cho chúng ta. Ba Ngôi vị hướng về nhau trọn vẹn, kết
hợp với nhau và là Một với nhau. Ba Ngôi vị có cùng Bản Thể với nhau nhưng
không phải là một Bản Thể đóng kín, một Bản Thể cá vị, mà là một Bản Thể mở
rộng. Nhờ thế mà con người được đưa vào trong chính cung lòng của Ba Ngôi Huyền
Nhiệm.
Tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi không là một trạng thái Tĩnh, nhưng
luôn ở dạng Động. Tham dự vào đời sống Ba Ngôi, đó là nền tảng của sự hiệp
thông trọn vẹn vào đời sống của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mỗi lần
cử hành mầu nhiệm vượt qua, chúng ta tiến tới cuộc khổ nạn và Phục sinh vinh
hiển nhờ Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần, tiến tới Chúa Cha (per Christum in
Spiritu Sancto ad Patrem).
Các nhà thần học cổ điển đã thường tranh luận với nhau về vấn đề
tương quan giữa tin và hiểu. Tin trước hiểu sau hay là hiểu trước rồi mới tin sau, đó là hai
chiều kích luôn song hành với nhau. Đức tin tìm được sự hiểu biết hay là hiểu
biết tìm đến đức tin. Thật ra, hiểu rồi tin hay tin rồi mới hiểu là hai chiều
kích không thể thiếu được trong sinh hoạt của con người. Một con người có trí
khôn để hiểu biết, nhưng lại là một trí khôn có giới hạn. Tin và hiểu, hiểu rồi
tin cần bổ túc cho nhau luôn mãi trong cuộc sống nhân bản của con người cũng
như trong cuộc sống Kitô.
Trước mầu nhiệm Thiên Chúa vô cùng cao cả được mạc khải cho con
người hữu hạn thì yêu cầu phải hiểu rồi mới tin, có thể là một yêu cầu của con
người tự phụ, tự kiêu. Nhưng ngược lại, nếu chỉ muốn tin mà không cần hiểu biết
gì cả thì cũng dễ dàng rơi vào trong sự mù quáng khó tin.
Trước mầu nhiệm của mọi mầu nhiệm, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà
chúng ta mừng lễ Chúa nhật hôm nay, nếu cứ xoay quanh vấn đề tin và hiểu thì có
lẽ chúng ta sẽ không đi đến đâu cả.
Chúa Giêsu đã áp dụng phương pháp đặc biệt khác đối với các tông đồ
để mạc khải cho các ngài về mầu nhiệm Thiên Chúa, đó là kinh nghiệm sống cao độ
giữa Chúa Giêsu và các tông đồ mà cao điểm là kinh nghiệm Chúa Phục sinh và
biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống để hướng dẫn các ông tiến sâu vào trong mầu
nhiệm của Thiên Chúa. Các tông đồ cần sống với kinh nghiệm sống với Chúa Giêsu
và cần Chúa Thánh Thần hướng dẫn để có thể đi sâu vào trong mầu nhiệm Thiên
Chúa này, và khám phá ra mầu nhiệm Thiên Chúa đó không phải một Thiên Chúa đơn
độc, nhưng là một Thiên Chúa phong phú gồm cả Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Khi mời theo Chúa và cả khi gần kết thúc cuộc đời theo Chúa trên
trần gian, các tông đồ đã không hiểu gì cho lắm về mầu nhiệm Thiên Chúa như
được Chúa Giêsu mạc khải. Các ngài còn tranh tụng với nhau về địa vị lớn nhỏ,
muốn ngồi bên hữu, bên tả của Chúa. Tranh tụng với nhau về lúc nào sẽ thiết lập
lại vương quốc cho dân tộc Israel và tranh tụng với nhau biết bao chuyện thường
tình khác nữa của con người trần tục.
Kinh nghiệm sống của các ông với Chúa Giêsu chắc có lẽ sẽ không đi
đến đâu, sẽ không phát sinh hiệu năng làm các ông trở thành chứng nhân cho
Chúa, bao lâu các ông chưa hiểu mối liên hệ nào giữa cuộc đời của các ông với
cuộc đời của Chúa Giêsu: Theo Chúa để làm gì? Và có ích gì cho cuộc sống?
Hành động của Chúa Giêsu Phục sinh ban Chúa Thánh Thần xuống trên
các tông đồ có thể nói là hành động cuối cùng để hoàn tất công cuộc mạc khải
mầu nhiệm Thiên Chúa, để đưa các tông đồ vào mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một
sâu xa hơn. Chúa Thánh Thần sẽ dẫn đưa chúng con đến vào trong mầu nhiệm Thiên
Chúa. Chúa Thánh Thần sẽ đến để dẫn đưa chúng con vào trong sự thật mỗi ngày
một trọn vẹn hơn, sâu xa hơn.
Đó là điều mà chúng ta nghe được trong bài Phúc âm hôm nay, một
đoạn trích ngắn từ bài diễn văn dài của Chúa Giêsu cho các tông đồ trong bữa
Tiệc Ly. Đó là con đường tương quan sống động giữa Thiên Chúa và con người. Nếu
mất đi hay không có mối tương quan này thì e rằng những đồ đệ của Chúa ngày xưa
cũng như chúng ta hôm nay sẽ chỉ là những kẻ mang danh hiệu là người Kitô,
người Công giáo trống rỗng, không có nội dung, không có cuộc sống thánh thiện
chi cả.
Tiếp xúc hằng ngày với Chúa Giêsu, các tông đồ cảm nghiệm được
rằng, mầu nhiệm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải trước mắt các ông qua lời
giảng dạy và qua những dấu lạ Chúa làm là một mầu nhiệm rất phong phú về Thiên
Chúa Cha, Con và Thánh Thần, luôn luôn hiệp nhất với nhau và luôn luôn yêu
thương con người, muốn biến đổi con người để con người sống yêu thương hiệp
nhất với nhau và với Thiên Chúa.
Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần có một ý định rõ ràng là mời gọi
các ông, mời gọi những con người đi theo Ngài hãy cộng tác vào chương trình
hành động của Thiên Chúa trong lịch sử, để tình thương Thiên Chúa được hiện
diện mãi trong con người.
Mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy vượt qua sự tò mò
ý thức của trí khôn con người, một trí khôn có giới hạn nhưng lại tự kiêu,
không chấp nhận giới hạn, muốn đặt vấn đề về tất cả mọi sự và thắc mắc tại sao
Thiên Chúa có một mà lại có ba ngôi? Chúng ta hãy vượt qua sự tò mò ý thức này
để kiểm điểm lại mối tương quan sống động giữa ta với Thiên Chúa hiện nay. Mối
tương quan đó như thế nào rồi? Đang sinh sống tốt tươi hay đã héo hon. Xin Chúa
giúp chúng ta thiết lập lại mối tương quan này, cảm thấy được Thiên Chúa hiện
diện trong đời sống chúng ta và xác tín về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi
người chúng ta, và để cho tình yêu đó biến mọi người chúng ta mỗi ngày trở nên
chứng nhân cho Ngài giữa anh chị em.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, Ba Ngôi Thiên Chúa của tình yêu thương, xin
gìn giữ chúng con trong tình yêu mãi mãi và biến mỗi người chúng con trở nên
những chứng nhân làm chứng cho tình yêu này. Xin Chúa thương gìn giữ chúng con
trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
22. Mầu nhiệm
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm thâm sâu, cao cả nhất, vì
là chính đời sống nội tại của Thiên Chúa, và đây cũng là mầu nhiệm trung tâm và
nền tảng của các mầu nhiệm khác. Bởi vì các mầu nhiệm khác như Nhập Thể, Cứu
Chuộc, Sống Lại, Lên Trời, Hiện Xuống đều đặt nền tảng trên mầu nhiệm này, hoặc
chỉ hiểu được nhờ mầu nhiệm này. Nhìn vào lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy rõ
ràng có Ba Ngôi hoạt động: Chúa Cha sai Con mình xuống trần cứu thế, Chúa Con
sinh làm người thực hiện ý định cứu chuộc của Chúa Cha. Rồi Chúa Thánh Thần
được cả Chúa Cha và Chúa Con gửi đến để trợ giúp và thánh hóa mọi người và mỗi
người hoàn thành ơn cứu chuộc của mình.
Như vậy, khi dạy cho chúng ta biết công cuộc cứu chuộc của Ngài,
Thiên Chúa đồng thời cũng dạy cho chúng ta biết về Ba Ngôi nơi Thiên Chúa.
Chúng ta chỉ có thể biết được mầu nhiệm này nhờ Thiên Chúa trực tiếp mạc khải.
Tuy nhiên, mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu. Con số 1, 2, 3 là để đếm đo. Mà đã
đếm đo thì phải là những gì hữu hình, có lượng, có chất thì mới đếm đo được.
Thiên Chúa vô hình, thiêng liêng, không lệ thuộc vào không gian và thời gian
như chúng ta, thì làm sao đo đếm được. Mặc dầu mầu nhiệm này đã được chính Chúa
Giêsu dạy bảo qua ngôn ngữ của loài người, nhưng vẫn là chuyện khó hiểu. Tuy
nhiên, khó hiểu mà không nghịch lý.
Đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy có Ba Ngôi. Ba Ngôi thật sự phân biệt
nhau, khác nhau, nhưng Ba Ngôi chỉ có một bản tính duy nhất là bản tính Thiên
Chúa, nên chỉ có một Thiên Chúa thôi. Ngôi Cha và Ngôi Con là một: một bản
tính, một quyền năng như Chúa Giêsu đã quả quyết: “Cha Ta và Ta là một”. “Cha
Ta làm sao thì Ta làm y như vậy”, “Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha”. Ngôi Ba và
Ngôi Hai cũng là một, như Chúa Giêsu đã nói: “Chúa Thánh Thần sẽ đến từ Cha và
Ta. Người chỉ nói những gì nghe biết bởi Chúa Kitô”, “Ai nói dối Chúa Thánh
Thần thì cũng nói dối chính Thiên Chúa”. Những điều trên cho chúng ta biết: Ba
Ngôi đồng bản tính với nhau, nếu không đồng bản tính thì không thể có sự liên
hệ và lệ thuộc mật thiết giữa Ba Ngôi như vậy được.
Trong cuộc đời trần thế này, nơi chúng ta còn đang bước đi trong
đức tin, chúng ta không thể hiểu được hết, được nhiều về một mầu nhiệm cao cả
và thâm sâu như vậy. Chúng ta chỉ hiểu được phần nào trong giới hạn chật hẹp
của trí tuệ con người và qua những hình ảnh tương đối, bất toàn, mượn nơi thế
giới loài người, như hình tam giác đều, ba tài năng của con người: hiểu, nhớ và
muốn. Ba giai đoạn của thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Điện có sức
làm chuyển động, đốt nóng và soi sáng… Chúng ta dùng kiểu nói nào hay hình ảnh
nào để diễn tả thì cũng chỉ là tương đối vậy thôi, vì ngôn ngữ loài người không
thể diễn tả hết được, như có người đã nói: “Đố ai định nghĩa được tình yêu”,
phương chi là nói tới Thiên Chúa Ba Ngôi.
Có một câu chuyện kể rằng: một hôm, khi suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa
Ba Ngôi, thánh Âu Tinh, trong một thị kiến, nhìn thấy mình đi bách bộ trên bãi
biển. Bên bờ đại dương bao la, ngài nhìn thấy một em bé chơi một trò chơi kỳ
lạ. Em đào một lỗ nhỏ giữa cát trắng, và dùng một cái vỏ sò múc nước biển đổ vào
lỗ ấy. Cho đến bao giờ em mới múc được hết nước đại dương đổ vào cái lỗ nhỏ ấy?
Không thể làm được. Thì ra đó là một thiên thần từ trời xuống dạy cho nhà tiến
sĩ Âu Tinh một bài học về Thiên Chúa Ba Ngôi: đừng hòng dùng lý trí để mà tìm
hiểu bản thân của Thiên Chúa vô hình và siêu việt, người ta chỉ có thể dùng con
tim để mà tiếp xúc và hiệp thông mà thôi.
Thế nên, chúng ta hãy xin Thiên Chúa cho lòng chúng ta được khiêm
tốn. Đừng bao giờ điên rồ đòi “giải quyết vấn đề Thiên Chúa”, đứng mất công bóp
trán hòa hợp số 1 với số 3, vì Thiên Chúa không phải là một vấn đề hay một bài
toán để chúng ta giải quyết. Nếu Thiên Chúa nằm trong sự giải quyết của con
người thì không còn phải là Thiên Chúa nữa, mà chỉ là sản phẩm do trí óc chật
hẹp của con người tạo ra. Nhưng đâu phải trí óc chúng ta tạo nên Thiên Chúa,
chính Thiên Chúa đã tạo nên trí óc chúng ta.
Xin đề nghị một điều, hay đúng hơn là nhắc lại một điều, bởi vì
điều này chúng ta đã và đang làm rồi, đó là làm dấu thánh giá. Mỗi lần làm dấu
thánh giá là một lần chúng ta biểu lộ lòng tôn kính và tuyên xưng đức tin vào
Chúa Ba Ngôi. Điều muốn nói ở đây là chúng ta hãy làm dấu thánh giá mỗi khi có
thể và nhất là làm nghiêm trang, tôn kính, đúng vị trí từng ngôi trên trán,
trên ngực và trên hai vai đàng hoàng, chứ đừng làm ẩu, vội vàng như đuổi ruồi
muỗi hay vẽ bùa, vừa bất kính vừa không ích lợi gì. Ước mong từ nay, trước khi
làm một việc gì, chúng ta hãy làm dấu thánh giá với tất cả ý thức và niềm tin: Nhân danh Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần. Amen.
23. Ba
Ngôi: mầu nhiệm
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn
không bao giờ hiểu thấu nổi. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha
ông ngày xưa mới đố nhau:
Đố ai biết lúa mấy cây, Biết sông mấy khúc, Biết mây mấy tầng.
Đố ai quét sạch lá rừng, Để ta khuyên gió, Gió đừng rung cây.
Nhưng tất cả mọi điều khó hiểu trong cuộc sống con người có lẽ tình
yêu là khó hiểu nhất. Vâng, chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao
tổn bao công sức và giấy mực, qua các thời đại mà vẫn không có được một định
nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa như vậy nên
người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm vậy.
Nhưng tình yêu ấy có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên
Chúa, mà trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba
Ngôi mà ngày hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính là mầu nhiệm
cao cả nhất, khó hiểu nhất trong Giáo Hội Công giáo chúng ta. Như sách giáo lý
của Giáo Hội khẳng định: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm
của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại
của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa “cho chúng ta” “.
Vậy vấn đề đặt ra cho chúng ta ở đây đó là phải hiểu và đón nhận mầu
nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào.
Khi nói đến mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, có người thì chấp nhận một
cách thụ động, coi như một sự thật hiển nhiên không cần tìm hiểu thêm, người
khác thì cố gắng dùng những hình ảnh cụ thể để so sánh chân lý cao siêu này hầu
dễ được tin nhận hơn như ngọn lửa của que diêm, cả ba đặc tính: sáng, nóng và
cháy xuất hiện cùng một lúc và không thể tách rời nhau, hoặc với một tam giác
đều có ba cạnh, ba góc bằng nhau. Nhưng tốt hơn hết, chúng ta tuyên xưng: đây
là mầu nhiệm đức tin, nghĩa là chúng ta đón nhận trọn vẹn chân lý ấy nhờ tin
vào mạc khải của Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Bởi vì
nếu không có Thiên Chúa mạc khải, thì chúng ta không biết gì về Ba Ngôi, việc
nhập thể của Con Thiên Chúa hay sứ mạng của Chúa Thánh Thần. Như thánh Gioan
tông đồ vào cuối đời mình, khi suy niệm về cuộc đời, cái chết và sự Phục sinh
của Đức Giêsu mới định nghĩa được “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa là tình
yêu tức là tự chính nơi Thiên Chúa là yêu thương và là nguồn gốc của mọi tình
yêu.
