SUY NIỆM LỜI CHÚA CN 5 THƯỜNG NIÊN C
MỤC LỤC
1. Bất lực
Đang đi bên này sông, tình cờ nhìn thấy một người bạn thân lâu năm
không gặp, đang đứng ở bên kia sông, bấy giờ chúng ta sẽ làm gì? Tôi xin thưa
rằng chúng ta làm mọi việc có thể, nào gọi to, nào vẫy tay, nào kiếm một cái
xuồng để qua sông. Thế nhưng có một điều chúng ta lại không làm đó là nhảy
xuống sông để bơi qua bờ bên kia, vì làm như thế chúng ta sẽ bị cho là điên
khùng.
Tuy nhiên, điều điên khùng này chính thánh Phêrô đã làm. Phúc Âm
kể lại, khi nhìn thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước, thánh Phêrô cũng đã nhảy
xuống nước mà tiến lại với Chúa Giêsu. Có lẽ lúc bấy giờ thánh Phêrô cũng đã
thầm nghĩ: Điều Thầy đã làm thì tại sao tôi lại không làm được. Nhưng rồi ông
bắt đầu nghi ngờ và bị chìm dần xuống mặt nước. Bấy giờ ông bèn van xin Chúa
giúp đỡ. Chính trong cái bối cảnh này mà chúng ta nhận thấy Phêrô cần phải sửa
chữa cái thói tự cao tự đại, quá ỷ vào sức riêng của mình. Ông cần phải ý thức
được những giới hạn của mình, cũng như những khả năng nhỏ bé và những bất lực
của mình để nhờ đó mà khiêm nhường hơn.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã dùng chiến thuật
đó để răn dạy Phêrô. Sau một đêm vất vả chẳng bắt được một con cá nào, thế mà
giữa ban ngày ban mặt Chúa Giêsu lại truyền cho ông phải thả lưới, và rồi sau
đó một mẻ cá lạ lùng đã xảy ra. Sau mẻ cá lạ lùng ấy Phêrô đã thú nhận sự bất
lực của mình: Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.
Với mỗi người chúng ta cũng vậy, Chúa chờ mong chúng ta thú nhận
sự bất lực, sự hạn hẹp của mình, để rồi tin tưởng và phó thác cho Ngài, cũng
như để Ngài sẽ ra tay cứu giúp. Và đó chính là cái nền tảng để xây dựng đức
tin.
Thế nhưng con người thời nay, đã hành động một cách khác hẳn.
Với những thành công của khoa học, với những bước tiến nhảy vọt của kỹ thuật,
người ta muốn lên ngôi bá chủ và không còn lệ thuộc vào Thiên Chúa nữa. Người
ta không còn muốn cầu nguyện vì tưởng rằng sẽ không bao giờ còn cần đến một sự
trợ giúp từ trời cao.
Thế nhưng nếu suy nghĩ cho chín chắn, chúng ta nhận thấy rằng:
Khoa học càng tiến bộ thì lãnh vực của nó càng mở rộng, tưởng chừng như vô tận.
Hơn nữa dù kỹ thuật có tân kỳ thì những sơ hở và trục trặc vẫn có thể xảy ra.
Chỉ sơ hở một chút là sẽ tiêu ma cả một công trình nghiên cứu, như trường hợp
đã xảy ra cho phi thuyền “Schalenger” của Mỹ, đã thiêu sống cả một phi hành
đoàn gồm 6 người.
Đứng trước không gian vô tận, đứng trước thiên nhiên hùng vĩ,
đứng trước những sự trục trặc của kỹ thuật, chúng ta mới nghiệm ra rằng: Tài
năng con người thật nhỏ nhoi và có nhiều lãnh vực dường như con người cũng phải
bó tay chưa khám phá ra nổi. Để rồi trong cố gắng, chúng ta vẫn phải khiêm
nhường, nhờ đó mà chúng ta sẽ nhận được những sự trợ giúp của Thiên Chúa.
2. Được mời gọi để loan báo Tin Mừng
Franco là một kịch sĩ người Italia nổi tiếng. Suốt 40 năm lão
luyện trong nghề, ông đã đặt hàng trăm vở kịch thành phim được chiếu trên màn
ảnh truyền hình nhà nước, từ năm 1980 đến nay ông đã dùng để rao giảng Lời
Chúa. Franco đi khắp các thành phố và xứ đạo Italia, vào các nhà tù hay tham dự
đại hội ca múa dân tộc để trình diễn Phúc Âm. Ông dùng mọi nhân tố kịch nghệ để
đạo diễn Tin Mừng, chẳng hạn 16 chương Phúc Âm thánh Marcô được ông diễn xuất
thành 96 cảnh. Ước mong duy nhất của ông là dùng kịch nghệ để loan báo Lời
Chúa. Trong số bạn bè và người thân, có kẻ chế nhạo ông là người mất trí, nhưng
cũng có nhiều người khuyến khích ông trong sáng kiến mới này, và đã có hàng
trăm ngàn người được nghe loan báo Tin Mừng cứu độ qua hình thức nghệ thuật đó.
Ông tâm sự: "Tôi thật may mắn được tin vào Chúa Giêsu và có Ngài làm bạn
đường trong đời. Không có Chúa Giêsu, cuộc đời thật là nhạt nhẽo vô vị. Và
chính lòng tin đã giúp tôi nảy ra sáng kiến lấy Ngài làm đề tài diễn xuất.
Trong bao nhiêu năm cuộc đời nghệ sĩ, tôi đã chỉ nói và diễn xuất những gì
người khác biết. Nhưng từ 10 năm nay, tôi đã lựa chọn việc thông truyền cho
khán thính giả lịch sử nhất thế giới, đó là Phúc Âm kể lại cuộc đời Chúa Cứu
Thế".
Là Kitô hữu, mỗi người trong chúng ta cũng được mời gọi dùng các
tài năng và cuộc sống của mình để loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa, đó là sứ
điệp Giáo Hội muốn nhắn gởi chúng ta qua các bài đọc Chúa Nhật hôm nay. Ba bài
đọc giới thiệu với chúng ta ba ơn gọi khác nhau. Ơn gọi của tiên tri Isaia,
thánh Phaolô, thánh Phêrô và các bạn đồng nghiệp.
Isaia 6 lồng khung ơn gọi của ông trong lịch sử cứu độ của dân
Do Thái, để khiển trách dân Do Thái sống trong tội lỗi và bất trung với Thiên
Chúa. Ngài can thiệp bằng cách mời gọi Isaia trở thành sứ giả ra đi rao giảng
Lời Ngài, giúp dân Israel hoán cải, dẫn đưa họ về với Chúa. Tiên tri chẳng
những là người thấy trước tương lai nhưng còn là phát ngôn viên của Chúa, là sứ
giả mang sứ điệp của Thiên Chúa xuống cho loài người. Ơn gọi đổi đời của Isaia
xảy ra trong khung cảnh lúc cử hành phụng tự ở đền thờ Giêrusalem, ông được
sống kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa bằng các giác quan của mình. Isaia
trông thấy Thiên Chúa ngự trị trên tòa vinh quang. Tòa cao là hình ảnh diễn tả
xa cách con người ở trần gian hư hỏng tội lỗi này. Isaia còn được nghe tiếng
của các thiên thần hát tung hô Thiên Chúa. "Thánh, Thánh, Thánh". Ba
lần thánh là kiểu cách diễn tả sự vẹn toàn siêu việt và thánh thiện của Ngài.
Trước sự thánh thiện cao cả tuyệt đối của Thiên Chúa, Isaia nhận thức ra thân
phận yếu hèn tội lỗi bất xứng của mình. Xác tín con người tội lỗi không thể xem
thấy Thiên Chúa, nếu trông thấy Người, con người sẽ phải chết. Tuy nhiên, Kinh
Thánh cũng thường diễn tả tội lỗi của con người bằng cách nêu bật sự kiện Thiên
Chúa Abraham cứu độ con người, bởi vì Ngài là Đấng duy nhất có thể biến đổi và
thánh hóa con người. Để hiện thực điều đó, Thiên Chúa chọn lửa dùng thiêu đốt
của lễ trên bàn thờ để thanh tẩy tội lỗi của Isaia, tạo dựng một tâm hồn mới.
Ơn gọi của Isaia đã phát sinh trong khung cảnh của một đền thờ, giữa bầu khí
trật tự trong lúc nguyện cầu thinh lặng trước mặt Chúa. Sự lựa chọn của ông là
kết quả của một sự tự do, tươi vui, hăng hái nhưng là một quyết định liều lĩnh,
bởi vì nó dẫn đưa Isaia vào một cuộc đối thoại đổi đời, một cuộc phiêu lưu mạo
hiểm với những hệ lụy không lường được.
Thánh Luca đoạn 5 kể lại ơn gọi của thánh Phêrô và các bạn chài
đồng nghiệp. Trong tường thuật, thánh sử Luca không cố ý nhấn mạnh đến phép lạ
mẻ lưới nhiều cá cho bằng nêu bật kết quả mà Lời Chúa có thể tác động trong thế
giới và ngay tâm lòng con người. Do đó, mọi nhân tố của bài tường thuật đều
mang một ý nghĩa lệnh lạc. Hồ Giênêsareth mênh mông dài 21 cây số, ngang 12 cây
số, và sâu 45 thước diễn tả thế giới này. Lời Chúa là cái lưới đánh cá, Phêrô
và các bạn chài và tất cả những ai có nhiệm vụ rao truyền Lời Chúa. Một đêm vất
vả mỏi mệt và thái độ chán nản của Phêrô với các bạn chài đồng nghiệp diễn tả
các đặc thái sinh hoạt của Giáo Hội cũng như các động tác các thừa tác viên Lời
Chúa. Mỗi khi Giáo Hội và các thừa tác viên coi mình là trung tâm điểm, là nhân
vật chính trong công tác rao truyền Tin Mừng, mỗi khi Giáo Hội và các thừa tác
viên chỉ cậy dựa trên sức lực của mình, trên các phương diện tài chính, trên
các con số, các nhân lực, làm thế các thừa tác viên Lời Chúa sẽ không được gì.
Trừ khi nào biết có thái độ khiêm tốn, vâng lời, phó thác hoàn toàn nơi sức
mạnh Lời Chúa và để cho Chúa chủ động hướng dẫn mọi sự, thì Giáo Hội và các
thừa tác viên Lời Chúa mới được một mẻ lưới đầy cá.
Đối với tâm lòng của mỗi người, Lời Chúa có sức mạnh biến đổi
toàn cuộc sống đó là điều đã xảy ra cho Phêrô. Phêrô lại chèo thuyền ra khơi
thả lưới. Sự kết quả nghe Lời Chúa, Phêrô và các bạn đồng nghiệp nhận ra mình
là người yếu hèn và tội lỗi. Chúa Giêsu chỉ chờ có thế và kêu mời các ông trở
thành cộng sự viên của Ngài trong công tác loan báo Tin Mừng cứu độ cho toàn
thế giới. Phêrô và các bạn đồng nghiệp đã gặp gỡ Chúa Giêsu ngay trong khung
cảnh cuộc sống thường ngày của họ và các sinh hoạt nghề nghiệp, qua biến cố của
nếp sống thường nhật, Chúa Giêsu kêu gọi họ trong chính khung cảnh và tình
trạng sống vật chất và tinh thần hạn hẹp ấy của cuộc đời họ. Chúng ta tất cả
cũng có thể gặp gỡ Chúa ở khắp mọi nơi và trong mọi lúc của cuộc đời chúng ta.
Và mỗi một cuộc gặp gỡ sâu đậm thật sự với Chúa Giêsu và Lời Ngài có tác dụng
biến đổi tâm lòng của cuộc sống chúng ta để trở thành những nhà truyền giáo.
Vấn đề là chúng ta biết thái độ của thánh Phêrô hay không? "Vâng lời Thầy
con thả lưới".
Thư thứ nhất gởi cho giáo đoàn Côrintô đoạn 15, thánh Phaolô
truyền lại cho giáo hữu Côrintô kinh Tin Kính của cộng đoàn Kitô tiên khởi
tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết để đền bù tội lỗi cho
loài người. Đấng đã bị chôn trong mồ và ngày thứ ba sẽ sống lại như lời Thánh
Kinh. Thánh nhân cũng ghi lại những lần Chúa Kitô Phục sinh hiện ra cho các
tông đồ, cho thánh Giacôbê, thủ lãnh của cộng đoàn Kitô hữu ở Giêrusalem và cho
năm trăm môn đệ của cộng đoàn Kitô hiện thời. Và sau cùng, Chúa Kitô Phục sinh
cũng đã hiện ra với thánh nhân trên đường Đamas, nghĩa là niềm tin vào Chúa Kitô
Phục sinh là một kinh nghiệm sống động chớ không phải là một chuyện trừu tượng
không chứng cớ. Kẻ sinh sau đẻ muộn thánh Phaolô, các biến cố đổi đời và ơn gọi
của ngài là một cuộc tái sinh, bất ngờ gặp gỡ, không thể tưởng tượng được đối
với một người chẳng những đã không tin vào Chúa Kitô mà lại còn bắt bớ thù ghét
Chúa nữa. Trên con đường lòng tin, thánh nhân giống như một bào thai bị phá
hoại và phải chết xa lòng mẹ. Những cuộc gặp gỡ bất ngờ với Chúa Kitô Phục sinh
chẳng những đã trao ban cho thánh nhân cuộc sống mới trong ơn thánh, và còn cho
thánh nhân trở thành tông đồ nhận lãnh từ Chúa Giêsu trong sứ mạng loan báo Tin
Mừng cứu độ của Ngài cho muôn dân nữa. Ơn gọi Kitô là ơn gọi phát sinh từ một
cuộc gặp gỡ đổi đời đối với Chúa Kitô Phục sinh. Những cuộc gặp gỡ ấy Chúa Kitô
Phục sinh trao ban cho chúng ta sứ mạng làm chứng cho Ngài, và loan báo Tin
Mừng cứu độ cho tất cả mọi người. Nhưng chúng ta có sẵn lòng nhận và ra đi như
tiên tri Isaia, như thánh Phaolô, thánh Phêrô và các bạn đồng nghiệp của ngài hay
không?
3. Hãy chèo ra chỗ nước sâu – Lm. Ignatiô
Trần Ngà
Tại sao Chúa Giêsu chọn bốn môn đệ đầu tiên trong hàng ngũ những
người đánh cá? Ngài có dụng ý gì chăng? Phải chăng tiêu chí đầu tiên cần cứu
xét để tuyển chọn tông đồ là phải dạn dày sương gió, phải sẵn sàng xông xáo
giữa biển đời đầy bão tố cuồng phong?
Có lẽ chính vì đã quen chịu nhọc nhằn trên biển cả, nhiều phen
đối đầu với bão táp, thách thức với cuồng phong mà Simon và các bạn chài của
anh đã "lọt vào mắt xanh" của Chúa Giêsu.
Nhưng trước khi kêu gọi Phêrô và các bạn chài của anh dấn bước
vào công cuộc loan báo Tin Mừng đầy gian khổ, Chúa Giêsu muốn dạy cho các anh
bài học vỡ lòng. Ngài truyền cho các anh chèo ra chỗ nước sâu...
Dù mệt mỏi và chán nản vì phải lao nhọc suốt đêm mà chẳng được
tích sự gì, các anh vẫn vâng lời Chúa Giêsu để ra khơi, để chèo ra chỗ nước sâu
mà thả lưới. Nhờ đó, các anh đã trúng một mẻ cá rất tuyệt vời. Qua đó, các anh
học được bài học đầu tiên: Muốn bắt được nhiều 'tôm cá', thì hãy vâng lệnh Chúa
chèo thuyền ra 'chỗ nước sâu'.
Cuộc ra khơi của Chúa Giêsu
Ngự trên ngai trời mà cứu thế, mà phán dạy loài người, hay ít
ra, dùng các tiên tri mà phán dạy, thì 'đỡ khổ' hơn nhiều. Nhưng Ngôi Hai Thiên
Chúa đã không làm như thế.
Ngài đã rời bỏ bờ bến an toàn và đầy đủ tiện nghi, đã bỏ hết mọi
sự lại đằng sau để ra khơi. "Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải
nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ
vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân". (Philíp 2, 6-7)
Ngài phải mạo hiểm đến chỗ nước sâu nhất: sinh ra trong máng cỏ
thấp hèn, đến ngụ nhờ nhà người tội lỗi, hoà mình với những người tội lỗi để
xin nhận phép rửa bên bờ sông Gio-đan, chịu chết đau thương tủi nhục giữa những
tên gian phi, chịu mai táng trong mồ...
Rồi, thay vì yên vị trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem mà giảng dạy
hoặc ít ra ngồi giảng trong các hội đường vào các ngày sa bát như các ráp-bi Do
Thái, Chúa Giêsu đã xông xáo vào khắp hang cùng ngõ hẽm để loan Tin Mừng: trên
triền núi, giữa đồng hoang, bên bờ giếng, bên bãi biển, bờ hồ...
Cuộc ra khơi của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Noi gương Chúa Giêsu, vị đại diện của Ngài là Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã liên tục ra khơi, chèo ra chỗ nước vừa sâu vừa nguy hiểm.
Qua 26 năm trong triều đại giáo hoàng, Ngài đã thực hiện 104 chuyến công du
ngoài nước Ý và 146 chuyến công du trong nước Ý (không tính Rô-ma), thăm viếng
hơn 130 quốc gia trên thế giới. Tưởng cũng cần thêm rằng trong số đó, ngài đã
tám lần đến thăm viếng các nước Hồi Giáo, đặc biệt Ngài là vị Giáo Hoàng đầu
tiên bước vào một ngôi Đền Thờ Hồi Giáo cổ kính tại Syria vào năm 2001.
Tính ra, Ngài đã đi công du 1,400,607 km, tương đương 28 lần
vòng quanh trái đất. Ngoài ra mỗi ngày Ngài làm việc đến 18 tiếng đồng hồ.
Ngài đã 'chèo' đến những vùng biển nhiều sóng gió: đến thăm
những miền đất thù nghịch với Hội Thánh, vào những 'miền đất thánh' của Phật
giáo, Án giáo, Hồi giáo hay Chính Thống giáo... vào cả những nơi mà một số đông
dân chúng sở tại không muốn cho ngài đến, lại đòi ngài phải xin lỗi họ (như
trong chuyến tông du tại Hy Lạp vào tháng 5 năm 2001), đến cả những nơi mà tính
mạng ngài đang bị hăm doạ... Ngài là vị giáo hoàng can đảm nhất trong lịch sử,
sẵn sàng dấn thân vào những 'chỗ nước sâu', những vũng xoáy, những nơi sóng
gió... mà không hề biết sợ là gì, miễn là Tin Mừng được loan báo.
Nối gót Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phalô II, vị Giáo Hoàng đương
kim Bênêđictô, cuối tháng 11 năm 2006 vừa qua đã thực hiện chuyến viếng thăm
Thổ-nhĩ-kỳ đang lúc tại đây đang nổi lên làn sóng chống đối ngài mãnh liệt và
nhiều người quá khích hăm doạ sẽ giết ngài bằng mọi giá khiến cho nhiều người
hết sức quan ngại.
Hội Thánh đang mời gọi chúng ta ra khơi
Trong tông thư Novo Millennio Ineute được công bố vào ngày kết
thúc đại năm thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Phaolô II khẩn thiết kêu gọi mọi thành
phần Dân Chúa trên khắp thế giới hãy 'Chèo ra chỗ sâu' (Lc 5, 4) để thả lưới,
vì 'một thiên niên kỷ mới đang mở ra trước mặt Hội Thánh như là một biển cả mà
chúng ta sẽ mạo hiểm trong đó, cậy dựa vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa' (số 58)
Trong dịp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam triều yết Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II nhân chuyến đi viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô vào
ngày 22-1-2002, vị Cha chung của Hội Thánh cũng mời gọi Giáo Hội Việt Nam hãy
ra khơi. Ngài ngỏ lời với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: 'Giáo Hội Việt Nam được
mời gọi ra khơi: Tôi muốn khích lệ anh em hãy hết sức quan tâm rao giảng Tin
Mừng và truyền giáo...'
Thủ lãnh của chúng ta là Chúa Giêsu đã dấn thân vào chỗ nước sâu
như thế, vị lãnh đạo của Hội Thánh là Đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng
như Bênêđictô đã anh dũng ra khơi như thế... thì với tư cách là thân mình của
Đức Kitô, chúng ta không còn chọn lựa nào khác là cùng chèo ra chỗ nước sâu với
Chúa Kitô, cùng ra khơi với Hội Thánh.
Lạy Chúa, con xin thú lỗi với Chúa là con chỉ muốn bám chặt đất
bằng cho yên ổn và chẳng hề muốn ra khơi, vì ra khơi thì nhọc nhằn quá, phải hy
sinh nhiều thứ quá mà đời sống lại rất đỗi bấp bênh và dẫy đầy nguy hiểm.
Ước gì cuộc 'ra khơi' vĩ đại của Chúa sẽ là một nhắc nhở không
ngừng để con noi theo mà dấn bước.
Ước gì tấm gương chèo ra chỗ nước sâu đầy hiểm nguy sóng gió của
Đức Thánh Cha là một thôi thúc liên tục thúc giục con lên đường đến với anh em
con.
4. Lợi ích của vâng lời - Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta vẫn thường nói: "sau đêm dài là ánh bình
minh". Cuộc đời không phải lúc nào cũng tối tăm. Có những lúc tưởng như vô
vọng nhưng dịp may lại đến với chúng ta. Có những lúc tưởng như không còn lối
thoát nhưng bàn tay kỳ diệu của Đấng Tạo hoá đã kịp thời mở lối cho chúng ta.
Lời Chúa hôm nay kể về một câu chuyện rất đời thường của những
người dân nghèo thuyền chài miền Galilêa. Họ vật vã với sóng gió biển cả suốt
đêm. Họ luôn phải đối mặt với biết bao hiểm nguy. Thế nhưng lưới vẫn nhẹ,
thuyền vẫn rỗng vì chẳng bắt được con cá nào. Ánh bình minh hôm nay không đem
lại cho họ niềm vui. Niềm hân hoan của ngày mới không đến với họ. Họ thất vọng
nhiều hơn vui. Một đêm vất vả chẳng được gì là dấu chỉ cho một ngày cơm bữa no
bữa đói. Lòng buồn vời vợi. Họ ngồi giặt lưới trong tâm trạng nặng trĩu những
âu lo. Thuyền lứơi của họ xem ra đã vô dụng. Bỗng dưng Thầy Giêsu lại muốn sử
dụng chiếc thuyền của họ. Chúa mượn thuyền của Phêrô. Con thuyền mà Phêrô tưởng
chừng như chẳng giúp ích gì cho ông. Thuyền đánh cá nhưng có được con cá nào
đâu? Chúa mượn thuyền Phêrô không phải để đánh cá mà dùng làm phương tiện rao
giảng tin mừng. Cuối đoạn tin mừng Chúa lại mượn luôn con người Phêrô làm kẻ
chuyên lo chài lưới người.
Xem ra những thất bại trong cuộc đời luôn là cơ hội để chúng ta
thay đổi cuộc sống. Vì Thất bại là mẹ thành công. Thất bại để hiểu rõ sự thật,
để hiểu rõ con người và lượng giá sức người cho phù hợp với khả năng để tiến
tới thành công. Phêrô đã thay đổi phận số đời mình từ ngày ông cho Chúa mượn
chiếc thuyền làm phượng tiện rao giảng Tin mừng. Từ ngày Phêrô vâng lời Thầy
Giêsu chèo ra chỗ sâu mà thả lưới bắt cá xem ra đã thay đổi mọi suy nghĩ của
Phêrô. Phêrô từ đó đã đi theo Chúa. Phêrô từ đó càng hiểu hơn về giá trị của
vâng lời. Vâng lời Thầy là tin tưởng hoàn toàn vào Thầy. Vâng lời là nhìn nhận
sự yếu kém bất toàn của mình để làm theo lời Thầy chí thánh mà có lần ông đã
tuyên xưng: "Thầy là Con Thiên Chúa". Vâng lời Thầy là làm tất cả
những gì Thầy muốn Phêrô làm. Phêrô đã thành công khi vâng lời thầy chèo ra chỗ
nước sâu mà thả lưới. Ông đã được một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi một mình Phêrô
không mang về hết phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp. Mẻ cá này là hình ảnh tiên
báo cho lời giảng thuyết đầu tiên của Phêrô sau ngày Chúa Thánh Thần hiện
xuống. Phêrô đã mang về cho Giáo hội hơn 3000 người tin theo Chúa.
Vâng, những thất bại trong cuộc đời. Những cay đắng trong cuộc
sống đôi khi thật cần thiết để hoàn thiện con người chúng ta. Có những người
suốt đời gặp toàn điều may lành có lẽ họ không cảm thấy sự bất toàn của mình để
khiêm tốn sống đúng với con người thật của mình. Vì "biết người biết ta
trăm trận trăm thắng". Không biết rõ mình nên khó có thể đứng vững trước
nguy nan, trước sóng gió cuộc đời. Khi con người biết rõ giới hạn của mình là
lúc con người sống khiêm tốn để cần sự trợ giúp của tha nhân, nhất là của Thiên
Chúa.
Nhà bác học Archimède đã từng nói: "Hãy cho tôi một điểm
tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất này lên". Kinh nghiệm cho thấy: cho dù
phiến đá đồ sộ to lớn mấy chăng nữa! nếu đòn bẩy có điểm tựa sẽ dễ dàng lăn tảng
đá rời khỏi vị vị. Archimède đã dựa vào kinh nghiệm rất đời thường để xác tín
điều đó. Ở đời cũng vậy, có nhiều việc tưởng chừng như sẽ bỏ dở dang, thế nhưng
nhờ ơn trời và sự trợ giúp của nhiều người công việc đã tiếp diễn thật tốt đẹp,
ngoài sức tưởng tượng. Và đôi khi cũng có nhiều ngừơi xem ra bất tài vô dụng
nhưng họ vẫn thành công khiến chúng ta sững sờ ngạc nhiên. Sự thành công đến
với họ không do tài trí của họ mà do sự trợ giúp của những người thân, của đồng
nghiệp. Và trên hết đó chính là ơn ban của Chúa dành cho những ai biết tin
tưởng cậy trông vào Chúa. Simon Phêrô đã dựa vào Lời Chúa mà ông đã bắt được
một mẻ cá thật kỳ diệu. Các tông đồ đã dựa vào sức mạnh của Chúa để ra đi loan
báo tin mừng. Các ngài đa phần là dân chài nghèo hèn thế mà đã thay đổi cả thế
giới. Văn hoá kytô giáo đã phủ khắp năm châu bốn biển không do tài trí của con
người, mà do quyền năng Chúa thực hiện trên những con người yếu hèn như khí cụ
của Chúa.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết cậy dựa vào Chúa để can đảm
ra đi loan báo tin mừng. Ước gì mỗi người chúng ta dầu trong hoàn cảnh nào,
cũng không bỏ cuộc nhưng luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa sẽ dẫn chúng
ta đi qua những thăng trầm của cuộc đời. Cuộc đời luôn có những khó khăn. Dòng
đời luôn có những bấp bênh nhưng chúng ta hãy tin tưởng, Chúa sẽ luôn kịp thời
nâng đỡ và giải cứu chúng ta khỏi những nguy nan, bất trắc và hiểm nguy. Xin
Chúa giúp chúng ta luôn biết chạy đến với Chúa và kêu cầu Chúa trong những lúc
nguy nan. Amen.
