CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN
NĂM B
Kn 3,1-9; 1Cr
1,17-25; Lc 9,23-26
BÀI ĐỌC I: Kn 3,1-9
1 Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên
Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. 2 Bọn ngu si coi họ
như đã chết rồi; khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. 3
Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra, họ đang
hưởng an bình. 4 Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ
vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử. 5 Sau khi chịu sửa
dạy đôi chút, họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao. Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách
họ và thấy họ xứng đáng với Người.
6 Người đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng
trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu. 7 Khi đến giờ
được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy.
8 Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước. Và Đức Chúa sẽ là
vua của họ đến muôn đời. 9 Những ai trông cậy vào Người, sẽ am tường
sự thật; những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người, vì
Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn.
ĐÁP CA: Tv 125
Đ. 5 Ai nghẹn
ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
1 Khi Chúa dẫn tù nhân Xi-on trở về, ta tưởng mình như giữa giấc
mơ. 2ab Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc
nhạc mừng.
2cd Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: "Việc Chúa làm
cho họ, vĩ đại thay!" 3 Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! ta
thấy mình chan chứa một niềm vui.
4 Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về
suối cạn miền Nam. 5 Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau
khấp khởi mừng.
6 Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về
reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.
BÀI ĐỌC II: 1Cr 1,17-25
Anh em thân mến,17 Đức
Ki-tô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và
rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Ki-tô khỏi trở nên
vô hiệu. 18 Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ
đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người
được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa. 19 Vì có lời
chép rằng: Ta sẽ huỷ diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự
thông thái của người thông thái. 20 Người khôn ngoan đâu? Người học
thức đâu? Người lý sự của thời này đâu? Thiên Chúa lại đã không để cho sự khôn
ngoan của thế gian ra điên rồ đó sao?21 Thật vậy, thế gian đã không
dùng sự khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự
khôn ngoan của Người. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để
cứu những người tin. 22 Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm
thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan,23 thì chúng
tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô
nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. 24 Nhưng đối
với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính
là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. 25 Vì cái
điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối
của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Mt 5,10
Hall-Hall: Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước
Trời là của họ. Hall.
TIN MỪNG: Lc 9,23-26
Khi ấy, 23 Đức Giê-su nói
với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình
hằng ngày mà theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ
mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 25
Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì
nào có lợi gì?26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con
Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của
Chúa Cha và các thánh thiên thần.
ĐAU KHỔ VÌ CHÚA MỚI SỐNG THẬT
1/ LỊCH SỬ LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
VIỆT NAM.
Ngày 19/06/1988, Đức Gioan Phaolô II
đã phong Hiển Thánh cho 117 vị, trong số 130. 000 người Tử Đạo tại Việt Nam,
gồm có:
8 Giám mục; 50 Linh mục; 14 thầy
giảng; 1 chủng sinh, 44 giáo dân. Trong đó có 10 vị người Pháp, 11 vị người Tân
Ban Nha, còn lại là người Việt.
Các Thánh trên đã tử đạo bởi 5 triều
đại vua sau đây:
·
Trịnh Nguyễn
(1745-1773): 4 vị.
·
Cảnh Thịnh
(1798): 2 vị.
·
Minh Mạng (1820-1840):
50 vị.
·
Thiệu Trị (1841-1847):
3 vị.
·
Tự Đức (1848-1883):
58 vị.
Các ngài chịu đủ mọi cực hình:
-
Bá đao (mỗi
người bị cắt 100 miếng thịt): 1 vị.
-
Lăng trì
(chặt chân tay trước khi chém đầu): 4 vị.
-
Thiêu sống:
6 vị.
-
Chém đầu: 75
vị.
-
Xử giảo
(quấn dây vòng cổ rồi kéo hai đầu cho đến chết: 22 vị.
-
Rũ tù: 9 vị.
-
Người cao tuổi
nhất như cha Loan 84 tuổi; trẻ nhất như Tôma Thiện 18 tuổi. Trong số 117 vị Tử
Đạo chỉ có một phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành (thánh Đê.)
Các vị trên đủ mọi thành phần trong
đạo-đời, quan có, lính có, dân có; nhưng đa số là giáo sĩ trong Hội Thánh: Giám
mục, Linh mục, chủng sinh. Số người trẻ từ 18 đến 40 tuổi chiếm 1/3 trong 117
vị Tử Đạo.