Vâng, chính vì tình yêu mà Chúa Cha sinh ra Chúa Con; đã trao cho
Chúa Con tất cả, ngay chính bản thân mình, như trong bài Tin Mừng chúng ta vừa
nghe, chính Đức Giêsu khẳng định rõ ràng: “mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy”.
Và Chúa Cha yêu Chúa Con đến nỗi luôn ở trong Chúa Con, hiệp thông làm một với
Chúa Con. Nên khi tông đồ Philipphê tha thiết muốn được xem thấy Chúa Cha, Đức
Giêsu đã trả lời ngay: “Ai thấy Thầy là thấy Cha. Anh không tin rằng Thầy ở
trong Cha và Cha ở trong Thầy sao?” Và chính sự kết hợp giữa Chúa Cha và Chúa
Con nhiệm xuất ra một tình yêu, tình yêu ấy lại là một ngôi vị, đó là Chúa
Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là luồng tình yêu từ Chúa Cha đến Chúa Con và từ
Chúa Con đến Chúa Cha, là sức mạnh tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Vì thế,
trong Ba Ngôi luôn có một sự đón nhận, trao hiến và hiệp thông tình yêu vĩnh
cửu trong một Thiên Chúa duy nhất.
Quả thực, tình yêu nào cũng muốn bộc lộ, muốn hiệp thông, muốn trao
hiến, người yêu nào cũng muốn tỏ tình thì đối với tình yêu Thiên Chúa chúng ta
còn mạnh mẽ gấp bội. Qua công trình sáng tạo Thiên Chúa muốn vũ trụ vạn vật và
con người hiệp thông với Ngài để đón nhận tình yêu và sự sống. Ngay cả khi con
người sa ngã, chối từ lòng thương ấy thì Thiên Chúa “vì lòng yêu thương che phủ
muôn vàn tội lỗi” nên “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một cho thế
gian”. Người Con Một ấy chính là Đức Giêsu. Qua Đức Giêsu mà chúng ta thấy được
bộ mặt của Thiên Chúa, Ngài đã dạy cho chúng ta biết thế nào là yêu thương. Qua
kiếp sống làm người, qua cái chết đau thương, Ngài muốn tỏ ra cho nhân loại
thấy rằng Ba Ngôi Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta. Đặc biệt qua biến cố Phục
sinh của Đức Giêsu chính Chúa Thánh Thần, Đấng là tình yêu hiệp thông vừa nối
kết Đức Giêsu lại với Chúa Cha, làm cho Đức Giêsu làm một với Chúa Cha vừa nối
kết nhân loại với Thiên Chúa và với nhau. Và vì yêu thương cho đến cùng, nên
Giáo Hội là Dân Thiên Chúa được sinh ra từ tình yêu của Chúa Cha, được Chúa Con
thiết lập, được nuôi dưỡng và hoàn tất nhờ Chúa Thánh Thần để qua sự hiện diện
của Giáo Hội như một dấu chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại luôn
mãi.
Đối với Giáo Hội, qua bao thời đại vẫn không ngừng thể hiện căn
tính của mình cho nhân loại thấy mình vừa là dấu chứng tình yêu của Thiên Chúa
đối với nhân loại, vừa hiệp thông với Thiên Chúa trong tình yêu, đặc biệt qua
đời sống phụng vụ, như Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế về Giáo Hội đã
trích lại câu mấu chốt của thánh Cyprianô rằng: “Giáo Hội phổ quát xuất hiện
như một dân tộc hiệp nhất do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần”.
Mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta nhận thấy nếu Thiên
Chúa là tình yêu và con người đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa thì
một cách tất yếu phẩm giá của con người đã được xây dựng trên tình yêu. Vì thế,
ai chối bỏ tình yêu, gieo rắc hận thù thì người đó đã chối bỏ con người và do
đó cũng chối bỏ Thiên Chúa. Trái lại “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong
Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”.
Hôm nay Thiên Chúa Ba Ngôi đang dùng tiếng nói của Giáo Hội mời gọi
mỗi người chúng ta hãy sống hiệp thông trong tình yêu của Ngài hơn nữa. Cụ thể
là thành viên trong gia đình mỗi người chúng ta xem đã hiệp thông với Thiên
Chúa Ba Ngôi để đón nhận và thể hiện tình yêu của Ngài như thế nào? Rồi, giữa
vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ với con cái và giữa anh chị em với nhau đã thực
sự yêu thương nhau góp phần làm cho gia đình mình trở nên dấu chỉ và hình ảnh
sống động của sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa tình yêu nơi trần gian hay
chưa?
Nếu Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta tôn thờ là nguồn mạch tình yêu
đã trao ban tình yêu qua chương trình cứu độ và sẵn sàng đón nhận mọi người
hiệp thông với Ngài, thì Ngài cũng đang mong chờ thái độ đáp trả của chúng ta,
một thái độ biết đón nhận, trao hiến và hiệp thông tình yêu với Ngài và với anh
em đồng loại.
Trong thánh lễ này chúng ta cùng cầu xin Chúa Thánh Thần, Đấng là
tình yêu hiệp thông luôn hướng dẫn đời sống mỗi người chúng ta, mỗi gia đình
chúng ta, giúp chúng ta biết lắng nghe và thực hành lời của Chúa Giêsu để cùng
với việc can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa Ba Ngôi như qua
việc làm dấu thánh giá, cầu nguyện, tham dự thánh lễ, chúng ta biết sống bác ái
yêu thương trong gia đình, khu xóm, cộng đoàn của mình, để xứng đáng là những
nghĩa tử của Chúa Cha và luôn được sống hiệp thông trong tình yêu Ba Ngôi Thiên
Chúa.
Đức tin không phải là một thứ tự kỷ ám thị. Đây là ân sủng của một
sự gặp gỡ mầu nhiệm với một Đấng nào đó. Nó ở bên ngoài mọi lý lẽ và cảm xúc,
nhưng lý lẽ và cảm xúc cũng có thể hiện diện. Chúng ta có thể hiểu Thiên Chúa
bằng trí óc và bằng giác quan. Thật vậy bằng toàn bộ con người chúng ta. Chúng
tôi không nói về một xác tín của trí tuệ, mà về một cảm thức về Thiên Chúa –
một cảm giác. Đó là một kinh nghiệm tuyệt vời làm sao.
Nhà văn Nga, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu
nguyện Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của
Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như
mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một vẻ
lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những
cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế nào mà người ta không tin vào
linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại vô biên như thế trong bản thân
mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng trong nội tâm nói với tôi: Người
đấy, ông hãy bái quì Người và thinh lặng”.
Người nào có cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện của Người
trong đời sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang có. Như
một người đã nói: “Tôi không cần tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn quan trọng
nữa. Tôi biết chính điều ấy”.
Khi người ta biết một điều gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong
tâm hồn họ. Người ta không cần biện luận hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng
điều đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa. Người ta
tin với tâm hồn dù không biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết.
Một sự chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn người ta cũng đủ.
Khi chúng ta có một cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong
thế giới, chúng ta không còn cảm thấy lẻ loi cô độc trong thế giới. Chúng ta có
thể nhìn thấy với sự thán phục và yêu thương mọi tạo vật như là công trình của
một Đấng Nghệ Nhân là bạn của chúng ta.
Cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới là một phúc
lành cao cả, nhưng cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta là
một phúc lành còn cao cả hơn. Suốt đời, thánh Âu Tinh đã học theo điều đó. Ngài
viết:
“Ôi Đấng toàn mỹ từ muôn đời cho đến muôn đời, con đã yêu Chúa chậm
trễ, vâng, con đã yêu Chúa chậm trễ. Chúa ở bên trong con, nhưng con ở bên
ngoài, và tìm kiếm Chúa ở nơi bên ngoài ấy. Và thật vô duyên, con đắm chìm
trong những sự vật khả ái mà Chúa đã tạo dựng. Chúa ở với con, mà con không ở
với Chúa. Những vật thụ tạo giữ con xa cách Chúa; tuy rằng nếu chúng không ở
trong Chúa thì chúng sẽ không còn hiện hữu. Tại sao con lại cầu xin Chúa đến
với con khi mà nếu Chúa không ở với con, con sẽ không còn hiện hữu”.
Chúng ta gặp Thiên Chúa không phải chỉ trong thế giới bên ngoài
chúng ta nhưng trong thế giới bên trong chúng ta, và thấy rằng Người gần gũi
chúng ta hơn là chúng ta vẫn nghi ngờ. Người tham dự vào chúng ta như lời thánh
Phaolô đã nói: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu”.
Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi dù không rõ ràng ở nơi nào.
Người giống như một nhà viết tiểu sử mà công việc là kể lại câu chuyện trong
lúc ông vẫn đứng ở hậu cảnh.
Đối với nhiều người, sự im lặng của Thiên Chúa là một vấn đề lớn.
Nhưng “Một Thiên Chúa ồn ào và hiển nhiên sẽ là một bạo chúa áp bức, không an
toàn thay vì là một sự động viên không giới hạn đối với bản chất yếu đuối và
hay sợ sệt của chúng ta. Câu đáp lại của Người hòa nhập vào cuộc hành trình
dài, gồm những sự kiện to lớn của đời sống, xâu thành chuỗi xuyên suốt mọi vật”
(John Updike).
Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà chúng ta qui phục nhưng không bị mất
chính mình.
25. Lãnh
nhận một cái mền!
Các thánh ký Phúc Âm đã có một cảm nghiệm về Thiên Chúa là Đấng Vô
Cùng giầu sang, hoàn mỹ, và uy quyền mà không một chữ, hoặc một hình ảnh nào có
thể diễn tả được. Cần phải là ba để diễn tả cách đầy đủ sự sung mãn và phong
phú của Thiên Chúa, Đấng mặc khải mình cho chúng ta. Một Chúa, chứ không phải
ba Chúa. Tín điều Chúa Ba Ngôi, sự cảm nhận được Ba Ngôi Thiên Chúa, hay là bất
cứ cái gì đi nữa, đều qui về một Chúa. Thiên Chúa của chúng ta là Chúa duy
nhất! Sự cảm nghiệm về Thiên Chúa bằng cách này đã là nguồn sức sống cho các
tín hữu thời sơ khai. Do cái cảm nghiệm này đã làm cho họ có sức mạnh để nhận
biết Tình yêu mà họ chưa từng có bao giờ biết từ trước. Cái cảm nghiệm này là
một điều cực kỳ quan trọng trong cuộc sống của họ, và cuộc sống của chúng ta
nữa.
Chuyện đã xảy ra thời Tân Ước đó là Chúa Giêsu đã đến giữa họ, và
họ đã cảm nghiệm được Thiên Chúa trong một cái nhìn mới mẻ đầy sửng sốt mà
không thể nào giữ trong lòng nổi. Họ phải loan truyền Tin Mừng này ra cho toàn
thể thế giới. Điều họ đã nhận ra là Thiên Chúa Cha, Đấng yêu thương họ vô cùng,
hiện diện trong Người Con, và Người Con đã hiện thân ở giữa họ. Thiên Chúa,
trong Người Con, đã hiện diện ở giữa họ như là một thần tượng tuyệt hảo trong
cuộc sống của con người.
Chúng ta tụ tập nơi đây bởi vì chúng ta muốn biết làm sao để sống
một cuộc đời Kitô giáo. Đây là một mẫu gương cho chúng ta. Đây không phải là
những cảm nghiệm mơ hồ về Thiên Chúa mà chúng ta không thể nào nắm được. Thiên
Chúa đang hiện diện như là một người giữa chúng ta. Như các Kitô hữu thời sơ
khai đã cảm nghiệm được sự mặc xác của Thiên Chúa và đã sống qua những biến cố
của Quyền Năng Phục Sinh, họ nhận ra trong một cách mới mẻ Thiên Chúa yêu
thương họ biết bao.
Hơn thế nữa, họ còn có thể cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên
Chúa bằng một cách khác, một điều mới xảy ra. Họ diễn tả cái đó giống như là
ngọn gió thổi qua. Họ nói đó là những ngọn lửa sống động, ấm áp, và linh
thiêng. Họ khám phá ra cái cảm nghiệm này của sự hiện diện Thiên Chúa ở trong
họ, và nó làm cho họ được sống động. Họ nhận ra rằng họ được tẩy rửa. Cái mặc
cảm tội lỗi trong người của họ đã được tẩy xoá và được tăng thêm sức mạnh. Họ
đã có thể đứng lên trước công chúng, vua chúa, và rao giảng Tin Mừng. Bởi Chúa
Thánh Thần quá tuyệt hảo, các thánh ký đã nhắc đến Ngài hơn 350 lần bằng nhiều
cách thế khác nhau. Chẳng hạn Đấng Bảo Trợ, Đấng Bào Chữa, Thần Chân Lý, Đấng
Ban Phát Ơn Phúc, Ánh Sáng của Tâm Hồn, Đấng Ban Sức Mạnh, Đấng An Ủi.
Vào một buổi sáng ngày Chúa nhật, một bà mẹ đã nói với người con cả
rằng, "Billy, hôm nay mẹ không thấy khỏe để đi lễ được, con đi lễ
đi." Và Billy đã đi Lễ. Lễ song, khi Billy về nhà, mẹ chàng hỏi, "Hôm
nay con ngồi ở đâu?" "Thì con vẫn ngồi ở chỗ cũ," Billy trả lời
mẹ. Câu trả lời đó đã làm cho mẹ cậu nghi ngờ, bà liền tiếp, "Thế hôm nay
bài Phúc Âm nói về cái gì?" Billy ngẫm nghĩ và trả lời cách ngập ngừng,
"Ờ...để xem coi, hình như hôm nay có cái gì đó liên quan đến vấn đề lãnh
nhận một cái mền." Thế là xong! Mẹ cậu liền gọi cho cha xứ và hỏi cha hôm
nay bài Phúc Âm nói gì, cha liền trả lời, "Hãy kiên nhẫn, các con sẽ nhận
lãnh sức mạnh..."
"Các con sẽ nhận lãnh sức mạnh" Chúa Giêsu phán, "khi Thần Chân Lý
đến trên các con" Đó là sức mạnh của tình yêu. Đó là sức mạnh biến đổi. Đây không
phải là điều gì mới mẻ cả. Các bạn đã biết cả rồi. Tuy nhiên, có khi nào bạn để
ý để mà suy nghĩ và đem ra thực hành không? Những hàng chữ chỉ là những chữ
chết nếu không được đem ra thi hành.
Các thánh ký Phúc âm đã nghĩ đến việc chúng ta thành thật trước mặt
Chúa về con người của chúng ta; về những cái đưa đẩy tranh chấp trong cuộc sống
của mình; về những cái chống đối và địch thù khi thi hành đức ái của Chúa Giêsu
trong cuộc sống; về cách thức chúng ta làm cho người khác đau khổ; về những cái
khác biệt khinh thị người này người nọ; về cách thức chúng ta che đậy hoặc bào
chữa những lỗi lầm của mình. Các thánh ký hằng luôn kêu gọi chúng ta hãy đối
diện với hiện thực về chính con người của mình trước mặt Chúa.
Khi chúng ta thống hối, thành thật, và khi chúng ta biết phá đi
những cái cản trở trong cuộc sống, thì lúc đó chúng ta sẽ bắt đầu cảm nghiệm
được cuộc sống của Chúa trong chúng ta. Các bạn sẽ trở thành con người mà Thiên
Chúa đã tạo dựng từ ban đầu. Một con người yêu thương. Các bạn sẽ có cái nhìn
mới mẻ về những người thân trong gia đình.
