Các bài suy niệm
Chúa Nhật XXIII Thường Niên B
Chúa Nhật XXIII Thường Niên B
MỤC LỤC
Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
Thờ Chúa
đích thực và ...Catholic.org.tw
Chúa Cứu Thế
chữa những khuyết.... Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Chữa họ khỏi
câm điếc Lm
Giuse Đinh lập Liễm
Cho người
điếc được nghe Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Đức Giêsu,
Đấng cứu độ thần linh Lm. Phêrô Lê văn Chính
Hãy mở
ra ĐGM.
Nguyễn Khảm
Chữa người
câm điếc Fiches
Dominicales
Ephata - Hãy
mở ra Chú giải của Noel Quesson
Mọi việc
Chúa làm đếu tôt lành Jacques Hervieux
Hãy mở
ra Noel
Quesson
Lẵng
nghe Noel
Quesson
Ephata - hãy
mở ra Niềm
Vui Chia Sẻ
Chúng ta là
những kẻ ,,, Achille Degeest
Đức tin là
bởi nghe... Charles
E. Miller
Một ngày kia
khi vương quốc đến Yvon Daigneault
Nói được rõ
ràng MANNA
Câm điếc tâm
linh Lm. Mark
Link
Câm và điếc
Sưu tầm
Lắng nghe
Sưu tầm
Câm điếc
Sưu tầm
Câm và điếc
Sưu tầm
Phép lạ
Sưu tầm
Câm điếc
Sưu tầm
Tang vật
Sưu tầm
Tin mừng
Sưu tầm
1. SỐNG HOÀN THIỆN MÌNH THEO
ÂN SỦNG CHÚA BAN
Mc 7, 31- 37
Phúc âm hôm nay trình bày
cho chúng ta thấy Chúa Giêsu chữa bệnh cho một người vừa câm vừa điếc. Câm là
không nói được. Điếc là không nghe được. Như vậy, người vừa câm vừa điếc thì
không còn khả năng để sống chung với người khác, tự thân đã khiến người bị tật
khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài cũng khó hiểu đối với họ. Và
người câm điếc sống trong gia đình nào, thì họ sẽ trở thành gánh nặng cho gia
đình đó. Do đó, hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành một người câm và điếc thể
hiện lòng thương yêu mà Chúa dành cho người bị tật.
Khi chữa lành người bị
tật, Chúa Giêsu không chỉ nhắm đến sự chữa lành để bày tỏ lòng yêu thương mà
thôi chứng tỏ mình là Đấng Thiên Sai, quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa
được biểu lộ, hay trong chính bài tường thuật hôm nay, từ ngữ mà thánh Marcô sử
dụng: "mở ra," "hết buộc lại," cho thấy Chúa Giêsu không
chỉ chữa lành những gì thuộc thể lý, nhưng Ngài còn chứng tỏ Ngài có quyền cầm
buộc và tháo cởi vận mạng đời đời của nhân loại.
Phép lạ chữa lành này cho
tôi nhận ra mình, dù mắt tôi vẫn xem thấy, tai tôi vẫn nghe, lưỡi tôi rất bình
thường nhưng tôi vẫn bị câm, bị điếc trước rất nhiều vấn đề, rất nhiều lãnh
vực. Có những thứ câm và điếc đáng sợ. Càng tệ hại hơn khi chính tôi bịt tai,
ngậm miệng để tự mình trở nên kẻ câm và điếc. Đó là nỗi câm điếc của khi tôi
không biết yêu mến, học hỏi và cố gắng sống Lời Chúa. Thiên Chúa là viễn vong,
chỉ có những gì cảm nhận bằng giác quan, những gì thuộc thế giới thực nghiệm
mới xác thực. Hay khi tôi câm điếc không biết yêu thương anh em đồng loại,
ngược lại chỉ sống ích kỷ cho riêng bản thân, làm mọi cách để tiến thân trong
cuộc đời, miên man trong sự ham hố tiền của, và danh vọng.
Vì thế, nỗi câm điếc
chính là thái độ cố tâm ở lỳ trong tội, cố tâm ở lỳ trong nỗi chết của linh
hồn. Do đó dù điếc câm thể xác, hay tinh thần đều có thể coi là bất hạnh. Nhưng
nỗi câm điếc của linh hồn không chỉ bất hạnh, mà còn gây nguy hiểm. Cái câm,
cái điếc ấy nguy hiểm vì nó cản lối tôi hướng về linh thánh, hướng về Thiên
Chúa, Đấng là cội là nguồn của tôi, cản lối hướng về ơn cứu độ mà Người rộng ban
cho tôi. Nguy hiểm vì lòng tôi thiếu ơn thánh, Thiên Chúa trở thành xa lạ, linh
hồn tôi nên chốn hoang tàn và là môi trường xấu làm phát sinh nhiều dịch bệnh:
cứng cỏi, kiêu căng, gian tham, ganh tị, ngông cuồng... Quả là nguy hiểm không
cùng, nhưng sự điếc câm của linh hồn không phải là vô phương chữa trị. Chỉ cần
chúng ta để lòng mình được mềm đi và đừng cứng cỏi nữa, ta sẽ dễ dàng nhận ra
con người thật của mình, biết bao gai góc cần gọt giũa; thói xấu cần chữa trị;
tư tưởng không lành mạnh, hành động sai quấy cần loại bỏ. Biết khiêm nhu để
nhận ra như thế là bước đầu tiên để từ đó, ta có thể phá bỏ dần tình trạng điếc
câm của linh hồn mình. Và chính khi biết mình như thế, ta sẽ để Chúa chạm đến
bản thân ta, chạm đến cuộc đời ta. Như vậy, có nhiều bức tường ngăn chặn
làm cho lỗ tai ta bị điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho miệng của ta trở
nên câm nín.
Nhờ bí tích rửa tội,
chúng ta được Chúa Thánh Thần mở mắt, lưỡi để chúng ta có thê sống hiệp thông
với Thiên Chúa và tha nhân. Tuy nhiên, chúng ta cũng thường điếc khi Chúa nói
với chúng ta qua các biến cố hằng ngày. Do kiêu căng, ích kỷ, tôi lỗi đã bịt
tai, cột lưỡi chúng ta không cho chúng ta hiệp thông với Thiên Chúa và tha
nhân. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đến nói với mỗi người chúng ta: "Hãy mở ra!".
Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời tha nhân để
san sẻ, giúp đỡ họ. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích
kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Chúa
và đón nhận tha nhân.
Hãy mở miệng ra để nói
được những lời yêu thương với tha nhân và với Chúa. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ
để ta quan tâm tới nhu cầu của mọi tha nhân, mạnh dạn nói những lời sự thật,
nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa. Hãy đến với
Chúa, thực tâm tôn thờ Chúa. Hãy cầu nguyện. Hãy vâng nghe Lời Chúa dạy và mau
mau thực hành Lời của Người trong suốt cuộc đời mình... Chắc chắn khi ta đến
với Chúa bằng một tấm lòng chân thành, Chúa sẽ chạm đến linh hồn ta, Ngài sẽ
biến đổi chúng ta và ta sẽ sớm lành mạnh. Chúng ta sẽ cảm nhận được những điều
kỳ diệu của Chúa "Ngài làm những điều tốt đẹp". Ngài chính là Đấng
Thiên Sai, Ngài đến để giải thoát và cứu chữa chúng nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy
chữa bệnh điếc và bệnh câm trong tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con biết
sống yêu thương tha nhân bằng thái độ tích cực, biết rao giảng Lời Chúa, biết
lắng nghe nỗi thống khổ của anh chị em đồng loại và chân thành đi đến với tha
nhân bằng tình thương Chúa dành cho chúng con. Amen.
2. MỞ TAI ĐÓN NGHE
LỜI CHÚA ĐỂ MỞ LÒNG CHIA SẺ TÌNH THƯƠNG
Mc 7,31-37
1. LỜI CHÚA: Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một
tiếng và nói: "Ép-pha-tha", nghĩa là: "Hãy mỡ ra!"
Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được
rõ ràng (Mc 7,34).
2. CÂU CHUYỆN: KIẾN THỨC
UYÊN BÁC DO ĐÂU ?
Một ông già kia nổi
tiếng là người có kiến thức rộng. Tuy trình độ văn hóa mới hết bậc
phổ thông, nhưng ông lại có vốn kiến thức sâu rộng về nhiều lãnh vực
như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, triết lý và thần học...
Tiếng đồn về ông già có kiến thức rộng ngày càng lan đi xa và nhiều
người đã đến viếng thăm ông để xin giải đáp thắc mắc và hỏi ý kiến về
các vấn đề cuộc sống. Họ đã được ông tận tình giải đáp và cho ý
kiến. Ngày nọ, một vị giáo sư đại học cũng đến thăm. Sau buổi đàm
đạo lâu giờ, vị giáo sư kia đã hỏi ông cụ nguyên nhân khiến ông có sự
hiểu biết rộng rãi và đúng đắn như vậy, đồng thời xin ông giới
thiệu một số cuốn sách mà ông đã đọc. Nhưng thật bất ngờ: Ông cụ
đã trả lời như sau: "Thưa ngài, thực sự tôi chẳng có thì giờ và
cũng chẳng có khả năng để đọc các quyển sách cao siêu về khoa học,
triết lý hay thần học... Hằng ngày tôi chỉ đọc có 3 cuốn sách mà
bất cứ ai cũng có thể đọc được: Cuốn thứ nhất là những công trình
lạ lùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang làm nơi bản thân tôi và chung
quanh tôi. Nhờ đó, tôi có dịp dâng những lời ngợi khen ca tụng Người.
Cuốn sách thứ hai là những việc đã xảy ra trong cuộc đời tôi. Nhờ
đó, tôi có dịp hồi tâm sám hối tội lỗi đã phạm, cảm tạ những ơn
lành Chúa ban và cầu xin Người ban các ơn lành hồn xác, nhất là ban
ơn cứu độ. Cuốn sách thứ ba là Lời Chúa trong Kinh Thánh. Mỗi ngày
tôi luôn dành ra một thời gian vào lúc sáng sớm để đọc một đoạn Lời
Chúa, rồi suy niệm và cầu xin Chúa giúp thực hành hằng ngày. Mỗi
lần tham dự thánh lễ, tôi luôn để tâm lắng nghe Lời Chúa qua các bài
đọc, nhất là bài giảng của vị chủ tế".
3. SUY NIỆM:
+ Xin Chúa mở mắt tâm hồn
chúng ta: Đúng như ông lão có kiến thức uyên bác trong câu chuyện trên đã
nói: "Thiên Chúa đã làm biết bao việc lạ lùng chung quanh ta mà
mọi người đều có thể nhìn xem, lắng nghe và suy nghĩ về những điều
kỳ diệu ấy". Nếu chúng ta không hiểu được ý Chúa là do đã không
biết mở mắt để nhìn xem, mở tai để lắng nghe, mở lòng để đón nhận,
mở trí khôn để khám phá và thi hành theo thánh ý Chúa.
"Ép-pha-ta":
Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết mở mắt tâm hồn bằng cách mở tai mở lòng,
mở trí để đón nhận Lời Chúa và tích cực chia sẻ tình người với tha nhân.
+ Xin Chúa mở miệng lưỡi
chúng ta: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã chữa một người vừa
ngọng (câm), vừa điếc. Người câm ngọng gặp khó khăn khi không thể diễn
đạt bằng lời nói cho người khác hiểu ý mình, giống như bị một sợi
dây vô hình trói buộc miệng lưỡi, làm cho họ không nói ra được điều
muốn nói. Nhiều người thiếu sự tự tin, ăn nói ngọng nghịu hay đành nín
thinh, vì trong quá khứ đã từng bị kẻ khác miệt thị khinh thường... Ngòai
ra còn có những mối đe dọa buộc người ta phải câm nín, không dám nói ra
suy nghĩ trung thực của mình.
"Ép-pha-tha":
Xin Chúa mở miệng chúng con, để sẵn sàng làm chứng cho chân lý, giới
thiệu Chúa cho tha nhân, an ủi những người đau khổ do tai nạn, do bị
ngược đãi bất công, hay phải chịu đựng những điều trái ý cực lòng.
+ Xin Chúa mở đôi tai
chúng ta: Người điếc hoặc bị lãng tai do không nghe được những lời kẻ
khác. Lắng nghe là điều tối quan trọng trong giao tiếp hằng ngày.
Chúng ta thường chỉ lắng nghe điều mình muốn nghe, hoặc dù có nghe
người khác nói nhưng lại chỉ hiểu theo ý rịêng chủ quan của mình. Vì
thế gây ra hiểu lầm tranh cãi mất tình đoàn kết nội bộ. Nghe bằng tai
chưa đủ, chúng ta còn cần nghe bằng trái tim. Chỉ khi biết nghe bằng
trái tim yêu thương, chúng ta mới hiểu đúng và hiểu đủ ý nghĩa chứa
đựng trong lớp vỏ ngôn từ bên ngoài.
"Ép-pha-tha":
Xin Chúa hãy mở đôi tai chúng con để lắng nghe, hiểu biết và cảm
thông với những nỗi đau của tha nhân và mau mắn đáp ứng nhu cầu của họ
với hết khả năng cùa mình.