5. Được gọi cộng tác với Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Các bài đọc trong thánh lễ Chúa Nhật hôm nay đều đề cập đến ơn
gọi. Tiên tri Isaia đã được thấy Thiên Chúa và cảm nhận thân phận nhơ uế của
mình. Thiên Chúa đã xá tội bằng thanh tẩy đôi môi nhơ uế của Ysaya với than
hồng nơi bàn thờ. Thiên Chúa phán: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?”
Isaia đã lên tiếng đáp lời: “Dạ, con đây, xin hãy sai con”. Thiên Chúa cần con
người, và Isaia đã sẵn sàng đáp trả.
Đức Giêsu đã mời gọi Phêrô trở nên thợ lưới người sau khi Phêrô
nhận ra mình tội lỗi bất xứng ở bên Đức Giêsu: “Lạy thầy, xin xa tôi ra vì tôi
là kẻ tội lỗi”: “Đừng sợ, từ nay ngươi sẽ là kẻ chài lưới người”. Chèo thuyền
vào bờ, Phêrô và các bạn đã bỏ mọi sự mà đi theo Đức Giêsu. Phêrô và các bạn đã
quảng đại bỏ tất cả để theo Đức Giêsu.
Phaolô đã từng giữ áo cho những người Do Thái ném đá Stephen
(Cv.7, 58); ông cũng tán thành việc giết Stephen (Cv.8, 1). Tuy nhiên, trên
đường đi Đamas để bắt các Kitô hữu đem về Giêrusalem trị tội, Phaolô đã được ơn
trở lại. Từ đó, Phaolô là khí cụ đặc biệt Thiên Chúa dùng để rao giảng Tin Mừng
Đức Giêsu Kitô: “Thưa anh em, trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà
chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta… Người đã
trỗi dậy và đã hiện ra với Kêpha và với nhóm mười hai” (1Cr. 15, 3-5).
Cả ba người được gọi trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay đều đã
là tội nhân hoặc đã ý thức mình là tội nhân. Chính Thiên Chúa đã tha thứ tội
cho họ, và gọi họ cộng tác với Ngài. Được Thiên Chúa mời gọi cộng tác, là vinh
dự đặc biệt cho những ai đã từng phạm tội chống cưỡng Ngài. Và rồi ngay cả khi
đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa mà vẫn còn vấp ngã, thì Thiên Chúa vẫn
tiếp tục trung thành mời gọi con người vươn lên. Điều này cũng đúng đối với các
người theo Chúa, đặc biệt như các tông đồ. Dù đã là môn đệ, Phêrô cũng có lúc
chối Thầy (Mc.14, 71), và có lúc chưa can đảm sống như mình phải sống (Gl.2,
11-14). Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi những người Ngài mời gọi, cho du họ
giới hạn khiếm khuyết. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài vẫn yêu thương và
liên lỉ mời gọi con người cho dù họ bất trung.
Kitô hữu cũng là những người đã được Thiên Chúa mời gọi. Ngài
mời gọi con người hãy sống như con cái Thiên Chúa, trở thành tình yêu và sự
hiện diện của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Thiên Chúa mời gọi mỗi người
hãy yêu thương mọi người, để mỗi người cảm được Thiên Chúa yêu thương qua những
người sống xung quanh mình.
Người đời thường tìm tiền tài, danh vọng, địa vị. Thiên Chúa mời
gọi con người trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Bao
nhiêu người nghèo cần sự giúp đỡ của người khác. Ngày nay Thiên Chúa không làm
phép lạ hóa bánh ra nhiều, nhưng Ngài mong những người nghèo hôm nay nhận được
tấm bánh từ tay anh chị em mình. Những ân nhân của người nghèo thực sự là đại
diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa cho họ ăn và giúp họ những gì họ cần thiết qua
trung gian những ân nhân này. Thiên Chúa hiện diện với tôi qua anh chị em. Phần
tôi, tôi được mời gọi để trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho người khác.
Nhiều người tưởng rằng tiền của, địa vị, danh vọng chức quyền,
sự thỏa mãn về thể xác làm cho người ta hạnh phúc, nên họ đã đi tìm những điều
đó. Nhưng nếu biết quan sát và nhận định, họ sẽ thấy tiền bạc, danh vọng chức
quyền địa vị, thỏa mãn vật chất, không làm con người được hạnh phúc đích thực.
Chính khi giúp đỡ tha nhân, khi yêu thương vượt qua chính mình, khi hy sinh để
giúp đỡ người khác, con người tìm được hạnh phúc thực. Kitô hữu được mời gọi để
làm chứng về điều này. Phục vụ làm con người hạnh phúc.
Kitô hữu được mời gọi để làm vua. Không nô lệ vật chất, làm chủ,
tự do với tất cả để chỉ có Thiên Chúa là nhất đối với mình; đó là nét vua mà
Thiên Chúa muốn chia sẻ với con người. Ai thua thì bị làm nô lệ. Thiên Chúa
không muốn con người nô lệ cho xác thịt, cho vật chất; Ngài mời gọi con người
vượt lên, chiến thắng, làm chủ làm vua. Thiên Chúa mời gọi con người trở nên
người tự do thật sự.
Kitô hữu được mời gọi để trở thành tiên tri. Tiên tri là người
của Thiên Chúa, người nói nhân danh Thiên Chúa cho con người hôm nay. Nói cho
người khác biết Đức Giêsu đã phục sinh, Ngài là người của Thiên Chúa, Ngài
thuộc về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa
nhập thể. Một khi con người nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, con người
biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục
Sinh, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng và chính yếu bắng chính cuộc
sống của mình. Kitô hữu được mời gọi để làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh bằng
niềm tin và cách sống thấm nhuần đức tin của mình. Kitô hữu không phải là người
không cảm thấy những khó khăn trong cuộc sống, cũng không phải là người không
bị cám dỗ; Kitô hữu là người chia sẻ thân phận con người như bất cứ ai khác,
nhưng vẫn có thái độ và cách hành xử khác với những người có lối sống không
theo Tin Mừng. Kitô hữu được mời gọi sống vui và phó thác trong mọi hoàn cảnh
vì họ biết Thiên Chúa yêu thương họ, và thế gian này không có giá trị tuyệt
đối.
Kitô hữu được mời gọi để trở thành tư tế của Thiên Chúa, người
đại diện con người tôn thờ Thiên Chúa. Cầu nguyện, dâng chính con người mình
lên Thiên Chúa, là thái độ tôn thờ Thiên Chúa đích thực. Cầu nguyện phải là
chính sức sống và hạnh phúc của con người. Được đại diện con người dâng lên
Thiên Chúa lễ tế là chính con người mình, là một hạnh phúc của Kitô hữu. Chính
khi kết hiệp với Thiên Chúa, con người được hạnh phúc đích thực.
Thiên Chúa mời gọi con người, đặc biệt là Kitô hữu, làm cho thế
giới này vui hơn tươi hơn đẹp hơn, làm cho con người ngày hôm nay tin tưởng vào
nhau hơn, sống vui và hạnh phúc với nhau hơn. Đó là ơn gọi của Kitô hữu. Xin
cho Kitô hữu ý thức sứ mạng của mình, và cảm nghiệm hạnh phúc khi thực hiện sứ
mạng này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, nơi con người Đức Giêsu có gì đặc biệt không? Ơn
gọi của Đức Giêsu là gì? Sứ mạng của Đức Giêsu là gì?
2. Thiên Chúa có mời gọi bạn đặc biệt điều gì không? Thiên Chúa
muốn bạn sống như thế nào? Thiên Chúa mời gọi bạn làm gì cho Thiên Chúa và con
người ngày nay?
6. Gặp gỡ Chúa trong cuộc đời – Cố Lm Hồng Phúc
Giữa công trường Thánh Phêrô ở La-mã, một công trường rộng mênh
mông, có hai pho tượng khổng lồ đứng oai vệ như những chứng nhân của lịch sử.
Đó là tượng Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, hai vị Tông đồ Cả.
Phêrô và Phaolô là hai người khác biệt nhau về tính tình, về văn
hóa và nghề nghiệp. Nhưng cả hai đã gặp gỡ Chúa Kitô và được Chúa biến hóa trở
nên những chứng nhân, những tông đồ “đi bắt người”.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi Phêrô.
Thật ra, Chúa đã gặp Phêrô rồi, khi em ông là Anrê đem anh đến
giới thiệu với Chúa, như Gioan kể lại (Gio. 1, 49). Lòng nhiệt huyết của Anrê
cũng như lòng trinh bạch của Gioan không làm cho Chúa cảm động, nhưng khi nhìn
thấy Simon, con Gioan, Chúa nhìn ông và nói: “Hỡi Simon, con Giona, từ nay con
sẽ gọi là Kêpha nghĩa là Đá”. Đây là nền tảng của Giáo hội mà Ngài sắp thiết
lập. Tuy nhiên, đây chỉ là cuộc sơ vấn gặp gỡ đầu tiên. Rồi ai về nhà nấy.
Phêrô và các bạn vẫn còn nặng tình với vợ con, với sông sâu biển cả. Thì hôm
nay, Chúa muốn kêu gọi ông cách dứt khoát, bằng một phương pháp mạnh, một phép
lạ để cho ông nhìn thấy và “sờ đụng” quyền năng của Thiên Chúa.
Sau một đêm lao lực, thức trắng đêm – cá vẫn ăn về đêm – mà
không bắt được con cá nào, Phêrô gặp Chúa. Chúa bảo: “Hãy ra khơi thả lưới”.
Ông vừa từ ngoài khơi trở về, nhưng vâng lời Chúa, Ông lại ra khơi… Từng đàn cá
ùn ùn chun vào lưới, khiến cho lưới gần rách, phải gọi các bạn thuyền đến trợ
lực.
Cũng như ngày xưa, tiên tri Isaia, trong bài đọc I, đã nhìn thấy
vinh quang của Chúa và kêu lên: “Chết tôi rồi, lưỡi tôi dơ bẩn”, thì ngày nay,
Phêrô cũng cảm thấy mình bất xứng và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con
là người tội lỗi”. Nhưng Chúa trả lời: “Con đừng sỡ hãi. Từ đây, con sẽ là kẻ
chinh phục người ta”. Con sẽ bỏ nghề bắt cá, để đi “bắt” các linh hồn. Và Phúc
Âm nói: “Ông chèo thuyền vào bờ, bỏ hết mọi sự và đi theo Người”. Đó là ơn kêu
gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và được Chúa thu hút chinh phục.
Người thứ hai đã gặp gỡ Chúa là Thánh Phaolô, như bài đọc II kể
lại. Phaolô là một con người đầy nhiệt huyết, đã đi vòng quanh Đế quốc La-mã 4
lần, đã đưa dân ngoại vào Đạo. Làm sao cắt nghĩa được nội tâm của con người đầy
lửa ấy? Thưa vì người đã gặp gỡ Chúa. Đức Kitô… đã sống lại theo lời Thánh
Kinh. Ngài đã hiện ra với Phêrô và mười một Tông đồ. Rồi cuối cùng Ngài đã hiện
ra với tôi như đứa con sinh non” (1Cor. 15, 8).
Phải, cuộc gặp gỡ đó đã đảo lộn cuộc đời Phaolô, từ một kẻ bắt
bớ tín hữu trở nên một Tông đồ nhiệt thành. Tất cả là ơn của Chúa và Người vui
mừng được trả giá rất cao để “Ơn Chúa không ra vô ích”: 5 lần bị đánh đòn 39
trượng, 3 lần bị tra tấn, 1 lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tàu 1 ngày 1 đêm chơi
vơi trong lòng biển (2Cor 12, 24-25).
Trong cuộc đời, chúng ta cũng đã gặp gỡ Chúa trong nhiều hoàn
cảnh. Nhưng phải chăng chỉ gặp Ngài như gặp một khách bàng quang…
Lạy Chúa, Xin Chúa hãy đến với con, đừng xa lánh con là kẻ tội
lỗi.
7. Mẻ cá lạ
Một trong những lời giảng dạy làm nhiều người khó chịu, nhưng
cũng rất thú vị, của Minh Sư là: ”Thượng Đế gần gũi kẻ có tội hơn là người
thánh thiện.”
Ngài dùng hình ảnh để giải thích như sau:
- Thượng Đế ở trên thiên đàng nắm mỗi người ở đầu một sợi dây.
Khi người ta phạm tội, sợi dây đó bị cắt đứt. Bấy giờ Thượng Đế cột sợi dây lại
bằng cách làm một nút thắt - và như vậy, Ngài kéo họ lại gần Ngài hơn. Cứ như
thế, mỗi khi người ta phạm tội, sợi giây bị cắt đứt, Thượng Đế lại buộc một nút
thắt mới để kéo chúng ta lại gần Ngài nhiều hơn nữa.
Anthony de Mello, trích trong “One Minute Wisdom”
***
“Lạy Ngài! Xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc.
5,8).
Bạn thân mến! Trên đây là lời nói của Simon Phêrô thưa với Chúa
Giêsu khi ông cảm nhận được sự thấp hèn tội lỗi của mình trước đấng thánh cao
cả Giêsu, khi ông kinh ngạc trước phép lạ “Mẻ Cá Lạ” mà ông đã được chứng kiến
và cũng là người trong cuộc. Xin mời bạn cùng tôi, chúng ta hãy lần theo dấu
vết của Simon Phêrô trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay (Lc. 5:1-11) để hiểu thêm
về ông, để biết thêm về “Mẻ Cá Lạ” ngày xưa đã tác động đến ông và các bạn chài
của ông như thế nào? Và cũng để nhận ra “Mẻ Cá Lạ” ngày xưa đã tác động đến tôi
và bạn hôm nay ra sao?
Trước hết, Simon Phê-rô là một người truyền giáo: Trong lúc ông
và các bạn chài đang giặt lưới sau 1 đêm dài mệt mỏi vật lộn với biển khơi để
đánh bắt cá nhưng chẳng được gì. Chúa Giêsu đã đến bên ông, Ngài lên thuyền của
ông, xin ông chèo ra xa bờ 1 chút để Ngài ngồi trên thuyền mà giảng dạy cho dân
chúng. Ông đã không ngại mệt mỏi sau một đêm vất vả làm việc, Ông đã bỏ công
việc riêng bề bộn sau lưng, đã đứng dậy và làm theo lời yêu cầu của Ngài…Chúa
giảng, ông chèo …Chắc hẳn trong lúc ông chèo thuyền cho Chúa giảng dạy, ông
cũng đã lãnh nhận những lời vàng ngọc, những chân lý ngàn đời không thay đổi
nơi môi miệng của Chúa Giêsu. Ông chèo, Chúa giảng...Ông đã góp công sức vào
việc giúp những người xung quanh biết về Chúa và nghe Lời Ngài. Với chiếc
thuyền nhỏ bé của ông, ông đã “mang Chúa đến cho người khác”, Ông đã làm công
việc truyền giáo trong lúc Giáo Hội chưa được hình thành.
Bạn thân mến! Nếu hôm nay Chúa dùng những người xung quanh để
mời gọi tôi và bạn đóng góp công sức của mình cho việc truyền giáo, Tôi và bạn
sẽ đáp trả ra sao? Sự đáp trả của tôi và bạn có giống Simon Phêrô ngày xưa
không?
Simon Phêrô: một người khiêm nhượng và biết lắng nghe. Sau 1 đêm
vất vả đánh cá mà chẳng được gì, chắc hẳn ông mang một tâm trạng mệt mỏi, chán
nản. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo ông ra khơi đánh cá giữa ban ngày, lại
ra tận chỗ nước sâu, nơi nguy hiểm nhất và cũng là chỗ khó bắt được cá nhất
…Theo lẽ thông thường, Phêrô phải ngẫm nghĩ trong lòng: “Ông Giêsu ơi! Ông làm
nghề thợ mộc mà! Đánh cá là nghề của tôi. Tôi đã sống bằng nghề này mấy mươi
năm rồi, Ông biết gì về đánh cá mà lại hướng dẫn chỉ bảo tôi?” Nhưng không phải
thế, Simon Phêrô đã lắng nghe lời hướng dẫn của Chúa Giêsu trong khiêm nhượng
và tin tưởng. Ông đã nói lên tâm tình đó qua câu: "Thưa Thầy, chúng tôi đã
vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả
lưới".(Lc. 5:5)
Bạn thân mến! Trong cuộc sống hằng ngày, qua những vị linh mục
trong cộng đoàn giáo xứ, qua các thầy cô trong trường học, qua cha mẹ anh chị
em trong gia đình, qua bạn bè thân hữu ngoài xã hội…Có lẽ Chúa cũng đã gởi đến
tôi và bạn biết bao lời khuyên răn nhắn nhủ, nhưng tôi và bạn có biết lắng nghe
hay không? Tôi và bạn có đủ khiêm nhượng và tin tưởng để lắng nghe như Simon
Phêrô ngày xưa không?
Simon Phêrô: Người được Chúa tỏ mình ra: Chứng kiến “Mẻ Cá Lạ”,
Simon Phêrô đã nhận ra sự cao cả thánh thiện của Chúa Giêsu. Sợ hãi vì nhận
thấy mình tội lỗi thấp hèn, ông đã vội quì xuống và thưa với Chúa Giêsu: “Xin
Thầy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc.5:8). Nếu Chúa Giêsu không chủ
động tỏ mình ra, chắc hẳn ông không thể nhận ra “Mẻ Cá Lạ” là do quyền năng cao
cả của Thiên Chúa. Nếu không có ơn Chúa, chắc hẳn ông không thể nhận biết thân
phận tội lỗi thấp hèn của mình. Một đêm dài vất vả mệt mỏi, ông đã làm việc với
sức của riêng mình, kết quả là con số không, Ông chẳng đánh bắt được gì. Nhưng
khi có Chúa bên cạnh, Ông đã cùng làm với Chúa và dùng sức của Chúa, kết qủa là
ông đã có “Mẻ Cá Lạ” gần chìm thuyền.
Bạn thân mến! Cuộc sống có Chúa bên cạnh thật quan trọng và cần
thiết biết bao! Xin bạn cùng với tôi, chúng ta hãy tự hỏi chính mình: ”Chúa ở
đâu trong cuộc sống hằng ngày của tôi? Những lúc tôi ăn uống nghỉ ngơi, những
lúc vui lúc buồn, những lúc thành công hạnh phúc cũng như lúc thất bại mệt mỏi
vất vả… Ngài ở đâu? Ngài ở đâu?"
Simon Phêrô: Người biết phó thác để sẵn sàng ra đi và lên đường:
Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp bênh không chắc chắn. Ra đi là bỏ nơi
quen biết để đến nơi xa lạ. ”Vâng lời thầy, con đi thả lưới” (Lc.5:5). Lên
đường ra khơi thả lưới là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp, chấp nhận
gian lao thử thách…”Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo
Người” (Lc.5:11). Ra đi theo Chúa là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài
lưới… Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập
chững. Bỏ lưới cá để chài lưới người.
Bỏ tất cả để bước đi theo Chúa, để làm môn đệ của Ngài…Đây là
việc đòi hỏi nhiều cố gắng nỗ lực, gặp nhiều khó khăn thử thách, nhưng cái khó
khăn nhất có lẽ là “bỏ mình”, là ra khỏi “cái tôi hạn hẹp ích kỷ” của chính
mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ những thói tật xưa cũ thì người môn đệ
vẫn còn ở khởi điểm. Muốn lên đường theo Chúa, người môn đệ phải ra khỏi tính
tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng
viễn vông. Ra khỏi thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân. Và khi đã từ bỏ tất cả,
người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó
thác hoàn toàn vào Đấng kêu mời ta. Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào
Đấng sai ta.
***
Lạy Chúa, lên đường bước đi theo Chúa là được Chúa biến đổi.
Giống như Simon Phêrô xưa kia đã được Chúa biến đổi từ “Simon lưới cá” trở
thành “Phêrô lưới người”. Xin Chúa ban ơn giúp sức cho con để biết noi gương
bắt chước Simon Phêrô xưa kia, biết cố gắng nỗ lực lên đường bước đi theo Chúa
và cũng được Chúa biến đổi. Amen.
Linh Xuân Thôn
8. Tự do
Các ông từ bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Đọc lại Phúc Âm chúng ta phải cảm phục thái độ dứt khoát và từ
bỏ của các môn đệ trước lời mời gọi của Chúa Giêsu. Thực vậy, sau khi Chúa
Giêsu nói: Các con hãy theo Ta và Ta sẽ làm cho các con trở nên những kẻ chài
lưới người ta, thì Phêrô, Anrê cũng như Giacôbê và Gioan đã từ bỏ ghe thuyền,
chài lưới và cả những người thân yêu để bước theo Chúa Giêsu. Cũng vậy, khi
Chúa Giêsu đi qua bàn thu thuế tại Capharnaum, Ngài lên tiếng gọi Matthêu: Hãy
theo Ta. Lập tức Matthêu đã đứng dậy, từ bỏ bàn giấy, từ bỏ nghề nghiệp mà bước
theo Chúa. Thái độ mau mắn và dứt khoát ấy làm cho chúng ta nhớ tới lời Chúa đã
phán: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Các
môn đệ là như thế, chúng ta thì sao?
Chúng ta thường nói rất nhiều mà làm thì chẳng được bao nhiêu.
Trong tâm tư nguyện vọng, chúng ta muốn tôn thờ Chúa như một vị vua duy nhất
của lõi lòng. Chúng ta muốn dâng tất cả cho Ngài, thế nhưng trong cuộc sống cụ
thể, chúng ta rất ngại phải hy sinh, phải từ bỏ, phải dâng hiến cho Ngài. Tình
yêu chúng ta dành cho Ngài giống như một ngọn đèn thiếu dầu. Bình thường thì nó
cháy một cách leo loét, nhưng mỗi khi phải cố gắng, phải hy sinh thì nó bỗng
dưng phụt tắt.
Chính vì thế, mỗi người chúng ta phải kiểm điểm lại đời sống, phải
hồi tâm xét mình và phải chấp nhận con người thực sự của chúng ta là như thế
nào? Chúng ta có quảng đại đáp trả lời mời gọi của Chúa hay không, bởi vì chính
sự quảng đại này mới là thước đo sự gắn bó và tình yêu của chúng ta đối với
Chúa.
Là người tín hữu, chúng ta có biết hy sinh những thú vui, cho dù
là chính đáng, để chu toàn những bổn phận đạo đức của chúng ta đối với Chúa, để
tuân giữ giới luật yêu thương của Ngài cũng như để thực thi thánh ý của Ngài
trong lòng cuộc đời chúng ta hay không?
Là những bậc làm cha mẹ, chúng ta có biết chấp nhận những hy
sinh gian khổ vì cuộc sống và tương lai của con cái hay không? Cho dù những khó
khăn, những bất đồng, chúng ta có đem vào trong gia đình chúng ta một bầu khí
yêu thương và đạo đức hay không?
Là những người con, chúng ta có biết mau mắn vui vẻ vâng theo
những lời khuyên bảo của cha mẹ. Chúng ta có biết chia sẻ những lo lắng của cha
mẹ bằng cách chu toàn những bổn phận của mình hay không?
Để kết luận, chúng ta nên nhớ điều này, đó là nếu chúng ta còn
ngại hy sinh, nếu chúng ta không dám từ bỏ, thì đó là dấu chỉ chắn chắn nhất
chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa, chưa hề là người môn đệ đích thực của
Ngài.
9. Khiêm nhường
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy: người khôn ngoan là người
biết tận dụng mọi cơ hội để làm giàu cho mình, nhưng đồng thời cũng phải khiêm
tốn để biết mình và biết người. Kẻ thành công đỗ đạt là kẻ biết tin tưởng, cậy
dựa vào kinh nghiệm, kể cả kinh nghiệm của người khác.
Và hành trình của đức tin cũng không đi ra ngoài sự khôn ngoan
ấy. Đoạn Tin Mừng hôm nay mô tả cho chúng ta khuôn mặt người khôn ngoan đi tìm
Chúa và đã nhận ra Ngài, không ai khác hơn là thánh Phêrô.
Thực vậy, ông là một dân chài chuyên nghiệp, một người đi biển
nhiều kinh nghiệm quý giá, thế nhưng ông không quá tự phụ với những sự từng
trải ấy, trái lại, ông vẫn có một sự khôn ngoan đặc biệt, đó là khiêm tốn, tin
tưởng và vâng phục vào lời Chúa Giêsu:
- Thưa Thầy, dựa vào lời Thầy, con xin thả lưới.
Trước mẻ cá lạ lùng này, Phêrô không tự hào về đức tin của riêng
mình để mà khoe khoang với các bạn, cũng như để kể công với Chúa. Trái lại,
thêm một lần nữa, ông vẫn khôn ngoan dựa vào mẻ cá lạ lùng ấy, để suy nghĩ và
nhận ra Đức Kitô là Thiên Chúa của mình. Đứng trước mẻ cá, Phêrô đã thực sự
khiêm tốn thú nhận:
- Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.