Thần Khí Chân Lý đang chờ đợi bạn để dẫn dắt và cảm hóa bạn với
những điều tuyệt diệu sau: Tôi đi tìm linh hồn của mình, nhưng tôi không thấy.
Tôi đi tìm Chúa, mà Chúa ẩn náu ở đâu. Tôi đi tìm người anh em, và tôi gặp ở đó
cả ba.
26. Suy niệm của Lm.
Giuse Phạm Thanh Liêm
THIÊN CHÚA BA NGÔI
Thời Cựu Ước người Do Thái nhận biết “Thiên Chúa là Đấng duy nhất”
(Đnl.6, 4). Nhờ Đức Yêsu, Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa là “Ba Ngôi Vị”.
Con người nói về Thiên Chúa
Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối, ngôn từ con người không thể diễn tả
hoàn toàn được. Những hình ảnh diễn tả về Thiên Chúa Cha như một “ông già” râu
dài phúc hậu, hoặc “chim bồ câu” chỉ Chúa Thánh Thần, là những hình ảnh biểu
trưng. Cả những từ ngữ về Thiên Chúa, như “Cha”, như “Con”, như “Thánh Thần”,
cũng là những từ ngữ được dùng với nghĩa loại suy; nghĩa là, chúng chỉ diễn tả
được phần nào về Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng vô hình, Ngài
không có hình ảnh như con người; Thiên Chúa là Cha, nhưng không phải là cha
hoàn toàn theo nghĩa con người vẫn thường dùng; Thiên Chúa là Con nhưng cũng
không phải là con như con người.
Theo con người, cha luôn có trước con, nhưng không như vậy nơi
Thiên Chúa Ba Ngôi; nơi Thiên Chúa, Ba Ngôi không ngôi vị nào có trước ngôi vị
nào; tuy vậy Thiên Chúa vẫn là Cha, là Lời, là Thánh Thần; và cũng có thể nói
Thiên Chúa là Cha, là Con, là Thánh Thần. Nơi con người, chỉ có một bản tính
người nhưng có nhiều người khác nhau; nhưng không vậy nơi Thiên Chúa. Tuy một
bản tính Thiên Chúa, nhưng Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba Chúa, mà chỉ là
một Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, không có từ ngữ “ba ngôi”. Từ ngữ “ba ngôi” là từ
ngữ do các nhà thần học sáng tạo để diễn tả Thiên Chúa là Đấng “nguồn” của mọi sự,
Đức Yêsu như Đấng luôn kết hiệp với Thiên Chúa, đến độ đồng nhất với Thiên
Chúa, và được diễn tả là “Thiên Chúa nhập thể”, Thánh Thần như Đấng từ Cha và
Con. Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba thực tại (nếu là ba thực tại, nghĩa
là, ba Chúa), nhưng chỉ là một thực tại, và là ba ngôi vị phân biệt rõ ràng:
Cha không phải là Con hoặc Thánh Thần, Con không phải là Cha hoặc Thánh Thần,
Thánh Thần không phải là Cha và Con. Tuy vậy Ba Ngôi là một với nhau, là một
trong mọi sự, là một trong bản tính, là một trong ý muốn, là một trong quyền
năng, là một trong hiện hữu.
Thiên Chúa Đấng là nguyên uỷ mọi loài, là nguồn của tất cả, là
“Cha”, là Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa nơi Đức Yêsu, là Thiên Chúa nhập thể, là
“Con”, là ngôi hai Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa. Thánh Thần là Thiên Chúa đang
hiện diện nơi cung lòng con người, hướng dẫn con người trong mọi sự, dạy dỗ con
người mọi điều, là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Thiên Chúa Đấng Siêu Việt, Đấng vượt trên tất cả, Đấng “ngự trên
trời”, đang hiện diện trong cung lòng mỗi người (Ga.14, 16.23). Ngay cả từ ngữ
“ngự trên trời”, cũng là cách nói để chỉ Thiên Chúa là Đấng siêu việt mà con
người không thể thấu đáo được. Đức Yêsu “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” nhưng
Ngài đang “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Ngôn từ là phương tiện để diễn tả về Thiên Chúa, phaỉ cố gắng để
hiểu, và xin ơn Thánh Thần để hiểu Thiên Chúa hơn. Nói như vậy, không phải là
phủ nhận giá trị của từ ngữ. Cũng phải dựa vào từ ngữ để hiểu điều Kinh Thánh,
Giáo Hội, và các nhà thần học muốn diễn tả.
Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương chúng ta vô cùng
Giáo Hội đọc Cựu Ước trong niềm tin Thiên Chúa Ba Ngôi, và hiểu Đức
Khôn Ngoan đã hiện diện với Thiên Chúa khi Ngài tạo dựng vũ trụ. Đức Khôn Ngoan
là Ngôi Lời Thiên Chúa trước khi nhập thể. Đức Khôn Ngoan trước khi nhập thể,
vẫn ở nơi Thiên Chúa và đã yêu mến con người.
Thánh Thần, Đấng ở nơi Thiên Chúa và được sai tới với con người, sẽ
dạy dỗ con người, sẽ dẫn con người tới sự thật trọn vẹn. “Mọi sự của Cha đều là
của Thầy” nhưng Thánh Thần lại “lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”,
như vậy nơi Ba Ngôi tất cả là chung.
“Thiên Chúa đã tuôn đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ
Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”. Thiên Chúa, Ba Ngôi Thiên Chúa, yêu
chúng ta vô cùng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có thường ý thức Thiên Chúa luôn hiện diện với bạn không? Ý
thức Thiên Chúa hiện diện với bạn, bạn được gì?
2. Bạn hiểu thế nào khi nói Thiên Chúa là Cha? Tương quan của bạn
với Ngài như thế nào?
3. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần gần gũi với bạn không? Tại sao?
27. Suy niệm của GP.
Vĩnh Long
Anh chị em thân mến.
Giờ phút này đây, chúng ta đang bắt đầu một ngày mới. Ánh bình minh
đã từ từ ló dạng.
Đó là một việc rất bình thường cho con người. Có khi nào lúc màn
đêm buông xuống, khi lên giường chợp mắt, chúng ta chợt giật mình suy nghĩ: nếu
ngày mai không có ánh mặt trời, và mãi mãi mặt trời sẽ biến mất, chúng ta không
biết mình sẽ ra sao. Nhưng rất may đều đó đã không xảy ra. Sau một đêm dài nghỉ
ngơi dưỡng sức, chúng ta lại được chào đón ánh bình minh tươi đẹp, với vầng mặt
trời từ từ hiện đến, mang những tia nắng ấm áp cùng với ánh sáng chan hòa bao
phủ trần gian. Mỗi ngày mặt trời vẫn trung thành xuất hiện, vẫn tỏa sáng và
mang hơi ấm đến cho con người. Nếu người nào biết tận hưởng, thì đây là điều
rất hữu ích. Còn nếu ai quá lạm dụng, thì cho dù có tầng ozone bao bọc, họ cũng
không tránh khỏi hậu quả tai hại do sự lạm dụng quá đáng.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta vừa nghe lại những Lời quý
báu Chúa Giêsu nói:
"Khi Thần Chân Lý đến Người sẽ dạy các con biết tất cả sự
thật" Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan
truyền cho các con "Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy".
Chúa Giêsu muốn tỏ cho loài người biết về mối tương quan của Ngài
với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi cùng hợp nhất không bao giờ chia
rẽ, cho đến nỗi Ba Ngôi mà chỉ có một.
Mầu nhiệm cao cả nầy, chúng ta biết từ rất lâu, nhưng hiểu không
được bao nhiêu. Như một đứa trẻ, nó biết cha mẹ yêu thương, nhưng không biết
được tình yêu thương đó như thế nào. Nhưng chúng ta thử lấy tâm tình của một
trẻ thơ mà tìm hiểu Chúa Ba Ngôi theo những gì mình hiểu biết.
Chúng ta thử ví Thiên Chúa Cha như vầng mặt trời,
Chúa Giêsu như ánh sáng được chiếu tỏa từ mặt trời,
Chúa Thánh Thần là sức nóng từ vầng mặt trời có ánh sáng phát ra.
Mặt trời vẫn trung thành với trái đất như thế nào, Thiên Chúa cũng
trung thành với loài người như thế, và còn hơn thế nữa, vì mặt trời thì dường
như vô tri, còn Thiên Chúa, Ngài yêu thương loài người, tất cả những gì Ngài
thực hiện đều phát xuất từ lòng yêu thương. Không thể có một khối mặt trời mà
không có ánh sáng và sức nóng. Cũng thế Thiên Chúa hiện hữu trong một bản tính
duy nhất nhưng Ba Ngôi Vị riêng biệt.
Thiên Chúa Ba Ngôi còn hiện hữu qua con người của chúng ta. Con
người chúng ta được mang hình ảnh của Thiên Chúa. Đó là công trình tạo dựng của
Thiên chúa Cha. Con người được cứu chuộc để được tỏa sáng, được trong sạch. Đó
là công trình cứu chuộc của Ngôi Hai. Con người được ban cho sức mạnh để những
việc làm đạt kết quả tốt đẹp. Đó là sức nóng của Chúa Thánh Thần nung đốt
Mỗi người chúng ta nhìn lại chính mình, nhìn lại hình ảnh của Chúa
Ba Ngôi, một hình ảnh đã bị biến dạng. Chúng ta đã dùng những chất bẩn của tiền
bạc, của lợi lộc cá nhân, những chất bẩn của sự ích kỷ, của sự tranh chấp, lừa
lọc để bôi nhọ hình ảnh tuyệt vời của Thiên Chúa Ba Ngôi nơi mỗi người. Vì sự
bôi nhọ đó mà ngay cả chính mình không nhận ra, thì làm sao người khác có thể
nhận ra được Thiên Chúa Ba Ngôi nơi chúng ta được.
Chúng ta biết chờ đón ánh bình minh trong đêm tối. Thế mà trong
những lúc thất vọng, chúng ta đã quên mất Thiên Chúa của mình. Chúng ta không
còn biết có một Thiên Chúa vẫn trung thành và yêu thương luôn chờ đón mình. Vậy
mỗi người đã xử dụng mặt trời như thế nào? - Chúng ta chỉ biết phiền trách vì
ánh nắng chói chan, vì cơn nóng gay gắt. Hay chúng ta biết tận dụng được những
gì từ ánh mặt trời ban cho.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng biết nhìn thấy được hình
ảnh Chúa Ba Ngôi trong đời sống, để biết sống cho xứng đáng.
28. Nếu bạn
thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Mùa Phục Sinh kết thúc với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Giáo
hội nhìn lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân
loại và nhận ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và
Thánh Thần. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp
ngay sau lễ Hiện Xuống, luôn luôn được Giáo hội mừng kính và suy niệm về mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ Ngài,
Giáo Hội sinh ra; nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn
bước. Chỉ một mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong ước.
(Thư Chung 2011, Số 19).
Giáo hội được Chúa Cha tập hợp chung quanh Chúa Giêsu dưới tác động
của Chúa Thánh Thần. Là dân tộc lữ hành, Giáo hội phát xuất từ Chúa Cha, sẽ trở
về với Chúa Cha, nhờ trung gian của Chúa Kitô, dưới hơi thở của Chúa Thánh
Thần. Chính từ mầu nhiệm Ba Ngôi mà Giáo hội được sinh ra và cũng từ Thiên Chúa
mà Giáo hội lãnh nhận sứ mạng để tất cả nhân loại làm thành một Dân Thiên Chúa,
tập họp thành Thân Thể Chúa Kitô, được xây dựng thành Đền Thờ Chúa Thánh Thần.
Giáo hội như là hình ảnh của mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi Thần Linh và
Giáo hội là dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại (x. GH1;
GLCG số 772). Ba Ngôi là cội nguồn và là cùng đích của Giáo hội. Giáo hội là
công trình của Ba Ngôi. Giáo hội nuôi sống con cái mình bằng thần lương Ba Ngôi
ban tặng qua các bí tích.
1. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin
Kitô giáo.
Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con
người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay
hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không
phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là
3; 1 là 1. Không tính với bài toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa
không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay
ba đốt hay hình tam giác mà ví von được.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô.
Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước
khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào. Dân Do thái, dân riêng
của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm Ba Ngôi. Cựu Ước chỉ nói tới một
Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời
sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần. Ngài đã từng bước vén lên bức màn
của mầu nhiệm Ba Ngôi.
Ngài cho biết: Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa
Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài,
cùng bản tính với Chúa Cha. Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài với Chúa Cha là một
Thiên Chúa.
Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Cha sai đến,
cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi
riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
2. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm Tình Yêu.
Tại sao Chúa Giêsu lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao
siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người,
hoặc để xây lên bức tường chặn đứng suy luận và óc tưởng tượng của con người.
Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là
tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên Chúa là Tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một
công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa
đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, ban cho con người được hạnh phúc như
Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa
không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban Con Một yêu dấu để cứu chuộc. Và
vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện
sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời. Chúa Thánh Thần đến để
tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình
yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về
sau nữa.
Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không
chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi
chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như
tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình
yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu
thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con
Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp
nhất.
3. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm gần gũi nhất trong đời sống
đạo.
Trước khi dùng cơm, phần lớn trong chúng ta đều làm dấu thánh giá
và đọc nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khi đọc kinh trong nhà thờ hay tại
nhà, chúng ta đều bắt đầu bằng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Có những
người có thói quen tốt là trước khi làm bất cứ việc gì, họ đều làm dấu thánh
giá. Qua đài truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta thấy, có những cầu thủ bóng đá
quốc tế làm dấu thánh giá sau khi đá lọt lưới đối phương, hoặc trước khi đá
phạt đền.
Làm dấu trên trán, chúng ta tuyên xưng Chúa Cha là Đấng tạo dựng
trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Làm dấu trên ngực, chúng ta tuyên Chúa
Con là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng
trinh nữ Maria và đã làm người. Làm dấu trên hai vai chúng ta tuyên xưng Chúa
Thánh Thần là Chúa và Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra,
Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Dấu chữ thập mà
chúng ta làm chỉ thánh giá của Chúa Giêsu, nơi mạc khải trọn vẹn tình yêu của
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đối với nhân loại.
Dấu thánh giá là lời tuyên xưng đức tin vắn tắt nhất của người Kitô
hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo
đạo khác. Lời kinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tóm tắt đức tin mà chúng
ta đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội, mà nội dung là ba điều khoản lớn của đức
tin công giáo, điều khoản thứ nhất tuyên xưng Chúa Cha, điều khoản thứ hai
tuyên xưng Chúa Con, điều khoản thứ ba tuyên xưng Chúa Thánh Thần và Hội thánh.
Như vậy cách thực tế và đơn giản nhất để tôn vinh Chúa Ba Ngôi là chúng ta hãy
làm dấu thánh giá cách sốt sắng và ý thức, với tất cả lòng yêu mến và kính
trọng.
Đi sâu hơn chút nữa, chúng ta càng thấy mầu nhiệm Ba Ngôi thật gần
gũi và thật là cao cả. Thánh Augustinô đã nói: "Nếu bạn thấy tình yêu, bạn
sẽ thấy Chúa Ba Ngôi".
Chúng ta có thấy tình yêu không, và thấy như thế nào? Tình yêu được
nhìn thấy qua những hành vi yêu thương.