+ Xin Chúa mở lòng trí
chúng ta: Thế giới hôm nay đang thiếu cảm thông và đối thoại, vì quá
nhiều người đang bị câm điếc tinh thần, khiến họ trở thành một hòn đảo
giữa đại dương nhân lọai bao la. Bệnh câm điếc tinh thần cũng làm cho con
người trở thành ích kỷ, sống khép kín vì tâm hồn hóa thành sơ cứng khi
không trao tặng cho ai cái gì và cũng không muốn đón nhận của ai điều gì.
Cuối cùng con người sẽ chết trong nghèo nàn về hiểu biết và tình
thương.
"Ép-pha-tha":
Xin Chúa hãy mở tai mở miệng và mở lòng, để chúng con dễ dàng giao lưu
với Chúa và với tha nhân, để được biến đổi nên người mới sống có tình
người hơn. Nhờ đó, chúng ta sẽ làm cho gia đình, khu xóm và xã hội
trở nên thiên đàng tình thương đúng theo ý Chúa muốn.
4. THẢO LUẬN: 1)Mỗi tín hữu chúng ta có thể phá bỏ
bức tường ngăn cách giữa mình với tha nhân bằng những việc làm cụ
thể nào? 2)Tuần này bạn sẽ làm gì để mở lòng đón nghe Lời Chúa,
khám phá ra ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng? Bạn phài mở rộng trái tim như
thế nào để nghe được những tâm tư của kẻ bất hạnh và sẵn sàng đáp úng
nhu cầu của họ? Bạn sẽ làm gì để những anh em lương dân mở lòng đón nhận
niềm vui ơn cứu độ?
5. CẦU NGUYỆN:
LẠY CHÚA GIÊ-SU.
"Ép-pha-tha!", Xin hãy mở rộng tâm hồn con, để con trở thành
tay chân cho người tàn tật, trở thành đôi mắt cho kẻ đui mù. Để con
biến thành tai nghe cho những người bị điếc, trở thành miệng lưỡi cho
nhưng kẻ ngọng câm. Để con trở thành tiếng kêu cho những ai bị áp
bức... Lạy Chúa, xin giúp con thực thi đức ái giữa đời thường: Sẵn
sàng mở hầu bao chia sẻ cơm bánh vật chất cho kẻ đói ăn, đem nước uống
cho những kẻ đang khát; Để con đem thuốc men cho người ốm đau, chia sẻ
áo lành cho những kẻ rách rưới, mang mền đắp cho những kẻ lạnh run,
đem lại chỗ trú thân cho những kẻ không nhà... Nhất là để con chia sẻ
tình thương bao dung của Chúa để tha thứ hòa giải với những kẻ đang thù
ghét và làm hại con.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria
Đ. Xin Chúa nhậm lời
chúng con.
LM ĐAN
VINH www.hiephoithanhmau.com
3. CHÚA GIÊSU- ĐẤNG CỨU CHỮA
HỒN XÁC
Mc 7, 31- 37
Một trong những khác biệt
cơ bản của loài người so với những sinh vật khác là khả năng nghe hiểu và diễn
đạt ý tưởng bằng lời nói. Ai mất hai chức năng này thì thường sống cô đơn vì
khó giao tiếp được với cộng đoàn xã hội. Người câm điếc được nhắc đến trong Tin
mừng hôm nay đã phải mang nỗi khổ đó, có lẽ phải sống một thế giới riêng, tách
biệt với mọi người. Chắc anh phải khổ sở và cô đơn lắm vì anh không hiểu được
ai, cũng như không có mấy ai hiểu được anh. Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng duy nhất
hiểu rõ nỗi khổ của anh và sẵn sàng cứu giúp anh thoát khỏi cảnh ngộ đáng
thương này. Điều này ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: Hãy nói với những kẻ nhát
gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; Chính Người sẽ
đến cứu anh em." Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy
giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. (Is 35, 4-7).
Những gì Isaia loan báo
mấy trăm năm trước đã ứng nghiệm. Đó là Đấng Cứu Thế ngự đến giữa dân người,
cho người què đi được, người câm nói được, kẻ chết sống lại... và hơn xa mức
con người trông đợi nữa là người đến không chỉ để tỏ lòng xót thương những
người đau khổ đời này, mà nhắm chương trình xa hơn, rộng lớn hơn là cứu chuộc
loài người khỏi khổ đau đời đời.
Tuy nhiên, có lẽ chúng ta
lấy làm lạ là tại sao Chúa Giêsu không chữa cho anh câm điếc này trước đám đông
mà lại đem anh ta riêng ra để chữa và còn cấm những người chứng kiến cao rao
phép lạ này.
Một số ý kiến cho rằng:
Lý do thứ nhất có lẽ là
vì Chúa Giêsu biết dân chúng chưa thể hiểu được vai trò cao cả của Người. Do
đó, chưa phải lúc cho họ chứng kiến và cao rao phép lạ này kẻo họ đến với Người
vì phần xác hơn phần hồn, trong khi mục đích của Chúa Giêsu là nhắm chữa lành
cả con người, nhất là phần linh hồn. Thực sự thì Người thương chúng ta cả hồn
lẫn xác, không muốn chúng ta phải đau khổ. Chính Chúa Giêsu cũng rất hiểu những
nỗi đau khổ của loài người và đứng trước cuộc tử nạn Ngài cũng đã cầu nguyện
với Chúa Cha : lạy Cha nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén này,
nhưng Con sẵn sàng theo ý Cha đón nhận khổ hình thập giá. Và chúng ta ai cũng
biết rằng: thân phận con người đời tạm này không thể thoát được mọi đau khổ và
cái chết. Đó là quy luật của kiếp người, chạy trời cũng không khỏi nắng. Chúa
Giêsu khi mang lấy thân phận xác phàm để cứu chuộc chúng ta chắc Người cũng
biết mình sẽ phải qua đau khổ và cái chết để nói cho chúng ta biết sự thật: do
tội nguyện tổ mà con người phải đau khổ và phải chết. Nếu Chúa Giêsu có chữa
lành đau khổ bệnh tật hay cho kẻ chết sống lại cũng chỉ là tạm thời để xoa dịu
nỗi đau và để tỏ mình là Đấng Messia cho nhân loại được ơn cứu rỗi, chứ không
nhằm giải thoát mọi người khỏi mọi đau khổ đời này. Điều Chúa muốn con người là
: tin vào ngài để được Chúa Cha ban cho hạnh phúc đời đời. Tuy con người phải
trải qua đau khổ và cái chết nhưng ai tin vào Chúa Con sẽ sẽ được hạnh phúc
trường cửu, bất diệt bên Chúa Cha. Đó là điều Chúa Giêsu chuẩn bị cho tất cả
chúng ta. Như vậy, Chúa không muốn người ta đến với Chúa chỉ vì mục đích được
chữa lành thể xác mà thôi. Chúa muốn họ biết nghe lời Chúa và đem ra thực hành
để được chữa lành phần linh hồn, để được hạnh phúc bền vững muôn đời trong nhà
Chúa.
Lý do thứ hai, có lẽ là
tác giả muốn nhấn mạnh việc người ta hăng hái loan truyền Tin Mừng về việc Chúa
Giêsu cứu chữa loài người, các tác giả Tin mừng khuyến khích kitô hữu hãy mạnh
dạn loan Tin mừng cho người xung quanh. Bởi vì chính những người Do thái xưa
kia dù Chúa Giêsu cấm loan báo mà họ cũng không nín lặng được vì lòng quá tràn
đầy niềm vui. Huống chi bây giờ Chúa dặn cao rao Tin mừng thì mình càng phải
hăng say loan báo hơn nữa cho mọi người. Mình gọi là Tin mừng, là Lời đem lại
hạnh phúc thì tại sao mình chưa nói cho anh chị em mình biết để cùng chung niềm
vui lớn lao đó.
Mỗi người chúng ta đều
được Chúa cho hưởng phép lạ. Đó là trong Bí tích giải tội, mọi tội lỗi của
chúng ta qua lời xá giải của linh mục thì liền được tha thứ, hay trong thánh
lễ, mỗi khi linh mục đọc Lời Truyền Phép, bánh rượu trở nên Mình Máu Chúa Giêsu
làm của ăn nuôi linh hồn ta. Những điều đó chúng ta tin và chứng kiến hàng
ngày, chúng ta có loan truyền những dấu lạ đó bằng niềm vui sống đạo hay chưa.
Nếu chúng ta được ban ơn trong các Bí tích thì chúng ta hãy sống thế nào để
người khác nhận ra ơn Chúa nơi chúng ta. Xem ra chúng ta chưa tỏ rõ thái độ vui
mừng, phấn khởi trước tình thương diệu kỳ của thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, người câm
điếc còn biết cao rao danh Chúa cho mọi người, còn chúng con vốn được Chúa ban
cho khả năng nghe nói biết bao năm qua, xin cho chúng con biết hăng hái cao rao
danh Chúa cho mọi người để mai sau được hạnh phúc đời đời bên Chúa. Amen
4. HÃY MỞ RA!
Mc 7, 31-37
"Thiên Chúa, Đấng mở
đường" là một trong những chủ đề lớn trong các sách Tin mừng. Lịch sử cứu
độ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng trung thành và giàu lòng thương xót.
Còn Israel, dù là tuyển dân được Thiên Chúa ưu ái và săn sóc như "gà mẹ ấp
ủ con dưới cánh", nhưng họ luôn thay lòng đổi dạ, bất trung, bất tín trước
nhiều biến cố của đời sống và trong nhiều giai đoạn của lịch sử.
Trước những lầm lạc của
dân Do thái, Thiên Chúa luôn tìm cách sửa dạy. Ngài gửi nhiều tiên tri đến cảnh
báo và thức tỉnh họ. Và khi họ đã nhận ra sai lỗi của mình mà ăn năn hối lỗi
thì Ngài lại rộng lòng thứ tha. Thiên Chúa không bao giờ đặt một dấu chấm hết
cho Dân của Ngài hay cho bất cứ con người nào. Trái lại, Ngài luôn thứ tha bằng
cách mở ra nhiều con đường cho con người tiến bước. Đối với Thiên Chúa, khi
Ngài đóng một cánh của nào đó lại thì Ngài lại mở ra nhiều cánh của khác. Lịch
sử cứu độ của thế giới và của từng người chúng ta đã minh chứng rất rõ về điều
đó.
Bài đọc một trích Sách tiên
tri Isaia hôm nay cho chúng ta thấy: giữa sa mạc khô cằn, Thiên Chúa sẽ khai
thông một dòng suối cho nước vọt lên mang nguồn sống cho con người. Ngài cũng
cho những người đui mù, tàn tật, câm điếc . . . được trở lại bình thường. Nói
cách khác, Thiên Chúa đã "mở đường" cho họ. Đó là con đường dẫn đưa
họ về với cuộc sống bình thường, giúp họ hoà nhịp được với cuộc sống của con
người.
Trong bài Tin mừng hôm
nay, chúng ta thấy rất rõ hình ảnh của Chúa Giêsu là "Đấng mở đường"
đích thực. Ngài đã "mở tai và mở miệng" cho một người bị bệnh câm,
ngọng từ lúc bẩm sinh, một điều vượt quá sức tưởng tượng và suy nghĩ của con
người. Nhìn thấy anh bệnh nhân "vừa điếc vừa ngọng" từ lúc mới lọt
lòng mẹ, chắc có nhiều người thất vọng lắm, vì ai có thể chữa trị cho anh bây
giờ!
Theo thói thường, khi
đứng trước những khó khăn hay đau khổ trong cuộc đời, con người thường có thái
độ bi quan, tuyệt vọng: tuyệt vọng cho chính mình cũng như tuyệt vọng về người
khác. Chúng ta thường hay muốn đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời mình hay của
người khác khi thấy không còn lối thoát trong khả năng của mình nữa. Con người
là thế, nhưng Thiên Chúa thì không. Ngài luôn luôn là niềm hy vọng của loài
người và Ngài muốn chúng ta cũng hãy biết hành xử trong tin tưởng và hy vọng
bằng cách mở ra con đường sống cho chính mình và cho người khác.
Có một chuyện kể rằng:
Las Dasir đã dốc lòng chừa cả trăm lần rồi, mà ông vẫn còn sa ngã phạm tội. Lần
này, ông nhất quyết phạt mình như sau: cứ mỗi lần phạm tội thì ông bứt bỏ mười
sợi tóc trên đầu, và chừng nào không còn tóc nữa thì hình phạt cuối cùng sẽ là
giết chết mình.
Chỉ một tháng sau là đầu
của Las Dasir đã gần như bị trọc, nhưng ông vẫn nhất quyết thi hành hình phạt,
và một tháng sau nữa thì ông hoàn toàn trọc đầu. Nhìn vào gương thấy đầu không
còn tóc nữa, Las Dasir tuyệt vọng thầm nghĩ:
"Ngày kết thúc đời
tôi đã đến, tôi không còn cách nào để tránh đừng phạm tội hơn là kết liễu cuộc
sống mình trên trần gian này".
Ông đưa tay cầm khẩu súng
lục định bắn vào đầu thì bỗng một thiên thần hiện ra trao cho ông món quà và
nói:
- Khoan đã, đừng kết liễu
đời mình như thế!