Chính nhờ thái độ này, đức tin của ông được củng cố đến độ ông
không chỉ nói lên lời cảm tạ suông, mà còn đáp trả bằng cả cuộc sống của mình,
đó là ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có đủ khiêm tốn để lắng nghe
lời Chúa qua những con người, qua những biến cố mà Ngài gởi đến hay không? Có
lẽ Phêrô vẫn đoán biết Đức Kitô không có nhiều kinh nghiệm về biển cả, nhưng
ông rút kinh nghiệm qua những phép lạ, vì thế ông vẫn khiêm tốn vâng phục và
tin tưởng vào Chúa Giêsu vì Ngài còn là Thầy, là người hướng dẫn của ông. Liệu
chúng ta có biết hồi tâm để rút ra những kinh nghiệm như Phêrô hay không?
Kinh nghiệm bản thân cho ông hay ban đêm là cao điểm để đánh
bắt. Thế mà ông đã từng cực nhọc suốt cả đêm mà chẳng đánh bắt được một con cá
nào, vậy mà lòng trọng kính đối với Chúa Giêsu đã thúc đẩy ông thả lưới giữa
ban ngày ban mặt, là thời điểm chẳng thuận tiện chút nào. Liệu chúng ta có quá
tự hào về kinh nghiệm bản thân, để rồi khép kín cõi lòng mình trước lời mời gọi
của Chúa hay không?
Những kinh nghiệm và hiểu biết, đôi khi có thể trở thành chướng
ngại vật cản trở cho hành trình đức tin, nếu chúng ta không có được sự khiêm tốn
của Phêrô. Hãy cư xử như Phêrô, bằng cách đón nhận ý Chúa qua kinh nghiệm của
Hội Thánh, đồng thời cảm tạ Ngài bằng một thái độ cụ thể và quyết liệt như
Phêrô, đó là từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.
10. Đào tạo tông đồ - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và
các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao cho
ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giêsu còn
muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của phép lạ, Chúa Giêsu
đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng
đầu các môn đệ. Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm.
Điểm thứ nhất: cảm nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân.
Phêrô và các bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn
với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay não nề. Thế mà
giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ nước sâu. Nước sâu là
chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô gặp thất bại. Chúa Giêsu muốn Phêrô trở
lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giêsu
muốn Phêrô nhìn rõ những thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài
học đầu tiên Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của Người.
Điểm thứ hai: cảm nghiệm về sự cao cả của Thiên Chúa. Người tông
đồ phải làm chứng về Thiên Chúa. Muốn làm chứng phải
có kinh nghiệm. Ai chưa từng gặp được Thiên Chúa, chưa từng tiếp xúc với Người
thì không thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên Chúa
thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình cho Môsê trong bụi gai cháy đỏ. Chúa
tỏ mình ra cho thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi trên đường đi Đa mát. Hôm
nay Chúa tỏ mình ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự
cao cả, sự thánh thiện của Chúa. Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi, Phêrô vội quỳ
xuống xin Chúa rời xa. Phêrô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với
Chúa. Ông đã cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao
giảng chỉ là để kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.
Điểm thứ ba trong chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó là sự
vâng lời tuyệt đối. Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu
bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên sao được
khi Phêrô là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người miền núi. Phêrô làm
nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc.
Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả lưới bên phải thuyền, ông đã tăm tắp làm
theo. Phêrô đã vâng lời tuyệt đối. Phêrô đã học được thái độ vâng lời của người
môn đệ. Ông đã thành công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt ông làm
tông đồ trưởng.
Điểm sau cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải có đó là sẵn sàng
ra đi. Ra đi là một thái độ liều lĩnh. Vì vượt qua những khoảng không gian
vật lý cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp.
Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã khó. Vượt qua những
khoảng không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp
bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo là bỏ
lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo
để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ lưới cá để chài người.
Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm
nhưng vẫn giữ được những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn ở khởi điểm. Muốn
lên đường người môn đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của mình. Ra khỏi những
quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi những ích
kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo
nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta. Vũ khí
chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.
Mỗi người được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm được
sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả cũng như
tình yêu của Thiên Chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt đối, chưa ra đi trong tự
do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn đệ của Chúa. Chưa được đào
tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần thất
bại.
Lạy Chúa, xin hãy dạy bảo con theo đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh không?
2. Bạn có cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của mình không?
3. Bạn đã ra đi khỏi chính mình chưa?
4. Bạn có cảm thấy Chúa có chương trình đào tạo mình không?
11. Môn đệ Đức Kitô trên hoàn vũ - Achille Degeest
Bài Phúc Âm hôm nay rất dễ hiểu, không cần giải thích theo nghĩa
này nghĩa khác có thể không có trong bản văn. Chúng ta chú ý đến nhiều điểm.
Đức Giêsu sai Phêrô đánh thuyền ra khơi thả lưới. Chúa biết, khi ra lệnh như
thế Người đòi hỏi Phêrô làm một việc trái ngước kinh nghiệm dân chài lành nghề.
Thật vậy, Phêrô tin chắc rằng sau một đêm mệt nhọc uổng công, bây giờ là ban
ngày, cố gắng cũng vô ích. Tuy nhiên vì vâng lời Chúa, vì tin Chúa, Phêrô thả
lưới. Sau khi vớt được mẻ Chúa nhiều quá sức tưởng tượng, ông phản ứng như
những tâm hồn ngay thẳng khi đứng trước tôn nhan Chúa: “Lạy Thày, con là một kẻ
quá nhiều sai lỗi, một kẻ có tội”. Bằng một giọng uy nghi khích lệ, Chúa cho
ông rõ phần thưởng đích thật của cuộc gặp gỡ trên mặt hồ. Qua hình ảnh phép lạ
đánh cá, ông thoáng nhìn thấy số mệnh ông.
Chúng ta suy niệm về hai câu:
1) “Hãy ra khơi”. Chúa phán thế vì biết
ngoài khơi là vùng có nhiều cá. Chúng ta nghĩ đến một Phêrô thuyền trưởng con
thuyền Giáo Hội, như ảnh đạo thời xưa thường trình bày. Thày ra lệnh cho ông
hãy lái Giáo Hội tiến vào chỗ hiểm nguy là thế giới trong đó cái khối nhân loại
sống, lao động và chết. Trên thuyền với thuỷ thủ đoàn là những Kitô hữu, lệnh
được ban ra là thả lưới xuống biển mặc dầu đã phí rất nhiều thì giờ mà chẳng
được gì. Đức vâng lời đã đem lại một mẻ lưới thần kỳ. Tuy nhiên có phải bao giờ
cũng gặt hái được kết quả lạ lùng không? Nếu thế chẳng quá dễ dàng ư? Điều quan
trọng là đừng có lạm dụng cách chơi chữ của Chúa khi Người phán bảo Phêrô: “Từ
nay ngươi sẽ là kẻ lưới người”. Thật vậy, nhân loại không bị cưỡng bách vào
trong “lưới” của Giáo Hội. Ở đây là một thực tại cơn bản hơn: Phêrô và các tông
đồ, do một hành vi biểu lộ đức tin trái ngược sự thật hiển nhiên theo quan niệm
loài người, đã tỏ ra xứng đáng được Chúa cho biết số phận. Các ông được liên
hợp với công cuộc cứu độ của Người trên thế giới.
2) “Bỏ lại mọi sự, họ đã theo Chúa”.
Thánh chép sử diễn tả cách đơn giản về một trong những khía cạnh
đòi hỏi gắt gao nhất của thiên chức các ông. Giáo Hội đã áp dụng câu đó cho
thiên chức tu sĩ và thiên chức linh mục. Phêrô và các bạn không có được gia
nghiệp súc tích của thanh niên nhà giàu, nhưng vốn liếng khiêm tốn của các ông,
chiếc thuyền đánh cá, căn nhà, thôn xóm, đối với các ông là những gì tha thiết.
Các ông cũng như chàng thanh niên đều được kêu gọi bỏ lại mọi sự. Trong thông
điệp về sự độc thân của linh múc (đoạn 24), Đức Phaolô VI nhắc đến câu nói
trên. Thế giới chúng ta gồm những vùng nước sâu lắm cá cần có những môn đệ bỏ
lại mọi sự để theo Đức Kitô.
12. Con đường của Thiên Chúa là tốt nhất
(Suy niệm của Charles E. Miller)
Thiên Chúa thì kiên bền không thay đổi. Chúng ta có thể tùy
thuộc vào Thiên Chúa. Thánh Kinh đã mặc khải những hành động và những lời của
Thiên Chúa trong quá khứ. Những gì Thiên Chúa đã thực hiện trong quá khứ là
những gì mà Người sẽ thực hiện trong ngày hôm nay. Những gì Thiên Chúa đã nói
trong quá khứ là những gì Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta hôm nay. Những gì xảy
ra cho Phêrô trong bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay đã xảy ra cho tất cả chúng ta
trong cùng một cách thế như thế ngày hôm nay.
Thánh Phêrô là một người đánh cá, không phải là môn thể thao,
nhưng là kế sinh nhai của thánh nhân. Ngài có một nghề nghiệp. Ngài và những
người đồng nghiệp đã làm việc vất vả suốt đêm, đó là thời điểm tốt nhất để đánh
cá trong vùng sông hồ này, nhưng họ đã không đánh bắt được gì. Tiếp đó, Chúa Giêsu
là một người thợ mộc, đã nói với Phêrô là một người đánh cá, hãy thả lưới một
lần nữa. Vấn đề to lớn ở đây, bây giờ là thời điểm tệ hại nhất để đánh cá.
Chúng ta có thể nghe được việc nhấn mạnh và xác quyết trong giọng của Phêrô:
“Lạy Thầy, chúng con đã khó nhọc suốt đêm mà không đánh bắt được gì”. Ngài đã
trình bày quan điểm với Chúa Giêsu để nhắc Chúa Giêsu đừng quên điều đó nhưng
khi ngài thình lình nhận biết mình đang nói với ai. Sau một lúc, có lẽ nhìn vào
ánh mắt của Chúa Giêsu thấy sự nhấn mạnh trong đôi mắt của Ngài, nên Phêrô nói
thêm: “Nhưng nếu Thầy đã phán như thế, con sẽ thả lưới”. Đức tin của Phêrô thì
giống như một con trẻ khác xa với những người trưởng thành, nhưng nó đã mạnh đủ
để ông đặt sự nhấn mạnh của ông vào từ”Thầy” khi ông nói: “Nếu Thầy nói như vậy
con sẽ thả lưới”. Kết quả sự tin tưởng của Phêrô vào Chúa đã đưa đến một mẻ
lưới kinh ngạc. Phêrô nghĩ rằng cách của ông là tốt nhất nhưng ông đã học biết
rằng cách của Chúa thì tốt nhất.
Trước đó, tiên tri Isaia đã học cùng bài học như chính Phêrô đã
học. Đầu tiên, Isaia không muốn chấp nhận sứ vụ trở thành một tiên tri cho dân
Chúa. Ông cảm thấy mình bất xứng, ông tự mô tả chính mình như một người không
biết ăn nói. Ông sung sướng bỏ đi và theo một cách sống khác, nhưng Thiên Chúa
đã muốn ngài. Một thiên thần Sêraphim đã đụng đến môi của tiên tri Isaia, đó là
một biểu hiện ân sủng của Thiên Chúa. Với ân sủng này Isaia đã đáp trả: “Này
tôi đây xin hãy sai tôi”, ngài đã trở thành một trong những vị tiên tri lớn
nhất bởi vì ngài đã theo đường lối của Chúa.
Trong lúc suy nghĩ chúng ta không thấy điều gì quen thuộc, xảy
ra với chúng ta sao? Có lẽ các bạn có nơi trái tim hình ảnh của một người nào
đó mà các bạn muốn kết hôn. Điều đó đã thực hiện được. Một người khác bước vào
đời sống của các bạn và bây giờ các bạn sẽ cảm ơn Thiên Chúa, vì hôn thê của
các bạn thật hợp với các bạn hơn. Có thể các bạn có một công việc mà các bạn
thích, các bạn có vẻ như có một tương lai với một công ty đặc biệt. Nhưng trong
thời suy thoái kinh tế, công ty giảm biên chế, bạn mất công việc của mình. Tiếp
đó, một cơ hội lớn thình lình mở ra cho bạn và bạn trở thành một người có công
việc khác khiến các bạn thấy rằng có một sự chăm sóc kỳ diệu mà các bạn không
bao giờ nghĩ ra trước đó.
Những thí dụ này có thể không thích hợp với các bạn. Mọi người
chúng ta phải có thời gian để suy nghĩ về những gì Thiên Chúa đã hành động
trong cuộc sống của chúng ta theo một cách vượt xa những gì chúng ta đã dự định
và mong đợi. Thánh Phaolô nghĩ rằng ngài đang thi hành bổn phận của một người
Do Thái sốt sắng nhiệt tình. Thiên Chúa có một dự định khác cho ngài, như là
một tông đồ và là tác giả của những bức thư Tân Ước. Ngài đã đặt bút viết những
điều về những giáo lý quan trọng nhất cho chúng ta. Cách của Thiên Chúa thì tốt
hơn của Thánh Phaolô.
Đôi khi chúng ta không bắt được một mẻ cá lớn. Những điều xem ra
là sai, là thất bại đối với chúng ta. Tiếp đó chúng ta phải kêin nhẫn và dành
thời gian để cho Chúa hành động. Từ thị kiến thiên đàng của tiên tri Isaia
chúng ta sẽ ca lên khúc tán tụng của mình: “Thánh Thánh Thánh, Chúa là sức mạnh
và quyền năng, trời và đất đầy vinh quang Chúa”. Sự diễn tả vẻ huy hoàng của
Thiên Chúa sẽ nhắc nhở chúng ta rằng, Thiên Chúa siêu việt hơn chúng ta. Đường
lối của Người thì không phải là đường lối của chúng ta và đường lối của Ngài
luôn luôn là tốt nhất.
13. Được gọi để gọi người khác
- “Thưa ông bà muốn gặp ai ạ?”
Chị Céline đã nói câu ấy lần đầu tiên cách đây 40 năm. Từ đó
ngôi nhà khách với chùm chìa khóa, cái chổi, chiếc ghế đã trở thành giang sơn của
chị.
Bổn phận của chị giữ nhà khách là gọi người khác. Trong suốt 40
năm trường, chị Céline chỉ làm ngần ấy công việc. Câu hỏi trên kia chị phải lặp
đi lặp lại đến hơn 10 lần mỗi ngày. Với thời gian, phương thế có đôi phần thay
đổi: từ cái kẻng đến chuông điện, rồi điện thoại, sau đó lại trở về chuông kéo,
kẻng sắt… nhưng công việc luôn luôn vẫn là gọi người khác.
Ôi chao! Biết bao khuôn mặt đã xuất hiện tại nhà khách, bao
giọng nói đã vang rền trong điện thoại. Nhưng có một điều chị Céline hằng đoán
chắc: người ta đang gọi, đang xin gặp một người nào đó… trừ ra chị. Vì thế chị
thường nói đùa: “Tôi chỉ được Chúa gọi một lần duy nhất và từ dạo ấy, tôi đã
luôn luôn gọi người khác: tôi được gọi để gọi”.
Một ngày của chị bị cắt vụn thành từng miếng, công việc của chị
bị chẻ thành từng mảnh, luôn luôn là gián đoạn. Khi cầm chuỗi lần hạt, chị biết
mình sẽ không đọc được quá 10 kinh, khi xem sách chị đoán sẽ thưởng thức không
quá 10 dòng; trong nhà nguyện, chị quỳ ở ghế cuối cùng, gần cửa ra vào, luôn
thấp thỏm đợi chờ chuông reo… luôn bị gián đoạn, nhưng chỉ với “sự gián đoạn”
này của mình, chỉ mới có thể tạo nên “sự liên hệ” của người khác. Chị bao giờ
cũng nhanh nhẹn đối với một khách sang cũng như một bà lão nhà quê. Tất cả mọi
người đều ăn cắp giờ của chị. Không ai cần gặp chị… Với thời gian, da mặt chị
nhợt nhạt hơn, người chị tiều tụy hơn, nhưng nụ cười vẫn tươi nở như thuở nào,
lời kinh dâng Chúa mỗi ngày lại càng thêm sốt sắng hơn.
Và rồi một hôm, trong lúc vội vã đi gọi người khác, chị Céline
đã ngã quỵ trong hành lang nhà dòng, thổ huyết! Chị bập bẹ: “Chúa đến gọi tôi
lần hai” (và cũng là lần cuối). Đôi tay chị run run ôm lấy lồng ngực khiến chùm
chìa khóa rơi trên nền gạch hoa. Đàng kia, chiếc ghế vẫn vô tình không biết từ
nay mình sẽ là vô chủ…
Chị Céline đã suốt đời trung thành với tiếng gọi của Chúa và với
công việc bổn phận hằng ngày của chị: được gọi để gọi người khác. Giá trị và sự
cao cả của chị không phải là ở chỗ đó sao?
Chúa Nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta ban ơn gọi: ơn gọi của
Isaia trong đền thánh Giêrusalem (Bđ. 1), ơn gọi của Phaolô trên đường đi Đamas
(Bđ. 2) và ơn gọi của Simon Phêrô bên bờ hồ Giênêzaret (bài Tin Mừng). Nhưng
chắc chắn có chủ ý dạy chúng ta lắng nghe tiếng gọi của Chúa và làm theo ý
Chúa, ra đi gọi những người khác đến với Chúa: được gọi để gọi người khác.
Isaia tự thuật về chính ơn gọi làm ngôn sứ của ông. Chúa đã gọi
ông. Ông đã can đảm, sẵn sàng đáp lại: “Tôi đây, hãy sai tôi đi”. Thái độ của
Isaia chính là thái độ của Đức Giêsu sau nầy khi Ngài đi vào thế gian: “Này con
xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,9).
Thánh Phaolô cũng khéo léo tế nhị nhắc lại ơn gọi của mình và
cách mình đáp lại ơn gọi đó. Phaolô cho biết khi Chúa hiện ra với ông trên
đường đi Đamas và chọn ông làm tông đồ cho dân ngoại, ông khiêm tốn cho mình là
một tông đồ hèn mọn nhất, chẳng đáng gọi là tông đồ vì đã bắt bớ Giáo Hội. Ông
coi đây là một ân huệ Chúa ban và không dám uổng phí, trái lại ông nhờ ơn Chúa
mà hết lòng hết sức và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi bằng cả cuộc sống.
Còn Simon Phêrô đã được Chúa gọi một cách rõ ràng và công khai
sau mẻ cá thật nhiều đến nỗi gần rách lưới, Chúa Giêsu nói với ông: “Đừng sợ,
từ nay anh sẽ đi lưới người như lưới cá”. Điều này sẽ xảy ra sau đó? Tin Mừng
cho thấy không phải chỉ có Phêrô, người được gọi đích danh, đã theo Chúa, mà cả
những người khác nữa cũng đã vội vã theo Chúa: “Ho đưa thuyền vào bờ và bỏ mọi
sự mà theo Chúa”. Đến đây chúng ta mới rõ “mẻ cá lạ” Chúa làm là có dụng ý hay
có mục đích “mở đường” cho ơn gọi của Phêrô và đồng bạn. Nghề nghiệp đánh cá của
các ông thật đã giúp ích cho các ông hiểu một cách dễ dàng sứ vụ mới là làm
“những kẻ chài lưới người” (Mt 4,19), nhưng mẻ cá lạ mới giúp các ông quyết
định lại ơn gọi một cách mau chóng, vì biết rằng có Chúa giúp khi thi hành sứ
vụ của mình.
Anh chị em thân mến,
Chính Thiên Chúa, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, đã chọn gọi
những người làm việc cho Ngài, làm cộng tác viên của Ngài trong công trình cứu
chuộc nhân loại. Ngài đã gọi các tiên tri, các tông đồ, đã gọi bao nhiêu người
khác, đã gọi chính chúng ta. Những ai được Chúa gọi phải mau mắn đáp lại ơn huệ
của Chúa – Chúa kêu gọi đó là một ân huệ Ngài ban – một cách khiêm tốn và biết
ơn vì ta chẳng đáng được vinh dự lớn lao như thế, và tự sức ta, ta cũng chẳng
làm nổi việc gì.
Phải làm trọn ơn gọi của mình, khi đã chấp nhận thì không ngoái
cổ lại đàng sau và hãy bắt tay vào việc một cách cần mẫn, hết lòng trông cậy
vào ơn phù trợ của Ngài, vâng lời Ngài, tin tưởng phó thác và để Ngài tùy ý
hoàn tất công việc lúc nào theo như Ngài muốn.
Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp cách đặc biệt cho những
người Chúa đã chọn, đã và đang khiêm tốn chịu khó làm việc Chúa trên khắp mọi
cánh đồng và vườn nho của Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha, cho các vị Giám mục
và các linh mục, cùng tất cả những người cộng tác chặt chẽ với các ngài.
Chúng ta cũng tha thiết xin Chúa kêu gọi thêm những người đang
ước muốn vào làm việc tông đồ của Hội Thánh, đặc biệt trong những nơi đang xảy
ra tình trạng “lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”.
Chính chúng ta cũng hãy xin ơn biết lắng nghe tiếng Chúa chỉ bảo
ra làm việc nầy hay việc khác trong hoàn cảnh Giáo Hội hiện nay trên quê hương
đất nước chúng ta. Trước hết là giữ vững niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Chúa chúng
ta. Đó chính là ơn gọi đưa chúng ta vào Nước Trời bây giờ và sau nầy. Đó cũng
là ơn gọi làm tông đồ giáo dân bằng chính cuộc sống đức tin của mình trong môi
trường xã hội.
Nếu tình yêu đòi biểu lộ, và có khi biểu lộ bằng những cách “kỳ
lạ”, thì Thiên Chúa vì quá yêu nhân loại, nêu đã biểu lộ bằng nhiều cách thế,
trong đó có cách thế cho con người được tham dự vào việc truyền bá Tin Mừng,
được đọc và được giảng Lời của Thiên Chúa. Lạ lùng lắm thay! Miệng lưỡi con
người mà được nói Lời của Đấng siêu việt. Tình yêu Thiên Chúa vẫn gửi tới mỗi
người tín hữu để họ đem Lời Thiên Chúa nói cho những người xung quanh, những
người thân thuộc và cả những người đi theo Chúa, dùng chính nghề nghiệp khả
năng của mình để thành nghề lôi kéo người khác về cho Chúa. Và Đấng là Tình Yêu
đang luôn chờ đợi lời đáp trả của từng người chúng ta.
Và nhất là giờ đây, chúng ta kính nhớ Đức Kitô chịu chết và
tuyên xưng Ngài sống lại vì chúng ta qua cử hành Thánh Thể, chúng ta hãy hết
lòng tạ ơn Chúa đã gọi chúng ta đến tham dự vào mầu nhiệm cứu rỗi nầy. Nhờ nghe
Lời Chúa và ăn uống Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta sống ơn gọi một cách tốt đẹp
để đời sống chúng ta cũng là một lời mời gọi nhiều người khác đến với Chúa.
14. Đào tạo môn đệ
Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi bằng ba tên: biển
Galilê, biển Ti-bê-ri-át và hồ Ghen-nê-xa-rét, hồ này dài 20,8km, rộng 12,8km.
hồ ở vào chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225m dưới mặt biển, vì thế nó
có khí hậu giống như khí hậu nhiệt đới. Ngày nay cư dân không đông lắm, nhưng
vào thời Chúa Giêsu, có chính thị trấn chung quanh bờ hồ, không thị trấn nào
dưới mười lăm ngàn dân. Ghen-nê-xa-rét thực ra là tên của một cánh đồng xinh
đẹp nằm ở phía tây bờ hồ, đó là vùng đất phì nhiêu nhất.
Tại đây chúng ta đối diện với một khúc quanh trong chức vụ Chúa
Giêsu. Lần trước Chúa giảng trong nhà hội nữa, bây giờ Ngài ở tại bờ hồ. Rồi
Ngài sẽ còn trở lại nhà hội nữa, nhưng sẽ đến một ngày, cửa nhà hội đóng lại
trước mặt Ngài, thì Hội Thánh của Ngài sẽ ở nơi bờ hồ, sẽ ở ngoài đường cái, và
tòa giảng của Ngài sẽ là chiếc thuyền. Ngài sẽ đi tới bất cứ nơi nào người ta
muốn nghe Ngài giảng. Khi nhà hội đóng cửa thì Chúa Giêsu giảng ngoài đường,
bên bờ hồ. Vào dịp này Ngài mượn một chiếc thuyền của một người bạn dùng làm
tòa giảng để giảng cho quần chúng. Khi giảng xong, Ngài ban cho bốn người sắp
được kêu gọi một bài học cụ thể về tính cách của công tác và sự thành công vĩ
đại sẽ đến với chức vụ của họ, nếu họ bằng lòng từ bỏ tất cả để đi theo Ngài.
Ngài đã làm một phép lạ vô cùng kích động, và chúng ta có thể liệt kê các điều
kiện để một phép lạ xảy ra:
1. Có mắt biết nhìn xem:
Chúng ta không cần nghĩ rằng Chúa Giêsu đã dựng nên bầy cá lớn
đó trong trường hợp này. Biển Galilê có nhiều bầy cá đông đảo đến nỗi có thể
che đặc cả mặt biển trong một khu rộng lớn. Có lẽ con mắt thấu suốt của Chúa
Giêsu đã nhìn thấy bầy cá lớn đó mà các ngư phủ không thấy. Chúng ta cần đôi
mắt biết nhìn thấy. Nhiều người đã nhìn nước sôi làm bật cái nắp vung nhưng chỉ
một mình James Watt đã nhìn thấy và sáng chế ra máy hơi nước. Nhiều người đã
nhìn thấy táo rơi, nhưng chỉ một mình Isaac Newton đã nhìn thấy và đã tìm ra
luật hấp lực của trái đất. Nhìn lên bầu trời các nhà thiên văn học tìm thấy
nhiều điều hơn là một người thường. Nhìn vào một hàng rào cây cỏ, các nhà thảo
mộc khám phá ra nhiều điều kỳ diệu mà một người nông dân thường không nhận ra
được.
“Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương vì họ lầm than
vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ Người nói với các môn
đệ: lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít, vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ
ra gặt lúa về.” (Mt 9,36-38).
Sau cuộc tiếp xúc với người phụ nữ xứ Samari ở bờ giếng Gia-cóp,
Chúa nói với các môn đệ viễn tượng tốt đẹp của mùa gặt Tin Mừng: “Nào anh em
chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt. Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước
mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!” Và thánh Gioan
ghi tiếp: “Có nhiều người Samari trong thành đó tin vào Đức Giêsu, vì lời người
phụ nữ làm chứng. Khi gặp Người họ xin Người ở lại với họ, Người ở lại hai
ngày. Số người tin còn đông hơn nữa.” (Ga 4,35.39.40) Thế giới đầy dẫy những
phép lạ cho những ai biết nhìn xem.