Yêu thương là ban tặng: khi yêu người ta trái tim của mình cho người yêu. Yêu thương sâu
đậm là cho đi điều quý báu nhất cho người mình yêu, như trường hợp của Chúa Cha
mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin mừng Gioan: " Thiên Chúa đã yêu thương thế
gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian" (Ga 3, 16). Hay chính
trường hợp của Chúa Giêsu: " Không có tình thương nào lớn hơn tình thương
của người dám thí mạng sống vì bạn hữu" (Ga 15, 13). Yêu thương là cho đi
chính mình, là tự hiến chính mình. Vợ chồng yêu thương nhau, dâng hiến bản thân
cho nhau, kể cả thân xác mà không chút e dè, trái lại còn hạnh phúc nữa. Cha mẹ
và con cái yêu thương nhau có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau.
Yêu thương là chia sẻ: yêu nhiều, người ta chia sẻ cho nhau nhiều,
yêu nhau hết mức thì người ta chia sẻ cho nhau tất cả. Vợ chồng yêu nhau chia
sẻ cho nhau tất cả, từ của cải vật chất đến gia sản tinh thần, đến cả tình gia
đình. Ông bà cha mẹ của chồng trở thành ông bà cha mẹ của vợ và ngược lại.
Trong Thiên Chúa cũng thế, Ba Ngôi Thiên Chúa chia sẻ cùng một sự sống thần
linh. Và chính sự sống thần linh duy nhất làm cho Ba Ngôi là một. Chúa Cha đã
sai Chúa Con mang sự sống thần linh ấy xuống trần gian chia sẻ cho nhân loại.
Sự sống ấy là Bánh bởi trời mà chúng ta nhận lãnh trong bí tích Thánh Thể.
Yêu nhau là đón nhận nhau. Đón nhận tình yêu và ý muốn của người
mình yêu, đón nhận tất cả, đón nhận chính bản thân của người yêu. Người được
yêu có vị trí quan trọng trong trái tim của người yêu. Suy nghĩ về tình yêu
giữa Chúa Con và Chúa Cha, chúng ta sẽ thấy ở trần gian này, không có sự đón nhận
nào trọn vẹn như thế. Chúa Con đón nhận tất cả từ Chúa Cha: giáo lý, ý muốn,
lời nói, hành động. Chúa Con đón nhận chính bản thân Chúa Cha làm bản thân của
mình, vì vậy mà đồng bản thể với Chúa Cha.
Yêu nhau còn là gắn bó với nhau. Càng yêu nhau càng gắn bó mật
thiết đến nỗi là một với nhau. Hai vợ chồng yêu nhau ở mức độ cao nhất thì trở
nên một: một xương thịt, một thân mình. Bấy giờ tình yêu vợ chồng không những
là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Chúa Giêsu đối với Giáo Hội, mà còn là dấu chỉ
của tình yêu Ba Ngôi. Ba Ngôi gắn bó với nhau đến nỗi là Một với nhau. Và chỉ
có một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa là Tình Yêu nguồn suối, mẫu mực cho mọi
tình yêu của con người (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm
vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu
thấu mầu nhiệm đó, nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện
của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là
tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta
chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội
lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho
khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống
hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ,
biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ
mình, bỏ sở thích riêng, bỏ của cải và nhất là phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn
sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình
ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết
hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là
đích điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho chúng con biết sống yêu thương để
chúng con luôn thấy Chúa hầu chúng con ngày càng trở nên giống hình ảnh của
Chúa. Amen.
29. Ơn vô ngộ –
Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Trước hôm bước vào cuộc khổ nạn và phục sinh, Đức Giêsu đã tâm sự
cùng những người theo Ngài rằng sẽ có một ngày Ngài lìa xa họ để về cùng Chúa
Cha. Đối với các môn đệ, đây là một tâm sự buồn. Bởi vì sau bao tháng ngày bên
nhau, tình thầy trò trở nên nồng thắm tưởng chừng không thể phân ly. Ấy thế mà
giờ đây Thầy lại nói đến giây phút chia lìa.
Song với tình thương bao la, muốn lắng lo chăm nom mọi sự cho đoàn
chiên non yếu, Đức Giêsu đã vội trấn an các môn đệ: “Ta sẽ không bỏ các con mồ
côi đâu… Nhưng Ta sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho các ngươi Đấng Bầu Chữa để ở
với các ngươi luôn mãi” (Ga 14&15).
Như thế, với lời yên ủi động viên trên, Đức Giêsu đã mạc
khải một mầu nhiệm vô cùng quan yếu của niềm tin Kitô giáo-Mầu nhiệm Ba Ngôi
Thiên Chúa. Đây là “nguồn mạch của tất cả các mầu nhiệm khác của đức tin, là
ánh sáng soi chiếu các mầu nhiệm đó.” Giáo lý Công giáo đã xác định: có ba mầu
nhiệm căn bản cho niềm tin, và mầu nhiệm thứ nhất, mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi
là điểm khởi phát của hai mầu nhiệm còn lại-mầu nhiệm Ngôi Hai Xuống Thế Làm
Người và mầu nhiệm Ngôi Hai Cứu Chuộc nhân loại.
Cũng như trong nỗi sầu thương của Thánh giá có tia sáng của Phục
sinh, thì trong giai điệu của biệt ly giữa thầy trò vẫn ánh lên hào quang của
chân lý cứu độ. Ngay trong khúc tâm sự “buồn”, Đức Giêsu đã mạc khải về mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như căn nguyên và đích cùng của sự sống nhân thế. Ngài
đã nói về Cha như Ngôi Thứ Nhất trong Ba Ngôi; Ngài nói về mình như Ngôi Thứ
Hai xuất tự nơi Cha; và Thần Chân Lý là Ngôi Thứ Ba phát xuất từ Cha và Con.
Mỗi Ngôi hoàn toàn tách biệt nhau, nhưng đều là một Chúa duy nhất, không Ngôi
nào trỗi vượt hay kém thua Ngôi nào.
Nói cách khác, theo định nghĩa của Công đồng Tôlêđô năm 675: “Chúa
Cha cũng là cái là Chúa con, Chúa Con cũng là Cái là Chúa Cha, Chúa Cha và Chúa
Con cũng là cái là Chúa Thánh Thần, nghĩa là một Thiên Chúa duy nhất về bản
tính.” Nhưng ba Ngôi hoàn toàn tách biệt nhau chứ không phải thông chia với
nhau một thần tính duy nhất. Sự riêng biệt trong Ba Ngôi Thiên Chúa cũng có nghĩa
là: “Ngôi Con không phải là Ngôi Cha; Ngôi Cha không phải là Con; và Thánh Thần
không phải là Chúa Cha hoặc Chúa Con.”
Ba Ngôi tách biệt nhau nhưng lại tương quan vô cùng chặt chẽ. Điều
đó có nghĩa là khi nói đến Cha tức phải có Con, không thể là Cha nếu không có
Con. Rồi khi nói về Con nghĩa là đã có Đấng sinh nên mình chính là Chúa Cha.
Tương quan Cha-Con và Con-Cha đã làm nên Ngôi Vị Thánh Thần.
Qua Thánh Kinh, không ít người Kitô hữu đã nhìn thấy Ngôi Cha như
Đấng sáng tạo đất trời và con người, Ngôi Con là Đấng nhập thế cứu đời, và Ngôi
Ba Thánh Thần là Đấng tiếp tục sứ mạng cứu độ của Ngôi Hai qua việc hiện diện,
thánh hoá, và hướng dẫn Giáo hội cho đến ngày cánh chung. Nhìn như thế thì có
vẻ như Ba Ngôi hoàn toàn tách rời nhau trong chương trình sáng tạo và cứu
chuộc.
Đúng hơn, Ba Ngôi luôn “đồng hành” với nhau kể từ khi dựng nên vũ
trụ cho đến khi viên thành mọi sự: Thiên Chúa Cha sáng tạo, nhưng luôn có Thần
Khí “là là trên mặt nước” và Lời Sáng Tạo (Kn 1:1-3). Thiên Chúa Con cứu thế
nhưng luôn được Chúa Cha ở cùng và được Thánh Thần hướng dẫn (Lc 3:21-22). Và
trong công việc thánh hoá của Chúa Thánh Thần thì Ngài lại luôn truyền đạt cho
nhân thế những gì của Đức Giêsu, mà những gì Đức Giêsu có đều là của Cha (Ga
16:15).
Trong bài Phúc âm Lễ Chúa Ba Ngôi năm nay, Chúa Thánh Thần được
nhắc đến như Thần Chân Lý, Đấng sẽ nói cho các môn đệ tất cả những gì nhận được
từ Đức Kitô, Đấng tự xưng mình là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Thực tế,
Chúa Thánh Thần đang ban ơn trợ giúp Giáo hội khám phá và bước theo chân lý hầu
được sống trong sự sống sung mãn của Chúa Ba Ngôi.
Một trong những ơn đặt biệt của Thần Chân Lý mà Thiên Chúa trao ban
cho Giáo hội giữ gìn nguyên vẹn và truyền đạt trung thành các mạc khải của Đức
Kitô là ơn vô ngộ hay còn gọi là ơn không thể sai lầm.
Đức Giáo hoàng được ơn vô ngộ đó, nhưng tất nhiên chỉ những khi
Ngài quyết định “tự ngai toà” (ex Cathedra) với tư cách là thủ lãnh của toàn
thể Giáo hội, để tuyên dạy những gì liên quan đến tín lý và luân lý. Các giám
mục thông hiệp với Đức Giáo hoàng, chẳng hạn như trong các công đồng chung, để
ấn định và truyền dạy những điểm giáo lý một cách vô ngộ, cũng được Chúa Thánh
Thần ban cho ơn đó.
Những lần tuyên bố hay giáo huấn với tư cách vô ngộ thường là rất
hiếm. Trong lịch sử Giáo hội, những vấn đề đã được xác định bằng ơn vô ngộ như:
Bản tính Thiên Chúa, Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên thần, Ơn sủng, Sa ngã, Cứu
chuộc, Nhân tính và Thiên tính của Đức Kitô, các Bí tích, Thiên đàng, Hoả ngục,
Luyện tội, Đức Mẹ Vô Nhiễm. Trong thế kỷ vừa qua, năm 1950, Đức Thánh Cha Piô
XII đã dùng đặc ân không thể sai lầm để tuyên bố về tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên
Trời.
Tất nhiên không phải lúc nào các Đức Giáo hoàng cũng đều sử dụng ơn
vô ngộ. Trong khi giảng dạy bình thường, các ngài sẽ không hưởng ơn đó. “Tuy
vậy, các giáo hữu vẫn buộc phải vâng lời các Ngài như một chiến sĩ phải vâng
lệnh cấp trên mình mặc dầu cấp ấy không có ơn vô ngộ” (F. Lelotte).
Có những sắc lịnh không được phán đi “từ ngai toà”, nhưng nếu đó là
những vấn đề liên quan đến tín lý, luân lý và được Giáo hội nắm giữ cùng giảng
dạy từ lâu đời thì nó vẫn mang tính chất vô ngộ và buộc giáo dân đón nhận, ví
dụ như việc răn dạy về tội ác của việc ngừa thai nhân tạo trong thông điệp
Humanae Vitae hay việc truyền chức thánh chỉ dành cho phái nam trong thông điệp
Ordinatio Sacerdotalis.
Người Kitô hữu chân chính sẽ luôn nhận thức rằng qua Giáo hội Thiên
Chúa Ba Ngôi muốn truyền ban sức sống phong phú dồi dào cho con người. Chúa
Thánh Thần không khi nào lại dùng Giáo hội để bóp nghẹt những gì là niềm vui, hạnh
phúc, và bình an chân thật trong lòng nhân thế. Trái lại với ơn Chúa soi dẫn,
Giáo hội đang là công cụ để đưa nhân loại đến với sự sống trọn vẹn trong tình
yêu của Cha và Con và Thánh Thần.
Xác tín như thế, bạn và tôi hãy cùng can đảm học hỏi và vững
vàng bước đi trong lối đường mà Giáo hội đã chỉ ra. Có được như vậy, chắc chắn
lời đoan quyết của Chúa Giêsu, “Các điều ấy Ta đã nói với các ngươi rồi, ngõ
hầu sự vui mừng của Ta có nơi các ngươi, và sự vui mừng của các ngươi được nên
trọn,” sẽ viên thành trong cuộc đời của chúng ta.
30. Suy Niệm Lễ Chúa
Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Trong các bổn phận chính mà người Kitô hữu phải làm, việc trước
tiên là tin những gì Thiên Chúa truyền và Giáo Hội thay mặt Chúa dạy. Trong
những điều phải tin, quan trọng hơn cả là các sự Mầu nhiệm, trong đó có Mầu
nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Trong bài suy niệm này, xin được gởi mở mấy điểm sau đây: Mầu nhiệm
là gì? Nội dung Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là gì? Chính Chúa Giêsu đã mạc
khải cho chúng ta biết Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi? Ta có bổn phận nào đối với
Thiên Chúa Ba Ngôi?
1. Mầu nhiệm là gì?
Mầu nhiệm, là những sự thật siêu nhiên vượt quá khả năng hiểu biết
của con người. Nhìn nhận có những mầu nhiệm không phải là phủ nhận trí khôn của
con người, nhưng trái lại là chấp nhận trí khôn của con người thua kém sự khôn
ngoan của Thiên Chúa.
Một hôm, Thánh Augustinô đi dạo trên bãi biển giữa cảnh trời đất
bao la, biển rộng mênh mông suy nghĩ về Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng Ngài thấy
một em bé trai đang loay hoay chạy đi chạy lại, tay cầm một cái vỏ sò chạy đi
múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ trên cát.
Dừng lại quan sát em bé hồi lâu, Thánh nhân liền đến hỏi:
- Bé ơi! bé đang làm gì đó?
- Cháu muốn múc hết nước biển đổ vào cái lỗ này cho đầy.
Thánh nhân nhìn em bé mỉm cười dịu dàng nói:
- Cháu không thể làm như vậy được đâu!
- Chú bé đáp lại: Vậy mà cháu làm việc này còn dễ hơn việc ông đang
nghĩ.
Nói xong, chú bé biến mất.
Lúc này thánh nhân mới bừng tỉnh và nhận ra rằng: Thiên Chúa nhắc
cho biết trí khôn loài người không thể nào hiểu thấu đáo hết được Mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi.
2. Nội dung Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là gì?
Một là trong Thiên Chúa có ba ngôi khác biệt nhau. Hai là mỗi một
ngôi cũng là Thiên Chúa. Ba là ba ngôi đều bằng nhau. Bốn là ba ngôi chỉ làm
thành một Thiên Chúa.
Vì là mầu nhiệm nên chúng ta không thể hiểu. Tuy không hiểu, nhưng
chúng ta tin, vì Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta.
3. Chính Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết về Mầu Nhiệm Chúa Ba
Ngôi?
Thời Cựu Ước, khi nhân loại chưa sẵn sàng đón nhận, nên Mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi chưa được tỏ bày một cách rõ rệt, có chăng thì cũng chỉ tỏ
bày một cách mờ nhạt. Chẳng hạn, tiên tri Isaia nghe được tiếng các Thiên thần
ca tụng Thiên Chúa rằng: “Thánh, Thánh, Thánh...Chúa là Thiên Chúa các đạo
binh” (x. Is 6,3). Trong sách Sáng Thế cũng tường thuật lại việc Thiên Chúa tạo
dựng con người rằng: “Chúng ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh chúng
ta...” (St 1,26). Cụm từ “Chúng ta” ở số nhiều, có ý chỉ về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sang thời Tân Ước, khi nhận thấy con người đã sẵn sàng đón nhận,
nên Chúa Giêsu đã mạc khải Mầu nhiệm này một cách rõ ràng, có khi mặc khải từng
ngôi vị, có khi mạc khải hai ngôi vị, có khi mạc khải cả ba ngôi vị.