Ông thưa với thiên thần:
- Nhưng tôi đã thề là sẽ
kết thúc đời mình khi không còn sợi tóc nào trên đầu.
Thiên thần đáp lại:
- Nhưng Thiên Chúa thì
không đồng ý như vậy, nên Ngài đã sai tôi mang đến cho ông món quà này. Hãy mở
ra xem đi.
Las Dasir vội mở món quà
Chúa trao cho, đó là một đầu tóc giả và Las Dasir đã hiểu ngụ ý của Thiên Chúa.
Câu chuyện trên đây cho
chúng ta bài học về niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót,
là Đấng mở đường để tìm phương cách cho con người hưởng hạnh phúc. Thiên Chúa
thật sự là Đấng mở đường. Chúng ta không được phép thất vọng về chính mình hay
về người khác. Những hoàn cảnh trớ trêu trong cuộc đời này xảy ra, nếu chúng ta
biết tận dụng và có cái nhìn linh thánh về nó, thì nó sẽ trở nên linh dược cứu
chữa hồn xác chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng như thế. Tin tưởng ngay khi chúng
ta không thấy còn dám tin vào chính mình nữa. Chúng ta cũng hãy can đảm sống
niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng mở đường để không bao giờ chúng ta đặt dấu chấm
hết cho cuộc đời của một con người nào dù họ có lầm lỗi, có xấu xa tới đâu đi
nữa! "Epphatha- Hãy mở ra" là câu nói của Chúa Giêsu ngày xưa dành
cho người bị ngọng và điếc ngày xưa, ước gì cũng là lời luôn sống động trong
cuộc đời của từng người chúng ta khi đối diện với nghịch cảnh và với tha nhân.
Amen.
5. CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG
NIÊN.
Mc. 7, 31 - 37.
Anh chị em thân mến.
Có lần đi trên chiếc xe
đò với đoạn đường dài, và thời gian cũng đã lâu, nên xe tìm chỗ nghĩ. Khi xe
vừa dừng lại, thì có nhiều người chạy đến bên xe chào mời đủ thứ món hàng. Có
một người chậm chạp hơn, nhưng rồi cũng đến bên xe. Anh ta không chào mời món
hàng nào, nhưng anh ta cầm nơi tay một chiếc nón đã cũ. Không phải anh ta bán
nón, nhưng anh ta dùng chiếc nón để xin những người trên xe, nếu có lòng hảo
tâm thì cho một chút ít tiền vào chiếc nón cũ đó. Anh đi từ đầu đến cuối xe,
rồi sang bên kia cũng thế. Xe tiếp tục chuyển bánh. Tôi suy nghĩ : dường như
những người ngồi trên xe không nhìn thấy, không nghe được những lời van xin,
nên họ cũng không có một lời nào với người hành khất. Không phải những người
trên xe không sáng mắt, nhưng trong tường hợp này họ không nhìn thấy. Không
phải họ bị câm điếc, nhưng trong trường hợp nầy họ không nghe, cũng không nói
được lời nào.
Chúng ta vừa chứng kiến
một người câm điếc được tháo mở. Chúa Giêsu kéo anh ra khỏi đám đông, sờ vào
tai và lưỡi anh. Người còn bảo: "Hãy mở ra" Lập tức lưỡi và tai anh
được tháo cởi. Ngài muốn đem anh ra một nơi riêng biệt, không bị những thứ ồn
ào khác làm náo động, không bị bao nhiêu người khác che lấp trói buộc. Ngài
muốn chỉ có riêng anh ta với Ngài, thì anh ta mới có thể nghe được Lời Ngài
phán bảo. Điều quan trọng là anh ta đã chịu bước đi theo Ngài, không một chút
cự tuyệt. Nên anh ta đã được chữa lành.
Ngày hôm nay, còn biết
bao nhiêu người câm điếc, nhưng họ đành bó tay. Trái lại, có những người, tai
vẫn mở, nhưng không nghe gì hết, miệng vẫn mở, vẫn nói rất nhiều, nhưng họ
không nói được gì hết. Đó là vì những người đó không nghe được những lời nói
với họ khi cần thiết, họ cũng không nói được những lời tốt đẹp với những người
chung quanh, họ chỉ biết nói lời khiến người khác phải đau khổ, khó chịu.
Mỗi người trong chúng ta
nhìn lại mình xem, hiện giờ mình đang nghe, hay không nghe gì. Còn môi miệng
chúng ta đang mở và luôn phát ra âm thanh, nhưng những âm thanh đó có phải là
những lời nói thật sự, hay chỉ là những âm thanh rỗng tuết, hay là những âm
thanh mà bao nhiêu người nghe phải bịt tai của họ lại và chạy trốn chúng ta.
Biết bao lần, chúng ta đã
để cho những tiếng động của cuộc sống vật chất, những tiếng động của những lời
nói êm tai, những lời nịnh hót, tiếng động của lời nói chìu theo sở thích, ý
muốn của mình, những tiếng động đó làm ù tai khiến chúng ta không còn nghe được
gì nữa hết. Còn những tiếng động của những đồng tiền, qua công việc làm ăn,
tiếng động của những bước chân vươn lên cách bất chính và chà đạp kẻ khác.
Ngoài ra, âm thanh của những trận cười mãn nguyện, những lời nói say sưa trong
chiến thắng, khi thấy người khác thất bại. Tất cả những tiếng động đó, đã làm
cho chúng ta trở thành những người điếc. Mặc dù vẫn nghe, nhưng không nghe được
những gì Chúa muốn nói qua công việc hằng ngày, qua những người chung quanh.
Chính vì không nghe nên chúng ta cũng trở thành một người câm, vì lưỡi đã bị
trói buộc bởi lợi nhuận của cuộc sống, bởi danh dự trần gian nầy. Đó là những
lúc chúng ta không dám nói sự thật, khi sự thật đó làm cho chúng ta mất đi một
chút lợi nhuận nào đó, có thể về tiền bạc, hay về danh dự, hoặc địa vị trong xã
hội. Đó là vì sự ích kỷ đã trói buộc con người, trói buộc miệng lưỡi không cho
chúng ta nói. Còn những lúc nóng giận, đưa đến sự ngoan cố, thay vì những lời
nói tốt đẹp, chúng ta lại thốt ra những lời chua cay gắt gõng. Chính sự ngoan
cố trói buộc miệng lưỡi.
Có những lần Chúa Giêsu
muốn tách rời chúng ta ra khỏi đám đông, khỏi những tiếng ồn ào đó, khỏi những
trói buộc đó để Ngài chữa cho chúng ta khỏi chứng câm điếc. Chính những lúc
trong cuộc sống chúng ta biết lắng nghe và sống thật với những gì mình nghe.
Những lúc chúng ta biết nói những lời tốt đẹp, yêu thương từ con tim chân
thành, nói những lời động viên an ủi, nói những lời chân thật. Đó là những lúc
chúng ta đã để cho Ngài dẫn đi, tách rời khỏi đám đông và phán: "Hãy mở
ra".
Lạy Chúa, xin mở tai con
để biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi hoàn cảnh. Xin mở miệng con để con biết
nói những lời yêu thương chân thật với anh em.
6. CHÚA GIÊSU CHỮA NGƯỜI CÂM
ĐIẾC
Mc 7, 31-37
Thế giới bình thường là
thế giới của những con người bình thường. Tuy nhiên, trong thế giới muôn thời
không phải tất cả mọi người đều bình thường mà lại có những người mù, người
câm, người điếc, người què, người tàn tật ... Đúng là một thế giới muôn mầu
muôn sắc. Thời Chúa Giêsu sống cũng vậy, người ta nhận thấy có biết bao người
bệnh hoạn, tật nguyền. Hôm nay, Tin Mừng của thánh Máccô 7, 31-37 thuật lại
việc Chúa Giêsu chữa lành người câm điếc. Phép lạ này là một trong nhiều phép
lạ Chúa đã thực hiện trong ba năm Ngài đi rao giảng khắp nơi...
Đối diện với những người
câm điếc, chúng ta như được đặt giữa hai thế giới khác nhau bởi vì chúng ta nói
họ không hiểu và họ diễn tả chúng ta cũng chẳng hiểu được.Bài Tin Mừng của
thánh Máccô cho hay Chúa đụng đến lưỡi của người câm và lưỡi người câm được
tháo cởi. Người câm cảm thấy hạnh phúc vô bờ vì được Chúa chữa lành. Vâng, lần
đầu tiên trong cuộc đời người câm nếm được một phần nào vui thú của cuộc sống,
của đời người. Và như thế, chúng ta hiểu được tại sao Chúa Giêsu lại chữa lành
người câm điếc. Tại sao Chúa khai thông lỗ tai của người câm điếc ? Tại sao
Chúa Giêsu lại phục hồi miệng lưỡi người câm điếc ? Chúa Giêsu đã chứng tỏ lời
ngôn sứ Isaia 35,4-7 được thực hiện nơi Ngài: " Kẻ điếc được nghe, kẻ câm
nói được, kẻ què đi được ...". Chữa lành người câm điếc như trong Tin Mừng
hôm nay trình bầy, Chúa Giêsu đã thực hiện được hai dấu chỉ quan trọng. Ngài
xác nhận Ngài là Đấng Mêsia muôn dân hằng trông đợi. Việc chữa lành của Đức
Kitô hôm nay còn chứng tỏ Ngài là Đấng giầu lòng thương xót.
Người câm điếc Chúa Giêsu
chữa lành, một cách nào đó cũng là hình ảnh của nhiều trong chúng ta. Bởi vì,
chúng ta không bị câm ngọng điếc về mặt thể lý, nhưng bị câm điếc về mặt thiêng
liêng. Đã có biết bao người trở nên, ngọng nghịu, điếc lác về mặt tâm linh. Họ
không tha thiết cầu nguyện và ngại ngùng đến với Thiên Chúa. Họ cảm thấy khó
khăn tâm sự, đối thoại với Chúa và cũng cảm thấy khó khăn trong việc để lắng
nghe Chúa nói với họ. Trong trường hợp này chúng ta phải làm gì đây ? Thưa
chúng ta đã có sẵn lời đáp trong bài Tin Mừng: hãy bắt chước người câm điếc
trong bài Tin Mừng của thánh Máccô, hãy đi tìm kiếm Đức Kitô, hãy cùng Ngài ra
khỏi đám đông và hạnh phúc ở bên Đấng có đầy uy quyền trên sinh mạng của mọi
người. Hãy để Chúa mở miệng lưỡi chúng ta về mặt thiêng liêng, hãy để Ngài khai
thông đôi tai điếc lác nặng nề của chúng ta. Chúa mời gọi chúng ta hãy nói
chuyện, hãy đối thoại với Ngài, nghĩa là chúng ta phải siêng năng cầu nguyện để
Chúa thực hiện nơi chúng ta điều Chúa đã làm cho người câm điếc. Chúng ta hãy
để Chúa chữa lành bệnh câm điếc thiêng liêng của chúng ta.
Êphata, hãy mở ra. Xin
Chúa chữa lành bệnh câm của chúng con để chúng con có thể truyền đạt, nói
chuyện với nhau và đặc biệt tâm sự, cầu nguyện với Chúa. Xin Chúa chữa lành đôi
tai nặng, điếc của chúng con để chúng lắng nghe được tiếng Chúa nói và nghe
được tiếng nói của anh em chúng con. Sống trong cuôc sống, thực tế, chẳng ai
muốn ngọng,câm điếc. Nhưng lại nhiều khi chúng ta bị câm khi không muốn trao đổi
với anh em xung quanh. Chúng ta bị điếc, bị lãng tai không muốn nghe người khác
mà chỉ thích nghe những người chúng ta thích, chúng ta ưa mà thôi. Chúng ta
nghe bằng tai chưa đủ mà còn phải nghe bằng cả trái tim. Nghe với con tim yêu
thương chúng ta mới hiểu đúng, hiểu khách quan, hiểu sự thật về người khác
được.
Bài Tin Mừng và các bài
đọc hôm nay giúp chúng ta hiểu rõ ba điều: Thứ nhất, nó tỏ lộ cho chúng ta rõ
Đức Kitô chính là Đấng Mêsia muôn dân mong đợi. Ngài đã thực hiện những lời
tiên tri Isaia đã tiên báo: " Kẻ đui mù được thấy, kẻ điếc nghe
được...người nghèo được nghe giảng Tin Mừng ". Thứ hai, nó mạc khải cho
nhân loại, cho chúng ta về một Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai giầu lòng thương xót,
luôn chạnh thương đến mọi hoàn cảnh của con người. Thứ ba, nó đặt cho nhiều
người vấn nạn, ngày nay người ta lãng quên Chúa nhiều vì không còn cầu nguyện,
không tìm kiếm Chúa, do đó, không nghe được Chúa nói và cũng không có cơ hội để
thưa chuyện với Chúa. Như thế, nhiều người vẫn đang bị câm điếc.
Chúng ta hãy bắt chước
người câm điếc: đi tìm Chúa Giêsu và xin người chữa lành cho chúng ta.
"Lạy Chúa, Ngài quả
là chính trực,
Quyết định của Ngài thật
công minh.
Với tôi tớ này, xin lấy
tình thương mà đối xử ( Tv 118 ).