2. Có tinh thần biết cố gắng nhẫn nại:
Khi Chúa Giêsu nói thế, dù rất mệt nhọc, Phêrô cũng sẵn lòng thả
lưới một lần nữa. Nhiều người đành chịu thảm bại trong cuộc đời vì họ ngã lòng
quá sớm. Trong cuốn hồi ký “Cuộc đời những thành tựu của tôi”, nhà tỷ phú Mỹ
Henri Ford với biệt danh vua ô tô, đã ghi lại biết quyết thành công của ông:
“Những người đầu hàng thường đông hơn những người chiến thắng, không phải họ
thiếu tiền của, sự hiểu biết, trí thông minh, lòng ham muốn… cái họ thiếu là
lòng kiên nhẫn.” Và ông gọi đó là “nữ hoàng không vương miện của ý chí.” Ray
Knoe, một thiên tài của công ty sản xuất thực phẩm “mì ăn liền” Mc Donald, cũng
có cùng một quan điểm khi xếp lòng kiên trì vào hàng đầu các năng lực của con
người, ông viết: “Không có gì trên thế gian có thể thay thế lòng kiên trì. Tài
năng ư? Cứ xem có biết bao người đầy tài năng mà vẫn cứ thất bại! Thiên tài ư?
Thiếu gì thiên tài đã không được tán thưởng. Giáo dục ư? Thế gian đầy dẫy những
kẻ vô dụng cho dù có học thức. Vậy chỉ có lòng kiên trì và cương quyết là vạn
năng. Nếu thêm vào đó năng lực của lời cầu nguyện thì không có gì có thể địch
nổi.”
3. Có tinh thần cố gắng trong trường hợp hầu như tuyệt vọng:
Đêm đã qua rồi, đêm mới thuận tiện cho cuộc đánh bắt cá, tất cả
hoàn cảnh đều không thuận tiện, nhưng Phêrô nói: “Trong hoàn cảnh như vậy,
nhưng nếu Thày bảo thì chúng con xin vâng.”
Chúng ta thường chờ đợi vì thời cơ chưa thuận lợi, nếu cứ chờ
đợi cho đến lúc mọi sự đều thuận lợi thì chắc sẽ không bao giờ chúng ta bắt đầu
được. Nếu chúng ta theo đúng lời Chúa Giêsu truyền dạy khi Ngài bảo chúng ta
làm một việc không thể thực hiện thì phép lạ sẽ xảy ra.
Rõ ràng đó là do một quyền phép siêu nhiên khiến Phêrô cảm thấy
mình đang đứng trước sự hiện diện của Đấng Thần linh và tỏ vẻ sợ hãi như cảm
giác của một người đối diện với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã phán những lời chẳng
những đánh tan sự kinh hãi của Phêrô, nhưng cũng đem lại can đảm cho ông và
đồng bạn trong những năm tới: “Đừng sợ, từ nay ngươi sẽ là kẻ chinh phục người
ta.”
Ngay nay Chúa cũng đang kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài. Vâng
phục có thể bao hàm sự hy sinh, nhưng chắc chắn sẽ đem lại kết quả là cứu rỗi
các linh hồn.
Để kết thúc, chúng ta nên suy gẫm lời của chân phước Eserive,
sáng lập Opus Dei: “Nếu bạn bị cám dỗ để tự hỏi: Ai bảo tôi xía vô chuyện ấy?
Tôi phải trả lời ngay cho bạn: Chính Đức Kitô ra lệnh cho bạn đó. Ngài bảo bạn
phải xin “vì lúa chín đầy đồng mà thợ gặt ít quá, hãy cầu xin chủ ruộng sai thợ
đi gặt lúa!” Đừng có ươn lười: Việc ấy, tôi, tôi làm sao được? Tôi có nhiều
việc phải làm. Những công việc như vậy không phải để cho tôi! Không, không có
ai khác. Nếu bạn nói được như vậy, nhiều người cũng sẽ nói như thế. Lời mời của
Chúa là dành cho tất cả và mỗi người Kitô hữu. Không có ai được miễn trừ, dầu
là tuổi tác, dầu là sức khỏe, dầu nghề nghiệp. Không có một miễn trừ nào, một
là chúng ta mang lại kết quả cho việc tông đồ hoặc đức tin ta kiệt quệ.”
(Escriva amis de Dieu).
15. Người trẻ mau thoái chí và an phận
. Câu chuyện Tin mừng
Một hôm, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng
chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. Người thấy hai chiếc thuyền
đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới.
Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông
chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người
giảng dạy dân chúng.
Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả
lưới bắt cá”. Ông Si-môn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không
bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Họ đã làm như vậy, và
bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn
chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được
hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói:
“Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt
được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả
hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn,
cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: “Đừng sợ, từ nay anh
sẽ là người thu phục người ta”. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự
mà theo Người.
. Dẫn giải
Nếu năm bạn trẻ chúng ta làm quen hôm qua phấn khởi và hào hứng
thế nào thì anh bạn Phê-rô và có lẽ cả các bạn bè của anh hôm nay lại “ỉu xìu”
và tầm thường tới mức đáng thất vọng.
Sáng hôm ấy, tại bờ hồ Ghen-nê-xa-rét ở Ga-li-lê, mặt trời đã
lên cao, dân chúng đang chen lấn nhau rất đông. Tưởng là họ tụ tập để đón các
thuyền đánh cá xa bờ trở về. Nhưng kì thực không phải. Hay nếu có thì đó chỉ là
lí do ban đầu. Sau khi biết các thuyền trở về với khoang trống, người ta đã lập
tức đổ dồn sang một hướng khác. Lần đầu tiên, làng chài hèn kèm của họ được một
vị ngôn sứ nổi tiếng đến thăm và giảng đạo. Các tay chài đã thất vọng vì đánh
cá hụt, càng thất vọng hơn trước nhân tình thế thái: thường ngày khi thuyền họ
chở đầy cá về thì hết người nịnh nọt tới kẻ chiều chuộng để mua cho được cá;
còn hôm nay khi họ tay trắng trở về, không có lấy một người nào hỏi han để an
ủi và động viên họ. Họ cũng đâm ra bực lây cả vị ngôn sứ nổi tiếng kia. Si-môn
và các bạn nhanh tay neo thuyền vào bến, giặt lưới, rồi vội vàng quay về: lúc
này vào giường ngủ là thượng sách!
Nào ngờ, Đức Giê-su lại chọn ngay thuyền của Si-môn, xin ông cho
mượn để ngồi giảng đạo và xin ông chèo ra xa một chút để dễ nói với dân chúng.
Miệng lẩm bẩm: “Thế là lại mất một buổi sáng và … mất luôn cả giấc ngủ!”.
Si-môn vừa ngáp dài vừa ngồi bó gối ở cuối thuyền chờ Đức Giê-su giảng xong.
Ông hí hửng định chèo thuyền vào bờ khi thấy Đức Giêsu kết thúc bài giảng.
Nhưng lại một lần nữa, Ngài đề nghị ông chèo thuyền ra xa hơn không phải để
giảng mà là để ….đánh cá. Thế này thì thật quá đáng! Trước mặt bàn dân thiên hạ
mà Ngài chẳng nể nang ông: gián tiếp nhắc lại vết thương lòng của ông là đã
đánh cá thất bại cả đêm qua, trực tiếp dạy khôn ông về việc săn bắt cá - một
người làm nông cả đời bám chặt đất liền lại dám chỉ vẽ chuyện sông nước cho tay
chài chuyên nghiệp!
Nhưng vừa nể Ngài đang được dân chúng ái mộ, vừa muốn chứng tỏ
sự thất bại của mình là có lí nếu lần này ông cũng chẳng bắt được gì, Si-môn
chèo ra chỗ nước sâu. Có ngờ đâu, chỉ trong nháy mắt, tay ông đã buông thõng
xuống vì cá vào lưới quá nhiều. Ông vội vàng hô to gọi các bạn chài ở thuyền
khác đến tiếp sức. Cả đám thanh niên vạm vỡ mới kéo nổi lưới lên thuyền: không phải
vài con cá lòng tong, mà cả hai thuyền đầy những con cá to bằng bàn chân người
và còn lớn hơn thế nữa.
Đến lúc này, Si-môn mới thấy xấu hổ vì đã có những cử chỉ, lời
nói và ý nghĩ không tốt về Đức Giê-su. Không riêng gì ông, mà cả đám bạn như
Gia-cô-bê và Gio-an cũng lặng người đi vì ngạc nhiên: Giê-su chẳng những không
phải là tay mơ về sông nước, mà hình như còn là chủ nhân của sông nước nữa! Bây
giờ, cả đám không còn dám huênh hoang to tiếng nữa, mà chỉ biết lặng lẽ làm
những gì Ngài nói. Họ đưa thuyền vào bờ và đi theo Ngài.
Thật ra, sự chán nản tới mức chỉ muốn bỏ việc và quay về nhà ngủ
nghỉ - sự an phận thủ thường của Si-môn và bạn bè ông rất dễ hiểu và rất dễ
thông cảm. Có ai không buồn bã thất vọng khi đã chuẩn bị tất cả, từ lương thực
cho người tới mồi cho cá, từ thuyền bè tới lưới cá, từ sự hồ hởi phấn chấn
trong tâm hồn tới sự khoẻ khoắn chắc chắn trong thân xác, mà rốt cuộc chẳng làm
được gì, ngoài khoang thuyền trống hoác!
Rồi khi đã có cá, nhiều nữa là khác, đủ hái ra tiền tiêu cả mấy
tháng, ai dại gì ra khơi một lần nữa. Cám ơn Đức Giê-su rối rít, xin lỗi Ngài
tới tấp, nếu cần đãi Ngài mấy bữa ăn liền, là đủ. Nếu sáng nay cả bọn chỉ muốn
yên thân trong giấc điệp là vì hoàn cảnh bắt phải chịu vậy, thì bây giờ cả đám
sẵn sàng an phận vì đã được toại nguyện. Dù có là thanh niên trai tráng, ai
cũng muốn có lúc dừng tay chèo, dừng chân bước để hưởng thụ, để nghỉ ngơi.
Chỉ tiếc đó cũng chính là sai lầm của ông và các bạn ông. Câu
nói của Đức Giê-su: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” không chỉ là một
lời mách nước cho người đánh cá, mà là bí quyết cho mọi thành công trong cuộc
đời. Si-môn thất bại trong lần đánh cá đêm qua, có thể không phải vì chưa ra
khơi tính theo cây số biển, mà là chưa ra khơi tính theo thước đo của sự quyết
tâm trong lòng: tuy đã ra khơi, nhưng mới thử vài keo đã bỏ cuộc. Sau khi đánh
được mẻ cá lớn chưa từng thấy, ông lại tính tới chuyện không “ra khơi” nữa. Ông
chỉ nghĩ tới việc loay hoay trong xó nhà hay cùng lắm, hì hục trên sông nước,
kiếm cá, mua bán, sắm sửa và…chơi. Một lần nữa, Đức Giê-su cho biết Ngài giúp
ông bắt được cá không phải chỉ để như thế thôi, mà để ông nghĩ đến một số phận
mới, một chân trời mới và một kiếp sống khác: đó chính là không chỉ nghĩ cho
mình và gia đình mình, mà còn phải nghĩ tới những người khác, không chỉ nghĩ
đến chuyện mưu sinh, mà còn phải nghĩ đến chuyện hạnh phúc đời đời… Vẫn biết
mỗi lần “ra khơi” như thế là mỗi lần phải đương đầu với những thử thách và bất
ngờ, nhưng tục ngữ Việt Nam có câu: “Không vào hang, làm sao bắt được cọp!”.
Nhất là nếu những lần “ra khơi” ấy là những lần ra khơi do Chúa đề nghị và có
Chúa đi cùng – những lần ra khơi cao đẹp và ý nghĩa!
Tuổi trẻ hiếu kì tọc mạch, tuổi trẻ hăng hái xông pha. Nhưng
tuổi trẻ cũng rất mau nản chí, mau thất vọng và sớm hưởng thụ, cầu an. Thử hỏi
nếu Đức Giê-su không đến khuấy động cuộc đời Si-môn và bạn bè ông, thì cuộc đời
họ và cuộc đời nhiều người đã ra sao? Thử hỏi nếu các ông không chấp nhận cùng
với Đức Giê-su ra khơi, thì cuộc đời họ và cuộc đời nhiều người đã thế nào?
. Gợi ý để suy nghĩ thêm
Hiện nay, tôi thấy mình đang ở trong tình trạng nào: chán nản
thất vọng? buông xuôi để mặc? ích kỉ và lười biếng thụ hưởng? lao đầu vào những
việc không đâu? phấn đấu để thực hiện những điều tốt?
Có bao giờ tôi dám tiến lên thực hiện những điều tốt không:
chẳng bao giờ, vì sợ bị thiệt hại? chỉ một đôi lần, chứ không dám hơn? chỉ khi
nào nắm vững mọi sự trong tay? sẵn sàng nếu thấy Chúa ra hiệu, dù có thể bị
thương tích hay thậm chí bị ngã?
16. Những môn đồ tiên khởi - R. Gutzwiller
Cho đến bây giờ vẫn chỉ có một mình Đức Giêsu giảng Tin mừng.
Bây giờ Ngài tụ tập các môn đệ quanh Ngài. Chắc hẳn đó là một cộng đoàn thính
giả, nhưng cũng là những cộng tác viên mà Ngài cho tham dự tích cực vào công
việc của Ngài. Điều này xem ra có vẻ bất ngờ và ngạc nhiên. Thế nhưng, ngay bản
chất của Thiên Chúa nhập thể đòi hỏi Ngài phải sử dụng con người để xây dựng
Nước Thiên Chúa. Lời mời gọi thật là ý nghĩa bắt đầu nơi Simon Phêrô.
1. Chuẩn bị.
Nơi Simon, thửa đất được chuẩn bị thật kỹ lưỡng, mặc dầu ông
không ý thức được điều đó. Ông có mặt khi Chúa chữa lành người quỷ ám trong hội
đường. Nơi nhà ông, Chúa đã chữa lành bà nhạc của ông và chiều đến, trước cửa
nhà ông, nhiền bệnh nhân đã tìm lại được sức khoẻ một cách lạ lùng. Đây Chúa
Giêsu đang ngồi trên chiếc thuyền đánh cá của ông, nhẹ nhàng đi ra xa bờ và từ
đó, Ngài cất tiếng giảng dạy dân chúng; vị trí đặc biệt này cũng là vị thế của
ông trong lãnh vực thiêng liêng.
Trong việc sửa soạn trực tiếp cho vị Tông đồ có hai phương diện:
đòi hỏi và củng cố.
Yêu cầu thứ nhất là phải luôn dễ dàng suy phục đức tin. Chúa
Giêsu bảo ông ra khơi thả lưới. Phêrô cũng từ chối như bất cứ người nào khác:
ông tuyên bố rõ rằng: mình đã vất vả suốt đêm –thời gian thuận tiện để đánh cá-
cùng các bạn, thế mà chuảng kết quả gì. Bây giờ tại sao lại phải làm nữa, vào
một lúc bất lợi, khi mà con người mệt mỏi và xét theo loài người thì tất bại là
cái chắc!
Nhưng ông cũng thưa: ‘Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới’. Tinh thần
đức tin đưa đến chỗ vâng phục, khiến cho ông được thừa nhận và được ban thưởng
một mẻ cá lạ lùng. Mẻ cá mà Simon và em là Anrê bắt được quá nhiều đến độ ông
phải làm hiệu cho bạn là Giacôbê và Gioan ở một chiếc thuyền khác đến giúp đỡ.
Và cả hai thuyền đầy ắp những cá.
Con người lao công, Thiên Chúa thưởng công. Cần con người phải
ra tay hành động, phải cố gắng, phải sử dụng mọi phương tiện cần thiết, nhưng
trong việc phụng vụ nước Chúa, phần kết quả không tuỳ thuộc ở con người.
Kể từ thời ấy, Giáo Hội rất thường sử dụng mọi phương pháp để
hoạt động tông đồ, dốc toàn lực và kiên trì làm việc; dầu hạt giống đã gieo,
nhưng số thu hoạch không tăng gấp bội.
Ngược lại, khi không, ở một miền nào đó trên trái đất, nơi người
ta chẳng hy vọng gì thì nhiều lần Thiên Chúa lại làm phát sinh một mùa thâu
hoạch thật là phong nhiêu, chỗ mà người ta cho rằng kết quả chẳng có bao nhiêu.
Ở đây trong sự mời gọi thi hành nhiệm vụ khởi đầu của Simon, rõ ràng thành công
hay thất bại đều ở trong tay Chúa, vất cả chỉ có ý nghĩa khi nó hợp với Thánh ý
và giới mệnh của Chúa, thi hành cả lúc coi là có viễn tượng thất bại, nhưng làm
với một niềm tin trung kiên bền vững.
Đòi hỏi thứ hai là ý thức tình trạng tội lỗi của mình. Thánh
Phêrô đã hiểu mẻ cá này có ý nghĩa gì rồi. Nó làm cho ông chú ý đến Đức Kitô
dường như ngôi sao lạ đối với các đạo sĩ, bởi vì mẻ cá nhiều quá đỗi, trong một
khoảng thời gian vắn, một nơi bất lợi, tất cả cho ông biết rằng có sự hiện diện
của một lực siêu nhiên.
Do vậy, Thánh Phêrô có kinh nghiệm về Thiên Chúa nhờ gần gũi với
Đức Kitô. Sự gần gũi này làm ông sợ hãi đến cùng cõi thâm sâu trong người ông,
ông ý thức được tình trạng tội lỗi của mình, đó là cái không thể tồn tại trước
nhan Thiên Chúa. Con người càng cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống,
thì càng thấy cái tôi tội lỗi cua mình biểu hiện ra thật đau khổ và không thể
nào chịu được. Vì đó Thánh Phêrô, đã sụp xuống và sợ hãi thưa: ‘Lạy Chúa xin
hãy xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi’.
Đó hẳn là thái độ xứng hợp. Con người được mời gọi cộng tác vào
nước Thiên Chúa chẳng phải vì có những khả năng đặc biệt như những tư chất tri
thức, điều kiện luân lý và đạo đức, nhưng chỉ đơn giản là vì Thiên Chúa muốn họ
cộng tác, có thế thôi, chứ nơi con người không có chi xứng đáng để Thiên Chúa
phải chọn lựa. Một khi con người biết rằng mình được Thiên Chúa mời gọi không
phải vì ‘mình thế này thế nọ’, nhưng ‘cho dù mình bất xứng, Thiên Chúa cũng
vẫn…’, và nếu thành thực thú nhận rằng mình tội lỗi thì sẽ chẳng quy kết quả và
vinh dự cho bản thân mình nhưng cho duy mình Thiên Chúa mà thôi.
Thế cho nên mẻ cá lạ lùng này là một chuẩn bị tuyệt hảo. Khi con
người tội lỗi tín thác vào sức mạnh và sự cao cả của Thiên Chúa, và bắt tay vào
việc với tinh thần dễ dậy và ngoan ngoãn với đức tin, thì lúc đó họ đang sống
trong chân lý. Mọi thái dộ khác xuất phát từ nguyên một triết lý tự nhiên thôi,
đều phải coi là sai lạc. Chúa Giêsu không đòi hỏi mà thôi, phép lạ của Ngài còn
làm cho Simon và các đồng bạn được vững chắc trong tâm hồn.
Là những ngư phủ thiện nghệ, họ sẽ chẳng bao giờ quên được mẻ cá
này. Họ chưa từng thấy hay kinh nghiệm một trường hợp nào tương tự. Nay bỗng
dưng vào một lúc bất tiện, cả một đàn cá từ tứ phía đổ tràn vào lưới; nay bỗng
nhiên mẻ cá nhiều đến độ hai thuyền chở nặng gần chìm; họ coi đây là hiện tượng
siêu phàm không thể hiểu được.
Sau này khi đi giảng Tin mừng các ông sẽ gặp sự chống đối từ
phía Israel, và sẽ phải từ bỏ dân riêng của mình sau bao năm trường vất vả mà
không kết quả để quay về phía các dân ngoại.
Với một thiểu số ít ỏi, họ đã chinh phục được những thành phố
lớn; đến giờ chịu tử đạo, các ông sẽ phải bỏ mạng sống mình và bỏ tất cả để
chấp nhận một số phận bấp bênh hầu phục vụ nước Thiên Chúa. Thế nhưng các ông
không lầm khi theo Chúa Kitô bởi vì từ nay các ông biết rằng kết quả có thể đến
bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ ở nơi nào, lúc nào tuỳ sự tự do cao cả Chúa định
đoạt. Các ông không còn lo lắng đến thành công hay thất bại, chính Chúa Kitô sẽ
quyết định những điều đó.
Sau những đêm trường vất vả mà công dã tràng, các ông nhận được
những buổi mai vinh thắng. Trong nước Thiên Chúa, vất vả cố gắng không được cân
đo theo những quy luật tự nhiên. Ta hãy tin rằng mọi sự đều ở trong tay Thiên
Chúa; phải luôn luôn thi hành công việc với lòng hy vọng và đừng khi nào thất
vọng.
2. Sứ vụ
Simon nài xin: ‘Lạy Thày, xin hãy tránh xa con’. Chúa Giêsu trả
lời ông theo một hướng trái ngược hẳn: ‘Đừng sợ, các con sẽ là kẻ chinh phục
người ta’. Tạo vật tội lỗi có lý do để sợ hãi. Nhưng ơn sủng của Chúa Kitô sẽ
xua đuổi nỗi lo sợ này. Tội lỗi đẩy ra xa, còn ân sủng kéo lại gần. Không phải
chỉ để vui hưởng yên ủi hay bản thân được cảm nghiệm, nhưng là để tham dự và
cộng tác vào công trình của Chúa. ‘Con sẽ là ngư phủ lưới người ta’.
Chiếc ghe nhỏ của Phêrô từ đây sắp lướt trên đại dương, tức là
lịch sử thế giới, đoàn người đi với Ngài không ngừng tìm cách câu lưới người
ta. Con người sẽ trở nên miếng mồi của Thiên Chúa, nhưng không phải để bị huỷ
diệt, mà là để được giải thoát: để được cứu vớt khỏi cái đầm lầy đáng thương
tức là cuộc sống hoàn toàn có tính cách trần thế, và được đưa sang đại dương
mênh mông tức là tình yêu của Thiên Chúa.
Bởi vì một khi sóng nước đời này muốn làm biển cả thì thực tế
lại chỉ là một cái đầm lầy nước đọng. Chỉ khi nào sa vào lưới của Chúa và rồi
được Ngài cho chìm ngập trong những cuộn sóng ơn sủng, bấy giờ, họ mới có được
cái kinh nghiệm thế nào là sự phong phú của một đời sống trong Chúa.
Để thực hiện chương trình này, Chúa Giêsu sắp chinh phục những
con người mà Ngài sẽ lấy quyền năng của mình để trang bị cho và trao cho nhiệm
vụ ra đi giảng dạy. Do đó không được hoàn toàn quên đến phần đóng góp của con
người để cho rằng một mình Thiên Chúa làm hết mọi sự.
Nhưng thể theo ý của Đức Kitô, Đấng đã sắp đặt như thế chứ không
theo cách khác, những con người này phải chịu vất cả với sự kiên nhẫn, đam mê
kiên trì của một ngư phủ, để đem hiểu biết cũng như tài khéo trong việc đánh
bắt những con người ‘cô đơn’ sử dụng những phương pháp tinh xảo để thu phục đám
đông, dành mọi nỗ lực để phục vụ sứ mạng đã được trao phó.
Không có gì cao quí cho bằng nghề lưới người: phải bắt đầu lại
luôn luôn, hết mẻ này đến mẻ khác… đến với mọi giai tầng xã hội, mọi ý thức hệ
chính trị, mọi phe nhóm quốc gia, chủng tộc.. Mọi tuổi tác, giới phái, trình độ
văn hoá… Các ngư phủ lưới người phải làm việc theo lệnh của Chúa ở khắp mọi
nơi. Đó là sứ vụ của họ.
Vậy họ trả lời ra sao? ‘Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo
Ngưới’. Bản văn không thuật lại một lời phản kháng nào của bốn môn đệ tiên khởi
cả. Không bán tín bán nghi, cũng không từ chối vì thứ khiêm nhường giả tạo,
cũng không vì nhiệt tình bồng bột; nhưng chỉ nhấn mạnh đến hai mặt của sự kiện:
‘Các ông đã bỏ mọi sự mà đi theo Người’. Mỗi một mặt đều có tầm quan trọng
riêng của nó.
Bỏ mọi sự. Con người phải cởi bỏ những mối dây làm mình bị vướng
víu và tê liệt. Cần phải có bàn tay và tâm hồn tự do. Không còn thuộc về thế
giới xung quanh và cái vũ trụ quen thuộc. Chúa Kitô muốn cho kẻ được Ngài mời
gọi cộng tác phải hoàn toàn tuỳ Ngài xếp đặt. Ân huệ tuyệt đối giả thiết sự từ
bỏ hoàn toàn. Nhờ từ bỏ, con người chuẩn bị cho mình thật sẵn sàng.
Đi theo Người. từ nay có một nhóm môn đồ ở với Thầy. Các ông
không theo Ngài kiểu như những học trò thụ giáo một bậc Thầy triết lý: bởi vì
đây không nhằm mục đích tri thức, nhưng là một sự dấn thân thực sự. Chúa Giêsu
đã biến những ngư phủ này thành những ngư phủ lưới người, kéo họ ra khỏi cái
thế giới nhỏ hẹp của họ; họ sắp đi theo Ngài, cùng Ngài đi vào thế giới mênh
mông. Họ thuộc về Ngài hoàn toàn, họ đã khám phá một tâm điểm mới cho cuộc
sống, một mục đích mới để hoạt động.
Giờ đây chính Chúa Giêsu sắp xếp mọi sự cho họ; Chúa Kitô sẽ là
số phận của họ trong suốt cuộc sống của họ trên dương thế, và là cuộc sống mới
của họ. Sau mẻ cá lạ lùng này, họ đã cập bờ nhưng với con người hoàn toàn khác
hẳn. Sự ra đi này biến thành một cuộc vượt biển mới, cuộc Vượt qua bao la và
đòi can đảm mà họ chỉ thoáng linh cảm thấy.
