THỨ NĂM SAU CHÚA NHẬT
33 THƯỜNG NIÊN
NĂM LẺ
BÀI ĐỌC: 1Mcb 2,15-29
15 Hồi ấy, các viên
chức của vua An-ti-ô-khô, những người có nhiệm vụ cưỡng bức người Do-thái chối
đạo, đã tới thành Mô-đin để tế thần. 16 Nhiều người Ít-ra-en đã đến
theo chúng. Nhưng ông Mát-tít-gia và các con thì họp lại thành nhóm riêng. 17
Các viên chức của vua lên tiếng nói với ông Mát-tít-gia rằng: "Ông là thủ
lãnh, là người có danh giá, là bậc vị vọng trong thành này, lại được con cái và
anh em ủng hộ. 18 Vậy xin mời ông tiến lên làm người đầu tiên thi
hành chỉ dụ của đức vua, giống như tất cả các dân tộc, các người Giu-đa và
những người còn ở lại Giê-ru-sa-lem đã làm. Rồi ông và các con sẽ được kể vào
số bạn hữu đức vua, sẽ được danh giá, được nhiều vàng bạc và bổng lộc.”19
Ông Mát-tít-gia lớn tiếng đáp lại: "Cho dù tất cả các dân tộc trong vương
quốc của vua có nghe lời vua và ai cũng chối bỏ việc thờ phượng của cha ông
mình và tuân theo lệnh vua, 20 thì tôi, các con tôi và anh em tôi,
chúng tôi vẫn trung thành với Giao Ước của cha ông chúng tôi. 21
Không đời nào chúng tôi bỏ Lề Luật và các tập tục!22 Chúng tôi sẽ
không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải,
vẹo bên trái.”23 Ông vừa dứt lời thì có một người Do-thái công khai
tiến ra tế thần trên bàn thờ ở Mô-đin theo như chỉ dụ của vua. 24
Trước cảnh tượng đó, ông Mát-tít-gia bừng lửa nhiệt thành, ruột gan ông sôi
sục, lòng đạo đức khiến ông nổi giận đùng đùng: ông nhào tới hạ sát hắn ngay
tại bàn thờ. 25 Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ
cưỡng bức người Do-thái tế thần. Rồi ông phá đổ bàn thờ. 26 Ông bừng
lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pin-khát trong vụ Dim-ri, con của
Xa-lu. 27 Rồi ông Mát-tít-gia rảo khắp thành và hô lớn tiếng:
"Ai nhiệt thành với Lề Luật và tuân giữ Giao Ước, hãy theo tôi!"28
Sau đó, ông và các con trốn lên núi, bỏ lại trong thành tất cả tài sản.
29 Bấy giờ, nhiều người
Do-thái muốn sống công minh chính trực đã xuống hoang địa và lập cư tại đó
ĐÁP CA: Tv 49
Đ. Ai sống đời hoàn hảo, Ta cho hưởng ơn cứu độ
Chúa Trời. (c 23b).
1 Đức Chúa, Thượng Đế
chí tôn, nay Người lên tiếng, từ khắp cõi đông tây, Người triệu tập hoàn cầu. 2
Tại Xi-on, cảnh sắc tuyệt vời, Thiên Chúa hiển minh,
5 Rằng: "Hãy
triệu tập cho Ta những người trung hiếu, những người đã giao ước với Ta bằng hy
lễ.” 6 Các tầng trời tuyên bố Chúa công minh, vì chính Người sẽ đứng
ra xét xử.
14 "Hãy tiến dâng
Thiên Chúa lời tạ ơn làm hy lễ, giữ trọn điều khấn nguyền cùng Đấng Tối Cao. 15
Hãy kêu cầu Ta trong ngày cùng khốn, Ta sẽ giải thoát, và ngươi sẽ làm hiển
danh Ta.”
TUNG HÔ TIN MỪNG: x Tv 94,7b. 8a
Hall-Hall: Ngày hôm nay, anh em chớ
cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa. Hall.