Lạy Thiên Chúa toàn năng,
nhờ Đức Kitô Con Một Chúa,
Chúa đã thương cứu chuộc
chúng con và nhận làm nghĩa tử,
Xin lấy tình Cha mà âu
yếm đoái nhìn: này chúng con là kẻ tin kính Đức Kitô,
Xin cho chúng con được
trở nên những người tự do đích thực và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời"
(Lời nguyện Nhập lễ Chúa nhật XXIII thường niên ).
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
7. THÍCH ĐIẾC, MUỐN NGỌNG
Mc 7, 31-37
Các phương tiện truyền
thông đang nói nhiều đến sự ô nhiễm: ô nhiễm môi trường sinh thái, ô nhiễm
nguồn lương thực, ô nhiễm âm thanh. Bên cạnh đó, các nhà giáo dục còn nói đến ô
nhiễm những mặt trái của văn minh phương tây, ô nhiễm tinh thần tục hoá của một
xã hội tiêu thụ và hưởng thụ. Hơn lúc nào hết, chúng ta có quá nhiều cái để
nghe và cũng có quá nhiều điều để nói đang khi biết bao điều phải nghe mà chưa
nghe được, bao nhiêu điều phải nói mà nói không được. Phải chăng, một cách nào
đó, chúng ta cũng không hơn chi anh chàng vừa điếc vừa ngọng trong bài Tin Mừng
hôm nay khi anh phải nhờ người khác dẫn mình đến với Chúa Giêsu.
"Hãy sống dùm tôi,
hãy nói dùm tôi, hãy thở dùm tôi...". Bài hát của một tác giả như là một
lời nhắc nhở chúng ta; hôm nay, Phụng vụ Lời Chúa còn nói với chúng ta nhiều
hơn.
Trình thuật Tin Mừng kể
chuyện Đức Giêsu chữa lành một người điếc và ngọng. Phép lạ không chú trọng đến
việc chữa lành thể chất nhưng đúng hơn, chú trọng đến việc chữa trị tâm hồn.
Đức Giêsu mở tai anh, để anh có thể nghe Lời Chúa; mở miệng anh, để anh có thể
tuyên xưng niềm tin vào Ngài, chính Ngài là Đấng Thiên Sai đã được Isaia loan
báo trước đó hơn tám thế kỷ, Ngài là Đấng mở mắt người mù, mở tai người điếc và
mở miệng người câm như bài đọc thứ nhất và bài đáp ca hôm nay nhắc lại.
Vậy thì Lời Chúa hôm nay
nói gì với chúng ta?
Hơn bao giờ hết, chủ đề
điếc và ngọng thật hấp dẫn và cũng dễ đụng chạm. Nguyên chuyện khoái điếc,
thích ngọng và kể cả muốn mù như căn bệnh mãn tính lâu ngày hoá quen và coi như
chuyện nhỏ không thành vấn đề đã là một cái gì đụng chạm ghê gớm.
Anh Chị em, chúng ta sẽ
đụng ai khi nói đến những căn bệnh mãn tính nầy? Và một loạt câu hỏi được đặt
ra: Đụng ai trước nhất? Vì sao phải đụng? Tại sao chúng ta khoái điếc khi không
còn muốn nghe? Tại sao chúng ta thích ngọng khi chẳng còn buồn nói? Ai tập cho
chúng ta điếc? Ai dạy cho chúng ta câm?
Có lẽ nhiều người đang
nín thở, nhưng dường như tất cả chúng ta đã hiểu lầm hết với câu trả lời của
mình. Còn đây mới là câu trả lời đúng nhất, chính xác nhất. Đề cập đến việc
khoái điếc, thích ngọng và giả mù của chúng ta sẽ đụng chạm đến chính linh hồn,
đụng chạm đến bản thân chúng ta trước nhất.
Chúng ta điếc đặc trước
Lời Chúa, ù loà trước tiếng lương tâm, lãng tai trước những nhu cầu của anh chị
em chung quanh khi chúng ta thoả hiệp với tội lỗi, nhân nhượng với ích kỷ và
sống chung với hèn nhát. Chính lúc đó, chúng ta vô tình chuốc lấy cái bệnh trụt
lưỡi và cái khiếm thính mãn tính. Chúng ta sợ đối diện với Lời Chúa nên ngại
đặt mình trước mặt Ngài. Vì Lời Chúa là gươm hai lưỡi, thấu suốt tâm hồn và dò
xét tâm can. Lời Chúa thẳng băng, luôn mới mẻ, sẵn sàng phanh phui, không nể vì,
cũng chẳng thoả hiệp. Chúng ta sợ những phút trầm tư, run rẩy, khi phải lặn sâu
xuống lòng mình, bởi lẽ ở đó, tiếng Chúa đang mời gọi, tiếng lương tâm đang kêu
réo ới ời.
Không chỉ khoái điếc,
chúng ta còn thích ngọng. Trước bao gương mù gương xấu, chúng ta ú ớ không nói
được chi, không dám sửa bảo cũng không còn tự tin để chấn chỉnh con cái, bạn bè
và đồng nghiệp... vì lẽ chúng ta chưa làm gương tốt đủ, ngôn hành bất nhất,
chúng ta không hơn chi các người khác; chúng ta giống hệt các biệt phái ham chuộng
bề ngoài mà quên mất nội tâm: miệng thì nam mô, bụng thì mưu mô; lời thì bác
ái, lòng thì bái ác; ngoài thì thương yêu nhưng dạ thì ưa thiêu; hết lòng với
kẻ ở xa mà đoạn tình với người ở gần, rất gần, ngay trong nhà mình, trong cộng
đoàn mình. Vì thế, chúng ta ù ù cạc cạc trước bao điều chướng tai gai mắt. Bên
cạnh đó, chúng ta sợ liên luỵ, ngại dấn thân và thích an phận...
Làm sao một người làm cha
làm mẹ, làm sao một mục tử, một thầy cô giáo hay một chứng tá của Chúa Kitô
trong môi trường mình đang sống lại có thể yên thân? Làm sao chúng ta lại hoá
như bao người khác? Mà tại sao lại phải yên thân? Đến đây, có người sẽ nói:
Cuộc đời phức tạp lắm, các linh mục không biết đâu! Không, tôi biết. Vì nếu
không tỉnh thức, chúng ta sẽ vô tình đánh mất sự hồn nhiên, đánh mất cả sự tự
do và đánh mất chính mình. Phải, chúng ta mù loà điếc lác và ngọng miệng, một
căn bệnh cần được Đức Giêsu chữa lành.
Đức Hồng Y Gracias nói:
"Gương mù cho thế kỷ hôm nay là chúng ta y hệt mọi người khác", dửng
dưng như người khác, thờ ơ như người khác và lạnh lùng như người khác.
Không, mỗi ngày, mỗi
người chúng ta đều được mời gọi hướng thượng: nhanh hơn, cao hơn và xa hơn.
Chúng ta là con cháu Hồng Bàng, là đại bàng sải cánh giữa lồng lộng trời cao;
chúng ta không thuộc họ nhà gà lệt đệt. Bùn càng tanh, sen càng phải thơm tho.
Bùn càng đặc, sen càng phải toả ngát. Cắm sâu giữa bùn nhưng sen vẫn mãi là sen
vì chỉ có sen mới được quyền nói về bùn, cũng như chỉ có bùn mới được quyền
nhắm mắt không thừa nhận sen. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn là vậy.
Chuyện ngày xưa kể rằng,
Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề thăm nhà bạn cũ. Người bạn cũ trách Mặc Tử:
"Bây giờ thiên hạ còn ai biết đến việc nghĩa, quan lớn cũng như quan bé,
mạnh ai nấy sống, lấy cái công làm cái tư, ông tự khổ thân một mình làm việc
nghĩa chi cho nhọc xác?". Mặc Tử trả lời: "Tôi hỏi ông, nhà có mười
đứa con, một đứa cày, chín đứa ngồi ăn, thì chẳng phải đứa cày phải cày chăm
hơn sao? Bởi vì đứa cày thì ít đứa ăn thì nhiều. Thiên hạ bây giờ không ai chịu
làm việc nghĩa, ông phải khuyên tôi cần làm việc nghĩa nhiều hơn mới phải chứ,
sao lại ngăn tôi?".
Ngày xưa cũng như ngày
nay, cám dỗ mạnh ai nấy sống luôn luôn hiện diện. Khoái điếc, thích ngọng từ đó
cũng là căn bệnh của chúng ta. Hôm nay, Đức Giêsu cũng sẵn sàng chữa lành nếu
chúng ta biết đó là bệnh và ước được chữa lành. Mỗi chúng ta có thể cầu nguyện:
Lạy Chúa, có nhiều bức
tường ngăn chặn làm tai con điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm lưỡi con
ngọng. Xin cũng nói với con:"Ephata, Hãy mở ra", để con nghe được
tiếng Chúa, tiếng lương tâm mà hoán cải tâm hồn, đổi mới con tim. Xin hãy phá
đi bức tường định kiến, bức tường ích kỷ để con mở rộng cõi lòng đón nhận Lời
Chúa, đón nhận anh em. Xin hãy mở miệng lưỡi con, cắt đứt sợi dây ích kỷ, sợi
dây sợ sệt, sợi dây ươn hèn để con mạnh dạn nói lời chân lý, lời thứ tha, những
lời ca ngợi tình Chúa, những lời chúc khen tình người, Amen.
Lm. Minh Anh
8. NIỀM VUI NƯỚC THIÊN CHÚA
Mc 7, 31-37
Xem lại bản đồ Palestina,
thì lộ trình đi rao giảng của Chúa Giêsu như sau. Rời Tyrô, người lữ hành sẽ đi
về phía Bắc, tức phía Siđôn. Còn nếu muốn tiến xuống phía biển Ghênêsaret (biển
Galilêa) ở vùng Dêcapôli tức vùng đông nam biển hồ, thì người ta phải đi ngược
lại từ Tyrô.
Ở đây, bản văn Marcô
viết: ngang qua Siđôn, đến biển Galilêa băng giữa xứ Dêcapôlia. Như thế, lộ
trình này không phù hợp với bản đồ địa lý. Qua sự kiện này, Thánh Sử Máccô gợi
nhắc một lần nữa rằng Ngài chỉ muốn trình bày ý nghĩa của những cuộc hành trình
của Chúa Giêsu. Người đến đất dân ngoại vì ơn cứu rỗi cũng được trao ban cho
các dân ngoại.
Với hành trình như vậy,
hôm nay chúng ta được nghe lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ chữa lành anh chàng
vừa điếc và vừa ngọng. Trình thuật này được biên soạn theo kiểu kết cấu tương
đồng với câu chuyện chữa lành người mù ở Mc 8,22-26. Chúng ta thử phác họa sơ
lược vài chi tiết song chiếu:
Mc 7,31-37
Câu 31: Người ta đem đến
cho Người một người vừa điếc vừa ngọng.
Câu 33: Kéo người ấy ra
xa dân chúng... Người tra ngón tay vào tai, nhổ nước miếng Người đụng vào lưỡi
người ấy.
Câu 36: Rồi người căn dặn
không được nói cho ai biết.
Mc 8,22-26
Câu 22: Người ta đem đến
cho Người 1 người mù...
Câu 23: Dắt tay người mù,
Người đưa nó ra ngoài làng; đoạn nhổ nước miếng vào mắt nó đặt tay cho nó.
Câu 26: Ngài cho nó về nhà
mà dặn rằng: đừng nói với ai trong làng.
Như vậy, trong nhãn quan
thần học Máccô, những phép lạ luôn mang giá trị của dấu chỉ thời đại Thiên sai
mà Chúa Giêsu đến khai mở. Ở Thời đại ấy, ở Nước ấy của Thiên Chúa thì sẽ không
còn những người đui mù, câm điếc nữa mà ở Nước Thiên Chúa là những người hạnh
phúc, bình an và vui mừng. Nước Thiên Chúa, Nước của bình an và hoan lạc ấy
được Thánh Sử gợi nhắc ở câu 37. "Bấy giờ mắt mù sẽ mở, tai người điếc sẽ
thông. Bấy giờ què quặt sẽ nhảy nhót tựa hươu nai, lưỡi người câm cũng sẽ reo
hò". Câu này có nét gì đó tương đồng với đoạn sách ngôn sứ Isaia mà chúng
ta vừa nghe:
" Hãy nói với những
kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ!
Thiên Chúa của anh em đây
rồi; sắp tới ngày báo phục,
ngày Thiên Chúa thưởng
công, phạt tội.
Chính Người sẽ đến cứu
anh em."
Bấy giờ mắt người mù mở
ra, tai người điếc nghe được.
Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy
nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ
reo hò.
Vì có nước vọt lên trong
sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa
vùng đất hoang vu.
Miền nóng bỏng biến thành
ao hồ,
đất khô cằn có mạch nước
trào ra.
Trong hang chó rừng ở
sậy, cói sẽ mọc lên. (Is 35, 4-7)
Nước Thiên Chúa còn hơn
thế nữa. Nước Thiên Chúa là nơi mà:
Này đây Ta sáng tạo trời
mới đất mới,
không còn ai nhớ đến thuở
ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa.
Nhưng thiên hạ sẽ vui
mừng và luôn mãi hỷ hoan
vì những gì chính Ta sáng
tạo.