Theo gương Chúa Kitô, qua việc từ bỏ và tận hiến mình thực sự là
điều lớn lao nhất trong cuộc sống của con người.
17. Từ nay anh sẽ bắt người
Suy Niệm
Chẳng ai ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển hướng.
Ông đã có nghề nghiệp ổn định và đã lập gia đình. Thế giới của
ông là hồ Ghênêxarét, là những con cá quẫy đuôi trong lưới, là gia đình cần
phải chăm nom.
Ông yêu vợ con, ông yêu biển cả. Chúa đã đặt ông vui sống trong
thế giới ấy, nên chỉ có Ngài mới có thể kéo ông ra, và bất ngờ đưa ông vào một
thế giới mới, một đại dương bao la hơn nhiều, một gia đình rộng lớn hơn vạn
bội. Chỉ Chúa mới có thể làm trái tim ông say mê một Ai khác, yêu một Ai đó hơn
những người ông đã từng yêu.
Đức Giêsu đã đến với Simon thật tự nhiên. Ngài chọn thuyền của
ông làm nơi giảng dạy. Sau đó Ngài mời ông thả lưới bắt cá, Simon có nhiều lý
do để khước từ. Ông có thể nhân danh kinh nghiệm của mình để thấy tốt hơn nên
chờ dịp khác, hay nại lý do mệt mỏi, sau một đêm ra khơi. Nhưng Simon đã vâng
lời, chỉ vì tin Lời Thầy Giêsu, Lời đầy quyền uy, Lời trừ được quỷ (Lc 4,30).
Lời mạnh mẽ đã chữa cho mẹ ông khỏi bệnh (4,39).
Mẻ cá lạ lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ. Mẻ cá làm Simon run rẩy
nhận ra mình tội lỗi, và nhận ra Đấng ở gần bên. Mẻ cá bất ngờ mở đường cho một
lời mời gọi mới: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt người."
Simon lại có nhiều lý do hơn để từ chối. Chuyện gia đình bề bộn,
tương lai bấp bênh. Kẻ quen bắt cá đâu có khả năng bắt người. Kẻ tội lỗi đâu
xứng với sứ mạng. Nhưng một lần nữa, Simon dám tin vào Lời Chúa, để cho Chúa tự
do lôi kéo mình.
Ông đã bỏ lại bao điều ông yêu mến. Khi bỏ lại hai thuyền đầy
cá, ông tin rằng những mẻ cá mới đang đợi ông.
Chúa vẫn gọi tôi ra khỏi lối mòn quen thuộc, khỏi những điều
tưởng như không thể đổi. Tôi có sẵn sàng lên đường theo Ngài không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Nghe theo tiếng Chúa, buông lưới và gặt hái được một kết quả
không ngờ: có khi nào trong đời, bạn có một kinh nghiệm tương tự như kinh
nghiệm của Simon không?
Theo ý bạn, để sống cho tha nhân, điều gì là khó bỏ hơn cả?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một
người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo
Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy
ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt
Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần
chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm
để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
18. Dựa vào lời Thầy
Suy Niệm
Simon là một giáo dân, có gia đình, có nghề nghiệp. Cuộc đời ông
tưởng như chẳng thể nào đổi thay. Vậy mà ông ngư phủ bộc trực và ít học này lại
lọt vào cặp mắt của Đức Giêsu.
Ngài đã từng đến nhà chữa bệnh cho bà mẹ vợ của ông. Chắc ông
cũng đã có lần nghe Ngài giảng và thấy một số phép lạ Ngài làm. Đôi bên đã quen
biết nhau qua nhiều mối liên hệ đời thường, nên Đức Giêsu rất tự nhiên xuống
thuyền của Simon, và từ thuyền, Ngài giảng cho đám đông lời Thiên Chúa.
Khi giảng xong, Ngài bảo ông thả lưới chỗ nưóc sâu. Đây thật là
một thách đố lớn cho Simon.
Kinh nghiệm dân chài cho ông biết nếu đêm không có cá thì đánh
cá ban ngày cũng uổng công. Vả lại ông và các bạn đã mệt nhoài sau một đêm vất
vả. Lưới đã được giặt và đem phơi...
Nhưng Simon còn có một kinh nghiệm khác, kinh nghiệm về sức mạnh
của Lời Đức Giêsu. Lời đầy uy quyền, lời đuổi được ma quỷ, lời chữa cho mẹ vợ
ông. Thế nên, giờ đây ông dám dựa vào lời Thầy mà thả lưới.
Mẻ cá sau đó là lời đáp của Thầy trước niềm tin của ông.
Điều mà ông đã vất vả tìm kiếm thì không gặp. Còn khi chẳng cố
gắng mấy thì lại được dư tràn. Tràn trề dư dật là dấu hiệu của bàn tay Thiên
Chúa.
Qua mẻ cá kinh khủng, Đức Giêsu tỏ mình cho ông. Ngài cho ông
gặp Ngài và gặp bản thân mình.
Chính lúc đó ông cảm được khoảng cách giữa mình với Chúa. Ông
thú nhận mình là tội nhân trước mặt Đấng Thánh.
Nhưng khi ông muốn Ngài tránh xa ông, thì Ngài lại đến gần ông
để trao sứ mạng. Ngài mở đời ông sang một trang mới:
"Từ nay, anh sẽ bắt sống người ta." Không phải bắt để
làm chết như bắt cá, nhưng bắt để đưa vào cuộc sống mới.
Simon đã trải qua một chuỗi kinh nghiệm với Đức Giêsu: kinh
nghiệm quen biết, kinh nghiệm bị thách đố trong niềm tin, kinh nghiệm thấy Chúa
tỏ mình mình chói lòa qua mẻ cá lạ, kinh nghiệm được gọi và kinh nghiệm đáp
trả.
Kinh nghiệm trước dẫn đến kinh nghiệm sau.
Gặp Đức Giêsu là bước vào một cuộc đối thoại. Chỉ cần đứt một
mắt xích là tương quan đổ vỡ. Simon cứ lớn dần lên sau mỗi bước của lòng tin.
Tin đòi vượt trên lối suy luận thông thường, vượt trên kinh
nghiệm, vượt trên mệt mỏi của xác thân.
Tin đòi tôi ra khơi buông lưới thêm một lần nữa.
Tin đòi tôi bỏ lại tất cả để theo Chúa. Bỏ tất cả là đặt tất cả
dưới Chúa và sử dụng tất cả trong Ngài.
Hôm nay, Đức Giêsu vẫn cần các giáo dân cộng tác. Tôi có dám
bước vào chuỗi kinh nghiệm như Simon không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Có nhiều người đi lễ, nhưng ít người nghe được tiếng mời gọi
cộng tác của Đức Giêsu. Bạn có thấy vai trò quan trọng của giáo dân trong Hội Thánh
không? Họ có thể làm gì và phải làm gì?
Cuộc đời Kitô hữu của bạn có những đêm vất vả mà không được gì.
Bạn đã làm gì để giữ vững niềm tin trong giai đoạn ấy?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một
người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo
Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy
ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt
Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần
chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm
để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
19. “Con sẽ là kẻ đánh lưới người”
Một cái hồ nhỏ, một bến đò nhỏ, một nhà giảng thuyết trẻ, vài
ngư dân mộc mạc. Cuộc phiêu lưu của Giáo Hội mà Luca là người thuật lại đã bắt
đầu như thế. Trong khi mô tả bước đầu này ngài hiểu những chuyến đánh cá người
đầu tiên, những bước đầu của Giáo Hội nơi thế giới ngoại giáo. Và chúng ta, làm
sao chúng ta không nghĩ đến những đám đông các tín hữu?
Nhưng cũng nghĩ đến những đám đông chờ đợi những ngư phủ nữa.
Tin Mừng này là dành cho mỗi một người chúng ta, ngay cả đoạn 10 nổi tiếng mà
vì Tin Mừng đó, đoạn này đã được viết: “Từ nay đây là những người mà con sẽ bắt
lấy”. Đây là những từ ngữ thật sự đánh trúng những thanh thiếu niên đã trở nên
những linh mục và những nhà truyền giáo.
Và có thể đánh trúng những ai trong khi đọc lại trang Tin Mừng
của Luca cảm thấy nổi lên sự nản chí: đánh cá ở đâu và như thế nào đây?
Đây chính là mục tiêu của trần thuật này của Luca: niềm tin vào
Chúa Giêsu như là phương thuốc chống lại sự nản chí. Trong khi khai mào mùa
đánh cá tông đồ lớn lao, Chúa Giêsu nêu bật một sự cảnh cáo đừng nên quên bao
giờ: không có Ta, lưới của các con sẽ trống trơn. Chúng ta không luôn luôn thấy
rõ chân lý cơ bản này ở vào lứa tuổi đôi mươi. Một khi đã dấn thân vào sứ mạng
tông đồ, chúng ta lao nhọc ngày đêm mà không làm việc một cách đầy đủ với Chúa
Giêsu. Chúng ta bỏ không nghe bài giảng, xao lãng các bí tích, chúng ta hoạt
động, chạy vạy và một ngày kia cảm thấy nản lòng: tôi làm cật lực một cách vô
ích.
Làm phương thuốc phòng ngừa, và khi chúng ta muốn thoát ra khỏi
một giây phút nghi ngờ, chúng ta hãy suy niệm trang Tin Mừng này. Đây là trang
Chúa Giêsu tỏ cho thấy chúng ta có thể làm gì khi chúng ta tin cậy vào Ngài.
Ngài chọn điều có thể đánh động nhiều nhất Phêrô và các tông đồ đầu tiên: nghề
nghiệp của họ. Và Ngài làm cho họ bực tức. Ngài là thợ mộc mà đưa ra những lời
khuyên cho những người chuyên đánh cá, và là những người vất vả qua một đêm nỗ
lực nhưng vô ích.
Những nhà chuyên môn trong công tác tông đồ sẽ gặp cảnh này. Cạn
kiệt những nỗ lực vô ích, họ bị cám dỗ có ý phó thác cho Chúa Giêsu, nghĩa là
cho việc cầu nguyện. Và tôi nghĩ rằng mọi Kitô hữu, trong công tác tông đồ hạn
hẹp hơn và không chính thức hơn, có cùng ước muốn xuôi tay hoặc tìm kiếm những
phương pháp khác hơn là chuyên chú cầu nguyện.
Dầu vậy, chỉ có cầu nguyện mới lại mang đến cho chúng ta lòng
nhiệt thành của Phêrô. Là thợ mộc hoặc không phải là thợ mộc, Chúa Giêsu đã
chinh phục ông: “Theo lời Thầy, tôi xin thả lưới”.
Chúng ta sẽ không đưa về những mẻ lưới và những chiếc thuyền đầy
cá. Chúng ta không còn ở vào thời kỳ Chúa Giêsu phải nhờ đến phép lạ củng cố
một niềm tin vừa chớm nở. Nhưng chúng ta biết điều mà con người đã có thể làm
cùng với Chúa Giêsu, qua những mẻ lưới truyền giáo lớn. Chúng ta có quyển Công
Vụ Tông Đồ, những câu chuyện truyền giáo và những hạnh các thánh để làm sống
lại niềm tin của chúng ta. Một mình đức tin, đức tin có thể làm cho chúng ta
thành các tông đồ làm việc cật lực nhìn lên Ngài “theo lời Thầy, tôi xin thả
lưới”.
20. Cuộc phiêu lưu
Chúng ta vừa nghe qua câu chuyện phiêu lưu của ba nhân vật quan
trọng nhất của Thánh Kinh, đó là Isaia, Phaolô và Phêrô. Cả ba đã gặp Chúa
trong những biến cố lạ lùng, để rồi sau đó đã hy sinh cả cuộc đời cho Ngài. Vậy
thì cuộc phiêu lưu ấy như thế nào?
Đối với Isaia, Thiên Chúa đã kêu gọi ông trong một thị kiến khác
thường. Ông thấy vinh quang Thiên Chúa bằng một cảnh sắc hùng vĩ, với các thiên
thần đứng chầu và không ngớt tung hô. Một cảnh tượng uy nghiêm và trang trọng.
Đối với Phaolô, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ông một cách trực
tiếp hơn. Sau khi đã kể lại những người đã được Đức Kitô phục sinh hiện đến,
ông cũng cho biết là Đức Kitô cũng đã hiện ra với ông vì lúc đó ông đang bắt bớ
Giáo hội, nhưng là do tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy. Lần hiện ra này đã là một
biến cố quan trọng trong đời sống của ông.
Còn Phêrô và các bạn thì đã bị bắt lấy đang lúc làm việc và đã
thấy được quyền năng của Đức Kitô qua mẻ cá lạ lùng. Biến cố đó đã làm cho ông
và các bạn ông tin theo Ngài. Như vậy, Thiên Chúa đã dùng ba cách thức khác
nhau để mạc khải, để tỏ lộ mình ra.
Đối với Isaia thì Thiên Chúa là một Đấng vinh quang. Đối với
Phaolô thì Đức Kitô là chủ của sự sống, còn đối với Phêrô, thì Ngài là Chúa của
tạo vật. Đối với mỗi vị, Ngài tỏ ra là một người khác, vừa thu hút lại vừa chế
ngự. Vừa có vẻ như xa xôi nhưng lại rất gần gũi. Gặp gỡ họ bằng những lời mời
gọi mãnh liệt nhất và trong những gì là sâu xa nhất. Ngài đến với họ như để
hoàn thành một cách sung mãn niềm ước mơ đã có từ lâu trong tâm hồn họ.
Đồng thời trong cuộc gặp gỡ này, cả ba đều có cùng một phản ứng,
vừa bất ngờ lại vừa mạnh mẽ. Các ông đều cảm thấy mình bất xứng và hổ thẹn.
Isaia đã kêu lên:
- Vô phúc cho tôi, tôi chết mất vì lưỡi tôi nhơ bẩn.
Phaolô thì tự thú:
- Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ và không xứng
đáng với danh hiệu ấy, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa.
Còn Phêrô thì thưa lên với Chúa Giêsu rằng:
- Lạy Thầy, xin Thầy hãy xa tránh tôi vì tôi là kẻ tội lỗi.
Giữa lý tưởng cao cả mời gọi họ và con người yếu đuối của họ có
một hố sâu cách biệt, làm cho họ cảm thấy mình bất lực và muốn đẩy Thiên Chúa
ra xa. Trước mặt Thiên Chúa, con người đều cảm thấy sợ hãi và xấu hổ. Thế nhưng
chính Ngài sẽ hành động để nâng đỡ sự yếu hèn của con người.
Miệng lưỡi của Isaia đã được tinh luyện bằng than hồng. Phaolô
được biến đổi bởi ơn Chúa. Còn Phêrô, người đánh cá xui xẻo,. thì cảm thấy như
được an tâm để dấn thân vào công việc mới. Như thế mỗi người đều được Thiên
Chúa tái tạo và chấp nhận vào chính lúc mà họ cảm thấy bất xứng và thất vọng
nhất. Từ đó họ cảm thấy cả con người và cuộc đời họ lệ thuộc vào Thiên Chúa.
Nên họ hoàn toàn phó thác, để Thiên Chúa thực hiện những gì Ngài mong muốn nơi
họ. Họ chỉ còn biết theo Ngài và tuân phục Ngài.
Để đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, thì Isaia đã trả lời:
- Này tôi đây, xin hãy sai tôi.
Phaolô thì nói:
- Tôi đã chịu khổ nhọc nhiều hơn những người khác.
Còn Phêrô và các bạn thì đã bỏ chài lưới, ghe thuyền mà đi theo
Chúa Giêsu.
Sự sợ hãi đã nhường chỗ cho niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên
Chúa. Tin tưởng vì Thiên Chúa chính là tất cả những gì chúng ta muốn và Ngài sẽ
làm cho chúng ta trở nên như thế, vì nếu không có Ngài chúng ta không là gì cả.
Cuộc phiêu lưu của ba đấng trên đây, phải chăng cũng là cuộc
phiêu lưu của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách.
Thiên Chúa đến với chúng ta bằng nhiều ngả đường.
Vì thế, cần phải chăm chú lắng nghe và tìm hiểu. Có những lúc
chúng ta cảm thấy bối rối và lo sợ, nhưng đừng vội thất vọng ngã lòng, bởi vì
Chúa sẽ nâng đỡ và phù trợ. Điều cần thiết đó là, hãy sẵn sàng từ bỏ và vâng
phục Ngài.
21. Mẻ lưới
Sau khi kết thúc bài giảng của mình, Chúa Giêsu nói với Phêrô
rằng:
- Hãy ra khơi và thả lưới.
Và chúng ta đã thấy được phản ứng tức thời của Phêrô. Ông nói:
- Thưa Thày, chúng con đã vất cả cực nọc suốt đêm mà chẳng bắt
được một con cá nào. Nhưng vâng lời Thày, chúng con sẽ thả lưới.
Qua lời nói này, chúng ta thấy được thái độ của Phêrô. Ông không
tranh luận và bàn cãi với Chúa Giêsu về những kinh nghiệm nghề nghiệp của mình,
trái lại ông hoàn toàn tin tưởng và vâng phục, chính vì thế mẻ cá lạ lùng đã
xảy ra. Đồng thời, nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ tự hỏi: các ông đã làm lụng vất vả
suốt đêm, tuy nhiên các ông đã làm lụng như thế nào?
Tôi xin thưa:
- Các ông đã làm lụng một mình.
- Và kết quả ra làm sao?
Tôi xin thưa:
- Chỉ là một con số không.
Với chúng ta cũng vậy. Nếu chúng ta làm việc một mình, có nghĩa
là chúng ta quá ỉ vào sức riêng, quá cậy dựa vào tài năng của mình, để rồi thất
bại sẽ làm cho chúng ta bực bội và thất vọng. Trái lại, với tâm tình cầu nguyện
và tin tưởng, chúng ta hãy mời Chúa cùng làm với chúng ta và chúng ta sẽ thấy
mọi sự tốt đẹp hơn nhiều, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:
- Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn không có
Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Hay như Thánh vinh đã nói:
- Ví như Chúa chẳng xây nhà,
Thợ nề vất vả chỉ là uổng công.
Thành trì Chúa chẳng giữ trông,
Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
Và chính Chúa cũng đã xác quyết:
- Không có Thày, các con không thể làm gì được.
Tiếp nối đoạn Tin mừng, chúng ta thấy sau mẻ cá lạ lùng ấy, các
môn đệ đã đi từ ngạc nhiên đến sợ hãi. Trong khi đó, Phêrô đã quì xuống dưới
chân Chúa và thưa lên với Ngài:
- Lạy Thày, xin hãy xa con vì con chỉ là một kẻ tội lỗi.
Phải chăng đây là một tiếng kêu xuất phát từ cõi lòng khiêm
nhường của ông, khiến chúng ta liên tưởng tới lời nói của viên đội trưởng:
- Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con.
Chúa Giêsu không những đã không rời xa Phêrô, trái lại Ngài đã
yêu thương và dành cho ông một sứ mạng:
- Từ nay con sẽ trở thành kẻ chài lưới người ta.
Và Phúc âm đã kết thúc: các ông cho thuyền vào bờ, rồi sau đó đã
từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu. Một vài câu ngắn ngủi này đã nói lên tất
cả. Các ông đã trở thành những mẫu gương sáng chói cho muôn đời noi theo, bởi
vì qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người cũng đã từ bỏ mọi sự, bước theo
Chúa trên dấu chân của các ông.
Lời Chúa phán với các ngư phủ bên bờ hồ Tibêriade ngày xưa vẫn
còn vang vọng tới chúng ta cho đến hôm nay:
- Các con hãy ra khơi và thả lưới.
Vâng theo lệnh truyền ấy, biết bao nhiêu vị tông đồ đã đi tới
những vùng đất xa xôi hẻo lánh để rao giảng Tin mừng Phúc âm, thực hiện những
hành động bác ái yêu thương hầu giúp đỡ những kẻ khốn cùng.
Riêng chúng ta thì sao? Là những người dân ở hậu phương, chúng
ta có bổn phận phải yểm trợ cho các chiến sĩ ngoài tiền tuyến bằng lời kinh cầu
nguyện, bằng đời sống gương mẫu, bằng những hy sinh gặp phải cũng như bằng
chính tiền bạc vật chất, để hoạt động của các vị thừa sai gặt hái được những
thành quả tốt đẹp, và bản thân chúng ta, dưới một góc độ nào đó, cũng sẽ trở
nên những người thợ gặt trên cánh đồng truyền giáo.
Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì để góp phần nhỏ bé vào
công cuộc truyền bá đức tin của Giáo hội? Chúng ta có thực sự muốn ra khơi và
thả lưới hay không?
22. Mẻ cá lạ
Chúa Giêsu là một người đã sinh ra ở trần gian thì Chúa chỉ có
thể sống ở trần gian một thời hạn nào đó, và chúng ta đã biết là 33 năm, rồi Chúa
đã về trời. Nhưng đạo lý của Ngài, sự nghiệp của Ngài, cần phải được duy trì và
loan truyền khắp nơi, nên Chúa phải nghĩ đến chuyện tuyển chọn những người cộng
tác, để ở với Ngài, đi theo Ngài, tham dự vào sinh hoạt của Ngài, tiếp thu giáo
huấn của Ngài và chứng kiến các việc Ngài làm… để sau này trở thành những người
tiếp tục duy trì và truyền bá công cuộc cứu độ mà Ngài đã khởi đầu.
Chính vì thế khi bắt đầu công khai giảng dạy, chúng ta thấy việc
trước hết Chúa làm là kêu gọi một số môn đệ. Những môn đệ đầu tiên đó là Phêrô,
Anrê, Giacôbê và Gioan. Các ông này đã đi theo Chúa nhưng chưa một ai quyết
định dứt khoát bỏ mọi sự đi theo luôn. Nên theo Chúa được một thời gian các ông
lại trở về nghề nghiệp cũ là chài lưới đánh cá. Vậy là các ông chưa hiểu ơn gọi
và sứ mạng cao cả Chúa muốn trao phó cho các ông.
Hôm nay, một lần nữa, Chúa lại kêu gọi các ông và nói cho các
ông biết sứ mạng quan trọng Chúa muốn trao phó. Để các ông vững tin vào Chúa,
Chúa đã cho các ông chứng kiến một phép lạ, và qua phép lạ này các ông sẽ hiểu
sứ mạng của mình hơn. Phép lạ này xảy ra vào quãng đầu cuộc đời công khai giảng
dạy của Chúa Giêsu, tức là khoảng đầu năm 28, xảy ra ở bờ hồ Tibêria, gần
Bếtsaiđa, quê hương của bốn tông đồ đầu tiên. Đó là phép lạ Chúa Giêsu cho các
môn đệ bắt được nhiều cá.
Hồ Tibêria còn được gọi là hồ Ghennêxarét, có nhiều cá. Người ta
thường đánh cá về đêm. Nhưng đêm ấy, các tông đồ đã thả lưới thâu đêm mà không
bắt được gì cả. Nghề đánh cá có nhiều may rủi, cay cực. Nghề đánh cá phải chấp
nhận sống giữa thiên nhiên với cuồng phong bão tố sóng cả. Phải chấp nhận sống
bồng bềnh trên chiếc thuyền tròng trành tối ngày. Cuộc sống phải lấy đêm làm
ngày là chuyện thường. Các môn đệ cũng thế, sau một đêm vất vả nhọc mệt mà
chẳng được gì. Giờ đây các ông ngồi giặt lưới, rũ lưới, rồi đợi chờ chiều tối
thuận tiện sẽ lại ra khơi.
Nhưng giữa lúc ấy Chúa bảo: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả
lưới bắt cá”. Các ông vâng lời Chúa ngay và bắt được rất nhiều cá quá sức mong
tưởng, là hai thuyền đầy đến nỗi gần chìm. Dù các tay chài thiện nghệ đến đâu
cũng phải kinh ngạc và công nhận đó là phép lạ. Một điều này thôi cũng đủ minh
chứng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng quyền phép vô cùng. Trước phép lạ tỏ
tường này, Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Từ nay các anh sẽ là người thu phục
người ta”, nghĩa là những người có sứ mạng đi thu họp người ta để đưa vào Nước
Thiên Chúa. Thế là từ lần kêu gọi này các ông quyết định dứt khoát từ bỏ mọi sự
đi theo Chúa để thực thi sứ mạng đó.
Bài Tin Mừng này rất phù hợp với khẩu hiệu của đại hội giới trẻ
Công giáo toàn cầu tổ chức tại Manila, Philippin, từ ngày 10 đến 15 tháng một
năm 1995. Khẩu hiệu duy nhất của đại hội do chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II chọn là “Như Cha đã sai Thầy đi thế nào, Thầy cũng sai chúng con đi như
vậy”. Đức Giáo Hoàng đã dùng lời Chúa Giêsu làm khẩu hiệu như một lời hô hào
gửi đến giới trẻ Công giáo toàn cầu, và cũng cho tất cả mọi Kitô hữu nữa.
Đức Kitô được Chúa Cha sai đến trần gian để công bố và thiết lập
Nước Trời. Đức Kitô đã hoàn thành sứ mạng đó. Và trước khi về trời Ngài lại
trao sứ mạng đó cho các tông đồ: “Các con hãy đi khắp nơi giảng dạy cho muôn
dân”. Các tông đồ đã đóng vai trò chài lưới người. Các ngài đã ra đi rao giảng
và cũng đã chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Nối tiếp các tông đồ, hiểu theo sát nghĩa,
đã có biết bao người hiến thân làm tông đồ, rao giảng Tin Mừng để phụng sự Chúa
và phục vụ tha nhân. Nhưng hiểu một cách rộng rãi, tất cả chúng ta đều là tông
đồ của Chúa. Điều này Công đồng Vaticanô II đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần: mỗi
Kitô hữu là một tông đồ của Chúa. Tất cả chúng ta đều được Chúa truyền phải làm
mọi cách để chinh phục người ta về cho Chúa.
Người giáo dân thực thi mệnh lệnh này có hiệu quả hơn các linh
mục, tu sĩ. Bởi vì các linh mục, tu sĩ đâu có đến các gia đình hay gặp gỡ được những
người không có đạo, và họ cũng đâu có đến nhà thờ để nghe các linh mục giảng.