Mạc khải từng ngôi một:
Hai dẫn chứng tiêu biểu sau đây, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta
về Chúa Cha: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha
đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc
khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt
11,25-26); “Lạy Cha, sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy
nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô” (x. Ga
17,1; 3).
Chúa Giêsu cũng mạc khải cho chúng ta về Chúa Con, khi Ngài xác
nhận lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (x.
Mt 16,13-18). Ngài còn tự nhận mình là Con Thiên Chúa và ngang bằng với Thiên
Chúa (Ga 10, 22-39).
Chúa Giêsu cũng cho chúng ta biết có một Đấng Bảo Trợ khác đó là
Chúa Thánh Thần (x. Ga 16,5-10), Ngài được sai đến để trợ giúp và thánh hoá
chúng ta (x. Ga 16,13-15).
Mạc khải cả ba ngôi Thiên Chúa:
Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan: “Đang khi Người cầu
nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim
bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha
đã sinh ra Con” (x. Lc 3,21-22).
Ngày Chúa Giêsu lên trời, Ngài dạy các Tông đồ: “Anh em hãy đi và
làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
4. Người Kitô hữu phải có bổn phận gì đối với Thiên Chúa Ba Ngôi?
Chúa Cha đã dựng nên chúng ta, Chúa Con đã cứu chuộc chúng ta và
Chúa Thánh Thần thánh hoá chúng ta. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đều mang ơn
Thiên Chúa Ba Ngôi và luôn cần đến Ngài. Vì vậy, để tỏ lòng tôn kính, chúng ta
cần phải làm những việc sau đây:
Thứ nhất, luôn giục lòng tin có Chúa Ba Ngôi ngự trong linh hồn ta,
luôn cầu nguyện và kết hiệp với Ngài, sống đúng với lương tâm ngay thẳng, xa
tránh các tội lỗi, làm nhiều việc lành…Để xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa Ba
Ngôi ngự trị.
Thứ hai, hãy năng làm dấu Thánh giá, làm một cách cung kính: Làm
dấu Thánh giá trước khi đi ngủ, khi vừa mới thức dậy; Làm dấu Thánh giá trước
và sau khi ăn cơm, trước và sau các giờ kinh nguyện; Đặc biệt khi gặp sự khốn
khó, khi bị cám dỗ về đàng trái…Hãy làm dấu thánh giá để kêu cầu Thiên Chúa Ba
Ngôi phù trợ và gìn giữ chúng ta. Thánh Antôn lần kia đang cầu nguyện thì bị
cám dỗ về đàng trái, Ngài lấy lòng sốt sắng vạch hình thánh giá trên nền nhà
thờ, lập tức hình thánh giá in đậm trên nền nhà thờ và ma quỷ bỏ chạy, còn Ngài
được thoát khỏi cơn cám dỗ.
Thứ ba, hãy bắt chước Thiên Chúa Ba Ngôi sống hiệp nhất yêu thương.
Tuy Chúa Cha là Đấng Tạo Dựng, Chúa Con là Đấng Cứu Chuộc, Chúa Thánh Thần là
Đấng Thánh Hoá. Nhưng trong việc tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá đều có sự
hiện diện của Ba Ngôi. Chúa Giêsu đã từng nói: "Thầy với Chúa Cha là
một" (Ga 10,30) ; "Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy" (Ga
16,15) ; “Tất cả những gì của Con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều
là của Con” (Ga 17,10). Trước khi về trời, Ngài khẩn thiết cầu xin Chúa Cha cho
các môn đệ và những người theo Ngài được hiệp nhất nên một với nhau (x. Ga 17,
21-23). Vậy, chúng ta hãy noi gương Thiên Chúa Ba Ngôi biết sống hiệp nhất yêu
thương: Hiệp nhất nên một giữa vợ chồng; Hiệp nhất giữa các thành viên trong
gia đình: "Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình
ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa" (Thư chung HĐGMVN 2002, số 6);
Hiệp nhất giữa các thành viên trong cộng đoàn; Hiệp nhất giữa mọi thành phần
trong Hội Thánh. Thánh Phaolô dạy: "Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy
để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Dothái
hay Hylạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một
trong Đức Kitô” (Gl 3, 27-28). Trong bài giảng sáng ngày 12-5 vừa qua, tại
Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Sự hiệp nhất của
cộng đoàn Kitô, của gia đình Kitô, là một lời chứng cho sự thật rằng Chúa Cha
đã gởi Con mình đến thế gian”.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, xin cho chúng con luôn biết tin
kính và yêu mến Chúa. Xin cho moi thành phần trong Hội Thánh luôn biết cộng tác
với nhau, sống hiệp nhất yêu thương để càng ngày càng diễn tả rõ nét hình ảnh
hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ và
Giáo Hội. Amen.
31. Nhìn
thấy Chúa
Một vị vua kia đến cuối cuộc đời cảm thấy buồn chán. Ông nói:
"Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả những gì mà một con người có thể
cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn một điều ta chưa được thấy, đó
là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được nhìn thấy Chúa một thoáng thôi
thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết". Nhà vua tham khảo ý kiến những bậc
khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông thực hiện điều mơ ước
ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.
Thế rồi có một chàng chăn cừu nghe chuyện trên và tìm đến gặp nhà
vua. Chàng nói: "Có lẽ hạ thần có thể giúp Bệ Hạ được". Nhà vua rất
sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn đồi. Khi đến đỉnh một ngọn
đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo: "Hãy xem kìa".
Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói quá. Ông bảo:
"Nhà ngươi muốn cho ta mù sao!" Người chăn cừu đáp: "Tâu Bệ Hạ,
đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa mà Bệ Hạ còn nhìn không
nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa bằng cặp mắt bất toàn
của Bệ Hạ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt khác".
Nhà vua rất thích ý tưởng ấy, nói: "Ta cám ơn ngươi đã mở cắp
mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời cho câu hỏi khác của Ta: Thiên Chúa
sống ở đâu?" Người chăn cừu lại đưa tay chỉ lên trời: "Bệ Hạ hãy nhìn
những con chim đang bay kia. Chúng sống trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta
cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo bọc của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm
nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn, mở tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy
được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới chân chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng
ta".
Nhà vua dừng bước, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe. Thế là một cảm
giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn thảm của ông. Người chăn cừu nói tiếp:
"Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa". Rồi chàng dẫn nhà vua đến một cái
giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi: "Ai sống dưới đó
thế?" Người chăn cừu đáp: "Thiên Chúa". "Ta có thể nhìn
thấy Ngài không?" "Được chứ, Bệ Hạ chỉ cần nhìn". Nhà vua chăm
chú nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt của mình phản chiếu trên mặt
nước. Ông nói: "Ta chỉ thấy mặt Ta thôi". Người chăn cừu giải thích:
"Bây giờ thì Bệ Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống trong Bệ
Hạ đó".
Nhà vua nhận ra rằng người chăn cừu khôn ngoan và giàu có hơn ông.
Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung. Chẳng ai biết ông có nhìn thấy Thiên
Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một điều gì đó đã biến đổi trái tim ông,
bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu với mọi người, kể cả người đầy tớ
hèn hạ nhất của ông.
Thiên Chúa ở khắp chung quanh chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta
chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng ta thì Ngài như vẫn còn ở xa, vẫn
như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng ta cảm nhận Ngài ở trong chúng ta
thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô đơn nữa, và khi đó chúng ta sẽ nhìn
thấy thiên nhiên là một công trình của một Đấng Nghệ Sĩ thân thiết của chúng
ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở trong chúng ta vừa siêu vượt chúng ta.
Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm tình yêu. (FM)
Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về
mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Trước hết là Ngôi Cha.
Trong Cựu ước, dân Do Thái là một gia đình có Thiên Chúa là cha.
Ngài là đấng đã tuyển chọn quan phòng và chăm sóc đến những nhu cầu của họ.
Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã nhiều lần mạc khải cho chúng ta biết
về Thiên Chúa Cha. Ngài là Cha của mọi người. Ngài yêu thương chăm sóc và ban
thưởng cho những việc lành chúng ta làm. Ngài tha tội và nêu gương thánh thiện.
Tương quan của mỗi người đối với Chúa là lòng hiếu thảo rập theo khuôn mẫu của
Đức Kitô.
Đức Kitô đã làm việc nhân danh Chúa Cha. Giáo lý của Đức Kitô là
bởi Chúa Cha. Đức Kitô vâng theo thánh ý Chúa Cha và hoàn tất mọi việc Chúa Cha
trao phó.
Thiên Chúa là Cha. Trong các tôn giáo, liệu có vị thần nào dám mạc
khải mình như thế không. Chúng ta có hãnh diện vì được một Thiên Chúa ở gần và
yêu thương như một người Cha. Có lẽ nhiều người trong chúng ta chưa kinh nghiệm
được tình phụ tử, và chúng ta tự hỏi:
- Tại sao người công chính lại gặp phải tai ương hoạn nạn, còn đứa
ác nhân lại gặp nhiều may mắn.
Trước hết, chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, Ngài làm
mưa trên người lành cũng như trên kẻ dữ. Ngài muốn tỏ ra nhân hậu với mọi người
cho đến khi sự công bằng được tỏ hiện trong ngày sau hết. Còn với người lành
gặp nhiều tai ương, Chúa cũng vẫn tỏ lòng từ nhân. Ngài muốn họ vững lòng cậy
trông vào Ngài, đồng thời hãy can đảm và kiên trì vì kiên trì trong gian truân
sẽ đưa đến hạnh phúc nước trời.
Sống trong những khó khăn thử thách chúng ta cần xét đến một lý do
nữa, Thiên Chúa thử thách con cái Ngài để xem họ có bằng lòng vâng phục hay
không? Vì vâng lời trọng hơn của lễ. Chúa đặt chúng ta vào trong hoàn cảnh nan
giải để xem đức tin của chúng ta đã trưởng thành hay chưa?
Một người cha thật thì phải biết giáo dục và uốn nắn con cái chứ
không được nuông chiều. Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi. Gương ông
Giob đã chứng tỏ cho thấy một đức tin không nao núng trước nghịch cảnh. Cách
giải quyết tốt đẹp nhất là tin tưởng và phó thác cho tình thương của Chúa.
Tiếp đến là Ngôi Con.
Sau khi nguyên tổ phạm tội thì nhân loại sống dưới ách tội lỗi. Con
người không thể tự mình giải thoát vì tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa, cho
nên cần phải có một Đấng cứu thế, đó là chính Ngôi Hai Thiên Chúa mới có đủ
thẩm quyền cứu độ chúng ta.
Về Ngôi Hai chúng ta cần biết một vài điểm cốt yếu: Ngài vừa là
Thiên Chúa vừa là con người. Ngài là Đấng vô tội đã mặc lấy thân phận tội nhân
để cứu chuộc chúng ta. Ngài là đường, là sự thật, là sự sống. Ngài đã thiết lập
Giáo hội và trao ban cho Giáo hội các bí tích để tiếp tục công cuộc cứu độ cho
đến tận cùng thời gian.
Sau cùng là Chúa Thánh Thần.
Khi sứ mạng Chúa Giêsu hoàn tất, Ngài về trời và sai Chúa Thánh
Thần đến trong ngày Hiện xuống để thánh hóa chúng ta và hướng dẫn Giáo hội.
Về những việc làm của Chúa Thánh Thần chúng ta ghi nhận: Ngài thánh
hóa chúng ta, hồi sinh những tâm hồn tội lỗi. Ngài ngự trong chúng ta và trong
Giáo hội. Giúp Giáo hội đào sâu chân lý và trang điểm Giáo hội bằng muôn ơn
sủng để trở thành hiền thê của Đức Kitô.
Ngài nâng đỡ và ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nguy thử thách,
giúp đỡ chúng ta chống lại những dục vọng sai trái. Ngài cầu nguyện thay cho
chúng ta là những kẻ yếu hèn. Trong những giờ phút u tối, đừng bao giờ mất lòng
cậy trông, hãy chạy đến với Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ soi sáng và thêm sức, Ngài
làm cho tâm hồn chúng ta dịu lại trước thánh ý Thiên Chúa…
33. Lễ Chúa
Ba Ngôi – Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Khi nói về Thiên Chúa Ba Ngôi, ta quen thuộc với những hình ảnh
Chúa Cha là Đấng tạo dựng, Chúa Con là Đấng cứu chuộc và Chúa Thánh Thần là
Đấng thánh hóa. Quả thực Ba Ngôi gắn liền với cuộc đời và số phận của ta. Nhưng
trong thần học của Tin Mừng Gio-an, Chúa Ba Ngôi thường được diễn tả qua mối
liên hệ sống động với ta, đặc biệt trong việc Thiên Chúa tỏ ra những gì Người
muốn ta tiếp nhận hoặc lắng nghe. Thánh sử Gio-an gọi tất cả những điều Thiên
Chúa muốn cho ta biết qua Chúa Giêsu là sự thật toàn vẹn. Đoạn Tin Mừng hôm nay
giúp ta suy niệm những công việc của Ba Ngôi làm để ta nhận ra được “mọi kích
thước dài rộng cao sâu và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương
vượt qua sự hiểu biết” (Ep 3:18).
1) “Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1:2)
Giữa Thiên Chúa và con người có một khoảng cách vô biên, ta không
thể tự sức mình biết được những gì về Thiên Chúa nếu chính Người không tỏ ra
cho ta. Tuy nhiên, Chúa đã nối liền khoảng cách ấy bằng cách sử dụng một số
người được tuyển chọn để nói thay cho Người. Họ là các vị ngôn sứ, chuyển đạt
cho ta những điều Thiên Chúa muốn mặc khải bằng ngôn ngữ loài người. Nhưng ngôn
ngữ loài người có giới hạn, nên mặc dù Thiên Chúa đã “nhiều lần nhiều cách” (Dt
1:1) nói với con người qua các vị ngôn sứ, các vị ấy vẫn không thể diễn đạt
được hết những gì Thiên Chúa muốn nói. Kinh Thánh Cựu Ước là sưu tập những điều
Thiên Chúa “phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ”, nói về những gì Thiên
Chúa làm cho ta và những gì ta phải thực thi để sống xứng đáng là con cái Người.
Thế mà kết quả của những lần “nói thay Thiên Chúa” chẳng là bao. Thiên Chúa đã
thay đổi đủ kiểu đủ cách để củng cố mối quan hệ mà con người vẫn xa dần.
Chẳng lẽ Thiên Chúa phải thất bại? Không bao giờ. Thiên Chúa còn
một cách cuối cùng, Người sử dụng cách ấy “vào thời sau hết này”. Đó là Người
dùng chính Ngôi Lời để nói với nhân loại. Không phải nói bằng Lời uy quyền như
ta thường nghe trong Cựu Ước: “Chúa phán”, nhưng bằng lời thông thường của con
người dùng để nói với nhau. Không phải bằng Lời từ trời cao vọng xuống cõi
trần, nhưng là Lời “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14).
Từ đây, Thiên Chúa nói với ta bằng toàn bộ ngôn ngữ loài người, từ tiếng nói
bập bẹ của trẻ thơ tới lời lẽ của người lớn, từ những cử chỉ nhỏ nhặt cho tới tất
cả lối sống, để cho con người thấy thế nào là kiếp người, thế nào là một người
con Thiên Chúa. Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Lời đã trở thành những bài
giảng đơn sơ dễ hiểu, nhưng chứa đựng những chân lý ngàn đời, bày tỏ những mầu
nhiệm của Thiên Chúa. Nhưng đặc biệt nhất, ngôn ngữ của Chúa Giêsu là ngôn ngữ
của yêu thương, diễn tả không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng những nghĩa cử đầy
tình yêu, yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân đến chết trên thập giá. Đó là tột đỉnh
của ngôn ngữ Thiên Chúa muốn nói với nhân loại: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một.