Phải, này đây Ta sẽ tạo
Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ
và dân ở đó thành nỗi vui
mừng.
Vì Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ
hoan hỷ, vì dân Ta, Ta sẽ nhảy mừng.
Nơi đây, sẽ không còn
nghe thấy tiếng than khóc kêu la.
Nơi đây, sẽ không còn trẻ
sơ sinh chết yểu
và người già tuổi thọ
không tròn;
vì trăm tuổi mà chết là
chết trẻ,
và chưa tròn trăm tuổi mà
chết là bị nguyền rủa.
Người ta sẽ xây nhà và
được ở,
sẽ trồng nho và được ăn
trái.
Người ta sẽ không xây nhà
cho kẻ khác ở,
không trồng nho cho kẻ
khác ăn;
vì cây được bao nhiêu
tuổi, dân Ta cũng sẽ thọ bấy nhiêu;
và những kẻ Ta chọn sẽ
được hưởng kết quả do tay chúng làm.
Chúng sẽ không luống công
vất vả,
không sinh con cho con
chết bất ưng,
vì chúng sẽ là dòng dõi
những người được Đức Chúa
ban phúc lành,
bản thân chúng cũng như
cả nòi giống.
Trước khi chúng kêu Ta,
chính Ta đã đáp lời,
chúng hãy còn đang nói
thì Ta đã nghe rồi.
Sói với chiên con sẽ cùng
nhau ăn cỏ,
sư tử cũng ăn rơm như bò,
còn rắn sẽ lấy bụi đất
làm lương thực.
Sẽ không còn ai tác hại
và tàn phá
trên khắp núi thánh của
Ta." Đức Chúa phán như vậy. (Is 65, 17-25)
Qua đoạn sách ngôn sứ
Isaia về hình ảnh của Nước Thiên Chúa, ta thấy nước ấy là một nước tràn đầy
hoan lạc và bình an. Ở trong nước ấy "chiên con và sói con cùng ăn cỏ, sư
tử cùng ăn rơm như bò" chứ không có chuyện thiệt hơn, tranh giành, cãi cọ
và chà đạp người khác.
Sự hơn thua, tranh giành
và chà đạp người khác thời nào cũng có. Cách riêng, thời của Chúa Giêsu, những
người biệt phái, những người pharisêu tự cho mình là hơn người khác để rồi coi
thường người khác. Nước Thiên Chúa không có chỗ cho những người như thế.
Chắc có lẽ bực mình và
chướng mắt trước những con người chỉ nhìn cái bề ngoài, xét đoán cái bề ngoài
mà không trân trọng cái bên trong, cái chất thật của con người nên thánh Phaolô
hôm nay đã phải thốt lên: "Quả vậy, giả như có một người bước vào nơi anh
em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo
khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng
lẫy và nói: "Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này", còn với người
nghèo, anh em lại nói: "Đứng đó! " hoặc: "Ngồi dưới bệ chân tôi
đây! ", thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy
tà tâm đó sao? (Gc 2, 3-4).
Ở Nước của Thiên Chúa thì
không có chuyện phân biệt đối xử như vậy. Ở Nước Thiên Chúa là như thế này: Anh
em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ
nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng
vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao (Gc 2, 5).
Nước Thiên Chúa, ơn cứu
độ của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người, đặc biệt là cho những người nghèo
khổ, những người bị bỏ rơi, những người thấp cổ bé miệng như anh chàng câm điếc
hôm nay Chúa Giêsu đã chữa lành. Niềm vui Nước Thiên Chúa đang ở trước chúng ta
nếu chúng ta sống trong tâm tình khiêm hạ, nhỏ bé, coi tất cả mọi người như anh
em như lời thánh Giacôbê vừa mời gọi chúng ta và chúng ta cũng không miệt thị,
không phân biệt đối xử với những người tật nguyền như Chúa trong tin mừng hôm
nay.
Xin Chúa mở con mắt chúng
ta thật to để chúng ta nhìn thấy những anh chị em thấp cổ bé miệng đang ở gần
ta, ở xung quanh ta để ta xoa dịu, chia sẻ nỗi đau, sự thấp bé của họ để ta
mang hạnh phúc đến cho anh chị em đồng loại ngay thế gian này và những hạnh
phúc ấy chính là những hạnh phúc nho nhỏ mang chúng ta đến hạnh phúc, đến niềm
vui ở trên trời mà Chúa đang dọn sẵn và chờ đợi chúng ta.
Anmai, CSsR
9. HÃY MỞ RA
Mc 7, 31-37
Khi ở nước ngoài, có dịp
gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ: "Sống ở
nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất". Họ trả lời: "Khổ
nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên
ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình.
Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc".
Nghe và nói là hai cánh
cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có
gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa
mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người
khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình
không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu
nhau thì thật đáng buồn và đáng sợ.
Nếu điếc và ngọng thể lý
đã đáng buồn và đáng sợ, thì điếc và ngọng tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp
bội.
Có nhiều thứ điếc.
Có thứ điếc vì khác biệt
ngôn ngữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu. Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại
hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.
Có thứ điếc vì định kiến.
Đã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có
nói hay đến đâu, ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là
xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chỉ vào
những phần xấu.
Có thứ điếc vì bịt tai
không muốn nghe. Đây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc.
Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của
bản thân. Đoạn tuyệt với mọi người.
Sau cùng, có thứ điếc
thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học
hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa,
mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn đóng kín, không nhậy cảm
trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời
hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao
lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng, còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu
người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, có
nhiều thứ ngọng.
Có thứ ngọng do khác biệt
ngôn ngữ và văn hoá. Ta không hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu
ta.
Có thứ ngọng do ích kỷ.
Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng
xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta
nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngọng nghịu, anh em nghe mà
không hiểu.
Có thứ ngọng do sợ sệt.
Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất
danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có thứ ngọng do lười
biếng. Vì lười biếng, ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì
lười biếng, ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười
biếng, ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất
là vì lười biếng, ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa.
Những đam mê, những dục
vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây
trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có nhiều bức tường ngăn
chặn làm tai ta điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho lưỡi ta ngọng.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng
đến nói với ta: "Ephata". Hãy mở ra.
Hãy mở tai ra để lắng
nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định
kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở
rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.
Hãy mở miệng lưỡi ra để
đi đến với anh em và đi đến với Chúa.. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan
tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những
lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp,
những lời ca ngợi tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy chữa
bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con. Amen.
+ TGM Giuse Ngô Quang
Kiệt
10. VÌ KHÔNG BIẾT NGHE
Mc 7, 31-37
Loài vật vốn có tình bầy
đàn. Con người thì có tính xã hội. Con người là hữu thể trong tương quan liên
vị. Tôi chỉ thực sự là tôi trong tương quan với một ai đó. Chính vì thế sự
tương quan liên vị là một nhu cầu sinh tồn của con người. Sự tương quan này
được thể hiện rõ nét qua sự tiếp xúc. Một trong những cách thế để tiếp xúc hữu
hiệu với tha nhân là đối thoại tức là nghe và nói. Thật bất hạnh cho những ai
thiếu hay mất khả năng nói và nghe. Thoạt sinh ra mà bị câm điếc thì đúng là
kém may mắn. Dân gian truyền miệng rằng hễ một người câm, không nói được thì
trời cho điếc luôn để khỏi uất ức, tức tối khi nghe những lời không hay về mình
mà không phản bác lại được. Thế nhưng, y học thì cho thấy ngược lại: chính vì
bị điếc, không nghe được nên người ta mới bị câm. Vì không nghe được nên con
người không thể tập nói. Trẻ thơ nói được là nhờ bắt chước, lặp lại những gì đã
nghe.
Bài Tin mừng Chúa Nhật
XXIII TN B kể lại chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm điếc mà dịch
chính xác hơn là điếc và ngọng. Đây là một trong những dấu chỉ của thời Thiên
Sai mà Thánh kinh đã loan báo. Mất đi khả năng nghe và nói về thể lý là một
khốn khổ và bất hạnh. Thế nhưng sự bất hạnh và khốn khỏ ấy dường như chỉ hạn
hẹp ở đương sự và có chăng là nơi vài người thân thích. Tuy nhiên nếu xét về
bệnh điếc, câm hay ngọng về tinh thần thì sự khốn khổ và bất hạnh nó di hại cho
nhiều người và hậu quả cũng thật khó khắc phục. Dù thuộc bình diện thể lý hay
bình diện tinh thần, thì luôn có mối liên hệ gần như là nhân quả giữa hai phạm
trù nghe và nói. Đó là do bởi sự bất lực hay hạn chế trong khả năng nghe (
không nghe được, không chịu nghe, nghe không rõ, không đúng, không chính xác ),
nên người ta mắc bệnh câm hay ngọng là không nói được, nói không rõ, không
chính xác hay nói không được những điều cần nói, nên nói và phải nói, hoặc có
nói thì cũng như không.
Hẳn nhiên, chúng ta không
chỉ thở dài phiền não mà còn bất bình với những người đang nắm trọng trách lãnh
đạo vì cớ nào đó đã làm kiếp "chó câm" như kiểu nói của Đức Bênêđictô
XVI khi ngài còn là Hồng Y. Chúa Giêsu chỉ im lặng trước Caipha và trước
Philatô sau khi đã nói những gì cần nói và phải nói: Tôi là Con Thiên Chúa Hằng
Sống; Tôi là Vua, đến thế gian để làm chứng cho sự thật...( x.Mt 26,64; Ga
18,37 ). Ngay phút giây hấp hối trên thập giá Người vẫn nói lời tình yêu, lời
chân lý cho đến khi "mọi sự đã hoàn tất". Chúng ta cũng không chỉ bực
mình mà còn phẫn nộ truớc những người thường xuyên nói với kiểu "nói
ngọng, nói vẹt", tức là nói không đúng hiện thực hay chỉ biết nói những gì
được chỉ đạo, được lập trình sẵn... Có thể có nhiều nguyên nhân chủ quan hay
khách quan gây ra tình trạng này. Tuy nhiên ở đây chúng ta cùng xem xét một
nguyên nhân đó là không biết nghe.
Thiên Chúa nói với chúng
ta bằng nhiều cách thế, tuy nhiên cách thế thông thường mà Người phán dạy chúng
ta là qua con người. Đọc lịch sử thánh chúng ta nhận ra điều này là không kể
các kỳ công của cuộc tạo dựng và một số dấu lạ điềm thiêng, thì Thiên Chúa
thường phán dạy qua những con người bé mọn, nghèo hèn, cụ thể là các ngôn sứ,
những người nghèo của Giavê. Đến thời kỳ viên mãn Thiên Chúa lại phán dạy chúng
ta qua Người Con. Đó là một người thợ mộc bình thường xuất thân từ Nagiaret,
một xứ sở không có gì đáng nói, một gia cảnh không có gì đáng trọng vọng, như
lời nhận định bộc trực của Nathanael với Philipphê ( x.Ga 1,46 ). Chúa Giêsu
lại chọn gọi 12 người cộng tác để rao giảng Lời Thiên Chúa thì cũng là những
người thấp cổ, bé phận. Thánh Giacôbê Tông đồ qua bài đọc thứ hai cảnh tỉnh ta
về cái lề thói thích thiên tư, gần gủi với những người sang giàu. Đây là một
trong những nguyên cớ khiến ta bị điếc về tâm linh. Rất nhiều nhà lãnh đạo quốc
gia hay tôn giáo vẫn có nghe nhưng họ thường nghe lời từ những người có quyền
có chức. Họ thường nghe nhân viên thuộc cấp báo cáo, nghe người cộng sự thân
cận... mà những người này thì khó tránh được chước cám dỗ nói những gì thuận
tai cấp trên, đẹp lòng lãnh đạo, thế là nhiều khi có nghe cũng như không nghe
vì không nắm được thực chất của sự kiện hay vấn đề. Một lẽ thường tình: người
ta vốn thích nghe những gì dễ nghe.
Để khỏi bị điếc, tức là
để nghe đúng, nghe chính xác thì không gì hơn là biết cúi xuống, gần dân, gần
những người thấp cổ, bé phận, gần những người nghèo khổ lầm than. Lịch sử cho
biết thỉnh thoảng có được một vài minh quân đã biết "vi hành" trong
lớp vỏ một dân thường để "nghe-nhìn" cho chính xác hơn tình cảnh dân
chúng mà mình đang cai trị. Ngày nay trong sinh hoạt các Hội Dòng vẫn có được
chuyện tốt đẹp này khi các Bề trên theo định kỳ, đi kinh lý các cơ sở thuộc
quyền và gặp gỡ riêng với từng thành viên của Hội Dòng. Dù mang kiếp "làm
dâu trăm họ", nhưng điều này không chuẩn chước cho việc mục tử phải biết
lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của chiên trong lẫn ngoài đàn. Đã là mục tử thì
không thể không "biết" chiên. Và một trong những điều kiện ắt có để
biết chiên là phải biết lắng nghe. Mong sao việc gặp gỡ giữa mục tử và đàn
chiên không dừng lại ở hình thức "tiếp xúc cử tri" như ngoài xã hội
dân sự nước nhà chúng ta hiện nay.