TIN MỪNG: Lc 19,41-44
41 Khi đến gần
Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương42 mà nói:
"Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho
ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. 43
Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm
ngươi tư bề. 44 Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi,
và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ
ngươi được Thiên Chúa viếng thăm.”
TẠI SAO ĐỨC GIÊSU
KHÓC?
Có nhiều
người lầm tưởng khuôn mặt Đức Giêsu rất buồn, vì cả bốn Tin Mừng không tác giả
nào ghi Đức Giêsu cười. Trái lại, ông Luca và ông Gioan lại ghi Đức Giêsu khóc.
Chúng ta biết buồn quá cũng khóc mà vui quá cũng khóc. Ta hãy tìm hiểu lý do
nào khiến Đức Giêsu khóc, để một khi đã biết ý Ngài, chúng ta phải làm cho Đức
Giêsu luôn cười đến chảy nước mắt!
I. LÝ
DO ĐỨC GIÊSU KHÓC THEO THÁNH SỬ LUCA GHI (x Lc 19,41).
Chủ đích
của Tin Mừng Luca, ông nhấn mạnh về nhân
tính của Đức Giêsu, Ngài có bản tính như mọi người: biết vui, biết buồn,
biết sợ, biết đói, biết khát, ngoại trừ tội lỗi. Để nhấn mạnh Đức Giêsu có nhân
tính, ông Luca ghi trước giờ Tử Nạn, Ngài sợ hãi đến toát mồ hôi máu (x Lc
22,44). Với bản tính yếu đuối trong thân phận làm người, Đức Giêsu khóc vì dân
Do Thái không đón nhận Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, như các ngôn sứ đã báo cho
họ biết trước, thì tai họa sẽ ập xuống trên dân tộc: Ngài nhìn thấy trước cảnh
hoang tàn của thành Giêrusalem, và dân tộc Ngài bị phân tán khắp mọi dân mọi
nước. Thực vậy, vào năm 70 quân Roma thình lình kéo đến vây bủa thành
Giêrusalem phá bình địa, không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, dân Ngài
cố thủ và bám vào Đền Thờ như bùa hộ mệnh, thế mà kẻ thì bị giết, người thì bị
bắt đi đày (x Lc 19,28-44: Tin Mừng).
Sự cố đau
thương này đã khai mở từ lúc Ngài sinh vào đời, cha mẹ Ngài không tìm kiếm được
nơi êm ấm trong thành của người Do Thái để sinh Con, nên Ngài được cha mẹ đặt
nằm trong máng cỏ ngoài thành (x Lc 2,7). Vì dân khước từ Đấng mà Thiên Chúa đã
hứa ban để cứu chuộc họ (x St 3,15), do đó Chúa để cho vua Hêrôđê ra lệnh truy
nã diệt hài nhi Do Thái nào mới sinh ra từ hai tuổi trở xuống ở thành Bethlem
và các vùng phụ cận, vì ông nghĩ rằng có kẻ sinh ra manh nha để tiếm quyền của
ông, làm cho tổ phụ của họ là bà Rakel, vợ ông Giacob, dù đã được an táng cũng
đội mồ chỗi dậy khóc thương dòng giống của bà, đến nỗi không ai an ủi được, vì
con cháu của bà đã không biết đón nhận Đấng Cứu Độ, nên chắc chắn hành động dã
man của vua Hêrôđê truy nã giết Đức Giêsu trở thành dấu chỉ dòng giống của bà
Rakel sẽ còn khốn nạn vì, chính họ quyết liệt giết Con Thiên Chúa, thì chắc
chắn họ phải khổ hơn thời lưu đày ở Babylon suốt 40 năm (x Mt 2,1-18).