2) “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”
Cả một đời Chúa Giêsu là để nói lên sự thật toàn vẹn rằng Thiên
Chúa yêu thương nhân loại. Nhưng bây giờ vào lúc Người đang đàm đạo với môn đệ
trước khi chịu cuộc Thương Khó, sự thật toàn vẹn vẫn chưa được tỏ lộ. Nó chỉ
được tỏ lộ đầy đủ khi Chúa Giêsu chết trên thập giá để minh chứng Thiên Chúa
yêu thương nhân loại đến mức độ nào.
Tất cả những giáo lý và mặc khải Thiên Chúa muốn dạy con người đã
được trình bày qua lời giảng và lối sống của Chúa Giêsu. Nhưng Chúa lại nói
Người còn nhiều điều phải nói với môn đệ, vậy “nhiều điều” ấy là gì? Là tất cả
những gì sẽ xảy ra trong cuộc Thương Khó, cái chết, sự sống lại và vinh hiển
của Người. Tóm lại là ý nghĩa của mầu nhiệm Kitô, một mầu nhiệm cần phải được
thấm nhập vào ta, biến đổi ta thành “dưỡng tử” của Thiên Chúa và “đồng thừa tự”
với Đức Kitô.
Mầu nhiệm Đức Kitô không chỉ là một mầu nhiệm đem ra học hỏi như
một môn học thuần lý, nhưng là một mầu nhiệm thực hành để suy niệm, chiêm
ngưỡng và sống, như thánh Phao-lô đã nêu gương. “Với tôi, sống là Đức Kitô”,
hoặc “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Mầu
nhiệm Kitô là lời Thiên Chúa muốn nói với nhân loại và nhân loại có bổn phận
phải lắng nghe và đón nhận, giống như “hạt giống rơi nhằm đất tốt nên sinh hoa
kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13:8).
3) “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật
toàn vẹn”
Chúa Cha nói với ta. Chúa Con là tất cả những điều Chúa Cha nói với
ta. Nhưng làm sao ta hiểu được những điều Chúa Cha nói, đó là vai trò của Chúa
Thánh Thần.
Chúa Cha phán dạy ba môn đệ trên núi Ta-bô-rê: “Đây là Con Ta yêu
dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Hãy vâng nghe lời Người nghĩa là nghe
Người dạy dỗ, nhưng nhất là biết nhìn nhận ra sứ mệnh cứu thế của Người và tin
vào Người. Chúa Cha cũng đã nhắc nhở điều này: “Để ai tin vào Con của Người thì
khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3;16). Các môn đệ đã đi theo Chúa
Giêsu một thời gian khá dài. Vậy mà các ông vẫn không nhận rõ thân thế, sự
nghiệp và sứ mệnh của Người. Các ông phải đợi tới khi Chúa Thánh Thần hiện
xuống, “xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai
nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2:3-4), dần dần các ông mới thấu hiểu
được “nhiều điều khác” Chúa Giêsu chưa thể nói vì các ông “không có sức chịu
nổi” (Ga 16:12).
Vai trò của Chúa Thánh Thần là giúp ta hiểu Lời của Thiên Chúa, tức
là tất cả những điều Kinh Thánh đã được ứng nghiệm nơi con người Đức Kitô. Chúa
Thánh Thần không chỉ hoạt động khi linh hứng cho các tác giả viết xuống lời
Chúa, nhưng vẫn tiếp tục hoạt động nơi ta khi ta đọc và suy niệm lời Chúa. Tuy
nhiên, hiểu lời Chúa không chỉ bằng trí óc, mà phải hiểu bằng đời sống của ta.
“Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ
chỉ cho anh em biết người ấy ví được như một người khi xây nhà đặt nền móng
trên đá” (Lc 6:47-48). Lời Chúa nếu không được Chúa Thánh Thần tác động thì
cũng chỉ trơ trơ ra đó, không ích lợi gì cho ta. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần chỉ
đưa ta “tới sự thật toàn vẹn” khi ta cộng tác với sự hướng dẫn của Người. Tiếp
nhận trong thái độ mở lòng là công việc của ta, còn làm cho Lời sinh hoa kết
quả là công việc của Chúa Thánh Thần.
Chỉ bảo dạy dỗ ta là công việc linh hoạt của Ba Ngôi Thiên Chúa,
mục đích giúp ta được dần dần biến đổi thành tạo vật mới để “được sống muôn
đời”. Chúa Cha nói với ta mọi giây mọi phút trong cuộc đời, Chúa Con hiện diện
với ta “mọi ngày cho đến tận thế” và Chúa Thánh Thần đang trên đường dẫn ta
“tới sự thật toàn vẹn”. Một cách đặc biệt, Thiên Chúa Ba Ngôi đang sống trong
ta, nhưng liệu ta có “sống” mầu nhiệm Ba Ngôi hay không thì lại là vấn đề khác.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Vậy tôi đã tránh né không nghĩ
đến vì không thể hiểu, hay vì tôi không nhận ra khía cạnh thực hành?
Tôi có xác tín mình cần “nghe” được tất cả những gì Thiên Chúa muốn
“nói” với tôi qua Chúa Kitô và “hiểu/sống” những điều ấy nhờ Chúa Thánh Thần
không? Toi sẽ làm gì để nghe và thực hành lời Chúa?
Cầu nguyện
“Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin giúp con quên mình hoàn toàn
để ở lại trong Chúa,
lặng lẽ và an bình
như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
lạy Đấng thường hằng bất biến,
mong sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con, hay làm cho
con ra khỏi Chúa;
nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin biến hồn con thành chốn trời cao,
thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi
con không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với thái độ nhạy bén trong đức tin,
cung kính tôn thờ
và phó mình cho Chúa sáng tạo.”
- Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 31)
34. Sống đời
sống Thiên Chúa
Năm 1961, sau khi người Cộng sản Liên Xô phóng được lên không gian
phi thuyền đầu tiên có người điều khiển và trở về trái đất thì có người đã
tuyên bố: Chúng tôi đã lục lọi khắp cùng thượng tầng không gian mà chúng tôi
không gặp một ông già nào có tên là Đức Chúa Trời cả.
Người ta phủ nhận Thiên Chúa. Nhưng việc người ta phủ nhận Thiên
Chúa không làm chứng vì thế mà Thiên Chúa không có. Cũng như người ta có phủ
nhận mặt trời thì mặt trời vẫn là mặt trời, vẫn chói lọi trên đầu chúng ta.
Hôm nay, trong bài đọc I, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng cách
đây ba ngàn năm, có một dân Israel, đã khẳng định có Thiên Chúa, “chúng tôi đã
gặp Người”. Người đã tuyển chọn dân ấy, đã đưa ra khỏi Ai Cập, làm bao nhiêu sự
lạ và hôm nay, giữa chớp lòe sấm vang đã ban Mười Điều Răn, khiến cho toàn dân
phải kêu lên: “Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, không có Chúa nào
khác”.
Thiên Chúa là một! Nhưng Chúa Giêsu xuống thế, Người hé mở cho
chúng ta một mầu nhiệm: Thiên Chúa là một nhưng có Ba Ngôi. Ngài mặc khải cho
chúng ta chính đời sống thần linh của Thiên Chúa. Người nói cho chúng ta biết
rằng Thiên Chúa là Cha. Người và Chúa Thánh Thần là mối giây tình yêu liên kết
Người với Cha và liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Vậy những gì chúng ta biết
về Thiên Chúa Ba Ngôi là do chính kinh nghiệm và lời giảng của Chúa Giêsu.
Người cầu nguyện cùng Chúa Cha, Người nói lời của Chúa Cha cũng như Người hứa
ban Thánh Thần. Người hành động với sức mạnh Thánh Thần, rồi Người dạy ai muốn
theo Người phải được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phải sống mầu
nhiệm Ba Ngôi vì chính đó là sự sống của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy chúng ta mừng hôm nay. Vì là mầu nhiệm, trí khôn chúng
ta không thể hiểu thấu được. Hình như khi tạo dựng người ta “giống hình ảnh
Chúa”, Thiên Chúa đã tạo nên chung quanh chúng ta và trong chúng ta những hình
ảnh Chúa là một mà có Ba Ngôi. Ví dụ, con người ta có một nhưng trải qua ba
giai đoạn: trẻ, trung niên và già -ba giai đoạn nhưng một cuộc đời. Linh hồn có
các cơ năng: trí nhớ, trí hiểu và trí lý luận –ba cơ năng của một linh hồn.
Nước là một, nhưng có ba hình thức: mây vi vu trên trời, khối đá đông đặc, nước
chảy dưới cầu, đều là nước dưới ba hình thức. Biểu hiệu trên quốc kỳ nước Công
giáo Ái Nhĩ Lan là một chiếc lá với ba khía cạnh ám chỉ Thiên Chúa là một nhưng
có Ba Ngôi.
Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi, vì chính đó là
đời sống căn bản thần linh. Chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, tâm
hồn ta trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi và Chúa mời gọi ta sống đời sống của Chúa
Ba Ngôi.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật tiếp theo lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phụng vụ Giáo
hội mời gọi chúng ta long trọng cử hành và tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi Rất
Thánh. Giáo hội giúp chúng ta nhận biết và tôn thờ Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi
tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và uy quyền bằng nhau. Chúa Cha là Thiên
Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh
Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự đời đời như một Nguyên lý duy nhất,
Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần hòa
quyện vào nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động
trên thế giới. Đây là Một trong những mầu nhiệm cao cả nhất của đức tin chúng
ta. Quả thật, Giáo hội muốn rằng, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chúng ta
phải đi loan báo Thiên Chúa thật cho mọi người, không kể là Do thái hay dân
ngoại, cho họ biết Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Ba Ngôi hiệp nhất
trong Tình Yêu và ca lên: “Chúc tụng Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần, vì Người hằng thương xót chúng ta”. (Ca nhập lễ)
Một trong những mầu nhiệm người tín hữu phải tin cho được rỗi linh
hồn là mầu nhiệm Một Đức Chúa Trời có Ba Ngôi. Nhưng làm sao chúng ta có thể mô
tả đủ hay hiểu biết về Thiên Chúa Ba Ngôi này. Ai có thể giúp ta thấy được
khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Tự
sức trí khôn con người là không thể. Phải nại đến Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập
thể, qua Ngài mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Ngài mà chúng ta biết có
một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.
Thánh Augustinô viết: Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người
không thể nào thấu hiểu được.
Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại, sâu thẳm, chúng
ta không thể nào diễn tả được. Trí tuệ và miệng lưỡi con người không tài nào
giải thích được những mối tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần; tuy nhiên các giáo phụ đã tìm cách diễn tả nội dung chính yếu đức tin của
người kitô hữu chúng ta, một trong những cách đó là Dấu Thánh Giá: Nhân danh
Cha và Con và Thánh Thần.
Thường ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần, khởi đầu
ngày mới cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành,
trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ
nguy hiểm ...Dấu Thánh Giá bao trùm toàn thân ta, thể xác và linh hồn; tất cả
con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi. Vì thế, Dấu Thánh Giá
gói ghém lời tuyên xưng đức tin và nền tảng cầu nguyện của chúng ta.
Dấu Thánh Giá là dấu kẻ có Đạo.
Đức Giêsu đến trần gian nhằm cứu chuộc chúng ta, Người đã chết trên
Thánh Giá để trao ban sự sống cho chúng ta. Chính nhờ hy tế của Người trên
Thánh Giá mà chúng ta là những người “kitô hữu”, nghĩa là thuộc về Đức Kitô.
Dấu Thánh Giá là dấu chỉ người kitô hữu. Chính nhờ dấu này mà chúng ta tuyên
xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đã đến thế gian để cứu
chuộc chúng ta.
Trong năm Phụng vụ, có hai thời khắc giúp người kitô hữu ý thức về
giá trị của Dấu Thánh Giá.
- Mùa Phục Sinh chỉ cho chúng ta rằng chúng ta được cứu chuộc nhờ
cây Thánh Giá.
- Chúa nhật lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba
Ngôi khi làm Dấu Thánh Giá trên mình.
Dấu Thánh Giá là dấu của người chịu phép Rửa tội, người thuộc về
Chúa. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được “vẽ” và “ghi” dấu Thánh Giá. Dấu này
bề ngoài không thể thấy được, nhưng in trong tâm hồn người kitô hữu. Đồng thời
cũng là hành động Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Hành động Đức Tin
Dấu Thánh Giá là tóm lược Ba Mầu Nhiệm Cả trong Đạo Công giáo.
1 – Chúng ta vẽ Dấu Thánh Giá trên mình, vì Chúa Giêsu đã mặc lấy
thân xác người phàm đến để cứu chuộc ta. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể.
2 – Dấu Thánh Giá nhặc lại rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết
trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta: Đây là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Thánh Giá là
chiến thắng của Đức Giêsu trên sự dữ và ma quỉ. Chúng ta trở nên con cái Thiên
Chúa nhờ hy tế của Chúa Giêsu trên Thánh.
3 – Dấu mà chúng ta vẽ trên mình kèm theo lời đọc: “ Nhân danh Cha,
và Con và Thánh Thần “. Chúng ta khẳng định mầu định Thiên Chúa Ba Ngôi.
Hiểu như thế sẽ giúp chúng ta làm dấu Thánh giá nghiêm túc hơn.
Hành động của Đức Cậy.
Niềm hy vọng của chúng ta, chính là về Trời. Như các thánh, đã ái
mộ những sự trên Trời. Chính vì Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu độ chúng ta
nên chúng ta có thể về Trời. Khi vẽ trên mình Dấu Thánh Giá, chúng ta nhớ đến
cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chúng ta, Ngài đã mở cửa Trời cho
chúng ta.
Vậy, chúng ta khẳng định với nhau rằng, cuộc sống lữ hành của chúng
ta là đi về Trời nơi chúng ta hy vọng sẽ tới sau khi hoàn tất cuộc đời dương
thế.
Hành động Đức Mến.
Thánh Giá gốm hai thanh gỗ ngang và dọc. Thanh dọc trình bầy tình
yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thanh ngang diễn tả tình yêu của chúng ta
đối với “tha nhân“.
Cần phải ghi nhận rằng khi được đưa lên khỏi đất, thanh dọc của cây
Thánh Giá đỡ lấy thanh ngang: điều đó ngụ ý rằng tình yêu của chúng ta đối với
tha nhân được “nâng đỡ” bởi tình yêu Thiên Chúa.
Nếu thanh dọc của cây Thánh Giá thiếu (tình yêu Thiên Chúa), thanh
ngang bị bỏ nằm trên đất, không thể đưa lên khỏi đất. Chúng ta muốn nói rằng
trong hành động của đức Ái: “yêu tha nhân là yêu chính Chúa“.
Nhưng nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, (yêu tha nhân), hỏi
rằng có còn là cây Thánh Giá nữa hay không?
Hai điều cần thiết là: “mến Chúa và yêu người”. Mỗi ngày chúng ta
làm dấu trên mình nhiều lần: "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".
Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc
đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.
Amen.
36. Thần Khí Sự Thật
– Lm. FX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
“Sách về Giờ của Đức Giêsu” của TM Ga kéo dài từ ch. 13 đến ch. 20.
“Diễn từ cáo biệt” (ch. 13–17) là phân đoạn đầu tiên của “Sách” này. Chúng ta
có thể xác định bố cục của phân đoạn này như sau:
- Bữa ăn cuối cùng (13,1-30);
- Bài diễn từ (phần 1: 13,31–14,31):
a) Dẫn nhập (13,31-38),
b) Phân đoạn 1 (14,1-14),
c) Phân đoạn 2 (14,15-24),
d) Phân đoạn 3 (14,25-31).