Vẫn có những người tuy
nghe rõ, nghe đúng nhưng làm như không nghe, không hiểu. Có thể xem nhiều người
biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu thuộc hạng người này. Chính Chúa Giêsu đã
từng lấy lời ngôn sứ Isia để nhận định: " Các ngươi có lắng tai nghe cũng
chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy: vì lòng dân này đã ra chai đá;
chúng đã bịt tai, nhắm mắt..." ( Mt 13,14 ). Biểu hiện nơi những người này
là không dám nói, có nói thì nói không đúng hay nói kiểu nói ngọng, tức là nói
không đúng với hiện thực khách quan, nhiều khi còn cố tình đổi trắng thay đen
như trường hợp người ta vu khống Chúa Giêsu dùng tướng quỷ mà trừ quỷ ( x.Mc
3,20-30 ). Không chịu nghe hay không muốn nghe chính là một tình trạng cố chấp
và Chúa Giêsu đã từng lên án thái độ này là "chống lại Thánh Thần" (
x.Mt 12,32; Mc 3,29; Lc 12,10 ).
Chúa Giêsu đã từng minh
nhiên khen ngợi sự khiêm nhu của vua quan và toàn dân thành Ninivê khi họ biết
lắng nghe lời "tuyên họa" của Giona, để rồi ăn năn, sữa đổi đời sống
( x.Lc 11,32 ). Quả thật, để biết lắng nghe thì không nguyên chỉ tìm cách đến
với đám đông dân chúng, vì ý của trời thường phản ánh qua ý của dân, mà chúng
ta còn cần phải có một tâm hồn khiêm nhu, hướng thiện thực sự.
"Lạy Chúa Trời, xin
mở miệng con ..." Lời kinh đầu ngày của các Giờ Kinh Phụng Vụ nhắc nhớ
chúng ta chúng ta bổn phận ca ngợi Thiên Chúa. Thiết tưởng rằng lời ngợi ca đẹp
lòng Thiên Chúa nhất là nói lời yêu thương trong sự thật và nói lời sự thật
trong tình yêu thương. Và chắc hẳn chúng ta sẽ lại nghe lời của Đấng Cứu Độ:
Ephrata ! Hãy mở ra ! Hãy mở tai, mở mắt, mở lòng để biết lắng nghe !
Lm. Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa
11. CHÚA CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC
Mc 7, 31-37
Đứng trước những người
câm điếc quả thực chúng ta khó làm cho họ hiểu chúng ta muốn nói gì, muốn diễn
tả gì. Bởi vì, điếc chẳng nghe được lời nói của chúng ta và người câm lại không
thể thốt lên lời điều họ muốn diễn ta với chúng ta. Do đó, chúng ta hiểu được
nỗi vui sướng ra sao khi Chúa Giêsu chữa lành cho người vừa câm lại vừa điếc.
Trong bài Tin Mừng Mc 7,
31-37, Đức Giêsu đã chữa lành cho một người vừa câm lại vừa điếc. Ở đời, thường
người câm lại hay bị điếc. Bởi vì nếu chỉ bị câm mà không điếc, người này sẽ
rất khó chịu khi họ nghe được, đặc biệt khi ai đó làm điều gì họ phật ý. Người
câm sẽ điên lên, sẽ tức bực hết chỗ nói khi họ nghe người khác chửi họ hoặc nói
những điều xúc phạm đến họ.Người câm như có một sợi dây ràng buộc, trói buộc
lưỡi họ khiến họ không để nói được dù họ rất muốn nói. Đức Giêsu đã đụng tới
lưỡi anh ta, khiến sợi dây bị tung ra, bị bật ra, khiến người câm có thể nói
được rõ ràng và dễ dàng. Làm điều này, Chúa Giêsu giúp ta hiểu bài đọc 1, hiểu
được lời ca của Israen thoát khỏi nô lệ, lưu đầy: sa mạc nở hoa, đất đai phì
nhiêu, cây cối xanh tươi làm phấn khởi lòng người. Thiên Chúa sẽ đến cứu dân
của Ngài cách thực tế, cụ thể, nghĩa là người mù được thấy, kẻ què đi được,
người điếc nghe được và người câm nói được. Chính Đức Giêsu đến thực hiện những
điều ngôn sứ Isaia loan báo. Chúa Giêsu nói Ep-pha-tha hãy mở ra. Ngài đã làm
cho người câm điếc khỏi bệnh hoàn toàn: nói và nghe bình thường. Việc chữa lành
của Chúa Giêsu đối với người câm điếc diễn tả hai dấu chỉ mà ngôn sứ Isaia đã
nói để cho dân chúng nhận ra được Đấng Mêsia. Việc Chữa lành người câm điếc còn
nói lên Đức Giêsu là Đấng giàu lòng xót thương. Bởi vì, khi tách anh ra khỏi
đám đông, Chúa Giêsu đánh tan sự lúng túng của anh ta, đồng thời nói lên lòng
thương xót thực sự đối với anh. Chúa Giêsu rất nhạy cảm với tình cảnh hết sức
đáng thương của người câm điếc.Như vậy, Chúa Giêsu qua việc chữa lành này vừa
tỏ cho nhân loại, cho chúng ta Ngài là Đấng Mêsia muôn dân mong đợi và đồng
thời, Ngài cũng là Đấng giầu lòng thương xót. Việc chữa lành người câm điếc
cũng tạo nên nguồn hy vọng lớn lao cho mọi thế hệ đang sống nơi trần gian đầy
cam go, thử thách và bệnh hoạn.
Trong một thế giới, con
người vẫn chưa bình đẳng về mọi mặt, mơ ước bình đẳng là một cớ vấp phạm đối
với những người bệnh họan tật nguyền vì nhiều người cho rằng thà họ đừng sinh
ra thì hơn. Nhưng đối với Chúa Giêsu, Ngài luôn trân trọng những người bệnh
hoạn, tật nguyền và luôn bênh vực những mẹ góa con côi. Trước những nghịch cảnh
của cuộc đời, những người neo đơn, góa bụa, những trẻ lang thang bụi đời, những
kẻ đầu đường xó chợ, những kẻ bơ vơ vất vưởng, các em mồ côi, những cháu tật
nguyền, người môn đệ Chúa không được dửng dưng cho rằng những thành phần này đã
có những cơ sở xã hội lo cho họ rồi. Mỗi người chúng ta, mỗi môn đệ Chúa phải
có trách nhiệm lo cho những người này vì Chúa dạy chúng ta phải yêu thương họ
và tỏ tình liên đới gắn bó với họ. Chính thánh Giacôbê trong bài đọc 2 đã nhắn
nhủ tất cả những người tin vào Chúa Giêsu đừng đối xử thiên vị, đừng thiên tư,
đừng phân biệt giầu nghèo bởi vì những người xem ra không may mắn, khó nghèo
lại được Chúa hứa ban nước trời.
Chúng ta và nhiều người
có thể không bị câm điếc thật sự về mặt thể lý, nhưng chúng ta đang bị câm điếc
về mặt tinh thần. Chúng muốn biến chúng ta thành những hòn đảo. Chúa muốn chúng
ta phải chia chia sẻ và cho đi. Vì con người thường chuộng giầu và dễ khinh
giầu. Lời Chúa dạy chúng ta thực hiện những dấu chỉ của ơn cứu độ khi chúng ta
biết quan tâm tới người khác, biết giúp đỡ những người khó nghèo, biết tha thứ
cho những kẻ làm hại chúng ta. Thực hiện được những điều Chúa dạy là chúng ta
đã biểu lộ những dấu chỉ của ơn cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, xin đừng
để chúng con bị câm điếc trước lời mời gọi giúp đỡ những người khó nghèo và cảm
thông với những người đang gặp khó khăn. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
DCCT
12. ĐỨC GIÊSU- DẤU CHỈ
THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN
Mc.7, 31-37
Đức Giêsu xuất hiện ở
đâu, thì mang niềm vui và bình an cho những người "thiện tâm" ở đó.
Ngài là biểu tượng của tình yêu và là chứng từ cho thấy con người là một giá
trị tuyệt đối. Ngài cũng là Đấng cho thấy Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Vời.
1. Đức Giêsu- niềm vui và
hy vọng của người đương thời
Sau khi Đức Giêsu chữa
người câm điếc bằng cách kéo anh ta ra khỏi đám đông, đặt tay vào tai anh, và
bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, thì dân chúng khen Đức Giêsu: "Người làm
mọi sự tốt đẹp". Danh tiếng Đức Giêsu được loan ra cho dù Ngài không muốn
người ta biết Ngài đã làm sự lạ cả thể này. Qua cách chữa người câm điếc này,
người ta có cảm tưởng Đức Giêsu đã làm phép lạ thật "vất vả". Ngài đã
phải đặt ngón tay vào tai anh ta, bôi nước miếng của Ngài vào lưỡi anh ta.
Dường như Ngài nghĩ rằng sự đụng chạm của thân xác Ngài, sẽ giúp người khác
được biến đổi, được chữa lành.
Qua Đức Giêsu, người ta
nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với con người. Nơi nào Đức Giêsu hiện diện,
người ta tìm thấy lòng thương xót, chữa lành, niềm vui, và chiến thắng sự dữ.
Cái chết của Đức Giêsu, và cũng vậy, cái chết của các thánh tử đạo, cho thấy sự
dữ đã thất bại. Người ta tìm cách hủy diệt hay giết người khác, bởi vì người ta
thua người đó. Khi kẻ dữ muốn hủy diệt người công chính, là họ thấy họ không
thể thắng người công chính, và hơn nữa, họ thấy họ bị thua. Cain giết Abel, vì
thấy người em hơn mình; Cain không muốn người em hơn mình, nhưng anh ta đã
không thể tốt hơn Abel. Hêrôđiađê giết Gioan Tẩy Giả, vì nếu để ông sống, bà
không thể làm điều bà muốn: lấy Hêrôđê làm chồng.
Đức Giêsu, con người
nghèo hèn khiêm tốn, nhưng là niềm vui và hy vọng của con người thời đó. Ngài
rảo khắp đất nước Do Thái, để loan tin mừng Nước Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa
hiện diện với con người. Ngài cần rảo khắp đất nước Do Thái, để con người thời
đó được nhìn thấy Thiên Chúa "hữu hình" hiện diện. Ngài là ân sủng
cho những người được gặp gỡ Ngài. Có thể những người thời đó không nhận ra ân
sủng và tình yêu đang viếng thăm họ, đang hiện diện với họ, nhưng thực sự là
Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách rất cụ thể, con người có thể
nhìn thấy và đụng chạm tới Thiên Chúa được.
2. Đừng thiên vị nhưng
hãy tôn trọng mọi người vì họ là người
Con người của mọi thời
đại vẫn "trọng phú khinh bần". Người giầu luôn được người ta kính
trọng, còn người nghèo thường bị khinh dể. Đây là cách cư xử của người
"đời". Nếu một người tin vào Đức Giêsu, mà còn cư xử như người
"đời", thì liệu họ có niềm tin vào Đức Giêsu một cách thực sự không!
Thư thánh Giacôbê cho thấy cách cư xử của người tin vào Đức Giêsu phải khác với
cách cư xử của người "đời". Những người tin vào Đức Giêsu, phải nhận
ra giá trị đích thực của con người không hệ tại nơi của cải, nhưng hệ tại họ là
người.
Mỗi người, là một giá trị
tuyệt đối đối với Thiên Chúa và ngay cả đối với con người. Giầu sang không có
giá trị gì khi đem so với giá trị của một con người. Niềm tin Đức Giêsu là Ngôi
Lời Thiên Chúa nhập thể, cho người ta thấy con người có giá trị như thế nào
trước Thiên Chúa. Vì nếu không có giá trị cao quý, tại sao Thiên Chúa đã vĩnh
viễn làm người, tại sao Thiên Chúa phải chấp nhận sinh ra và sống nghèo hèn như
thế, tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết đau đớn và nhục nhã trên thập giá.
Với Kitô giáo, nhờ biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể, con người nhận ra giá trị
tuyệt vời của con người. Con người là một giá trị tuyệt đối chỉ sau Thiên Chúa.
Đối xử với con người, là
đối xử với Thiên Chúa. Thiên tư tây vị, trọng phú khinh bần, trọng người giầu
khinh người nghèo, là coi trọng vật chất hơn con người. Đây là cách đối xử sai
lầm của nhiều người. Thiên Chúa không đối xử như vậy; người của Thiên Chúa cũng
không đối xử như vậy. Nếu người nào trọng người giầu và khinh người nghèo, là
người đó đang có "vấn đề". Đối xử như vậy, là dấu chỉ cho thấy người
đó chưa là một với Thiên Chúa, chưa hiểu biết và chưa sống theo Thiên Chúa thật
sự.
3. Thiên Chúa- Đấng Tuyệt
Vời
Thiên Chúa tạo dựng con
người giống hình ảnh Thiên Chúa, nghĩa là, Ngài tạo dựng con người biết yêu
thương, cho con người có lý trí để làm chủ vũ trụ thiên nhiên. Con người được
mời gọi để làm thế giới này trở nên đẹp hơn, nơi con người biết sống cho người
khác, biết phục vụ và giúp người khác; và như vậy con người sẽ sống hạnh phúc.