Như vậy
tiếng khóc của Đức Giêsu theo thánh sử Luca là tiếng khóc nối dài của bà Rakel
tổ phụ của họ, vì họ không đón nhận Ngài, thì tới năm 70, Chúa để cho quân Roma
đến phá thánh điện Giêrusalem, dân phải khổ hơn thời vua Nabukodonosor cho phá Đền
Thờ này và bắt dân đi lưu đày bên Babylon. Dưới bàn tay độc ác của vua
Nabukodonosor, dân Do Thái chỉ bị khổ 40 năm, bắt đầu vào năm 587 trước Công
nguyên, sau đó Chúa lại dùng vua Cyros, người ngoại giáo xứ Ba Tư giải phóng
cho dân Do Thái khỏi ách nô lệ Babylon, đặc biệt nhà vua còn cung cấp tiền của
cho người Do Thái trở về quê hương tái thiết Đền Thờ, Đền Thờ này rất lộng lẫy và
nguy nga, đến nỗi sử gia Flavius tấm tắc khen: “Một trăm vẻ huy hoàng của vũ trụ thì Giêrusalem chiếm 90%”.
Thế
nhưng, vì dân này cố tình và quyết liệt muốn loại trừ Con Thiên Chúa, Đấng khơi
nguồn sự sống từ Do Thái để bung ra khắp thế giới (x Ga 4,22), nên Đền Thờ nguy
nga này và dân tộc của Ngài bị xóa trên bản đồ thế giới đã kéo dài gần 2. 000
năm, cho dẫu từ năm 1948, sau Đệ nhị thế chiến, Liên Hiệp quốc tạo điều kiện cho những người Do
Thái lưu vong trở về để tái lập quốc gia,nhưng cho đến ngày hôm nay Israel vẫn
không xác định được ranh giới đất nước của mình, Đền Thờ Giêrusalem cũng không
thể tái thiết được, bởi vì giữa dân Israel, dòng giống của ông Isaac, con bà
Sara, vợ chính thức của ông Abraham, vẫn không ngừng gây chiến với dân Palestin
dòng giống của Ismael, con của bà Hagar, nữ tỳ của ông Abraham. Như thế, Isaac
và Ismael con cùng cha khác mẹ vẫn hăm he chờ thanh toán nhau để chiếm từng
mảnh đất cho mình. Ta biết nguyên nhân giữa người Palestin và người Israel luôn
gây chiến là tại lỗi bà Sara, vợ ông Abraham, vì Chúa đã hứa cho vợ chồng
Abraham và Sara có con (x St 15), thế mà bà Sara lại đưa đứa nô lệ Hagar ăn ở
với chồng, sinh ra Ismael (x St 16), đến khi bà Sara sinh Isaac, từ bấy giờ
giữa Isaac, tổ phụ Israel luôn bất hòa với Ismael, tổ phụ Palestin. Sự cố đau
thương này vẫn đang diễn ra và không hy vọng có thời kết thúc. Sự cố lịch sử
này càng chứng minh Lời Đức Giêsu đã tiên báo về số phận dân tộc Do Thái bị ly
tán và thành Giêrusalem mãi mãi không còn đá chồng trên đá, thì làm sao Đức Giêsu
lại không khóc về dân tộc của Ngài được?! Vì Ngài cũng có bản tính người như bà
Rakel.
II. LÝ
DO ĐỨC GIÊSU KHÓC THEO TIN MỪNG GIOAN (11,35).
Đặc biệt
thánh sử Gioan khi viết Tin Mừng, ông nhấn mạnh về thiên tính của Đức Giêsu: Đức Giêsu đứng trước cuộc Khổ Nạn, Ngài
không run sợ như tác giả Luca ghi: “Toát
mồ hôi máu”, mà Ngài rất oai hùng khi nhìn đoàn quân Roma kéo đến vây bắt
Ngài, chúng đứng trước mặt Ngài mà không biết Ngài là Giêsu Nazareth để bắt, dù
hôm đó có Giuđa dẫn đầu. Ngài hỏi chúng: “Các
ngươi đi tìm ai?” Chúng thưa: “Chúng
tôi đi tìm ông Giêsu Nazareth”. Ngài nói: “Này Ta đây”. Chúng liền giật lùi và bổ ngửa ra hết (x Ga 18,3-6),
lúc ấy Đức Giêsu có quyền đạp trên chúng mà đi, nhưng Ngài đã cho phép chúng
đứng dậy để bắt Ngài.