Chính các giáo dân là những tông đồ cụ thể, trực tiếp và hữu hiệu nhất. Vậy anh
chị em hãy suy nghĩ, hãy cố gắng hơn nữa, để đời sống của anh chị em, cách giao
tiếp, gặp gỡ của anh chị em vừa làm chứng cho Chúa, cho đạo, vừa là động lực
lôi kéo hay thúc đẩy người ta đến với Chúa.
Riêng các bạn trẻ, các bạn cũng hãy sẵn sàng muốn được sai đi
xây dựng Nước Trời. Đối với phần đông giới trẻ Công giáo hiện nay, Nước Trời
được nhìn như một cuộc sống hạnh phúc phần xác và phần hồn. Muốn dấu chỉ của
Nước Trời được nhìn thấy trong cuộc sống, các bạn trẻ hãy cố gắng làm sao để
cái tốt, cái đẹp của Nước Trời được thể hiện ngay trong đời sống cá nhân và gia
đình các bạn. Nếu mỗi người chúng ta cố gắng sống được như thế thì Nước Trời
đang ở giữa chúng ta.
23. Ơn gọi
Cả ba bài đọc của Chúa nhật V Mùa thường năm C đều quy về một đề
tài chính là “Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi con người”. Ngài không để cho những
yếu hèn của người được gọi cản trở chương trình hành động của Ngài, nhưng Ngài
ban hồng ân tràn đầy và một biến đổi người được chọn trở thành dụng cụ thích
hợp: “Đừng sợ, hãy theo Ta, từ nay con sẽ là kẻ đánh cá người”. Lời này xưa kia
Chúa đã nói cho thánh Phêrô, nhưng không những cho Phêrô mà thôi, mà còn cho
tất cả mọi tín hữu là những kẻ tin nhận Ngài. Ngài kêu gọi từng người một với
những khả năng, nhất là với những khuyết điểm, những bất toàn để rồi Ngài biến
đổi họ trở thành những kẻ làm chứng cho Ngài.
Nơi bài đọc 1 chúng ta nhận thấy rằng, trước khi kêu gọi vị tiên
tri, hoặc trước khi kêu gọi một ai đến theo Chúa thì Thiên Chúa đến với người
đó, cho họ được cảm thấy Ngài, được cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài trong đời
sống người đó và ban ơn thánh như than hồng cháy đỏ trong thị kiến để thanh tẩy
và biến đổi đương sự vừa được gọi trở thành hữu dụng hơn.
Khởi đầu của ơn gọi là kinh nghiệm sống động về ơn Chúa, là
những lúc nói được là sốt sắng nhất. Lúc khởi đầu, người được gọi còn sốt sắng
trong ơn gọi, vì còn cảm thấy như gần gũi Thiên Chúa, sống bên cạnh Ngài. Nhưng
rồi trong cuộc đời theo Chúa có những thử thách đen tối, điều quan trọng là
đương sự được gọi còn trung thành với ơn Chúa ban, và đây là trường hợp của
thánh Phaolô tông đồ như được gợi lại nơi bài đọc 2 của thánh lễ Chúa nhật V
mùa thường.
Thánh Phaolô đã được gọi sau rốt, nhưng không vì công nghiệp và
tài năng của ngài, mà vì tình thương nhưng không của Thiên Chúa. Lúc đó ngài
đang đi lùng bắt những đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô trên đường tiến về Damas,
nhưng rồi Chúa đã tìm đến Phaolô, từ đó Phaolô đã không bất trung với ơn Chúa
đến độ thánh nhân đã viết và chúng ta đọc lại trong thơ của ngài như sau: “Ơn
Chúa đã không trở thành vô ích nơi tôi, nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay”.
Nơi bài Phúc âm trích từ Phúc âm thánh Luca, chúng ta cũng quan
sát thấy cùng một kinh nghiệm tôn giáo về ơn gọi đã xảy ra, đó là việc Chúa
thực hiện một phép lạ để rồi nhờ phép lạ này mà Phêrô nhận ra sự hiện diện của
Chúa và thốt lên: “Thưa Thầy, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội”.
“Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội”. Trước nhan
Thiên Chúa ai là người vô tội hoàn toàn? Thiên Chúa tìm và kêu gọi con người,
Ngài không để cho những yếu đuối của người được gọi cản trở chương trình hành
động của Ngài, nhưng ban hồng ân tràn đầy để biến đổi người được chọn trở thành
dụng cụ thích hợp.
“Đừng sợ, hãy theo Ta, từ nay con sẽ là kẻ đánh cá người”. Thật,
kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa Đấng trọn tốt trọn lành, và đồng thời cho
con người vừa được gọi ý thức về thân phận yếu hèn tội lỗi của mình không xứng
đáng được gọi, nhưng vì Chúa đã trấn an Phêrô và từ đó không bao giờ ngưng trấn
an những kẻ Ngài gọi: “Đừng sợ, con sẽ là kẻ đánh cá người”.
Ơn Chúa sẽ biến đổi người đồ đệ, nhưng liệu chúng ta có đủ sức
can đảm đi đến cùng để cho ơn Chúa biến đổi cuộc sống mình hay không? Liệu
chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: Ơn Chúa không trở thành vô ích nơi tôi
hay không? Nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay, như là tông đồ của Chúa, mặc dù
tôi đã là kẻ tội lỗi, bắt bớ những tín hữu của Chúa.
24. Ơn gọi
Phụng vụ lời Chúa hôm nay trình bày những phản ứng khác nhau của
con người phàm tục khi đối diện với Đấng Thiên Chúa thánh thiêng qua con người
và sứ vụ của Đức Giêsu. Con người do kinh nghiệm dạn dày của một đời dấn thân
vào mọi khoảnh khắc thăng trầm của cõi nhân sinh, đã từng vào sinh ra tử nơi
những trận tuyến dữ dội nhất của xã hội loài người, đã nếm trải mọi vinh nhục
của lòng dạ người đời. Có lẽ đầy xác tín và sẽ mãi bám chặt lấy kinh nghiệm bản
thân theo góc độ có thể định hình. Đó có thể là một thế giới quyến rũ, một nhân
loại hồn nhiên mở ra những khả năng vô hạn cho công trình xây xây nên một địa
đàng tương lai. Đó có thể là một đấu trường dữ dội nơi sàng lọc các giá trị, nó
ưu đãi cho sức mạnh của trí tuệ, của thế lực, của vật chất. Đó có thể là một
bãi tha ma, một đống đổ nát điêu tàn của mọi ước mơ, nơi chôn vùi mọi giá trị
hão huyền, mọi toan tính thành tâm thiện chí, mọi khát vọng công bằng, hòa
bình, yêu thương, để cuối cùng trơ ra một thế gian trần trụi, chết chóc, tanh
hôi, một mảnh vườn hoang vô chủ, một mảnh đất màu mỡ mọc lên đủ mọi thứ gian tà
ác độc. Đó là một thế giới đã bị nguyền rủa. Đó là một nhân loại đã bị nhiễm
độc không còn hy vọng tìm ra lối thoát.
Đức Giêsu đến đề nghị giải pháp của Người cho một thế giới mới,
một nhân loại mới dựa trên nền tảng của giá trị Tin Mừng. Công cuộc Người dự
định là qui tụ cộng đoàn nhân loại đã được phục hồi những giá trị nhân bản và
tâm linh nguyên thủ qua quá trình hoán cải để hình thành một thể chế mới họa
theo mẫu cộng đoàn Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Đó là một thể chế của
Thiên Chúa, hay đúng hơn một gia đình của Thiên Chúa là nơi để yêu thương, để
trao ban và đón nhận yêu thương không còn mức độ, không còn giới hạn và theo
một chu kỳ vô tận.
Phản ứng của con người ra sao trước kế hoạch của Đức Giêsu?
Thưa, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào.
Chúng tôi đã vất vả suốt đêm, rõ ràng là rất tự tin, rất xác tín nơi kinh
nghiệm và hiểu biết của mình mà không bắt được gì cả. Liệu công cuộc và nỗ lực
của Thiên Chúa có sinh được kết quả gì hơn những cố gắng của nhân loại không?
Nhân loại đã có thừa mứa tiện nghi, cuộc sống đã và còn tiếp tục tự lập, tự mãn
trên đà tiến khoa học kỹ thuật. Lời giảng của Chúa liệu sẽ đem đến điều gì đáng
ước mơ hơn những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đang thụ hưởng?
Đường hướng của Chúa liệu có thay đổi được cục diện giống gần như đã được cài
đạp, đã được chương trình hóa của thế giới, của nhân loại hay không?
“Nhưng vâng lời Thầy, chúng tôi sẽ thả lưới”. Kể cả khi không
còn lựa chọn nào khác, con người vẫn tỏ ra miễn cưỡng, không mảy may tin tưởng,
hy vọng nơi công cuộc thực hiện nhân danh Chúa. Thế nhưng, để rồi xem Đức Giêsu
có kế hoạch của Người. Là Thiên Chúa, hơn ai hết, hơn mọi trí tuệ của phàm
nhân, Người tiên liệu tất cả mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện, mọi khí hậu, mọi
chuyển vận của cuộc đời và của con người, để chương trình yêu thương và cứu độ
của Người phải nhất thiết thành tựu và thành tựu mỹ mãn.
Không cần thiết nữa, bất cứ một lý do thối thoát nào như trường
hợp của ngôn sứ Isaia: “Khổ thân tôi vì miệng tôi ô uế”, hay như ông Simon
Phêrô: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ có tội”. Thái độ hợp tình hợp
lý nhất có lẽ là con người nên khiêm tốn nhập cuộc vào kế đồ đại nghĩa của Đức
Giêu, như cung cách của thánh Phaolô: “Tôi có gì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và
ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”.
Đó là phản ứng thuận ý trời hơn hết để có được những mẻ cá lạ
lùng.
25. Mầu nhiệm
Bài Tin Mừng hôm nay có tên gọi truyền thống là “mẻ cá lạ lùng”
qua việc Chúa gọi Simon từ kẻ “lưới cá” Ngài đã làm cho ông trở nên kẻ “lưới
người”. Qua hành trình ơn gọi ta thấy Chúa thử thách Simon, ông tin tưởng cậy
trông vào Chúa và cuối cùng Chúa đã thương chọn ông trở thành tông đồ của Ngài.
Hôm nay là Chúa nhật V Mùa thường niên tôi xin kính mời quí ông
bà anh chị em cùng với tôi lần mở lại trang Tin Mừng để tìm hiểu về hành trình
ơn kêu gọi của mỗi người chúng ta trong cuộc sống hiện tại.
Phúc âm kể lại: đang khi Simon giặt lưới, tranh thủ nắng để phơi
lưới, thế mà Đức Giêsu lại bảo ông bỏ việc riêng đó mà chèo thuyền ra xa bờ một
chút để Ngài rao giảng. Rõ ràng đây là một thử thách nhắm đến tinh thần vâng
phục, nhưng mới chỉ là thử thách lần đầu, phải bỏ mình.
Rồi khi giảng xong, Ngài lại bảo ông chèo thuyền ra khơi thả
lưới. Đây là thử thách thứ hai ta thấy nặng ký hơn lần đầu. Vì Đức Giêsu không
biết gì về nghề chài lưới, thế mà lại bảo Simon là một người chuyên về nghề
chài lưới, chèo thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Đây là một điều vô
lý hết sức: “Múa rìu qua mắt thợ”. Thả lưới cả đêm mà không bắt được một con cá
nào. Thả lưới ban ngày làm gì có cá. Nhưng Simon lại phải bỏ mình “vâng lời
Thầy, tôi sẽ thả lưới, chứ ai khác thì… còn khuya!”
Quả thật, vì nể Thầy, Simon thả lưới. Cuối cùng các ông đã bắt
được rất nhiều cá đến nỗi hầu như rách lưới. Đến lúc này Simon rất mệt vì đã
vất vả suốt đêm, mà giờ này cá quá nhiều, một mình không làm gì được. Ông phải
nhờ đến các bạn đồng nghiệp đến giúp đỡ ông. Đây là thử thách thứ ba Chúa đòi
hỏi Simon phải bỏ mình sống tương quan liên đới với anh em. Nhưng qua những lần
thử thách, Simon đặt niềm tin vào Thầy thế nào?
Trước hết, nhờ kinh nghiệm sống thân mật bên Thầy mấy tuần trước
đó, Simon đặt hết tin tưởng vào Thầy: ông ra khơi thả lưới.
Lòng tin và sự vâng phục của Simon được tưởng thưởng tức khắc.
Nhờ quyền năng phi thường Chúa Giêsu chỉ cho Simon phải thả lưới chỗ nào để
chắc chắn bắt được nhiều cá.
Một mẻ cá như thế, giữa ban ngày, ngay mẻ lưới đầu tiên, sau một
đêm tốn công vô ích; đối với những ngư phủ rành nghề, quả là một việc khác
thường.
Sau đó, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người
rằng: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là người tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ
cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh
ngạc.
Simon đã từng chứng kiến phép lạ ở Cana, nhưng phép lạ này có
liên quan mật thiết tới cá nhân ông, khiến ông bị xúc động mạnh. Ông thấy Thiên
Chúa hiện diện ngay bên ông khiến ông có thể cảm nghiệm, sờ được. Bài đọc 1
cũng cho ta biết: ngày xưa Isaia khi nghe Chúa gọi, khi chiêm ngưỡng Thiên Chúa
ngự trên ngai lửa, đã la hoảng lên:”… khốn thân tôi, tôi chết mất vì miệng lưỡi
tôi nhơ bẩn, mà mắt tôi đã thấy Giavê.
Simon cũng kinh hãi ông quỳ xuống chân Thầy và nói “Lạy Chúa,
xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”, nhưng Chúa Giêsu bảo ông Simon rằng:
“Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Như vậy, nhờ vào lòng
tin và vâng phục Phêrô đã được Chúa tuyển chọn. Qua Bí tích Rửa tội đã làm cho chúng
ta trở nên con cái của Thiên Chúa. Như thế, mỗi người chúng ta sống ơn gọi của
mình như thế nào?
Đối với những người sống trong bậc gia đình phải chu toàn trách
nhiệm của mình là nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Khi nói đến vấn đề giáo dục
con cái ngày nay là một vấn đề rất khó khăn, chắc chắn rằng cha mẹ sẽ gặp nhiều
thử thách. Vì thế, trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải biết vượt qua
những thử thách đó và thêm tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Cách
riêng, những người đang theo đuổi ơn gọi sống đời tận hiến, bài Phúc âm mời gọi
chúng ta hãy lạc quan tin tưởng vào tình yêu của Đức Kitô, sống tốt giây phút
hiện tại của mình. Kiên trì vượt qua thử thách, thêm tin tưởng vào Chúa. Vì
hành trình ơn gọi của mỗi người không do một mình chúng ta thực hiện, nhưng
luôn có Chúa cùng đồng hành với ta.
Một mình Phêrô không bắt được gì cả; nhưng có Chúa giúp, Phêrô
đánh được một mẻ cá lạ lùng.
Gioan Vianney khi còn là chủng sinh đã học hành rất chậm. Ngày
kia, một cha giáo vâng lời bề trên địa phận đến khảo hạch xem Vianney có đủ khả
năng làm linh mục hay không? Tuy đã cố gắng học hành chăm chỉ, nhưng Vianney
vẫn không trả lời được bất cứ câu hỏi nào cho trôi chảy. Tức giận, vị giáo sư
đập bàn và nói “Vianney, anh thật dốt đặc như một con lừa! Với một con lừa như
anh, thử hỏi Hội thánh sẽ hy vọng làm được gì đây?” Sau một giây suy nghĩ,
Vianney khiêm tốn và bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, theo ý con: ngày xưa Samson
chỉ dùng một cái xương hàm của con lừa mà đánh bại được 3000 quân Philitinh.
Vậy thì với cả một con lừa như con, chẳng lẽ Thiên Chúa lại không làm được việc
gì hữu ích hay sao?
Quả thật, con lừa Vianney của Thiên Chúa đó sau này không những
đã trở thành cha sở họ Ars, mà còn là một người nhân đức thánh thiện, làm ích
rất nhiều cho Chúa và các linh hồn.
Qua tấm gương của cha Vianney, ngài đã sống trọn vẹn ơn gọi của
ngài. Ước mong mỗi người chúng ta cũng xem lại việc sống ơn gọi trong bậc sống
của mình và khi gặp thử thách xin cho chúng ta biết tin cậy vào sự quan phòng
của Chúa.
26. Tuân theo Thiên Ý - Chìa khóa hạnh phúc
(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
“Vâng lời Thầy, con xin thả lưới” (Lc 5:5b).
“Hạnh phúc là nỗi khao khát triền miên có mặt trong từng hành
động của con người.” Một nhà tư tưởng đã nói như thế. Tuy nhiên, trong thực tế,
ai cũng nhận rằng dường như lúc nào khổ đau cũng nhiều hơn hạnh phúc. Nước mắt
khi nào cũng đầy hơn tiếng cười. Tại sao vậy?
Tại sao đi tìm hạnh phúc mà cứ như đi bắt cái bóng, còn sự hiện
hữu đích thật của hạnh phúc thì vẫn trốn ở nơi nào? Tại sao bao nhiêu người
“thương” nhau lắm, những bất đồng thế nào cũng không màng, cha mẹ đôi bên có
phản đối can ngăn cũng không xong? Họ cứ lấy nhau… Ấy thế mà, khi được vài mặt
con, có người thẳng thừng tuyên bố: “Tôi chẳng có chút tình yêu nào với người
ấy cả.”
Tại sao có người tu đã bao năm, tưởng rằng đắc đạo lắm, thế mà
cũng có khi cởi áo nhảy rào? Phải chăng không có hạnh phúc thật trên cõi đời
này? Hay vì “đời là bể khổ” nên đụng đâu cũng khổ sầu và nước mắt?
Thiết tưởng một câu trả lời đúng cho những câu “tại sao” trên
đây sẽ là: vì con người đi tìm hạnh phúc nhưng cứ lẫn lộn mù mờ giữa những gì
là tương đối với tuyệt đối, phương tiện với đích cùng, hữu hạn và vô hạn.
Có người đã nhận xét: “Sống trên đời, ai lại không cần tiền”.
Thế nhưng khi hỏi tiền là phương tiện hay cùng đích thì ai cũng bảo tiền là
phương tiện. Ấy vậy mà trong thực tế, biết bao người đã lấy tiền làm mục tiêu
sống và giá trị trên mọi thứ giá trị, nên đã bất chấp nhân phẩm, luân lý, tình
người, và những liên hệ thiêng liêng cao quí, miễn sao có tiền là được. Bao
nhiêu quan hệ vợ chồng, cha mẹ, anh em bị sụp đỗ tan nát cũng vì người ta nhìn
tiền là cùng đích chứ không phải phương tiện, tuyệt đối chứ không phải tương
đối. Thế nên khổ đau và nước mắt là ở chỗ đó.
Một câu trả lời khác khả dĩ giải đáp cho các câu hỏi “tại sao”
trên đây và giúp con người tìm được bình an cùng niềm vui sống sẽ là: vì người
ta cứ chạy theo ý mình mà không hề nhận biết và vâng theo ý Chúa. Nếu như có ai
đó có lòng kết hợp mật thiết với Thánh ý Thiên Chúa, thì chắc chắn, dù gặp bao
nghịch cảnh gian nan trước mắt thế gian, họ vẫn là người bình an và hạnh phúc
hơn thế gian suy tưởng.
Trong Thánh Kinh Cựu ước có hình ảnh nào khốn nạn và đau khổ như
ông Gióp. Một người công chính, đang sống đời hạnh phúc giàu sang, thình lình
đau thương ập xuống. Gia đình đang an lành, bỗng dưng thiên tai từ sa mạc thổi
vào làm đổ tan nhà cửa. Con cái bị giết chết. Cơ nghiệp bị cướp sạch. Chính
thân thể ông Gióp cũng bị lở loét, giòi bọ rúc rỉa. Đói khát hành hạ thường
xuyên.
Trước cảnh sầu đau như thế, Gióp còn bị kẻ này người kia mỉa mai
khinh bỉ, cho là bị trời phạt. Chính vợ ông cũng đay nghiến suốt ngày, xúi Gióp
chửi Thiên Chúa. Gióp đã có lần than thở: “Ôi, đời người có khác chi cảnh tôi
tớ, kiếp sống như kẻ làm thuê. Tôi tớ thì khát khao chút bóng mát để nghỉ ngơi;
kẻ làm thuê thì trông mong giờ lãnh tiền công. Ấy thế mà thân tôi chẳng bao giờ
được trả công, nghỉ ngơi một chút cũng không được. Bởi vì vừa nằm xuống thì tâm
hồn sầu buồn mong cho trời mau sáng. Đến khi trời sáng thì thấy ngày đời trôi
nhanh như con thoi” (G 7:1-6).
Trước cảnh khốn đốn tận cùng, dường như không còn chút hy vọng
nào cho cuộc sống, Gióp vẫn một niềm kiên cường thốt lên: “Chúa đã cho, Chúa đã
lấy đi. Ý Chúa muốn làm sao, thì nên như vậy. Xin chúc tụng danh Chúa” (G
1:21).
Thật lạ lùng! Giữa chốn âm u bão bùng mà vẫn nhắm ý Chúa thẳng
tiến.
Kết quả, vì biết vâng theo thánh ý Thiên Chúa mà cuối cùng Gióp
đã tìm lại ý nghĩa và hạnh phúc cho cuộc đời.
Như Đức Giêsu, suốt cả kiếp người đã không làm gì khác hơn là
thi hành ý Cha. Cho đến giờ chết vẫn cứ là: “Lạy Cha, xin vâng như ý Cha.” Nhờ
thế sự sống nơi Ngài đã tuôn tràn chứa chan cho nhân loại.
Liên quan đến chủ đề này, Thánh Anphongsô có nói về một thầy
dòng kia, trông diện mạo bên ngoài thì không có gì đáng chú ý. Thầy cũng chẳng
thường hãm mình bao nhiêu. Thế mà lại hay làm phép lạ. Bề trên ngạc nhiên mới
hỏi: “Con có nhân đức gì trổi hơn anh em, hay có thi hành việc lành nào sốt
sắng, mà sao cha thấy con làm được nhiều sự lạ vậy?” Thầy dòng khiêm tốn trả
lời: “Con không dám so sánh với các nhân đức của anh em con… Chỉ có một điều
con luôn chú ý hơn cả là vâng theo thánh ý Chúa hết lòng: Sự gì Chúa muốn là
con muốn, dù vui sướng hay buồn khổ, an lành hay gian truân.”
Nghe thế bề trên liền hỏi lại: “Thế chứ cách đây mấy hôm, có kẻ
đã làm thiệt hại cho dòng ta, họ đã đốt phá nhà cửa đất đai của ta tan tành,
con có lấy làm đau đớn ưu phiền không?” Thầy liền thưa lại: “Thưa cha, con
không lấy gì làm đau khổ, cũng chẳng lấy chi làm ưu phiền. Con vẫn bình an như
thường, vì biết rằng Chúa luôn muốn cho chúng ta được phần ích lợi hơn. Nên con
cảm tạ Chúa luôn.” Cha bề trên nghe những lời ấy đã công nhận rằng: Đây là một
vị thánh, có đủ các nhân đức, vì thầy có lòng vâng phục thánh ý Thiên Chúa hết
mình (Anphongsô, Chân Lý Đời Đời, tr. 299).
Vâng theo ý Chúa sẽ giúp ta vượt qua gian truân khốn khó của
đường đời và tìm được bình an và niềm vui dồi dào phong phú. Vâng theo Chúa
không chỉ lúc thuận ý nhưng cả khi nghịch lý. Không chỉ khi thành công may mắn
nhưng cả lúc rủi ro thất bại ê chề.
Không phải là Thánh Phêrô đã thốt lên “Thưa Thầy, chúng tôi đã
cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì ý Thầy muốn, tôi sẽ thả lưới”
sao?
Các tay đánh cá chuyên nghiệp của biển hồ Giênêsarét tất biết rõ
chỉ thả lưới ban đêm mới mong bắt được cá. Ít ra thì cũng phải là “lúc chạng
vạng hay khi rạng đông.” Chứ đời thuở nào mặt trời đã lên cao mà còn mong bắt
được cá. Đó là chưa nói đến việc Phêrô và các bạn chài đã vất vả suốt đêm, chưa
được nghỉ ngơi chút nào, lại mới giặt lưới xong, bây giờ nếu thả lưới xuống,
lúc kéo lên là phải giặt lại, mệt nhọc biết bao.
Vậy mà “vâng lời Thầy, con xin thả lưới.” Và kết quả của việc
xin vâng là một ngày bội thu hoan hỉ: “Họ thả lưới và bắt được một mẻ cá nhiều
lắm, đến nỗi lưới muốn rách. Họ ra hiệu cho các bạn đồng nghiệp trên thuyền gần
đó đến giúp. Những người này tới, và họ chất được hai thuyền đầy cá, đến sắp
chìm” (Lc 5:6-7).
Dẫu rằng chủ đề của Lời Chúa tuần này là “Sai Đi” nhưng sống
“Vâng Phục Ý Chúa” cũng không có chi là lạc đề. Bởi vì không “vâng phục” sẽ
chẳng “sai đi” được. Nói đến “sai đi” là hàm ngậm một chỗ đến. Và dầu đã đến
nơi phải tới, thì vai trò của người được sai vẫn là chu toàn sứ mạng. Còn không
vâng phục đừng mong sứ mạng hoàn thành. Không có sứ mạng nào cao đẹp cho bằng
làm đúng ý người sai mình đi. Thế nên Đấng Cứu Thế đã từng cầu nguyện: “Này con
xin đến để thi hành ý Cha.” Thực thi ý Cha chính là lẽ sống của Người Con hiếu
thảo quí yêu.
Thiết tưởng không có tâm tình nào ý nghĩa và sinh hoa trái nhiều
hơn cho nhân gian bằng tâm tình xin vâng đó.
27. Thành quả vàng son
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày
kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức giám mục đến khảo sát Vianney xem có
đủ khả năng học vấn để tới chức linh mục chăng? Tuy đã dốc hết sức học hành,
Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy. Nổi nóng, vị giáo sư
đập bàn nói: Anh dốt đặc như con lừa. Với một con lừa như anh, Giáo hội hy vọng
làm nên trò trống gì. Vianney khiêm tốn trả lời: Thưa cha, này xưa Samson chỉ
dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả một
con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?