Yêu thương không là một điều gì đã hoàn toàn thể hiện, nhưng là chính con người
với tất cả cuộc sống của mình. Con người được mời gọi trở nên con cái Thiên
Chúa bằng tất cả đời sống của mình, từng giây từng phút của cuộc sống mình.
Khi con người không yêu
thương, không yêu thương Thiên Chúa và không yêu thương anh chị em mình, thì
bầu khí không còn là bầu khí tin tưởng lẫn nhau. Lúc đó không có hạnh phúc nữa.
Lúc này, con người là một mối đe dọa cho nhau. Thiên Chúa lại tiếp tục có sáng
kiến mới để làm con người trở lại với Thiên Chúa, để con người sống yêu thương
và sống hạnh phúc. Sáng kiến của Thiên Chúa đạt tới tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô,
và điều này vẫn còn được tiếp tục trong dòng lịch sử, nơi cuộc đời của mỗi con
người. Thiên Chúa vẫn đang mời gọi, và làm con người sống yêu thương từng ngày
trong cuộc sống mỗi người.
Đức Giêsu là Đấng sống
yêu thương con người. Nhiều người được mời gọi để trở thành dấu chỉ Thiên Chúa
hiện diện và yêu thương con người hôm nay. Hành vi cứu độ là hành vi đang thực
hiện, đang hoàn tất. Công cuộc này sẽ hoàn tất vào ngày cánh chung, ngày Con
Người vinh quang ngự đến để xét xử địa cầu, để làm tất cả nên hoàn hảo, để làm
tất cả đạt tới tầm mức tuyệt vời của nó trong chương trình của Thiên Chúa.
Thiên Chúa thật là Đấng Tuyệt Vời trong hành vi sáng tạo và liên tục làm người
ta sống yêu thương qua Đức Giêsu và trong Thánh Thần Tình Yêu của Ngài.
LM Phạm Thanh Liêm, SJ
13. EPHATA! HÃY MỞ RA
Mc.7, 31-37
Bài giảng của Cha
Capuchin Raniero Cantalamessa, cha giảng Phủ giáo hoàng, về những bài đọc phụng
vụ Chúa Nhật XXII B tuần nay như sau:
Đoạn Tin Mừng nhắc chúng
ta về một sự chữa lành đẹp do Chúa Giêsu thực hiện.
"Và người ta đem một
người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.
Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ
nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và
nói: "Epphatha",( nghĩa là, "Hãy mở ra!"}, và lập tức tai
anh ta mở ra, lưỡi như hết buộc lại, anh ta nói được rõ ràng" (Mark
7:32-35).
Chúa Giêsu không làm phép
lạ như có người vung chiếc đũa thần hay lả bật ngón tay. Tiếng rên thoát ra từ
miệng Người lúc Người rờ tới tai người điếc nói với chúng ta rằng Người đồng
hóa với sự đau khổ người ta, Người chia sẻ mãnh liệt trong sự rủi ro của họ, đã
thành gánh nặng của Người.
Trong một dịp, sau khi
Chúa Giêsu đã chữa nhiều người bịnh, tác giả tin mừng bình luận: "Người đã
mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta" (Matthew
8:17).
Những phép lạ của Chúa
Giêsu không bao giờ tự nó là cùng đích, chúng là những dấu. Điều Chúa Giêsu
ngày trước đã làm cho một người trên bình diện thể lý, chỉ điều Người muốn làm
hằng ngày cho mọi người trên bình diện thiêng liêng.
Người Chúa Giêsu chữa
lành đã điếc và ngọng, anh ta không thể thông truyền với những kẻ khác, nghe
tiếng nói của anh và bày tỏ những cảm giác và nhu cầu của anh. .Nếu bịnh điếc
và ngọng không có khả năng thông truyền đầy đủ với người thân cận mình, để có
những tường quan tốt đẹp, thì chúng ta phải hiểu ngay rằng tất cả chúng ta bị
điếc và ngọng nhiều hay ít, và đó là lý do Chúa Giêsu rên với tất cả chúng ta
tiếng: Epphatha, Hãy mở ra!
Sự khác biệt là bịnh điếc
thể lý không tùy thuộc vào cá nhân và người đó hoàn toàn không đáng trách, đang
khi bịnh điếc luân lý thì đáng trách.
Ngày nay người ta tránh
dùng từ ngữ "điếc" và chúng ta chuộng hơn cách nói " khuyết tật
thính giác," chính là để phân biệt sự kiện đơn thuần không nghe nói về sự
điếc luân lý.
Chúng ta điếc, xin đan cử
ví dụ, khi chúng ta không nghe tiếng kêu cứu với chúng ta và chúng ta thích đặt
giữa chúng ta và người thân cận "hai thứ nước men" sự dửng dưng. Cha
mẹ điếc khi không hiểu rằng những thái độ kỳ dị và rối loạn của con cái dấu một
tiếng kêu xin chú ý và yêu thương.
Một người chồng điếc khi
ông không thể thấy trong sự nhút nhát sợ hãi của vợ mình dấu chỉ sự kiệt sức
hay sự cần có một sự làm sáng tỏ. Và cũng một sự kiện đó áp dụng cho người vợ.
Chúng ta điếc khi chúng
ta khép kín mình, vì kiêu hãnh, trong một sự yên lặng lãnh đạm và đầy phẫn nộ,
đang khi có lẽ với chỉ một tiếng xin lỗi hay tha thứ chúng ta co thể mang lại
bình an và an toàn cho nhà cửa.
Chúng ta những tu sĩ nam
và nữ có những thời gian thinh lặng trong ngày, và thỉnh thoảng chúng ta cáo
mình khi xưng tội:" Con đã phá vỡ sự thinh lặng." Tôi tưởng thỉnh
thoảng chúng ta phải cáo mình về điều ngược lại và nói: "Con đã không phá
vỡ sự thinh lặng."
Điều quyết định chất
lượng sự truyền thông, dầu sao, không phải chỉ nói hay không nói, nhưng làm như
vậy hay không làm như vậy vì tình yêu. Thánh Augustine nói với dân chúng trong
một phát biểu: Không thể biết trong mọi hoàn cảnh phải làm gì: nói hay thinh
lặng, sửa chữa hay là buông xuôi.
Đây là một luật đúng đúng
cho mọi trường hợp: "Hãy yêu và hãy làm gì anh muốn." Hãy quan tâm có
tình yêu trong con tim lúc đó, nếu anh nói, là do tình yêu, nếu anh thinh lặng
là do tình yêu, và mọi sự sẽ nên tốt đẹp bởi vì duy chỉ sự lành đến từ tình
yêu.
Kinh Thánh giúp chúng ta
hiểu nơi nào bắt đầu sự phá vỡ truyền thông, nơi nào sự khó khăn của chúng ta
phát sinh để thông cảm với nhau một cách lành mạnh và tốt đẹp. Khi Adam và Eva
ở trong những quan hệ tốt với Thiên Chúa, sự liên hệ giũa hai ông bà cũng tốt
đẹp và sung sướng: "Đó là thịt bởi thịt tôi." Tương quan của ông bà
với Thiên chúa vửa gián đoạn. vì sự bất phục tùng, thì bắt đầu những sự cáo tội
lẫn nhau: "Tại ông ấy, tại bà ấy..."
Chính từ đó mà người ta
phải bắt đầu trở lại. Chúa Giêsu đến để "hoà giải chúng ta với Thiên
Chúa" và như vậy hoà giải chúng ta với nhau. Người làm như vậy hơn hết qua
các bí tích. Giáo Hội đã luôn thấy trong những cử chỉ xem ra kỳ dị mà Chúa
Giêsu đã làm với kẻ điếc-ngọng (Người đặt ngón tay trong tai anh và động tới
lưỡi anh) một biểu trượng của các bí tích nhờ vậy mà Người tiếp tục
"rờ" chúng ta phần xác hầu chữa lành chúng ta phần thiêng liêng.
Đó là lý do tại sao trong
bí tích rửa tội thừa tác viên thực hiện những cử chỉ trên một người được rửa
tội như Chúa Giêsu đã làm trên người điếc-ngọng: Thừa tác viên ấy đặt ngón tay
mình vào tai anh và rờ tới đầu lưỡi anh, lập lại lời Chúa Giêsu:
"Ephphatha, Hãy mở ra!"
Bí tích Thánh Thể cách
riêng giúp chúng ta chiến thắng sự bất lực thông truyền với người thân cận
chúng ta, làm cho chúng ta kinh nghiệm sự hiệp thông kỳ diệu nhất với Thiên
Chúa.
Đ.Ô. Nguyễn Quang Sách
14. EPHATA, HÃY MỞ RA, TỨC
THÌ TAI ANH TA MỞ RA, VÀ ANH TA NÓI ĐƯỢC
Mc.7, 31-37
Chắc chúng ta đã có kinh
nghiệm "như câm như điếc" khi chúng ta chưa giỏi tiếng Anh mà phải
sống ở ngoại quốc. Đó cũng là kinh nghiệm của tôi những năm đầu ở Ý và khi sang
đi hè ở Mỹ này. Người ta nói mà mình không có hiểu. Mình có tai mà như điếc
vậy. Khó khăn ngôn ngữ là khó khăn lớn nhất của nhưng ai khi ở nước ngoài. Bởi
vì tiếng Việt của chúng ta hoàn toàn khác biệt với những ngôn ngữ Tây Phương,
khác biệt về cấu trúc, ngữ pháp, cách diễn dạt.. Và nếu nắm vững ngôn ngữ là
chúng ta nắm được chìa khóa vạn năng cho các vấn đề khác.
Chúng ta sống và tồn tại
là trong tương quan với người khác. Chính nhờ tương quan và hiệp thông với
người khác làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên phong phú và giàu có. Không
ai là một hòn đảo, nhưng mỗi người đều có tương quan trước hết với Thiên Chúa,
với Tha nhân và với chính mình. Muốn xây dựng cuộc đời có ý nghĩa chúng ta phải
phát triển mình trong ba tương quan đó.
Và để có tương quan với
người khác, với thế giới bên ngoài chúng ta cần có lời nói, ngôn ngữ. Nhờ ngôn
ngữ chúng ta có thể bày tỏ, chia sẽ những suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta,
đồng thời chúng ta có thể lắng nghe được những tâm tư của người khác.
Nếu chúng ta đánh mất khả
năng nghe và nói, chúng ta sẽ mất khả năng thông truyền với thế giới bên ngoài.
Tự đặt mình trong trường hợp bị câm điếc, chúng ta mới hiểu được nỗi đau của
người câm điếc và chúng ta mới thấy quí cái tai và cái miệng của mình. Mình
được lành lặn là một hồng ân rồi.
Tim mừng hôm nay nói tới
tình cảnh đáng thương của người câm điếc. Anh ta vừa cầm vừa điếc. Bệnh tật đày
đọa đã khổ rồi. Nhưng anh còn khổ hơn vì quan niệm của người Dothái cho rằng:
bệnh tật là do hậu qủa tội lỗi của anh hay của Cha mẹ anh. Bị loại trừ khỏi
cộng đoàn. Và chính Thiên Chúa cũng bỏ rơi nhưng người như thế. Hiểu như thế
thì anh ta rất cô đơn trong nỗi đau của mình.
Đức Kitô hiểu được nỗi
đau của anh và đã chữa lành anh khi Ngài nói: Ephata, hãy mở ra! Tức thì tai
anh ta mở ra và miệng anh ta nói được.
Lời loan báo trong bài đọc
I của Tiên Tri Isaia để an ủi Dân tộc Dothái trong cảnh lưu đày đã được Đức
Giêsu thực hiện: "Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ
mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhãy nhót như nai, và người câm sẽ nói được".
Đấy là lời loan báo về thời kỳ cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho nhân loại, cho
mỗi người chúng ta.
Kính thưa anh chị em,
Chúng ta không có câm
điếc về thể lý, nhưng đối diện người câm điếc hôm nay, chúng ta không thể không
nghĩ tới tình trạng câm điếc tinh thần mà mỗi người chúng ta có thể mắc phải.
Chúng ta bị câm điếc khi
chúng ta tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình; khi chúng
ta không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.
Chúng ta bị câm điếc khi
chúng ta đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi niềm ray rứt và tiếng kêu của
những người đau khổ xung quang.
Chúng ta bị câm điếc khi
chúng ta không nghe Chúa Giêsu để nói những lời sự thật, lời của yêu thương và
hòa giải. Nhiều lúc trong một ngày chúng ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia
rẽ và đau khổ cho người khác...
Chúng ta bị câm điếc khi
chúng ta đánh giá người khác theo tiêu chuẩn bên ngoài, vật chất, trọng người
giàu mà coi thường người nghèo như được nói ở bài đọc II.
Đó là một thứ câm điếc
tinh thần mà Chúa đã cảnh báo: "Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như
điếc".
Ephata, hãy mở ra! Lời đó
Chúa cũng nói với chúng ta. Hãy mở ra để cho Chúa chữa lành chúng ta. Hãy mở
tai của chúng ta để lắng nghe Tiếng Chúa. Hãy mở miệng chúng ta ra để chỉ nói
lời Yêu thương và Sự thật. Hãy mở trái tim của chúng ta để lắng nghe những nỗi
niềm và đau khổ của người xung quang. Nếu được như thế cuộc sống của chúng ta
sẽ đẹp lắm, phong phú và đáng sống lắm.