Ngày 15/10/1989, Hội Đồng Giám mục
Việt Nam xin Tòa Thánh ghi vào lịch Phụng Vụ thế giới ngày 24/11 là ngày kính
các thánh Tử Đạo, và được Bộ Phượng Tự chấp thuận ngày 14-02-1990.
2/ GIÁO HUẤN.
Bài đọc I, sách Khôn ngoan dạy: muốn
biết vàng thật hay giả phải thử trong lửa – Muốn biết đức độ của một người phải
qua gian nan thử thách.
Bài đọc II, thánh Phaolô trong thư I
gởi cho tín hữu ở Côrintô dạy rằng: Người tin Chúa giới thiệu Thiên Chúa là
Đấng Toàn Năng khi họ để cho Thiên Chúa hành động trên con người họ:
-
Yếu thành
mạnh.
-
Khổ nên vinh
quang.
-
Chết được
sống lại.
Bài Tin Mừng, tác giả Luca ghi nhận:
·
Câu 23: Thập giá (đau khổ) người Kitô hữu vác hằng
ngày theo Chúa chính là những trái ý phải khắc phục, chịu đựng, tha thứ. Ví dụ:
Người ta hiểu lầm mình, rơi vào hoàn
cảnh nghèo khổ, bệnh tật, đủ thứ khổ trong đời phải chịu, nhất là khổ vì điều
tốt muốn làm mà không làm được, cứ hướng chiều về điều xấu mình không thích!
·
Câu 24: Khổ vì tìm cách cứu mình, Chúa đã không giúp
lại còn đòi ta phải mất mạng sống vì Chúa, rồi Ngài mới cứu sống cho! Nhưng
sống chưa thấy, thấy chết trước mắt!
·
Câu 25: Khổ vì Chúa bảo được lời cả thế gian mà lại
mất mạng sống mình là dại! Còn ta sống Đạo, chưa dám mơ được cả thế gian, mà
ngay đến sự sống riêng mình muốn giữ xem ra cũng không giữ được.
·
Câu 26: Khổ vì rao giảng về Chúa không được người đời
chấp nhận, cảm thấy xấu hổ muốn câm miệng cho yên thân, thì lại bị Chúa răn đe:
“Ai hổ thẹn chối Ta,Ta sẽ hổ thẹn chối nó trước mặt Cha Ta!”
·
Câu 27: Khổ vì Chúa hứa có người không nếm biết cái
chết trước khi thấy Nước Thiên Chúa. Biết bao người hằng ngày thiết tha cầu
khẩn “Maranatha”: xin Chúa mau đến cứu chúng con (x 1Cr 16,22; Kh 22,20), mà
chẳng thấy gì, chỉ toàn thấy sự ác ập đến!
NHƯNG CỨ PHẢI TIN!
· Câu 27: Khổ vì Chúa là ơn Chúa ban. Như khi Đức Giêsu sống lại là dấu
“Nước Thiên Chúa đến” các Tông Đồ phải gặp gian nan thử thách khi rao giảng Tin
Mừng, mà đâu có chết sớm! Còn tên Giuđa tham tiền đã chết trước khi thấy “Nước Thiên Chúa đến”.
·
Câu 26: Tin trong lòng thì được công chính, tuyên xưng
ngoài miệng mới được cứu độ (x Rm 10,10). Do đó không hổ thẹn vì loan báo Lời
Chúa.
·
Câu 25: Làm cho một người được Chúa cứu độ còn hơn giá
trị cả vũ trụ cộng lại.
·
Câu 24: Đi đường của Chúa dù có khổ thì vẫn còn hơn đi
theo ý riêng mình cũng chẳng tránh được đau khổ! Vì đau khổ có Chúa mới đạt
được vinh quang,còn không có Chúa là dấu bị khổ đời đời!