Đức Giêsu
có bản tính Thiên Chúa oai hùng như thế, nên Ngài biết trước sự chiến thắng của
Ngài, do đó khi Ngài đứng khóc trước mộ Ladarô (x Ga 11,35) là vì quá vui mừng,
như Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, Con
biết Cha hằng nhận lời Con là sẽ cho Ladarô sống lại, để cho mọi người nhận
biết Cha đã sai Con đến để cứu họ,nên Con hằng tạ ơn Cha” (x Ga 11,41b-44).
Đó là lý do Ngài đã xác định với bà Matta, chị của Ladarô đã chết: “Em con sẽ sống lại, phục sinh và sự sống
chính là Ta” (Ga 11,23-25). Đây là sự chiến thắng của Đấng Toàn Năng, chỉ
duy mình Chúa Giêsu đánh gục thần chết, giải thoát những ai tin vào Ngài thì
được sống muôn đời, còn niềm vui nào lớn lao hơn! Vì Ngài quá vui mừng mà khóc,
bởi Ngài đã nói với các môn đệ rằng: “Ta mừng, vì không có Ta ở bên Ladarô, nên Ladarô ngủ (chết) và Ta sẽ đến đánh
thức ông ấy dậy” (Ga 11,11-15).
Tuy nhiên
ông Gioan cũng không phủ nhận Đức Giêsu có bản tính loài người, nên Ngài khóc
là khóc cho dân của Ngài, vì sau phép lạ Ngài làm cho Ladarô sống lại, Ngài không
làm một phép lạ nào nữa, vì đây là dấu Ngài đã đạt mục đích vào trần gian để
làm cho loài người dù chết cách nào cũng được sống lại, ai tin vào Ngài thì
khỏi phải chết và được sống muôn đời. Ta biết Tin Mừng Gioan chỉ ghi bảy phép
lạ Đức Giêsu thực hiện, trở thành dấu chỉ về cuộc sáng tạo mới, mở đầu Đức
Giêsu hóa nước thành rượu nho (x Ga 2,1t), thứ hai là Đức Giêsu cho con ông sĩ
quan ngoại giáo thoát tay tử thần (x Ga 4,43t), thứ ba là Đức Giêsu chữa lành
người bất toại 38 năm nằm bên bờ hồ có năm dãy hành lang (x Ga 5,1t), thứ bốn
là Đức Giêsu hóa bánh nuôi dân ăn no nê (x Ga 6,1t), thứ năm là Đức Giêsu đi
trên mặt nước đến với thuyền các môn đệ gặp sóng gió (x Ga 6,16t), thứ sáu là
Đức Giêsu chữa lành cho người mù từ thuở mới sinh (x Ga 9,1t), cuối cùng, thứ
bảy là Đức Giêsu cho Ladarô đã an táng bốn ngày trong mồ được sống lại (x Ga
11). Nhìn vào bố cục bảy phép lạ trên, ta thấy mở đầu nước hóa thành rượu nho
là dấu chỉ nhờ nước Thánh Tẩy ta được tháp vào Đức Giêsu là cây nho thật (x Ga
15), để được sống đời đời, qua dấu chỉ Đức Giêsu cho anh Ladarô sống lại. Chỉ
khi nào loài người được Chúa cho từ cõi chết sống lại, công trình sáng tạo của
Thiên Chúa mới hoàn hảo.
Nhưng
tiếc rằng những người Do Thái chứng kiến phép lạ ấy, nhất là những vị kỳ mục của
dân lại tỏ ra phẫn uất, quyết liệt loại trừ Ngài và đòi giết luôn cả Ladarô (x
Ga 11,45-53; 12,10). Họ đã loại trừ Giêsu là nguồn sống thì không thể có sự sống
nơi họ (x 1Ga 5,12). Ông Gioan lại ghi Đức Giêsu có lòng thương cảm chị em
Matta và Maria, cùng với những người thân của gia đình này đang khóc nức nở
trước mộ Ladarô, làm cho Đức Giêsu bực
dọc tâm thần và xao xuyến cả
mình, vì Ngài nhìn thấy nhiều người chưa đủ Đức Tin nhận ra Ngài có quyền cho
kẻ chết sống lại, họ tưởng Đức Giêsu khóc chỉ vì thương gia đình Matta và
Maria, nên họ nói với nhau: “Ngài thương
ông ấy dường nào” (x Ga 11,36). Nhưng câu đó lại trở nên lời tiên báo: Đức
Giêsu thương Ladarô vì dẫu Ngài cho anh sống lại, thì các đầu mục Do Thái lại
quyết định giết luôn cả Ladarô (x Ga 12,10). Ladarô trước đã chết vì bệnh, thì
không sợ bằng sau này chết vì sự ghen tỵ của bọn đầu mục đối với Đức Giêsu. Với
sự lỳ lợm của các đầu mục Do Thái như thế, chứng tỏ dân tộc của Ngài không đón
nhận được sự sống, đó là lý do Ngài khóc!