Quả thật con lừa của Thiên Chúa đó, sau này không chỉ trở thành
một cha sở, mà con được tôn phong làm bổn mạng của các cha sở.
Hôm nay Simon cũng vất vả suốt một đêm chài lưới mà không bắt
được một con cá nào, nhưng “vì lời Thầy con sẽ thả lưới”. Và lạ thay, một mẻ cá
lớn bất ngờ đến nỗi lưới hầu như sắp rách. Trước tình thế này, Simon chỉ còn
biết bỏ thuyền, chạy đến sấp mình dưới chân Chúa mà nói: Lạy Chúa, xin hãy
tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi. Kẻ nhận mình là tội lỗi yếu hèn đó, sau này
đã trở thành Phêrô, người thuyền trưởng của con thuyền Giáo hội.
Có một điểm gì đó rất gống nhau giữa Vianney và Phêrô. Đó chính
là nhận mình yếu hèn khuyết điểm và hoàn toàn để cho Chúa lèo lái điều khiển
đời mình. Nhờ đó, Chúa đã ban tặng cho các ngài những đặc ân vô cùng lớn lao.
Vì ơn Chúa chỉ ban xuống cho những kẻ khiêm nhường.
“Thưa thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không bắt được gì
hết, nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Đây là lời bày tỏ sự bất lực của con
người, để chính sự bất lực này sẽ làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa. Chính
sự vâng phục của con người trước uy quyền của Thiên Chúa sẽ đem lại nhiều hiệu
quả vượt sức tự nhiên loài người.
Từ vâng phục dẫn đến phép lạ, từ phép lạ dẫn đến niềm tin: Trước
mẻ cá, Simon xưng Đức Giêsu là Thầy: “Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới”, nhưng sau
mẻ cá diệu kỳ, Người lại tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy
tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Qua phép lạ mẻ cá, Simon đã nhận ra quyền
năng Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và đã tin vào Người. Đây chính là lời tuyên xưng
thiên tính nơi Đức Giêsu.
Chính khi tin vào quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, mà Simon
đã ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình trước sự thánh thiện vô song của
Thiên Chúa. Đó cũng là kinh nghiệm của ngôn sứ Isaia trước Thiên Chúa: “Khốn
cho tôi, tôi chết mất… vì lưỡi tôi dơ bẩn” (Is 6,5). Nhưng sau khi được than
hồng là lửa tình thương Chúa thanh tẩy, ông đã mau mắn xin vâng, ra đi làm ngôn
sứ cho Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy sai con”. Hôm nay, Chúa cũng trấn an Phêrô:
“Đừng sợ, từ đây các con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Thành ngữ này thường
gặp trong Cựu Ước, để trấn an con người hãy tin tưởng vào quyền năng Thiên
Chúa. Ở đây, Đức Giêsu muốn trấn an các tông đồ, đặc biệt ba vị là Phêrô,
Giacôbê và Gioan, để các ngài tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa khi
đón nhận và thi hành sứ mạng Chúa giao.
Quả thật ngay sau đó, các ông đã bỏ mọi sự mà đi theo Ngài. Đó
là ơn gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và đã được Chúa thu hút chinh
phục, để rồi Phêrô ra đi chinh phục các tâm hồn về cho Ngài.
Trước khi gặp Chúa, Simon dù có vất vả suốt đêm cũng không được
một con cá nào. Sau khi gặp Chúa, Chúa đã hướng dân ông kéo lên một mẻ cá bội
thu. Nhưng dù cá có nhiều đến rách lưới, ông cũng không màng, vì từ đây mục
đích đời ông không phải là thành quả vàng son, mà là chính Chúa mà thôi.
Lạy Chúa, từ bỏ mọi sự là điều kiện để đi theo Người. Xin cho
chúng con một đức tin can đảm, dám từ bỏ những gì chúng con đã từng bám víu,
cũng chẳng sợ thiệt thòi khi đã hiến dâng.
Xin cho chúng con một đức tin liều lĩnh, sẵn sàng mất đi tất cả,
để chỉ xin giữ trọn một mình Chúa mà thôi. Vì Chúa chính là gia nghiệp và là
phần phúc cuộc đời chúng con. Amen.
28. Người ấy biết đứng lên
Theodore Roosevelt đã từng nói, "Người đáng được chú ý
không phải người biết nhận xét hoặc người biết ý kiến cho người khác con đường
tốt, nhưng là người ở trong cuộc. Người phải chịu xây sát với nước mắt và mồ
hôi, dũng cảm đấu tranh, lầm lỗi và gặp những trắc trở, biết hăng hái nhiệt
tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng lại bị thất bại.
Như thế, chỗ đứng của họ không chung với những tâm hồn cô đơn và nhút nhát,
nhưng với những tâm hồn biết cảm nghiệm được thất bại và chiến thắng."
Không biết trong đầu của Roosevelt đã có ai là thần tượng hay
không, nhưng thật ra điều đó miêu tả một ngư phủ được Chúa Giêsu kêu gọi theo
Ngài để cộng tác vào việc rao giảng Nước Thiên Chúa: Thánh Phêrô, một con người
thuộc giới lao động. Đây là một người ở "trong trận chiến, xây sát bằng
nước mắt và mồ hôi, dũng cảm chiến đấu, lầm lỗi và luôn gặp những trắc trở,
hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng
lại bị thất bại." Hơn hết, đây là một người biết thế nào là "thất
bại" và "chiến thắng."
Thánh Phêrô là một người đã từng ngã đi ngã lại. Ngài đã từng
phải cảm nghiệm hết cái thất bại này đến thất bại nọ. Thí dụ, một lần Chúa
Giêsu đã hỏi các môn đệ Ngài về câu hỏi người ta nói Chúa Giêsu là ai? Sau
cùng, Ngài đã hỏi chính các môn đệ Ngài nghĩ Ngài là ai? Thánh Phêrô đã nhanh
nhẩu đáp ngay, "Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống." Câu trả lời này
của Thánh Phêrô đã làm cho Chúa Giêsu hài lòng về ông. "...Anh thật là có
phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy,
Đấng ngự trên trời" (Mt 16:15 & 17). Sau đó, Chúa Giêsu đã dùng cơ hội
này để diễn tả sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Sứ mệnh đó chính là phải chịu đau khổ
và chịu chết. Chính ngay sau khi nghe điều đó, Thánh Phêrô đã vấp ngã. Ông đã
nói với Chúa Giêsu rằng, "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải
chuyện ấy!" Và Chúa Giêsu đã quay lại bảo ông, "Satan, lui lại đàng
sau Thầy!" (Mt 16: 22-23).
Khoảng một thời gian sau đó, trên núi biến hình, Thiên Chúa đã
ban cho Thánh Phêrô thêm một món quà đặc biệt nữa: đó là được nhìn thấy Maisen
và 'lia đàm đạo với Chúa Giêsu. Câu truyện đó là để chứng thực về điều mà Chúa
Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài về sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Lúc đó Thánh
Phêrô đã phản ứng ra sao? Ông đã nói với Chúa Giêsu rằng họ có thể ở trên núi
và xây nhà dựng cửa.
Một thời gian sau lần đó nữa, Thánh Phêrô đang ở trên thuyền với
các môn đệ khác. Họ nhìn thấy Chúa Giêsu đi trên nước đến với họ. Chúa Giêsu đã
kêu Thánh Phêrô đến với Ngài. Thánh Phêrô đã ra khỏi thuyền và khi ông rời mắt
khỏi Chúa Giêsu thì một tí nữa là ông bị chết chìm.
Trong những giờ phút cuối cùng trước giờ tử nạn của Chúa Giêsu
tại nhà Tiệc ly, chính là giây phút cực kỳ khó hiểu đối với Thánh Phêrô khi ông
nhìn thấy Thầy mình rửa chân cho các môn đệ. Một việc làm của các đầy tớ. Không
hiểu được ý nghĩa của việc làm đó, Thánh Phêrô đã lên tiếng, "Thầy mà rửa
chân cho con, không đời nào con chịu đâu!" Tuy nhiên, khi ông hiểu được
việc làm của Chúa Giêsu thì chính ông lại còn muốn Chúa Giêsu không những rửa
chân của ông mà còn cả mình ông nữa (Gn 13:8-9).
Chúa Giêsu đã muốn Thánh Phêrô ở với Ngài trong vườn Ghétsimani
với Ngài, thế nhưng ông đã ngủ.
Chúa Giêsu đã dạy dỗ về lòng tha thứ và không được dùng bạo
động. Thế nên trong khi bị quân dữ bao vây, chính Thánh Phêrô đã cầm kiếm và
vung văng để một tên lính phải bị chém đứt tai. Một lần nữa, Thánh Phêrô đã
hành động như là ông chưa nắm được ý nghĩa đích thực của những lời giảng dạy
của Chúa Giêsu.
Sau cùng, cái giờ phút tệ bạc nhất đó là chính Thánh Phêrô đã
mạnh dạn thề thốt cho dù có bất cứ chuyện gì xảy ra thì ông cũng sẽ không bỏ
Chúa Giêsu. Thế nhưng, trong sân Philatô, ông đã sợ hãi mà chối Chúa đến ba
lần, không phải với những người có chức quyền gì, mà là những đứa đầy tớ thấp
hèn (Mt 26:35, 70, 72, 74).
Chúa Giêsu đã gọi Thánh Phêrô là đá. Tuy nhiên đó là một viên đá
cứ rơi lên rớt xuống. Hết lần này đến lần khác, ngài đã phải cúi mặt xuống ăn năn.
Đó là một con người đã phạm hết lỗi lầm này đến lỗi lầm khác, thế nhưng sau
cùng đã trở nên Tông Đồ Cả., Trong cuộc bách hại bởi quân Rôma, Thánh Phêrô
chính là người đã liên kết và gìn giữ Hội Thánh. Đó là thời gian mà Giáo Hội
tiên khởi đã bị giết chết cả hàng ngàn người. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, chính
Thánh Phêrô đã đứng ra và giảng dạy. Sau khi Chúa Giêsu không còn hiện hữu một
cách thể lý nữa, nhưng những người tàn tật và mù lòa vẫn còn tiến đến, và chính
Thánh Phêrô đã chữa cho họ được khỏi.
Tin mừng của Phúc Âm là ơn thánh vẫn hằng luôn ban xuống cho
chúng ta. Ơn thánh của Chúa hằng luôn hiện hữu ở giữa chúng ta, ở đây, ngày hôm
nay trong buổi tụ họp này. Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là, "Làm sao
chúng ta thể hiện công việc ấy ngay? Làm sao nó có thể trở thành một cái gì đó
hơn là một ý tưởng suông?" Ở tại chỗ này, tài liệu Thánh Phêrô để lại có
thể giúp ích cho chúng ta rất nhiều. Chúng ta có thể thấy được Thánh Phêrô đã
làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa gần gũi là một tiến trình lớn lên của cuộc
sống chúng ta. Chúng ta có thể nhìn thấy trong Thánh Phêrô một tiến trình lớn
lên kèm theo sự chỗi dậy của những lần ngã qụy; biết chỗi dậy sau những lần bị
thất bại; Simon Phêrô có lòng nhiệt thành. Ông có lòng đạo đức cao siêu. Khi
thánh nhân bị ngã, thì ngài luôn biết chỗi dậy.
Nếu bạn chỉ biết ngồi ở trong căn phòng của mình và đóng cửa
lại, thì những tài năng của bạn sẽ bị chôn vùi và không được phát triển. Nếu
vậy, thì bạn gìn giữ chính bạn để làm cái gì? Bây giờ chính là lúc chúng ta
sống. Đây chính là lúc mà Thiên Chúa đang hiện diện bên bạn, và Ngài uốn nắn
bạn để trở thành người môn đệ tốt đẹp. Chúng ta không cần phải lo ngại sẽ bị
thất bại. Những người mà cố gắng để làm những việc có giá trị, và rồi bị thất
bại thì chắc chắn được hưởng niềm vui lớn lao hơn là những người không cố gắng
để làm bất cứ chuyện gì cả.
Cũng như Thánh Phêrô, chúng ta phải có một tiến trình lớn lên
kèm theo sự đứng lên sau những lần ngã quỵ; biết chỗi dậy sau những lần bị thất
bại.
29. Đức Giêsu và vị Tông Đồ đầu tiên
(Chú giải và suy niệm của Lm. PX Vũ Phan Long)
Đức Giêsu đã đào tạo môn đệ bằng phương tiện là những bước nhảy
trong đức tin và bằng cách làm cho người ấy biết quyền lực thần linh của Người.
1.- Ngữ cảnh
Với bài Lc 5,1-11, chúng ta có một bản văn riêng của tác giả
Luca. Như thế, bản văn này có thể giúp độc giả nhận biết cách thức bản văn này
tiếp cận với truyền thống Tin Mừng và liên kết với truyền thống ấy.
Quả thật, nếu trong tất cả ch. 5, tác giả đi theo bài tường
thuật của Mc (x. 1,40–2,22), ở đây ngài lại tách ra. Trong khi tác giả Mc
(1,16-20), và cả Mt (4,18-22), mô tả truyện kêu gọi các môn đệ đầu tiên trước
sứ vụ công khai của Đức Giêsu, tác giả Lc lại đặt tiếng gọi ở sau, khi Đức
Giêsu đã bắt đầu hoạt động giảng dạy và chữa lành (x. 4,14-44). Người đã biết
ông Simôn, vì đã đến nhà ông và chữa là bà mẹ vợ (4,38-39).
Bài tường thuật này là một đơn vị riêng, đến sau bức tranh bộ
đôi Nadarét-Caphácnaum (4,14-44), được đóng khung bởi hai toát yếu về sứ vụ rao
giảng nay đây mai đó của Đức Giêsu (4,14; 4,44), và được nối tiếp bởi một giai
thoại mới, việc chữa lành một người phong hủi (5,12-16).
Đoạn văn của chúng ta thuộc về một phân đoạn lớn hơn (5,1–6,19),
trong đó có những đơn vị được dẫn nhập bởi công thức mà các bản dịch thường bỏ,
“xảy ra là” (egeneto: 5,1.12.17; 6,1.6.12), với trung tâm là việc kêu gọi Lêvi
và bữa ăn ông thết đãi (5,27-39).
Trong phân đoạn này, chân trời của sứ vụ của Đức Giêsu được mở
rộng. Cho tới nay, Người hoạt động một mình, qua việc giảng dạy và chữa bệnh
(các môn đệ đầu tiên vẫn còn đang ở trong tình trạng vô danh). Bây giờ cử tọa
đang mở rộng ra hơn; Đức Giêsu không chỉ nói với những người hay lui tới hội
đường mà thôi, nhưng với một đám đông sẵn sàng lắng nghe. Nhất là nay phát sinh
nhóm các môn đệ, họ đi theo Người trong hành trình truyền giáo; bên trong nhóm
này nổi lên khối sẽ là hạt nhân căn bản của Hội Thánh, đó là nhóm các Tông Đồ.
Chính là trong ngữ cảnh này mà chúng ta đọc bài tường thuật Mẻ cá lạ lùng với
việc kêu gọi Simôn và các bạn.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1)
Giới thiệu khung cảnh và công việc của Đức Giêsu (5,1-3);
2) Đức
Giêsu - Phản ứng của Simôn trước mẻ cá (5,4-7);
3)
Phản ứng của Simôn sau mẻ cá - Đức Giêsu (5,8-10);
4) Kết
luận: Đời môn đệ (5,11).
3.- Vài điểm chú giải
- Ghennêxarét (1): Đây là tên Hy
Lạp của giải đất nhỏ thuộc phía tây “biển hồ”, có đất đai mầu mỡ và đông dân
cư; giải đất này ở phía nam Caphácnaum.
- lời Thiên Chúa (1): Đây là lần đầu tiên
Tin Mừng Lc dùng công thức này (Lc dùng 4 lần: 5,1; 8,11.21; 11,28; Cv dùng 14
lần: 4,31; 6,2.7; 8,14; 11,1; 12,24 (?); 13,5.7.44.46.48; 16,32; 17,13; 18,11).
Trong khung cảnh sách Cv, công thức ấy có nghĩa là sứ điệp Kitô giáo do các
tông đồ rao giảng; ở đây tác giả Lc lại cho thấy là Đức Giêsu rao giảng. Như thế,
tác giả đặt việc rao giảng của cộng đoàn trên nền tảng là lời rao giảng của Đức
Giêsu. Nhưng nền móng tối hậu là chính Thiên Chúa, bởi vì công thức nói rõ là
“Lời Thiên Chúa” hoặc “Lời do Thiên Chúa ban” (thuộc-cách diễn tả chủ từ hoặc
tác giả hợp lý hơn là “lời nói về Thiên Chúa”: thuộc-cách diễn tả đối tượng).
- Người ngồi xuống (3): Đây là tư thế bình
thường khi ở trên một chiếc thuyền nhỏ. Nhưng hẳn tác giả cũng muốn gợi ra tư
thế của một vị thầy.
- Thưa Thầy (5): Lần đầu tiên Lc
dùng từ epistata (hô-cách của epistatês) (x. 8,24.45; 9,33.49; 17,13). Các bản
văn Nhất Lãm song song dùng từ didaskale, “thưa thầy”, hoặc rabbi, “thưa
rabbi”. Trong văn chương Hy Lạp, từ ngữ epistatês thường có sắc thái rộng hơn,
đó là “vị chỉ huy, vị điều hành, vị giám sát” (ví dụ trong việc huấn luyện giới
trẻ). Trong các tác phẩm Lc, từ này luôn luôn được đặt trên môi miệng các môn
đệ, còn từ didaskalos được người ngoài dùng. Epistatês diễn tả một đức tin sâu
xa hơn vào uy quyền của Đức Giêsu.
- chúng tôi đã vất vả (5): Động từ kopiaô,
“làm việc vất vả”, là một động từ được Tân Ước dùng cho những dịp mô tả công
việc tông đồ vất vả.
- Xin tránh xa con (8): Qua mẻ lưới lạ
thường, Simôn nhận ra Thiên Chúa đang tỏ mình ra nơi Đức Giêsu, do đó ông đã
gọi Người là “Chúa”. Từ đó, ông cũng ý thức về tình trạng tội lỗi, bất xứng của
mình; ông cảm thấy sợ hãi khi đứng trước Thiên Chúa là Đấng Thánh (x. Is 6,5).
Simôn vừa bị thu hút về phía Đức Giêsu do lòng thán phục, vừa muốn tránh xa
Người do ý thức về sự bất xứng của mình.
- Anh sẽ là kẻ đi bắt người ta (10):
So với Mc 1,17, câu nói này không nhấn mạnh đến thân thế môn đệ, nhưng nhấn
mạnh đến hoạt động truyền giáo. Zôgreô (do zôos, “sống động”; agreô, “bắt”) có
nghĩa là “bắt để làm cho sống”. So với Mc 1,17, bản văn nhấn mạnh trên hoạt
động truyền giáo hơn là trên thân phận người môn đệ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Các tác giả còn tranh luận xem bản văn này thuộc thể văn nào:
bài tường thuật ơn gọi, bài tường thuật về sự giao phó nhiệm vụ, tiên tri và
lời hứa… Thật ra, đề tài ơn gọi chắc chắn có trong bản văn, nhưng dưới dạng một
lời hứa và một lời tiên tri. Quả thế, chính lời hứa long trọng của Đức Giêsu
nổi bật rõ nhất (“Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”).
Điều đánh động trong bài tường thuật chính là sự xen kẽ giữa số đơn
và số phức. Ngay từ đầu, độc giả chuyển từ “đám đông” (ochlon) của c. 1 sang
“các đám đông” (ochlous) ở c. 3. Tại c. 4, Đức Giêsu nói với Simôn: “Chèo ra
chỗ nước sâu (epanagage [số đơn] eis to bathos) mà thả lưới bắt cá (kai
chalasate [số phức] ta diktya hymôn eis agran); như thế, không phải chỉ có một
mình Simôn ở trên thuyền. Sang c. 5, câu trả lời của Simôn lúc đầu khẳng định:
“Chúng tôi đã vất vả (poiasantes)…”, nhưng rồi: “Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ
thả lưới (chalasô)”. Và nếu ở c. 8, Simôn xin Đức Giêsu: “Xin tránh xa con, vì
con là kẻ tội lỗi”, lý do lại là vì Simôn, những người có mặt ở đó, và cả
Giacôbê và Gioan cũng kinh ngạc (cc. 9-10). Cuối cùng, Đức Giêsu nói với riêng
Simôn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta” (c. 10), nhưng ngay
sau đó các bạn của Simôn lại xuất hiện: “Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ
hết mọi sự mà theo Người” (c. 11).
Sự xen kẽ giữa Simôn và các bạn không chỉ gợi ý là mẻ cá cần
nhiều người, mà còn nêu bật rằng Simôn, ngoài nhân cách độc đáo của ông, cũng
đại diện cho một nhóm, nhóm các ngư dân sẽ bỏ mọi sự để trở thành môn đệ của
Đức Giêsu.
Một nét khác trong bài tường thuật là cách vận dụng “khoảng
cách” giữa các nhân vật khác nhau, để đưa lại cho mỗi nhân vật một nét độc đáo
riêng. Đám đông quy tụ quanh Đức Giêsu để nghe Lời, nhưng Người lại lên thuyền
của Simôn và bảo ông ra xa bờ một chút. Một cách nghịch lý, việc lấy khoảng
cách như thế lại đưa Đức Giêsu đến gần các đám đông hơn, bởi vì do quá gần,
việc loan báo Lời lại bị cản trở, và cũng đưa Người đến gần Simôn và các bạn
hơn, bởi vì các ông đang ở trên thuyền với Thầy, nên cũng trở thành thính giả
nghe Lời. Bằng cách đó, Đức Giêsu vừa có thể ngỏ lời với người ở gần lẫn người
ở xa.
Việc lấy khoảng cách vẫn tiếp tục. Trước tiên lệnh của Đức Giêsu
cho Simôn (“Chèo ra chỗ sâu”, epanagage eis to bathos) vừa giữ khoảnh cách
chiều ngang với đám đông, vừa bắt đầu một chuyển động theo chiều đứng, một
chiều hướng đầy xuống thấp và dấn dần kéo cả Simôn vào. Lệnh của Đức Giêsu theo
nghĩa chữ là: “Đi ra xa, vào chỗ (nước) sâu”; đây không chỉ là đi ra xa hơn, mà
còn là đi vào chiều sâu của cái hồ! Một vài động từ xác nhận chiều hướng biểu
tượng này: “Các anh hãy thả lưới” (c. 4), “tôi sẽ thả lưới” (c. 5), “hầu như
rách cả lưới” (c. 6), “đến gần chìm” (c. 7). Đây không chỉ là một chuyển động
thể lý, gắn liền với việc đánh cá, vì chính cử chỉ và lời nói sau cùng của
Simôn cho thấy: ông phục xuống dưới chân Đức Giêsu và nói: “Xin tránh xa con…”.
Vấn đề là tương quan với Đức Giêsu, là gắn bó với Người hay tránh xa Người.
Tới cuối bài tường thuật, nhờ lời hứa của Đức Giêsu, khoảng cách
đáng sợ giữa Đức Giêsu và Simôn được điều chỉnh lại và khoảng cách với đám đông
cũng được xóa đi, bởi vì Simôn Phêrô và các bạn đã kéo thuyền vào bờ, nơi có
đám đông, và đi theo Đức Giêsu.
Như vậy, qua biện chứng “cách xa”, chủ đề của bài tường thuật là
việc kêu gọi Simôn và các bạn, việc kêu gọi này có nghĩa chính xác là đến gần
Đức Giêsu, bằng cách lấp đầy các khoảng cách ngăn cách với Người. Vậy đây là
hành trình đức tin. Nhưng điều này không chỉ liên hệ đến các môn đệ, mà còn
liên hệ đến tất cả các thính giả hoặc độc giả Tin Mừng tương lai; chính vì thế
mà có sự xen kẽ số đơn và số phức. Chúng ta sẽ thấy bản văn trình bày diễn tiến
của hành trình đức tin.
* Giới thiệu khung cảnh và công việc của Đức Giêsu (1-3)
Sau thất bại ở Nadarét (4,16-30), Đức Giêsu vẫn có những người
sẵn sàng lắng nghe, chính đám đông “chen chúc” (epikesthai) bên bờ hồ
Ghennêxarét đã chứng tỏ điều đó. Chúng ta ghi nhận: không phải là họ tìm nghe
lời một người phàm, nhưng nghe “lời Thiên Chúa”. Một ghi nhận kế tiếp: Đức
Giêsu không rao giảng trong hội đường nữa. Đây là một biểu tượng: kể từ nay,
nơi duy nhất chúng ta có thể nghe được lời của Thầy chí thánh chính là cộng
đoàn Kitô hữu; đây là nơi mà tất cả những ai đi tìm ánh sáng, sự an ủi và niềm
hy vọng đều phải đến. Trên con thuyền này, chỉ có Đức Giêsu là thánh thiện, còn
những người khác thì tốt lành, nhưng đều là những “kẻ tội lỗi”. Dù vậy, cũng
chính là từ con thuyền này mà Lời Chúa được công bố.
Đức Giêsu mau chóng chỉ định các cộng sự viên. Truyện hôm nay
cho thấy bản chất của tương quan giữa Người và các ông này. Ở đây mọi sự đều do
sáng kiến của Người và được nhắm đưa tới kinh nghiệm như Simôn sẽ có. Tuy vậy,
bản văn cho thấy Đức Giêsu chỉ tỏ ra năng động có hai lần thôi: lần đầu khi
Người ra lệnh (c. 4) và lần thứ hai khi Người ban một lời hứa (c. 10); còn ở
giữa là hành động và phản ứng của Simôn và các bạn. Simôn cũng có hai câu nói
thưa với Đức Giêsu: một câu là khẳng định về kinh nghiệm đánh cá (c. 5), một
câu là lời mời (c. 8). Chính do quảng đại mà Simôn đã hỗ trợ cho việc loan báo
Lời. Trong giai thoại chữa bà mẹ vợ (4,38-39), Simôn là một nhân vật chìm:
không nói không làm gì cả! Còn ở đây, nổi bật lòng quảng đại và sự sẵn sàng của
ông, khiến ông trở thành một thính giả ưu tiên của Lời.