- Bài diễn từ (phần 2: 15,1–16,33):
a) Phân đoạn 1 (15,1-17),
b) Phân đoạn 2 (15,18–16,4a): các môn đệ bị bách hại,
c) Phân đoạn 3:
* Đơn vị 1 (16,4b-15): Đấng Bảo Trợ [cc. 5-7; 8-11; 12-15],
* Đơn vị 2 (16,16-33).
- Bài diễn từ (phần 3: 17,1-26):
a) Phân đoạn 1 (17,1-8),
b) Phân đoạn 2 (17,9-19),
c) Phân đoạn 3 (17,20-26).
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay nằm trong phần hai, phân đoạn 2 và
đơn vị 1 của Diễn từ cáo biệt.
2.- Bố cục
Bản văn Ga 16,12-15 có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp (16,12);
2) Vai trò của Thần Khí (16,13-14);
3) Tương quan giữa Thần Khí với Chúa Cha và với Đức Giêsu (16,15).
3.- Vài điểm chú giải
- không có sức chịu nổi (12): Dùng động từ Hy Lạp
bastazein ở đây cũng lạ. Động từ này thường được sử dụng trong khung cảnh cuộc
Thương Khó (19,17; x. Lc 11,46; 14,27; Gl 6,2.5). Bởi vì ý tưởng căn bản là các
môn đệ không thể hiểu, mà bastazein lại có nghĩa là “nâng lên, mang, vác, chịu
đựng”. Do đó, rất có thể câu nói muốn nói là nhờ Thánh Thần, các môn đệ hiểu
biết mạc khải, nhưng cũng tham dự vào cái chết và cuộc tôn vinh của Đức Giêsu
(x. 13,7.33).
- Thần Khí sự thật (13): Danh hiệu này đã
xuất hiện trong đoạn văn đầu tiên nói về Đấng Bảo Trợ (14,17). Dịch sát là
“Thần Khí của sự thật” (“sự thật”, alêtheia ở thuộc-cách). Trong tư tưởng Ga,
thuộc-cách này chỉ đối tượng: Thần Khí truyền đạt sự thật, cho dù cũng có thể
hiểu là một thuộc-cách đồng-chức-ngữ (apposition) (x. 1 Ga 5,6 [7]: “Thần Khí
là sự thật”). Ở đây, câu văn không mô tả yếu tính hay hữu thể của Thần Khí.
- Người sẽ loan báo (13): Động từ
anangellein, “loan báo, khai mở, tuyên bố”, xuất hiện ba lần trong các chương
13–15. Ý nghĩa chung của động từ này là “nói lại những gì đã được nói rồi”
(ngoại trừ Ga 4,25), bởi vì tiếp đâu ngữ ana- có giá trị như tiếp đầu ngữ re-
trong tiếng Anh (re-announce, re-proclaim). Bản LXX, đặc biệt sách Isaia, cũng
dùng động từ này theo nghĩa ấy (x. Is 42,9; 44,7; 45,19; 46,10).
- tới sự thật toàn vẹn (13): Trong câu văn
hodêgêsei hymas en tê alêtheia pasê, en + tặng-cách cho hiểu rằng đây không
phải là đạt tới một chân lý mới, một chân lý vượt quá chân lý thuộc mạc khải
của Đức Kitô. Trái lại, đây là nghĩa trọn của chân lý cũng là bản thân Đấng mạc
khải.
- những điều sẽ xảy đến (13): Phải chăng sẽ có
một mạc khải mới? Thật ra, dựa vào ý nghĩa của anangellein và chiều hướng cánh
chung học đã thể hiện của TM IV, có thể nói rằng “loan báo những điều sẽ xảy
đến” có nghĩa là giải thích cho mỗi thế hệ thấy những gì Đức Giêsu đã nói và đã
làm có một ý nghĩa cho họ hôm nay.
- Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy (15): Trong thần học về
Chúa Ba Ngôi, câu này đã được dùng để chứng minh rằng Chúa Con có cùng một bản
tính với Chúa Cha; nhưng ở đây tác giả Ga đang nghĩ đến mạc khải được thông ban
cho loài người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Chương 16 (cũng như ch. 14 là bản văn đầu tiên nói đến Đấng Bảo
Trợ) nói đến vai trò của Đấng Bảo Trợ như là thầy dạy các môn đệ.
* Câu chuyển tiếp (12)
Câu 12 chuyển sang vai trò của Đấng Bảo Trợ là giảng dạy. Đức Giêsu
muốn nói gì khi tuyên bố là Người còn nhiều điều phải nói, nhưng vào lúc này,
các môn đệ không có sức chịu nổi? Phải chăng Người có ý nói là sẽ có những mạc
khải mới sau khi Người chết? Tuy nhiên, Ga 15,15 dường như loại trừ những mạc
khải mới: “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em
biết”. Câu 12 cũng theo một chiều hướng như vậy: chỉ sau khi Đức Giêsu sống
lại, các môn đệ mới hiểu được trọn vẹn những gì đã xảy ra và đã được nói trong
thời gian Đức Giêsu hoạt động (x. Ga 2,22; 12,16; 13,7). Lời hứa ban cho các
môn đệ hiểu sâu hơn có thể được diễn tả bằng câu “Thầy còn nhiều điều phải nói
với anh em”, bởi vì Đức Giêsu sẽ tác động trong và qua Đấng Bảo Trợ mà thông
ban sự hiểu biết này. Khó mà có thể khẳng định rằng trong TM IV, có ý tưởng về
một sự mạc khải khác nữa sau hoạt đông của Đức Giêsu, bởi vì Người chính là sự
mạc khải của Chúa Cha, là Lời của Thiên Chúa (1,1.14.18).
* Vai trò của Thần Khí (13-14)
Ở đây chúng ta được giới thiệu Đấng Bảo Trợ như là vị hướng dẫn các
môn đệ đến sự thật toàn vẹn. Trong Cựu Ước, đã có những ý tưởng như thế về Thần
Khí (x. Tv 25,4-5 [sự thật]; 143,10 [thần khí]; Is 63,14). Đôi khi người ta nêu
vấn nạn là: các bản văn Cựu Ước đó chỉ liên hệ đến việc hướng dẫn luân lý, chứ
không liên hệ đến việc hiểu biết mạc khải sâu xa hơn; và như thế dung mạo Đấng
Bảo Trợ do Ga phác ra hoàn toàn khác: như vậy, “thần khí”, “đường lối”, “chân
lý” trong TM Ga có ý nghĩa hoàn toàn khác. Thật ra đó là bối cảnh Cựu Ước và
tác giả TM IV đã đi từ bối cảnh đó để viết; nhưng chắc chắn Đấng Bảo Trợ hướng
dẫn trên con đường chân lý không chỉ có nghĩa là đưa đến một hiểu biết sâu sắc
hơn bằng lý trí những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng còn hàm ý là đưa đến một cách
sống phù hợp với giáo huấn của Đức Giêsu. Và như vậy, tư tưởng Ga không xa tư
tưởng Cựu Ước như ta tưởng. Ta cũng có thể nghĩ đến vai trò hướng dẫn của Đức
Khôn Ngoan (x. Kn 9,11; 10,10); cũng như gương mặt của Đức Giêsu theo Ga được
phác ra phỏng theo Đức Khôn Ngoan thần linh được nhân cách hóa, thì dung mạo
của Đấng Bảo Trợ cũng được phác ra tương tự.
Đấng Bảo Trợ sẽ hướng dẫn các môn đệ tới sự thật toàn vẹn. Ở Ga
8,31-32, Đức Giêsu đã hứa: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông
thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật”. Điều này được nên trọn trong và
qua Đấng Bảo Trợ. Dẫn dắt tới sự thật toàn vẹn là dẫn đưa vào mầu nhiệm của Đức
Giêsu là Sự Thật (14,6). Chi tiết xác định “sự thật toàn vẹn” (x. 14,26) và
điểm nhấn rằng Đấng Bảo Trợ sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng chỉ nói những
gì Người nghe, dường như cũng xác nhận rằng không có mạc khải mới. Đấng Bảo Trợ
sẽ giúp cho mỗi thế hệ hiểu sâu sắc những gì Đức Giêsu muốn cho chính thời đại
họ.
Câu 14 càng củng cố ấn tượng là Đấng Bảo Trợ không mang đến một mạc
khải mới, bởi vì Người nhận từ Đức Giêsu những gì Người phải loan báo cho các
môn đệ. Tuy nhiên, “dẫn tới sự thật toàn vẹn” không phải là việc duy nhất trong
công tác “làm nhớ lại” (14,26). Bởi vì Thánh Thần cũng là “Đấng tạo hóa”, việc
nhớ lại Người làm ra cũng đi đôi vối việc loan báo “những điều sẽ xảy đến
(erchomena)”: việc nhớ lại không làm cho các môn đệ quay lưng lại với tương
lai, nhưng giúp họ nắm lấy và giải thích tương lai.
Như Đức Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha (17,4) bằng cách mạc khải Chúa
Cha cho loài người, nay Đấng Bảo Trợ “tôn vinh” Đức Giêsu bằng cách mạc khải
Người cho loài người. Vinh quang hàm ý có sự tỏ hiện ra hữu hình: Đấng Bảo Trợ
sẽ làm chứng và biến người ta thành chứng nhân (15,26-27) cho Đức Giêsu Phục
Sinh; như thế Người sẽ giới thiệu công khai Đức Giêsu Phục Sinh đang chia sẻ
vinh quang của Chúa Cha (17,5). Và đây cũng là một yếu tố thuộc cánh chung học
đã thể hiện: Đối với các TMNL, Con Người sẽ đến trong vinh quang vào Ngày Cuối
Cùng (Mc 13,26), còn đối với TM IV, đã có vinh quang rồi do Đức Giêsu hiện diện
trong và qua Đấng Bảo Trợ.
* Tương quan giữa Thần Khí với Chúa Cha và với Đức Giêsu (15)
Câu 15 gián tiếp nhắc đến tương quan của Đấng Bảo Trợ với Chúa Cha
và với Chúa Con. Ở chương 16 này, ta thấy Đức Giêsu là Đấng sai phái Đấng Bảo
Trợ (16,7); nhưng ở 14,16.26, Chúa Cha lại là Đấng sai phái. Nhưng c. 15 cho
thấy rằng khi viết ch. 16, tác giả cũng biết rằng cuối cùng Đấng Bảo Trợ, cũng
như Đức Giêsu, là sứ giả của Chúa Cha. Khi loan báo hoặc giải thích những gì
thuộc về Đức Giêsu, Đấng Bảo Trợ thực sự giới thiệu Chúa Cha cho loài người;
bởi vì Chúa Cha và Đức Giêsu có mọi sự chung với nhau. Sau này các nhà thần học
Đông phương và Tây phương sẽ tranh cãi trong Thần học về Ba Ngôi xem Thánh Thần
nhiệm xuất từ một mình Chúa Cha hay là từ Chúa Cha và Chúa Con. Còn trong tư
tưởng Ga, không thể hiểu được chuyện Đấng Bảo Trợ có điều gì nhận lấy từ Đức
Giêsu mà lại không nhận lấy từ Chúa Cha, nhưng tất cả những gì Người có để cho
loài người, đều nhận lấy từ Chúa Cha và từ Đức Giêsu.
+ Kết luận
Vai trò của Thánh Thần được khẳng định rõ ràng: Người đưa các thế
hệ môn đệ vào trong sự thật toàn vẹn, tức là hiểu biết sâu sắc mầu nhiệm Đức
Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể. Như Đức Kitô luôn quy chiếu về Chúa Cha, Đấng đã
sai phái Người (x. 7,17-18; 12,49; 14,10), Thánh Thần cũng quy chiếu về Chúa
Con. Người sẽ là vị “gia sư” nhắc lại cho các môn đệ tất cả mạc khải của Đức Giêsu và giúp đào
sâu qua các thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua bản văn này, chúng ta thấy Đức Giêsu nói về Chúa Cha và
Thánh Thần như là những nhân vật riêng biệt, khác với chính bản thân Người.
Người giới thiệu Chúa Cha như là nguồn mạch thông ban mọi sự: Chúa Cha sai phái
Chúa Con và Thánh Thần; Chúa Con luôn quy chiếu về Chúa Cha để nhận Lời mà
truyền đạt cho các môn đệ, cũng như để lấy các quyết định. Chúa Con công chính
hóa loài người, ban cho họ sự bình an của Người và ký thác cho họ quyền lực
giao hòa. Người nói về Thánh Thần như là một nhân vật mà người ta đang chờ đợi,
sẽ đến để hoàn tất một sứ mạng riêng, đó là đưa các môn đệ đến chỗ hiểu kỹ càng
hơn trọn vẹn mạc khải Người đã ban. Đàng khác, Người cũng cho thấy là Chúa Cha
và Thánh Thần kết hợp mật thiết với Người, đến nỗi Đấng này không làm gì mà không
có Đấng kia. Sự tách biệt nói lên tính tự lập, sự kết hợp nói lên sự hiệp thông
trọn vẹn. Đây là mẫu mực cho đời sống của mọi tập thể trong Họi Thánh.
2. Mặc dù Đức Giêsu đã truyền đạt cho các môn đệ tất cả các bí mật
của Người (Ga 15,15), các ông vẫn chưa hiểu được. Các ông cần một phương pháp
thích ứng mà Thánh Thần, với khoa sư phạm riêng, sẽ cung cấp cho. Thánh Thần
không phải là một vị thầy giảng dạy, nhưng là một vị “gia sư” giải thích cặn kẽ giáo
huấn của vị thầy. Như vậy, Thánh Thần không có giáo thuyết riêng; Người chỉ
nhắc lại mạc khải về Chúa Cha nơi Chúa Con và giúp các môn đệ hiểu (14,26).
Thánh Thần cũng giúp các thế hệ môn đệ hiểu được mạc khải của Đức Kitô và chọn
được các xử sự tương ứng. Đưa lại một ý nghĩa Kitô giáo cho lịch sử, giúp người
ta khám phá ra trong mọi sự có dấu vết của chương trình Thiên Chúa, đó là sứ
mạng của Thánh Thần nơi các môn đệ, và đó cũng là sứ mạng chứng nhân của họ.
3. Từ ngữ “sự thật” trong truyền thống Kinh Thánh hàm ý “sự vững
vàng”, “sự bền bỉ”, “thực tại chắc chắn”. Sự thật của Thiên Chúa được tỏ bày
nơi Đức Kitô (Ga 1,9). Vậy điểm tựa vững chắc của người tín hữu là Đức Giêsu
Kitô (Ga 1,12). Thánh Thần sẽ giúp các tín hữu xác tín về vai trò này của Đức
Giêsu và luôn liên kết với Người.
4. Ba Ngôi là “thẻ căn cước” của người Kitô hữu. Người môn đệ của
Đức Giêsu phải phản ánh dung mạo của Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần.
Người ta thấy được dấu ấn Ba Ngôi nơi cộng đoàn khi mọi người được chấp nhận và
đón tiếp, khi niềm vui và nỗi buồn được chia sẻ, khi sự đa dạng không xóa mất
sự hợp nhất, nhưng làm cho mọi người nên phong phú. Chúng ta thấy được dấu ấn
của Ba Ngôi tại bất cứ nơi nào người ta tìm kiếm vinh quang chân thực: không
phải là thứ vinh quang do cạnh tranh và thống trị, nhưng do khiêm nhường phục
vụ những ai cần được yêu thương.