Vậy cả
hai tác giả Luca và Gioan khi ghi nhận Đức Giêsu khóc, hai ông đã chung một ý
là với bản tính nhân loại,Ngài thương dân tộc của Ngài,vì ngay từ thời vua
Antiôkhô, nhiều người Do Thái đã bỏ Luật Môsê đi tôn thờ các ngẫu tượng của dân
ngoại, mà vua này đã ra lệnh cho toàn dân phải tuân theo, ai làm theo lệnh vua
thì được sống và hưởng nhiều bổng lộc, kẻ bất tuân thì sẽ bị giết. Chỉ có ông
Máttítgia, là đầu mục Do Thái, cùng các con của ông thì quyết tâm không bỏ Luật
Chúa ban qua ông Môsê, dù vua dụ dỗ và hứa ban cho ông Máttítgia, nếu ông làm theo
ý vua thì được chức vụ cao trong triều đình và hưởng nhiều vàng bạc châu báu. Nhưng
ông Máttítgia ý thức mình là thủ lãnh của dân Do Thái, ông thề không theo lệnh
vua để hưởng bổng lộc mà làm cớ cho dân tộc ông bắt chước. Lúc ấy ông nhìn thấy
có người Do Thái ra tế lễ ngẫu thần ở Môđin, lòng ông sôi sục vì có kẻ lỗi Luật
Môsê, ông xông vào hạ sát hắn, và phá hủy tế đàn, rồi ông cùng cả gia đình với
một số người còn trung thành với Luật Môsê trốn lên núi (x 1Mcb 2,15-29: BĐ năm
lẻ). Thế mà Đức Giêsu nhìn các đầu mục Do Thái vào thời của Ngài chẳng ai còn
có Đức Tin giống ông Máttítgia, tổ phụ các thủ lãnh của họ, thì những mục tử
độc ác này sẽ dẫn toàn dân Do Thái sa xuống vực thẳm chung cư với tử thần, làm
sao Đức Giêsu không khóc thương họ được?!
Lối sống Đạo
của một người Do Thái tiến ra tế thần Môđin theo lệnh vua Antiôkhô, chẳng khác
nào lối sống đạo của dân Do Thái chối từ không tôn thờ Chúa Giêsu Phục Sinh, mà
cứ bám vào lối tế tự theo Luật Môsê, làm cho ông Gioan khóc nức nở, vì không ai
xứng đáng mở Cuốn Sách (Tân Ước), và nhìn vào đó hòng được cứu độ (x Kh 5,4: BĐ
năm chẵn). Mãi cho tới khi “sư tử xuất
thân từ chi tộc Giuđa” (Tin Mừng Marco được công bố), chồi non của Đavit đã
chiến thắng. Người sẽ mở Cuốn Sách và bảy ấn niêm phong (x Kh 5,5: BĐ năm chẵn).