* Đức Giêsu - Phản ứng của Simôn trước mẻ cá (4-7)
Việc lắng nghe Lời không tự động đưa tới đức tin. Để cho việc
lắng nghe này là thật, thì cần có việc tận tình đáp trả những yêu cầu của Lời. Nói
xong với đám đông, Đức Giêsu ban một lệnh trực tiếp cho một người, ngay giữa
lòng cuộc sống cụ thể của người ấy (c. 4): “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới
bắt cá” (c. 4). Simôn đã phản ứng, ông khẳng định theo kinh nghiệm của ông:
người ta bắt cá ban đêm; thế mà suốt đêm các ông đã vất vả (kopiasantes) mà
chẳng bắt được gì, phương chi bây giờ là ban ngày! Lệnh này có vẻ như một sự
gây chuyện! Tuy nhiên, Đức Giêsu không hề nêu lý do hoặc thêm ý soi sáng; Người
nói một lời và cho thấy mọi sự tùy thuộc lời này. Đối với Simôn, Đức Giêsu
không phải là một người xa lạ. Ông đã thấy Người chữa lành nhạc mẫu của ông
(4,38-39). Do đó, ông tín nhiệm vào lời Đức Giêsu cho dù lời này có yêu cầu
những điều bề ngoài không mong đạt kết quả, hoặc những điều phi lý vì đi ngược
lại mọi kinh nghiệm của loài người. “Thưa Thầy, … dựa vào lời Thầy”, epistata,
… epi de tô rêmati sou (c. 5): Những từ ngữ này hết sức quan trọng, vì đây là
công thức diễn tả thái độ của con người đối với Thiên Chúa (x. Tv 119,
25b.42.57.105). Epistatês theo nghĩa chữ là “người ở trên”, “người chủ tọa”.
Simôn nhận biết Đức Giêsu là người dẫn đường, Người không chỉ là một thầy dạy,
mà là một chủ nhân đời sống!
Điều chúng ta ghi nhận ở đây là chính Simôn đã đưa thuyền ra
khơi (c. 4); chính ông công bố niềm tin vào lời Đức Giêsu (c. 5); chính ông gọi
Người là “Lạy Chúa” (c. 8); ông là người được mời trở thành “kẻ lưới người” (c.
10). Tất cả các yếu tố này cho thấy rằng Simôn được chọn cho một thừa tác vụ
đặc biệt trong Hội Thánh. Nhiệm vụ của ông là nghe lời Chúa và di chuyển, không
phải ra nơi mà kinh nghiệm dẫn đưa ông, nhưng nơi mà Thầy muốn ông đến.
Và để chứng minh là người ta có thể tin vào lời Đức Giêsu, các
ông đã kéo được mẻ cá quá sức phong phú. Lưới gần bị rách. Cả hai thuyền đều
đầy cá, nặng đến nỗi gần chìm. Kết quả này không do tài năng của Simôn, nhưng
do lời của Đức Giêsu. Simôn cần trợ giúp; ông ra hiệu cho các bạn chài ở thuyền
kia đến giúp (c. 7). Nay ta biết tên họ là Giacôbê và Gioan, con ông Dêbêđê.
Các ông này được gọi là “bạn” (koinônoi) của Simôn (c. 10). Koinônos không chỉ
là bạn cùng nghề nghiệp; các tác giả Tân Ước dùng từ ngữ này để chỉ những tín
hữu hiệp thông với nhau (x. Cv 2,42.44; 4,32; Rm 12,13; 15,26.27; …).
* Phản ứng của Simôn sau mẻ cá - Đức Giêsu (8-10)
Tức khắc, Simôn nhận ra Đức Giêsu là ai và chính ông là ai: kinh
ngạc sợ hãi. Ông thưa với Đức Giêsu như là “Chúa tể”, là điều mà trước đây các
mục đồng đã được loan báo: Đấng Cứu thế, Đức Kitô, Đức Chúa (2,11). Simôn đã
trải nghiệm quyền năng thực thụ của vị Chúa tể này. Do đó, bây giờ không những
ông biết ông không ở trên cùng một bình diện với Người, mà còn biết rằng đối
diện với Người, ông là một kẻ tội lỗi. Đứng trước quyền năng và sự thánh thiện
của Thiên Chúa, con người cảm thấy có nhiều điều trong đời mình không coi được.
Kinh nghiệm về Đức Chúa cho thấy nơi Phêrô có nhiều chuyện sai lạc, đi ngược
lại với Người và làm cho ông nên bất xứng và không trong sạch. Ông thấy giải
pháp cho hoàn cảnh không thể chịu nổi này là Chúa xa ông đi: “Lạy Chúa, xin
tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (c. 8). Việc Simôn quỳ phục xuống, gọi Đức
Giêsu là “Chúa” (kyrios), lời nói về thân phận bất xứng, cho thấy ông đang gặp
Thiên Chúa, một kinh nghiệm về thần hiển như trong trường hợp Môsê (Xh 3,6) và
Isaia (x. Is 6,5). Ở đây, y như thể Simôn muốn nói rằng: Chúa tránh xa con, để
như thế con lại có thể chịu nổi con và lại có sự bình an bề ngoài của con.
Nhưng chắc chắn cách xử sự của Đức Giêsu không phải là tránh xa những người tội
lỗi và bỏ mặc họ trong tội lỗi và với số phận của họ (x. 5,32). Ý thức của
Simôn hoàn toàn đúng, nhưng giải pháp ông đề ra không được Đức Giêsu chấp nhận:
Người không tránh xa ông, Người cũng không đẩy ông xa Người, nhưng nhận lấy
ông, đưa ông vào phục vụ chương trình của Người. Chính Simôn, người đã nói:
“Lạy Chúa, xin tránh xa con!”, lại sẽ đi theo Đức Giêsu cùng với các bạn
(5,11).
Ở đây lần đầu tiên và lần duy nhất, bên cạnh tên Simôn quen
thuộc, có tên Phêrô: phải chăng đây là một gợi ý kín đáo về sự phản bội của
Phêrô trong tương lai? Trong thực tế, việc nhận biết thân phận tội lỗi của
mình, trước khi đươc kêu gọi, chứng tỏ sứ vụ của Phêrô không dựa trên các đức
tính của ông, nhưng hoàn toàn dựa trên sự ban tặng nhưng-không của Thiên Chúa.
Đức Giêsu tỏ ra rất tế nhị với Simôn. Người không nhận định gì
về tình trạng tâm hồn của ông, Người không khuyến cáo; trái lại Người để cho
ông làm một hành vi đức tin. Kết quả là Simôn nhận ra sự cao cả, sự tốt lành và
quyền lực của Đức Giêsu, nên ông đã dễ dàng, như theo bản năng, từ bỏ các tội
lỗi của ông. Khi đó, ông trở nên hoàn toàn tự do, ông có thể hiểu lời mời gọi
của Người. Lời mở đầu: “Đừng sợ!” chứng tỏ sự can thiệp của Đức Giêsu mang màu
sắc một cuộc thần hiển thực thụ. Lời hứa của Đức Giêsu: “Từ nay, anh sẽ là
người thu phục người ta như bắt cá” (NTT: “sẽ là kẻ chài lưới bắt người”) được
thêm vào kinh nghiệm mà Simôn đã có về tính vững chãi của lời Đức Giêsu nói.
Simôn nhận biết Đức Giêsu như là Đấng muốn người ta đón tiếp Tin Mừng. Trong
một cách thức chưa rõ mấy, Đức Giêsu cho ông hiểu rằng ông phải tham gia vào
lối hành động này, nhưng luôn dựa vào quyền lực của Người.
* Kết luận: Đời môn đệ (11)
Simôn và các ông khác, tức Giacôbê và Gioan, “đã bỏ hết mọi sự
mà theo Người”. Từ nay, Simôn và tất cả các môn đệ phải nhận biết rằng việc
phục vụ mà Đức Giêsu đưa các ông vào dựa trên không phải là các đức tính, các
năng khiếu cá nhân, nhưng dựa trên Lời của Người. Hai động từ “bỏ” và “theo” mô
tả sứ mạng của người môn đệ. Nằm tại trung tâm cuộc sống của các ông, không
phải là một giáo thuyết, nhưng là một con người và một dự phóng đời sống. Tiếng
gọi này phát sinh không từ một mệnh lệnh, nhưng từ kinh nghiệm về một Lời mạnh
mẽ và hữu hiệu, có thể không những tạo ra một mẻ cá dồi dào lạ lùng, nhưng còn
gây nên một tiếng “xin vâng” cho trọn một cuộc đời.
+ Kết luận
Simôn đã hiểu thi hành một nhiệm vụ Đức Giêsu giao nghĩa là gì.
Ông cũng trải nghiệm về bản thân ông là ai khi đứng trước Đức Giêsu. Như thế,
ông cũng hiểu ra rằng, khi đứng trước một lời hứa của Đức Giêsu, tất cả các khả
năng con người, dù có hạn hẹp, cũng như những cơ may thành công, dù có mong
manh, cũng không còn đáng bận tâm nữa. Bài tường thuật phép lạ trước tiên là
một biểu tượng về sự phong nhiêu của Lời Chúa.
Đây là một sự đảo lộn hoàn cảnh nguyên thủy. Lúc đầu, Simôn, có
phần tự hào về bản thân, đã trở thành một người có khả năng nhảy một bước trong
đức tin. Từ đó, ông cũng nhận ra được sự nghèo hèn của mình; do đó ông nên
khiêm tốn để sống đức tin chan hòa. Chỉ nhờ kinh nghiệm về quyền năng của Thiên
Chúa như thế, người môn đệ mới được đào tạo.
Sứ mạng được ký thác cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu, để cho
thấy rằng có thể có một tập thể hoàn toàn đặt nền tảng trên sự tha thứ, việc
chia sẻ của cải, việc phục vụ lẫn nhau, tôn trọng những người khác. Các Kitô
hữu sẽ phải luôn luôn tự hỏi những người khác đang trông chờ mình đưa lại cho
họ thứ “ơn cứu độ” nào, mình có thể phục vụ họ tốt nhất cách nào, mình đang lo
tìm cứu độ từng con người hay chỉ bảo vệ một cơ cấu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hoạt động tông đồ không thể dựa trên khả năng của các tông đồ
hoặc trên thiện chí của những người mà các ngài được cử đến gặp, nhưng chỉ dựa
trên trách nhiệm được giao và quyền năng của Chúa. Người ta chỉ có thể đảm nhận
công việc ấy “theo lời Người”. Simôn có thể trải nghiệm quyền năng và giá trị
của lời Đức Giêsu và phải trải nghiệm về sự giới hạn yếu đuối của bản thân ông.
Đồng thời ông cũng trải nghiệm được sự hạ cố nhân ái của vị Chúa tể quyền năng,
đã đưa ông vào phục vụ Người. Việc phục vụ này mãi mãi được liên kết với các
kinh nghiệm cơ bản này.
2. Các mục tử hôm nay lại không nhận ra bài học cho mình sao?
Quyền lãnh dạo của họ trên cộng đoàn Kitô hữu không phải là để họ áp đặt ý muốn
của mình, nhưng là để giúp nhận ra ý muốn của Đức Giêsu. Họ có nhận ra tiếng
nói của Thầy chí thánh và phân biệt tiếng nói này giữa các cảm xúc, các trực
giác và các ý tưởng của họ chăng?
3. Người ta không thể trách Simôn về sự kiện ông là kẻ tội lỗi.
Chính ông đã biết rồi, và ông sẽ trải nghiệm về điều này cách cay đắng (Lc
22,33t.54-60). Nhưng Đức Giêsu đã đưa kẻ tội lỗi ấy vào phục vụ Người, đã cầu
nguyện cho ông (22,31t), đã nhìn ông với ánh mắt nhân hậu (22.61t). Như thế,
Simôn có thể chu toàn nhiệm vụ, mà không bao giờ cậy dựa vào các sức mạnh của
mình, nhưng tín thác vào Lời Chúa.
4. Khi biết nhìn đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với
chúng ta, quyền năng cũng như lòng tốt của Ngài, chúng ta mới nhận ra sự nghèo
nàn và cần ơn cứu độ của chúng ta. Simôn đã nhân ra điều đó, ông không sợ hãi
gì nữa; cho dù kẻ khác có nghĩ ông là một kẻ tội lỗi, điều này cũng quan hệ gì.
Ông đã bước được một bước quyết liệt trong việc giải phóng bên trong. Đức Giêsu
đã đào tạo môn đệ bằng phương tiện là những bước nhảy trong đức tin và bằng
cách làm cho người ấy biết quyền lực thần linh của Người. Con thuyền của Phêrô
chính là Hội Thánh. Đức Giêsu vẫn tiếp tục dạy chúng ta trên chiếc thuyền này,
dọc theo dòng các cuộc cử hành Phụng vụ, và nhất là trong Bí Tích Thánh Thể.
5. Chính Thiên Chúa ban ơn gọi cho loài người. Mọi người phải bỏ
mọi sự mà đáp trả quảng đại. Như thế là thực hiện một bước điên rồ, nhưng chính
bước điên rồ này làm nên con người. Simôn đã thực hiện sự từ bỏ này khi thả
lưới trái với kinh nghiệm thông thường, rồi sau đó, khi bỏ mọi sự mà bước theo
Đức Giêsu. Nhờ dám “đánh liều cuộc đời”, Simôn trở thành người mà Thiên Chúa
nhắm khi cho ông xuất hiện trong cuộc đời. Trong gia đình Kitô hữu, giáo dục
con cái biết sống quảng đại là cách thức tốt nhất để chuẩn bị cho con cái sống
quảng đại, để nhờ đó, chúng thực hiện được chương trình của Thiên Chúa.
30. Chú giải của Noel Quesson
Trang Tin Mừng này, như nhiều trang khác, dưới vẻ bề ngoài hời
hợt kể về một giai thoại của đời sống Đức Giêsu thật ra là một trang về giáo
hội học hay thần học về Giáo Hội.
Một hôm, Đức Giêsu đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng
chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa
Trước tiên, tôi nhìn ngắm quang cảnh cụ thể. Rồi tôi thử tưởng
tượng. Đức Giêsu ở giữa một đám đông. Người nói. Đám đông lắng nghe Người.
Người không nói bất kỳ điều gì: Người nói Lời Chúa. Nhà thần học Luca nói với
chúng ta đó là vai trò đầu tiên của Giáo Hội: việc rao giảng! Điều mà Giáo Hội
cố gắng thực hiện chính.Đức Giêsu đã bắt đầu điều đó. Sự rao giảng của Giáo Hội
là sự kéo dài việc rao giảng của Đức Giêsu và có cùng một nội dung.
Lạy Chúa, xin cho con lòng yêu mến Lời Chúa, lòng khao khát được
lắng nghe Lời Ngài.
Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh
cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền,
thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi
Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông
Quang cảnh cụ thể và hiện thực. Nhưng cũng là quang cảnh có tính
tượng trưng sâu sắc. Chiếc thuyền tạo ra một khoảng cách; giữa Đức Giêsu và đám
đông, như thế nhấn mạnh vẻ uy nghi nào đó của Đức Giêsu đang ngồi giảng dạy. Và
"thuyền đó là thuyền của Simon "tức Phêrô” Giữa đám đông các môn đệ,
Luca thong thả nhận ra một vài người sẽ trở thành "nhóm mười hai mà Đức
Giêsu gọi là các Tông Đồ." (Lc 6,12)...và trong nhóm mười hai này, Luca
còn nhận ra Simon là trọng tâm của bài tường thuật và được gọi đích danh sáu
lần trong trang Phúc âm này. Vì thế, đây là cơ cấu chủ yếu của Giáo Hội mà Đức
Giêsu mong muốn.
Cơ cấu tổ chức của Giáo Hội có thể làm cho chúng ta vui mừng hay
khó chịu. Dọc dài theo lịch sử, các giáo hoàng và các giám mục có thể đã đóng
những vai trò trần tục theo hình ảnh các ông hoàng của thế gian này, hỡi ôi!
Nhưng về mặt thần học, chính Đức Giêsu thiết lập cơ cấu tông truyền của Giáo Hội.
Trong Giáo hội, các vị có chức tránh trước tiên không phải là một thủ lĩnh, một
bề trên trong phẩm trật, một người chấp chính, mà là một người phục vụ đại diện
cho Đức Kitô, Đấng Phục vụ trong bí tích. Giáo sĩ là một dấu chỉ, một Bí tích
của Đức Giêsu Kitô. Giữa đám đông các môn đệ có linh mục là dấu chỉ rằng chúng
ta không chinh phục ân sủng và Lời Chúa, nhưng chúng ta tiếp nhận Lời từ một
Đấng khác. Thánh chức đại diện cho Đức Kitô quả là một trách nhiệm đáng sợ.
Ngày hôm nay, chẳng phải chúng ta có khuynh hướng nguy hiểm là đánh giá thấp
"lời giảng dạy" của Giáo Hội, là bác bỏ khỏi Giáo Hội khía cạnh bí
tích, mầu nhiệm, thiêng liêng đó sao? Để chỉ nhìn thấy con người đang nói mà
quên đi Đấng mà người ấy đại diện và biểu thị một cách hiệu lực đó sao? Công
đồng dám khẳng đinh: "Chúa Kitô hằng hiện diện trong Giáo Hội nhất là
trong các hoạt động phụng vụ Người hiện diện trong con người thừa tác viên.
Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh. Ai rửa tội chính là Đức Kitô rửa. Phụng
vụ đáng được xem là việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa Giêsu Kitô,
trong đó công cuộc thánh hóa được biểu tượng nhờ những dấu chỉ khả giác"
(S.C 7). Chúng ta có cầu nguyện để các Giáo hoàng, các Giám mục, các linh mục
đóng đúng vai trò ấy hay không?
Chiếc thuyền ấy của Simon, neo trong cái vũng nhỏ ở
Ca-phác-na-um; tôi thích tưởng tượng nó như một chiếc thuyền cũ kỹ tồi tàn mà
khắp mọi chỗ có những mảnh ván đóng đinh chong vào để lấp kín những chỗ hư
hại... một chiếc thuyền rất phàm nhân, rất bình thường, rất nghèo hèn! Nhưng
Đức Giêsu đã bước lên chiếc thuyền ấy và từ đó Người nói! Ôi! Chiếc thuyền mẫu
nhiệm, Giáo Hội của Người, và Lạy Chúa, nó vừa rất con người và cũng rất thánh
thiêng…
Giảng xong, Người bảo ông Simon: "Chèo ra chỗ nước sâu mà
thả lưới bắt cá
Bản dịch theo mặt chữ thì tốt hơn và nói rằng: Ra chỗ nước sâu
hay đúng hơn: "Ra chỗ nước trên vực thẳm "eis to bathos" ' tiếng
Hy Lạp. Từ tiếng Bathos có nghĩa là vực thẳm, mà có từ tiếng Pháp
"bathiscaphe": Chiếc tàu lặn của Cousteau để thám hiểm các vực sâu
dưới đáy biển. Đối với dân Sêmít, dân cư của các vùng đất khô cằn, biển là nơi
đáng ngại nhất, biểu tượng của các vực thẳm nội tâm, nơi ở của các quái vật
trong hỏa ngục (St 7,17; Tv 74,13-24,2; Gr 38,16; Gn 2,2; Kh 9,l-3-20,3-13,1).
Nghề biển là một nghề nguy hiểm. Oi có biết bao thủy thủ, thuyền trưởng “bị
nuốt chửng, nhận chìm" vào cái hàm mở rộng của biển cả!
Như thế, Đức Giêsu nói một cách tượng trưng điều này: "Con
thuyền của Simon, Giáo Hội của Ta, hãy tiến vào nơi hiểm nghèo của biển cả, vào
nơi hiểm nghèo của thế gian, hãy rời bỏ sự an toàn của bờ bến; hãy tiến lên
trên vực thẳm". Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết mạo hiểm.
Ông Simon đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà
không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.
Sứ mạng của Giáo Hội hoàn toàn vượt quá những sứ mạng của con
người: Người môn đệ chân chính lắng nghe "lời" Chúa dù lời đòi hỏi
người ấy những điều xem ra phi lý.
Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như
rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp.
Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm
Luca nhấn mạnh đến tính chất phi thường của việc đánh cá siêu
phàm ấy: Lưới rách, một sự giúp đỡ cần thiết, người ta đổ cá đầy
"hai" thuyền, thuyền sắp chìm!
Giáo Hội chỉ có thể thành công nhờ tin vào Lời của Đức Giêsu.
Thế thì Simon tư tế phải nhớ lại thôi! Trên mảnh đất chuyên môn của mình Simon
tưởng mình có khả năng, nhưng Đức Giêsu đã đánh trúng ông, đã chỉ cho ông những
giới hạn của mình: Vì thế, ông không là gì cả nếu không có Người. “Chúng tôi đã
vất vả mà không bắt được gì cả!" Chúng ta cũng thế, trong chiếc thuyền của
chúng ta, chúng ta thường phải nhường chỗ cho một Đấng Khác, để thả lưới ở nơi
mà chúng ta không tự mình làm được.
Đó là ý nghĩa mẫu nhiệm của sự thất bại: giai đoạn đau khổ và
khiêm hạ để chúng ta từ bỏ chính mình và đem lại cho chúng ta cơ hội giải phóng
mình khỏi những ảo tưởng vẫn làm cho chúng ta tin tưởng vào giá trị của mình.
Như thế, có chẳng lúc, chúng ta được mời gọi phải thực hiện một bước liều của
đức tin: để hoàn thành các bổn phận nghề nghiệp của chúng ta, để yêu thương
chồng mình để chấp nhận một đứa con, để chịu đựng một thử thách... hay hoàn
toàn đơn giản, để chịu đựng một ngày của cuộc sống khô cằn trong đó chúng ta
vất vả mà không thu hoạch được gì. Chúng ta phải tiến lên trên vực thẳm",
phải liều mình với một cử chỉ điên rồ mà Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta! Hỡi Giáo
Hội! Tại sao bạn còn nghi ngại?
Thấy vậy, ông Simon Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: "Lạy
Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!" Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt
được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc
Ở đây Luca đùng trước biệt danh "Phêrô" mà sau này Đức
Giêsu sẽ đặt cho ông Simon (Lc 6,14). Cũng vậy, Luca dùng trước danh hiệu
"Chúa" ("Kurios" trong tiếng Hy Lạp) sẽ là danh hiệu của
Chúa phục sinh trong vinh quang (Lc 24,3 - 24,34).
Trước sự hiện diện của Thiên Chúa, con người luôn cảm thấy một
sự run sợ lạ lùng, đây là nền tảng hầu như phổ biến của tình cảm tôn giáo trong
mọi tôn giáo trên thế giới. “Khốn cho tôi, tôi là một con người có đôi môi ô
uế". Isaia đã nói (6, 1) khi nghe thấy các thiên sứ kêu lên: “Thánh!
Thánh! Thánh! Lạy Chúa là Thiên Chúa hoàn vũ" Chúng ta còn nhớ những người
dân ở Nadarét xin Thiên Chúa làm những phép lạ! Còn người môn đệ chân chính lại
sợ hãi trước phép lạ và cầu khẩn Thiên Chúa tránh xa mình. Xin Chúa trách xa
con, Phêrô khẩn khoản nài xin. Con là kẻ tội lỗi. Sau này khi nghe tiếng gà
gáy, ông sẽ còn khám phá một cách sâu xa hơn tình trạng tội lỗi của mình! à thì
ra người ta không thờ phụng nhân cách trong Giáo Hội, cũng không tôn thờ giáo
hoàng. Con người mà Đức Giêsu đã yêu cầu đại diện Người tức vị giáo hoàng đầu
tiên là một "con người tội lỗi". Trước đó, Phêrô là trưởng
nhóm", ông tin tưởng vào kiến thức và kinh nghiệm của mình. Nhưng cuộc gặp
gỡ với Đức Kitô đã cho ông thấy sự nhỏ bé của ông. Đức Giêsu chuẩn bị ông trở
thành thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Người bằng cách làm cho ông ý thức sự vô
nghĩa của mình. Thánh Gioan khi kể lại sự đánh cá mầu nhiệm đã đặt nó sau sự
Phục Sinh (21,1,19) và câu chuyện chấm dứt bằng việc nhắc đến Phêrô đã ba lần
chối Chúa, và bằng sự tín nhiệm của Đức Giêsu đem lại cho người tội lỗi ấy một
sứ mệnh!
Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài
với ông Simon, cũng kinh ngạc như vậy
Ở đây trong quá trình câu chuyện, Luca kể lại cho chúng ta tên
những người khác như để làm nổi bật Phêrô trước đó.
Và các người bạn ấy của Phêrô được kể ra để nói rằng họ chia sẻ
niềm kinh ngạc lạ lùng của Phêrô là cũng là những người sẽ có đặc ân đáng sợ là
bộ ba chứng kiến (Phêrô, Giacôbê và Gioan) sự sống lại của một bé gái (Lc
8,51), sự biến hình trên núi (Lc 9,28), sự hấp hối trong vườn cây dầu (Mt
26,37).
Ngày nay, sự sợ hãi mà điều thánh thiêng gây ra dường như biến
mất. Nhưng đó không phải là sự biến mất. Đó là một sự di chuyển: Khi người ta
mất đi sự kính sợ Thiên Chúa, thì người ta bị mọi thứ hốt hoảng và sợ hãi xâm
chiếm: nguy cơ nguyên tử, sự mất quân bình đủ loại sự mỏng dòn mới về tâm lý,
sự lo lắng trước tương lai.
Bấy giờ Đức Giêsu bảo ông Simon: Đừng sợ
Đó là lời an ủi mà trong Kinh Thánh các thiên sứ luôn luôn nói
với những con người sững sờ vì sự hiện diện thánh thiêng (Lc 1,13-30 - 2,10).
Đó cũng là lời mà Đức Giêsu sẽ luôn luôn nói sau khi Người sống lại (Mt 28,10;
Kh 1,17).
Từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.
Theo hình ảnh tượng trưng của biển cả được khai triển bên trên,
vấn đề là "cứu sống những con người khỏi vực thẳm quỷ quái": Đó là
vai trò của Giáo Hội. Nhân loại là mồi ngon của những sức mạnh đáng sợ muốn
nuốt trửng nhân loại. Bạn"hãy là "kẻ đánh lưới người", bạn hãy
cứu họ!
Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người
Phép lạ thật sự không phải là đánh cá ngoài khơi xa mà là đánh
cá trong các tâm hồn; họ đã chọn lựa sự liều lĩnh ấy của Đức tin để theo Đức
Giêsu và bỏ hết mọi sự.