5. Hôm nay, chúng ta không cử hành một Tín điều của Giáo Hội, nhưng
cử hành một mầu nhiệm sâu thẳm là chính Thiên Chúa, Đấng đã chọn cắm lều giữa
chúng ta, “là người thật và cũng là Thiên Chúa thật”, đã không để chúng ta mồ
côi, nhưng cho chúng ta được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa nhờ ân sủng của
Thánh Thần. Chính Thánh Thần không ngừng nối kết ta với Thiên Chúa và với tha
nhân trong tình yêu. Chính niềm tin về mối tương quan này sẽ mở mắt và giúp ta
ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa, như một nhà thần bí nói rằng: “Gần kề
với chúng ta hơn cả chính chúng ta”. Giáo lý về Chúa Ba Ngôi nói đến chính tình
yêu Thiên Chúa không ngừng đổ tràn trên thế giới này. Đây không phải là ngày để
các vị giảng thuyết tìm kiếm những “giải thích hay ví dụ” về Ba Ngôi. Hôm nay
không phải để nói về từ ngữ hay cấu trúc, nhưng là cử hành sự hiện diện sống
động của Thiên Chúa, Đấng đang cư ngụ giữa chúng ta. Hôm nay, chúng ta ca tụng.
Nếu muốn biết thêm về những mâu thuẫn liên quan đến Ba Ngôi vào thời đầu của
Giáo Hội và giáo lý này tiến triển ra sao, thì ngày mai chúng ta có thể tìm
trong sách vở (Siciliano).
37. Chú giải của
Noel Quesson
Kinh Thánh không công bố lần nào từ trừu tượng, “Chúa Ba Ngôi” cả.
Kinh Thánh cũng không bao giờ định nghĩa như ngôn ngữ duy lý Hi Lạp sẽ làm, là
có “Ba Ngôi vị trong Thiên Chúa duy nhất. Mầu nhiệm cố yếu nhất trong Thiên
Chúa không được mạc khải bằng những công thức nhưng nhờ các sự kiện Cựu ước chỉ
nói về Thiên Chúa Người Cha" (Đnl 32,6 - Tv 67, 6 - Is 63, 16 Gr 2, 4.1).
Và các “con cái” của Thiên Chúa là dân tộc Israel (Xh 4,22 -Hs 11,1), hay hiện
thân là ông Vua (2 Sm 7,14 - Tv 110,3) hơn những người công chính (Kn 2, 18 -
5,5 - 18, 13). Sau cùng, ta nhận thấy Thần Khí của Thiên Chúa xâm nhập một số
người (St 41, 38 - Ti 6, 34 -Is 11,2 - Ed 39, 29 - Ge 3, 1).
Đúng vậy Cựu ước đã không mạc khải cách minh nhiên Ba Ngôi trong
Thiên Chúa. Nhưng ngay các tác giả Tân ước cũng lập lại thứ ngôn ngữ Kinh Thánh
trên, để diễn tả tính hoàn toàn mới lạ của “hiện tượng Giêsu": Ngài trực
diện với Chúa Cha, và loan báo việc thông ban Thần Khí. Khi cắt nghĩa những sự
kiện đó, Kitô giáo còn phải dò dẫm suy tư rất lâu, trước khi xác định một kiểu
diễn tả đức tin đầu tiên nhớ những quan niệm triết học HiLạp, từ Công đồng
Ni-xê năm 325 đến Công đồng Kan-xê-Đoan năm 451.
Trong trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêau nói về Thánh Thần.
Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không
có sức chịu nổi.
Đó là một kinh nghiệm mà con người chúng ta thường gặp thấy Ngay cả
với những người thân yêu, chúng ta cũng khó mà "thông truyền" hết
những gì mà chúng ta mang trên mình và muốn chia sẻ cho họ. Như vậy, trước khi
chịu chết Đức Giêsu đã không nói hết mọi điều. Nhưng đây không chỉ là khó khăn
ta quen gặp trong vấn đề diễn tả. Đây chính là mầu nhiệm đức tin mà ta chỉ dần
dần bước vào. Ngay cả những bạn hữu thân thiết nhất, đã sống kề cạnh lâu ngày
với Đức Giêsu, cũng không nhận thức được điều gì đã xảy ra, Người là
"Ai". Họ mang quá nhiều ý kiến có sẵn về Thiên Chúa và Đấng Mê-xi-a
đã được hứa ban. Họ cần phải tự lột bỏ, thay đổi ý kiến, và lớn lên trong đức
tin. Chỉ có thập giá và sự Phục sinh của Người, như một thứ va chạm điện mãnh
liệt, mới phá được những xác tín của họ và bó buộc họ phải tiến triển.
Phải, đức tin là một sự "tiến triển". Đó là một sức sống
cần phải phát triển. Trong Thiên Chúa, luôn có những điều mới lạ cần phải khám
phá, cũng như trong sự phát triển của một tương quan yêu thương với một người
nào đó: hôn phu, người chồng, bạn hữu, đồng nghiệp... Biến cố bi đát của tông
đồ, là những người hầu như không: hiểu biết gì về Đức Giêsu trước lúc Người ra
đi, cảnh giác chúng ta không nên biến đức tin thành một Đức tin tĩnh, chỉ đắc
thủ một lần là xong... "Tôi có đức tin rồi..." “Tôi không thể mất đức
tin..."
Cũng như các tông đồ tôi mới chỉ ở bước đầu của một cuộc khám phá,
một cuộc mạo hiểm. Lạy Chúa, đối với con, cũng có nhiều điều con chưa chịu nổi,
Thần Khí của Chúa sẽ mạc khải cho con sau này, nếu con biết chăm chú lắng nghe.
Xin giữ gìn thần trí con luôn thức tỉnh để đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa!
Chớ gì đừng bao giờ con tự mãn, coi mình là hiểu biết tất cả, vênh vang trước
những mảnh vụn Đức tin tầm thường mà con đang sống.
Dĩ nhiên, con cũng nghĩ đến những người con đang chung sống. Họ
cũng gặp một tình trạng như thế: Họ đang bước đi trên cùng "con đường đức
tin" đó. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói, có những chân lý, những thái độ họ
chưa khám phá ra cách sống động... Giờ đây họ chưa có thể "chịu nổi"?
Lạy Chúa, xin ban cho con sự kiên nhẫn của Chúa. Chớ gì con biết tiến bước nhịp
nhàng với Chúa, với những mạc khải yêu thương của Chúa... cùng đồng hành với
anh em con trong bước tiến riêng của họ.
Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn
vẹn.
Tôi ghi nhận từ đẹp trên đây: "dẫn tới" Tôi hình dung ra
một người dẫn đường lên núi cao. Đó là người biết rõ mọi lối đường là người yêu
thích và thưởng ngoạn ngọn núi đó mà anh muốn làm cho người khác càng thích
thú... Là người đi trước và giúp ta tiến lên. Nhưng như bạn biết, người dẫn
đường không thay thế bạn được: chính bạn phải bước theo. Nếu vì quá mệt lả, bạn
từ chối bước cao hơn... Anh ta không thể cưỡng chế tự do của bạn. Anh ta hiện
diện ở đó, là để "hướng dẫn” bạn. Lạy Thần Linh Thiên Chúa, ánh sáng dịu
dàng. Xin hướng dẫn con, để con không từ chối việc lên núi... một bước…. rồi
thêm một bước nữa! để trên bước đường con đi tới, con gặp được những người dẫn
đường tình nghĩa huynh đệ mà Thần Khí Chúa đang tác động.
Bởi vì, đúng vậy, đúng là một cuộc "chạy đua lên núi
cao": Đức tin là cuộc tìm kiếm mầu nhiệm Thiên Chúa! Đó là chóp đỉnh không
ai có thể một mình đạt tới: cần phải có một "người nào đó" dẫn lên.
Cần phải có một ông thầy, một người dẫn đường biết rõ bí mật.
Trong suốt nhiều thế kỷ, các Công đồng cố gắng tìm hiểu những lời
trên đây của Gioan...và kết thúc bằng cách quả quyết rằng, thực sự' Thần Khí là
một "Đấng nào đó "...là một Ngôi vị... là Đấng hiểu biết mầu nhiệm
thâm sâu của Thiên Chúa từ bên trong, để hướng dẫn con người đạt tới đó Trong
bức ảnh diễn tả Chúa Ba Ngôi của Roublev, Thánh Thần là ngôi thứ ba, với khuôn
mặt tuyệt đối giống hai ngôi kia, Chúa Cha và Chúa Con. Nhưng trong tư thế đầu
Ngài hoàn toàn nghiêng về hai Ngôi kia cách âu yếm để hoàn thành chuyển động
của "vòng tròn hoàn hảo" , thì mắt Ngài thực tế lại nhìn về phía trái
đất, hướng đến con người đang cầu nguyện trước ảnh tượng, để "mở ra"
và “thông truyền" cho con người chính sự chuyển động của Thiên Chúa: đó là
Tình Yêu!
Thần Khí sự thật! Sự thật toàn vẹn!
Nhưng coi chừng! khi bàn về Thiên Chúa, sự thật không phải là thái
độ tri thức... cũng như' sự hiểu biết về một con người mà ta muốn yêu thương.
Trước hết, không phải là học biết, quan sát, đo nghiệm, đặt dưới ống kính hiển
vi... nghiên cứu cách khoa học, như thể ta nghiên cứu một "sự vật" ở
đây, thuộc về một lãnh vực khác. Hiểu biết một "Người nào đó" là bước
vào mối tương quan với họ.
Nói rằng mình là "tín hữu không thục hành"... thì đó là
một lời thú nhận quan trọng, nếu người đó ý thức và thực sự đã suy nghĩ kỹ. Một
tình yêu nếu không được "thực hành" thì sẽ là gì? Một tương quan với
một người nào đó, nếu không thể sống động và thể hiện, thì sẽ ra sao? Lạy Thần
Khí sự thật, xin hướng dẫn con tới sự thật "toàn vẹn"!
Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người
nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.
Đó là hình ảnh của tiếng phản dội vào thần trí ta. Giữa Chúa Cha, Đức Giêsu và Thánh
Thần, luôn có sự liên tục hoàn hảo. Đó là cùng một tiếng nói lập lại nhiều lần,
với cách thức khác nhau. Thánh Thần không nói gì khác về Đức Giêsu cả! Sự thật
duy nhất và xác thực về Thiên Chúa, là Đức Giêsu. Mọi sự người ta đã nói trước,
và mọi điều Người ta đã nói sau... về Thiên Chúa, mà không phù hợp với những gì
Đức Giêsu của Thiên Chúa tỏ lộ cho ta, thì đều sai lầm! Đó là một Thiên Chúa
giả! và với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta cần phải điều chỉnh
nhiều ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa. "Nếu Lề Luật đã được Thiên Chúa ban
qua ông Môsê, thì ân sủng và sự thật nhờ Đức Giêsu Kitô mà có" (Ga 1,17)
"Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sáng (Ga 14,6)
Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan
báo cho anh em.
Như chúng ta đây biết, Đức Giêsu là Người con hoàn hảo, hoàn toàn
hướng về Chúa Cha. Đức Giêsu "không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại
trừ điều Người thấy Chúa Cha làm, vì điều gì Chúa Cha làm, thì Người Con cũng
làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu Người Con và cho Người Con thấy mọi điều
mình làm" (Ga 5,19-20). Đó là mầu nhiệm thâm sâu của Chúa Ba Ngôi: Mỗi
Ngôi là sự thấu suốt trọn vẹn của Ngôi khác. Ở đây, Đức Giêsu mạc khải cho
thấy, Thánh Thần bước vào hoạt động thẩm chiếu trọn vẹn đó. Những tương quan
yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không có gì là giấu ẩn, là che đậy đóng kín:
Mỗi Ngôi trong Ba Ngôi không giữ cái gì làm của riêng mình". Mọi sự đều
được chia sẻ, thông ban, hiến tặng... và mọi sự đều được tiếp đón, nhận lãnh!
Những lời nói trần gian của chúng ta đều trở yếu kém, để diễn tả tính chất phi
thường của mối liên quan liên kết Chúa Cha, Chúa Con, và Thánh Thần. Mọi tương
quan nhân loại của ta đều bắt nguồn từ mối tương quan đó! Đỉnh cao không thể
vượt qua được về Thiên Chúa, đó là: mạc khải về Chúa Ba Ngôi.
Nhưng trước hết, Chúa Ba Ngôi không phải là một thứ ẩn ngữ, một thứ
siêu phương trình toán học dành cho những nhà trí thức ưu hạng... Đó chỉ là một
thực tại hoàn toàn giản đơn bị che giấu đối với các bậc khôn ngoan thông thái
nhưng lại được mạc khải cho những người 'bé mọn" (Mt 11,25). Bởi vì, nói
về Thiên Chúa cũng là nói về con người, "được tạo dựng theo hình ảnh và
hòa ảnh của Thiên Chúa". Bé thơ, trẻ mới sinh không biết rằng nó có một
gia đình. Nhưng ngay từ những tuần lễ đầu tiên, mơ hồ nó thấy mình được che chở
trong một tình yêu thương... Nó cảm thấy quanh mình một tình âu yếm, luôn đáp
lại mọi cơn đói khát, mọi tiếng kêu la của nó. Trước hết nó cảm nghiệm tình yêu
đó như "một" cái gì lờ mờ, nhưng hoàn toàn mạnh mẽ và thích thú. Bé
chỉ cần bật tiếng khóc, là "nó" có mặt ở đó...
Với thời gian, cuối cùng thì bé cảm nhận được rằng, sự hiện diện đó
có nhiều dạng không hẳn chỉ là "một" tiếng cao và giọng trầm, khuôn
mặt mịn như nhung và khuôn mặt lởm chớm những rầu, bàn tay mềm mại và bàn tay
sắt thép... Nhiều người đang phải sống cùng một tình thương đó quanh bé, vì
bé..." (Rey-mermet). Bằng cách đó, những người đơn sơ cũng khám phá ra mầu
nhiệm của Gia đình Thiên Chúa: nhờ "thực tập" ngày này qua ngày
khác...cho tới lúc ở trong Gia đình.
Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy , vì thế Thầy đã nói: “Người lấy
những gì của Thầy mà loan báo cho anh em".
Một lời phát biểu gây ngạc nhiên. Trước hết chúng ta hãy để cho lời
đó gây bối rối nơi ta.
Một anh thợ mộc làng Nadarét tầm thường, một con người cũng mang
xương thịt thấp hèn, thế mà trước ngày bị kết án tử hình bởi những nhà cầm
quyền dân sự và tôn giáo của đất nước anh, đã dám cả quyết rằng "mọi sự
Thiên Chúa có đều là của anh".' Và không chỉ một lần trong Tin Mừng, Đức
Giêsu đã gợi lên sự hiệp nhất lạ lùng như thế giữa Người và Thiên Chúa: Đức
Giêsu, chính là Thiên Chúa hữu hình (ta có thể nói được như thế! bởi vì quả
thực Thần Khí của Đức Giêsu, biểu lộ cách vô biên ngoài tầm mắt của ta). Và
Thần Khí, chính là Đức Giêsu - tiếp tục và được lập lại mãi mãi trong tâm hồn
con người. Thần Khí phản chiếu Đức Giêsu. Và Đức Giêsu phản chiếu Đức Chúa Cha
vô hình. Tôi chiêm ngưỡng sự duy nhất và tính khác biệt này... Đó là sự hiệp
thông các ngôi vị "nhiều mà chỉ là một": nguyên mẫu của con người! chương
trình hành động cho mọi xí nghiệp, mọi gia đình, mọi xã hội. Đó là một
"chóp đỉnh" thực sự mà một phần không thể đạt thấu. Chúng ta có để
cho Người "hướng dẫn" ta tới đó không? Lạy Thánh Thần xin hãy
đến!