·
Câu 23: Có vác thập giá hằng ngày theo Chúa cũng chưa
đến nỗi phải đổ máu ra mà chống trả vì tội mình đâu! (x Dt 12,4)
TRÍCH BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ
II
TRONG ĐẠI LỄ TÔN VINH HIỂN THÁNH
117 VỊ CHÂN PHƯỚC TỬ ĐẠO VIỆT NAM
TẠI RÔMA NGÀY 19/06/1988
TRONG ĐẠI LỄ TÔN VINH HIỂN THÁNH
117 VỊ CHÂN PHƯỚC TỬ ĐẠO VIỆT NAM
TẠI RÔMA NGÀY 19/06/1988
“Lên tiếng với anh em để hô vang Chúa Kitô Tử Nạn
Thập Giá, tất cả chúng tôi hôm nay để lời cám ơn anh em vì tấm gương nhân chứng
đặc biệt các vị thánh Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam anh em đã nêu cao, bất cứ
các ngài là con dân Việt Nam hay là những Thừa sai, xuất xứ từ những nước đã in
sâu mầm mống đức tin Chúa Kitô.
Làm sao kể lại cho hết? Tất cả là
117 vị Tử Đạo, trong số có 8 vị Giám mục, 50 vị Linh mục, 59 giáo dân, trong số
đó có một phụ nữ là thánh Anê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con.
Truyền thống còn ghi nhớ lịch sử
chết vì đạo của Giáo Hội Việt Nam
rất bao quát, phức tạp ngay từ lúc ban đầu. Từ năm 1533, nghĩa là từ lúc miền
Đông Nam Á Châu vừa được truyền Đạo, Giáo Hội Việt Nam đã chịu bách hại suốt ba
thế kỷ, trừ một vài năm cách quãng, giống hệt ba thế kỷ bắt bớ của Giáo Hội Âu
Châu thời xưa. Từng ngàn vạn giáo dân tử Đạo, từng trăm số người đã chết lưu
lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc!
Để lấu một ví dụ: Trong các vị Tử
Đạo hôm nay, đi tiên phong có thánh Vinhsơn Liêm, dòng Đaminh là người Việt tử
đạo đầu tiên năm 1773. rồi tới Linh mục Anrê Dũng Lạc, sinh trưởng trong một
gia đình rất nghèo khó, bên lương, từ nhỏ đã phải “bán” cho một thầy giảng dạy
giáo lý, nhưng rồi Chúa cũng cho tới chức Linh mục năm 1823, được bổ nhiệm
chánh xứ và đương nhiên thành nhà truyền giáo trong nhiều địa hạt.
Nhiều lần đã bị lao tù, nhưng vẫn
được giáo dân tốt lành đem tiền chuộc về, trong khi bản thân ngài mong chờ được
chết vì Chúa.”Những người chết vì đức tin, ngài nói – thì lên Thiên đàng thẳng
rằng; tại sao chúng ta cứ phải ẩn náu, phải tốn tiến đút lót cho quan quyền;
thà để cho chúng tôi bị bắt và rồi tử Đạo cho phải hơn không?” Thực ra vẫn một
ý chí hăng say và được ơn Chúa nâng đỡ, ngài đã anh dũng chịu trảm quyết tại Hà
Nội ngày 21/12/1839.
Một lần nữa, hỡi Giáo đoàn Việt Nam,
chúng tôi nói lại cho anh em rằng: máu các thánh Tử Đạo là nguồn ân sủng cho
anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong đức tin. Giữa anh em, đức tin của
tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai.
Đức tin này tồn tại để làm nền tảng
xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với
quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn còn là người tín hữu của Chúa Kitô.
Ai là người tín hữu đều ý thức rằng:
Lời kêu gọi của Phúc Âm vẫn là phải tuân phục các thể chế loài người, để tôn
thờ tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm việc thiện, sống xứng đáng con người tự
do, kiêng nể tha nhân, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng công
quyền và thể chế quốc gia (x 1Pr 2,13-17).
Do đó công ích của quốc gia vẫn là
thời điểm người công dân phải dấn thân, nhưng đồng thời phải được tự do tuyên
xưng Chân Lý của Chúa, được cảm thông với các vị chủ chăn và anh em đồng tín
ngưỡng: và như thế là để sống an bình với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh
phúc cho toàn dân”. (Trích Thiên Hùng Sử tr 20-25)
THUỘC LÒNG.
Ngoài Chúa Kitô chịu đóng đinh, tôi không muốn biết điều gì khác (1Cr 2,2).
Lm Giuse Đinh Quang Thịnh