Thực vậy, Tin Mừng của Marco được công bố đầu tiên vào khoảng năm 60. Nhờ Tin
Mừng này mà loài người nhận biết Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng
đầy sức mạnh (bảy sừng) và là Đấng khôn ngoan (bảy mắt), “tức là bảy thần khí của Thiên Chúa đã được sai đi khắp mặt đất. Con
Chiên đến lãnh cuốn sách từ tay hữu Đấng ngự trên ngai, Khi Con Chiên đã lãnh
cuốn sách, thì bốn Con Vật và hai mươi bốn vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước mặt
Con Chiên, mỗi vị tay cầm đàn, tay nâng chén vàng đầy hương thơm, tức là những
lời cầu nguyện của dân thánh. Các vị hát một bài ca mới rằng: "Ngài xứng
đáng lãnh nhận cuốn sách và mở ấn niêm phong, vì Ngài đã bị giết và đã lấy máu
đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi
nước, mọi dân. Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để
phụng thờ Thiên Chúa chúng ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này" (Kh
5,6-10: BĐ năm chẵn).
Vì từ khi
Con Thiên Chúa vào đời, Chúa Cha chỉ nhận của lễ “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng đã hiến mạng cứu loài người tội lỗi” (Ga
1,29). Vì thế, Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ Samari: “Giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích
thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm
những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,23). Kẻ bỏ Thiên Chúa mà tế thần
Môđin làm cho ông Mattítgia sôi máu, ông xông vào hạ sát hắn, và phá hủy tế đàn
thờ ngẫu tượng (x 1Mcb 2, 23-24: BĐ năm lẻ). Thì vào thời Tân Ước, Chúa khiến
cho quân Roma tức giận xông lên giết tất cả dân tộc Do Thái, phá tan Đền Thờ
Giêrusalem, không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào (x Lc 19,44: Tin Mừng),
để chấm dứt lối tế tự của Do Thái giáo vào năm 70! Biến cố đau thương này lại
trở thành dấu chỉ vào ngày cánh chung,Chúa để cho Satan sôi máu diệt hết mọi kẻ
chống đối Kitô giáo, không muốn kết hợp với Chúa Giêsu Phục Sinh, để tôn thờ
Thiên Chúa cho phải đạo. Bởi vì, vào ngày cánh chung, Chúa chỉ cứu những ai đã
từng tham dự Phụng Vụ của Hội Thánh mà cầu nguyện “lạy Chúa Kitô, Ngài đã làm cho chúng con thành một vương quốc, thành
những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng con” (Kh 5,10: ĐC năm chẵn).
Vậy “ngày hôm nay anh em chớ cứng lòng, nhưng hãy
nghe tiếng Chúa” (Tv 95/94, 7b-8a: Tung Hô Tin Mừng), để sống Đạo theo
gương ông Máttítgia, đó là “người sống
đời hoàn hảo, Chúa cho hưởng ơn cứu độ của Ngài” (Tv 50/49, 23b: ĐC năm lẻ).
Một nhà
sinh vật học, khi đi tìm kiếm các sinh vật để khảo cứu,ông đi vào một hang động
có rất nhiều dơi đậu hai bên vách đá, nhưng ông không thấy những con dơi lớn,
ông hiểu là chúng đi kiếm ăn,chỉ còn lũ dơi con đang bám tòng teng trên vách đá.
Ông bắt tất cả các dơi con về nghiên cứu. Hôm sau trở lại hang, ông vô cùng
kinh ngạc khi thấy xác những con dơi lớn nằm la liệt. Ông lại lượm xác chúng về
khảo cứu, xem lý do nào chúng chết hàng loạt như thế! Cuối cùng ông cũng khám phá ra hai điều:
-
Những con dơi bị
chết đều là những dơi mẹ.
-
Giải phẫu chúng
thì thấy tất cả đều bị đứt ruột mà chết.
Dơi mẹ biết thương con như thế, cũng chỉ vì
Thiên Chúa đã phú bẩm cho nó. Vậy Thiên Chúa chính là Tình Yêu (1Ga 4,8), thì
Ngài còn thương chúng ta hơn biết mấy khi Satan bước vào trần gian, thu góp
những kẻ chống đối Đức Giêsu đưa về sào huyệt của nó!
THUỘC LÒNG
Anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa,
và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền
Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi
thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em (1Cr 3,16-17).
Vui với người vui khóc với người khóc (Rm 12,15).
Lm GIUSE ĐINH QUANG
THỊNH