LM Peter Nguyễn Hương
15. EPHATA: HÃY MỞ RA
Mc 7,31-37
Nếu chúng ta quan sát kỹ,
chúng ta sẽ thấy rất ít chỗ trong Phúc Âm còn lưu truyền lại tiếng Aramäisch,
tiếng mẹ đẻ của Ðức Giêsu, như trong bài Phúc Âm hôm nay : « Effata : Hãy mở ra
! » Tại sao người ta lại lấy tiếng đó làm quan trọng và lưu truyền lại cho tới
ngày nay ? Phải chăng người ta còn lưu truyền tiếng đó lại, vì cho rằng nó có
một sức mạnh có thể chữa lành các tật bệnh, như thể một tiếng thần chú vậy ? Dĩ
nhiên là không phải thế !
Cũng như chính Ðức Giêsu đã
không đến trong thế gian để chữa lành tất cả mọi bệnh tật một cách cách có hệ
thống, Giáo Hội cũng không cho mình có sứ mệnh như một cơ sở nghiên cứu các
phương pháp chữa bệnh một cách kỳ lạ. Vì thế, xưa kia khi Ðức Giêsu chữa lành
một bệnh nhân tìm đến với Người, là chỉ muốn qua đó nhắc cho con người đến một
sự chữa lành khác quan trọng và cần thiết hơn bội phần, một sự chữa lành có
liên hệ với sự tương quan giữa con người với nhau và giữa con người với Thiên
Chúa. Cũng vì thế Người đã chữa lành người câm và điếc mà Người đã gặp trên
đường đi.
Trong cuộc sống xã hội
hằng ngày, nhiều người đã từ từ trở nên tư lự ít nói và cuối cùng thành câm
luôn, dĩ nhiên không vì bộ phận phát âm của họ bị bệnh, nhưng vì họ phải sống
trong một hoàn cảnh bất thuận lợi : họ nói mà không một ai thèm để ý lắng nghe.
Ðó là một thứ bệnh câm phát xuất từ thái độ bịt tai giả điếc của những kẻ khác.
Bởi vì những người sống bên cạnh tôi chỉ biết có mình họ và họ tự đóng khung
trong chính con người của họ, nên mọi cố gắng tìm thông tin đối thoại của tôi
trở thành vô ích. Tôi có nói cũng chỉ nói để mình tôi nghe. Tiếng nói của tôi
chỉ là tiếng nói trong sa mạc của tình cảm chết, không có tiếng vọng, không có
tiếng trả lời ! Từ từ tôi trở thành câm, quên mất tiếng nói của loài người. Quả
thực đây là một căn bệnh mà các vi khuẩn của nó ít nhiều đang đồn trú trong mỗi
người chúng ta.
Quả vậy, thường chỉ do
một sự hiểu lầm nho nhỏ, một sự khác biệt ý kiến hay một sự bị làm tổn thương
nho nhỏ, bỗng nhiên cả toàn bộ những tương quan và tình nghĩa thân thiết trong
cuộc sống chồng vợ, cuộc sống gia đình hay cuộc sống xứ đạo hoàn toàn bị đóng
băng, bị tê liệt hay bị sụp đổ. Lý do là vì những người trong cuộc muốn giữ
thái độ câm nín và giả điếc, chứ không muốn mở miệng để nói với nhau và mở tai
để nghe tiếng nói của nhau nữa, hầu cùng nhau tìm ra nguyên nhân đã gây ra cớ
sự và giải tỏa đi những vướng mắc. Hoặc mỗi người đều chỉ muốn bày tỏ quan điểm
của mình và khư khư bảo thủ quan điểm đó, chứ không còn muốn kiên nhẫn lắng
nghe quan điểm của kẻ khác để tìm ra một dung hòa nào đó !
Nếu thành thật với lương
tâm, lắm lúc chúng ta phải tự cảm thấy hổ thẹn với chính mình, bởi vì chúng ta
đã không rộng lượng với nhau; bởi vì chúng ta thường chỉ nghĩ đến mình, đến lợi
ích tư riêng của mình mà thôi!
Nhưng ai sẽ có thể chữa
lành chứng bệnh câm và điếc này của chúng ta ? - Xin thưa, không có ai cả ! Ðức
Giêsu cũng không ! Ðức Giêsu chỉ có thể chỉ cho ta con đường dẫn tới sự chữa
lành căn bệnh ! Người chỉ cho chúng ta cách thức có thể giúp chúng ta tự giải
thoát mình khỏi chứng câm và điếc kia : « Effata ! Hãy mở ra ! » Ðức Giêsu chỉ
có thể giúp ta phương pháp : « Effata ! Hãy mở ra ! » còn chính hành động « mở
ra » thì chúng ta phải tự làm lấy. Chúng ta phải tự mở rộng lòng mình ra. Chúng
ta phải tự mở rộng sự quảng đại của mình ra. Chúng ta cần phải tự bắc nhịp cầu
nối lại với người khác. Chúng ta cần phải tự giải thoát mình khỏi sự ích kỷ hẹp
hòi, khỏi sự tự tôn tự đại, và biết can đảm lắng nghe kẻ khác.
Những ai không muốn cố
gắng tập cho mình có thói quen biết quan tâm đến ý kiến người khác, thì làm sao
họ có thể nghe được tiếng Chúa ? Bởi vì tiếng Chúa luôn luôn âm thầm nhỏ nhẹ,
đến nỗi rất dễ bị các tiếng nói ồn ào khác xuất phát từ môi trường sống chung
quanh hay bởi chính nội tâm bất ổn của chúng ta lấn át đi và không thể nghe
được nữa
Nếu chúng ta tìm cách giả
điếc làm ngơ trước tiếng Chúa, trước tiếng lương tâm mình, hoặc chúng ta không
còn muốn lắng nghe người đồng loại, không muốn giao tiếp với họ nữa, chúng ta
sẽ trở thành câm và điếc, chúng ta sẽ trở nên bệnh hoạn và cần phải được chữa
lành.
« Effata ! Hãy mở ra ! »
Tất cả chúng ta cần phải mở rộng cửa lòng mình ra cho Thiên Chúa và cho người
đồng loại. Chúng ta cần phải giải thoát mình khỏi sự cô lập của chính bản thân
và nối lại mọi quan hệ với Thiên Chúa và với những người khác. Ðó là con đường
dẫn tới sự chữa lành căn bệnh bất trị câm điếc của chúng ta.
« Lạy Chúa, xin hãy mở
lòng và môi con, đề miệng con cao rao lời ngợi khen Chúa ! Xin Chúa hãy mở
miệng con ra để con ca ngợi Chúa, và xin hãy ban cho con một Thần Khí mới ».
Amen
LM Nguyễn Hữu Thy
16. CÂM ĐIẾC TINH THẦN
Mc.7, 31- 37
Con người sinh ra ai cũng
muốn được hoàn bị, không dị tật và đấy là ước mơ, không ai muốn mình bị tước
mất những khả năng nghe, nhìn, nói,. ....Thế nhưng vẫn có tình trạng ấy xẩy ra
nên con người đau khổ mong muốn, khao khát được chữa lành. Trong Cựu Ước tiên
tri Isaia loan báo Đấng Mesia đến sẽ thực hiện được điều đó(Is.35,4-7a) và
Tv.145 trong bài đáp ca cũng công bố Thiên Chúa sẽ giải thoát con người khỏi tù
tội, mở mắt cho kẻ mù lòa...đặc biệt trong bài Tin Mừng cho chúng ta thấy niềm
ước mong của con người đã được thực hiện khi Chúa Giêsu xuất hiện làm trọn
những lời các ngôn sứ đã nói, Người chữa bệnh cho một người bị ngọng và điếc
(Mc.7,31-37).
Như thế phung vụ Lời Chúa
hôm nay muốn nói đến Đức Kitô là vị lương y tuyệt diệu mà tiên tri Isaia đã báo
trước. Người đến và thông cảm những nỗi đau của nhân loại, Người ra tay cứu
giúp bằng những phép lạ như bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Lữơi, tai là hai cơ
quan để truyền thông của con người, nhưng khi bị ngọng hay câm điếc người ta
không còn giao tiếp tự nhiên với người khác nữa, lưỡi như có sợi giây buộc lại,
tai như cánh cửa bị khóa kín. Những người này bị tách khỏi thế giới chung quanh
vì không hiểu được người khác, cũng như người khác không hiểu được họ. Thấu
hiểu nỗi khổ của con người Chúa Giêsu đã mau mắn cứu giúp, nhưng ở đây chúng ta
thấy Chúa Giêsu đã dẫn người bệnh đi xa khỏi đám đông rồi mới chữa, vì Chúa
không muốn họ bị sai lạc về đức tin khi thấy Chúa Giêsu làm những cử chỉ có vẻ
như ma thuật. Chúa muốn người ta theo Chúa vì tin vào Chúa chứ không phải vì mê
tín hay được hưởng những chuyện lạ thường lợi lộc vật chất.
Ngày nay chúng ta cũng
thường mắc chứng bệnh điếc, mặc dù chúng ta có đôi tai thể lý rất thính, nghe
được mọi chuyện mà không nghe được Lời Chúa thì cũng như điếc, chúng ta bị điếc
khi để mình mất khả năng lắng nghe kẻ khác, hoặc nghe nhưng lại hiểu theo chủ
quan, như thế thì vẫn là không nghe được điều người khác muốn nói. Chúng ta bị
điếc khi chúng ta lắng nghe mà không nhận thức được đúng - sai, hay - dở. Vậy
điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà ở chỗ người nghe suy nghĩ và
quyết định ra sao. Trong chúng ta không ai muốn mình điếc hay lãng tai, nhưng
chúng ta chỉ thích nghe điều mình muốn nghe, những lời nịnh hót hay khen
thưởng, còn những điều khiển trách, giáo huấn chúng ta lại không muốn nghe thì
cũng là điếc.
Miệng lưỡi tốt có khi còn
lợi khẩu, nhưng lại không biết nói những điều tốt, những điều đáng nó, những
điều sửa dạy trong cương vị làm cha mẹ, làm thầy dạy, làm bề trên ...thì cũng
là câm. Nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất nhưng không biết tuyên xưng lòng
nhân lành của Chúa, không biết loan báo Lời thì cũng như câm. Nói để người khác
hiểu được mình, đó là ước mơ của chúng ta, nhưng chúng ta lại thấy như có gì
trói buộc muốn nói mà không nói được, sợ mất lòng, sợ lụy đến thân, sợ mất chức
quyền, sợ nhiều thứ khiến chúng ta ngần ngại, sợ hãi né tránh... Tệ hại hơn có
khi người ta bị câm vì bị châm chọc, khinh miệt, khước từ...và họ đã tự động
khép lại.
Thế giới ngày nay thiếu
cảm thông nên cũng là câm điếc thiêng liêng, bệnh này biến người ta thành hòn
đảo, chẳng có gì để cho và cũng cũng có gì để nhận, để rồi chết dần trong sự
nghèo nàn của mình, nên cũng cần phải được Chúa chữa trị, kẻo bị Chúa Giêsu quở
trách như đã quở các tông đồ xưa" có tai mà không nghe, có mắt mà không
nhìn" (x.Mc.8,18). Vì thế, khi nghe bằng tai thôi chưa đủ, mà phải lắng
nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương chân thành và quảng đại mới có
thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt,
Hơn nữa, không phải thông tin nào cũng nên nghe, cần phải chọn lựa những thông
tin bổ ích hữu dụng, không gây phương hại, vẩn đục tâm hồn. Một tác giả kia đã
nói " Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai, nhưng
luôn có thể tin vào những gì thấy bằng con tim của mình, được hiểu sau lớp ngôn
từ"
Lạy Chúa, xin cho chúng
con ý thức rằng qua Bí Tích Thánh Tẩy, Hội Thánh nhân danh Chúa Giêsu đã khai
mở cho chúng con một đời sống hiệp thông với Thiên Chúa, để chúng con biết phát
triển đời sống đức tin và đức mến, luôn lắng nghe tiếng Chúa và không ngừng rao
giảng tình thương cứu độ của Chúa qua đời sống chứng nhân của chúng con giữa
lòng đời.
Sr Mai An Linh
17. CÂM ĐIẾC THIÊNG LIÊNG
Mc 7, 31 - 37
Những công việc và phép
lạ Chúa Giêsu làm khi ở trần gian, thường có nhiều ý nghĩa. Chúa đã làm một
công đôi ba việc, hay nhất cữ lưỡng tiện. Chẳng hạn như phép lạ chữa người câm
điếc kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa đã làm một cách trịnh trọng khác
thường. Những lần khác Chúa chỉ nói một tiếng hay làm một cử chỉ đơn sơ như
đụng chạm tới, đặt tay trên đầu bệnh nhân hoặc cầm tay người chết...thế là phép
lạ đã được thực hiện. Vậy mà đối với người câm điếc này, cách Chúa làm có vẻ
phiền phức hơn. Những cử chỉ phiền phức ấy đều có ý nghĩa tượng trưng của
chúng.
Trước hết, Chúa đưa người
câm điếc ra khỏi đám đông. Vì Chúa không muốn cho dân chúng phấn khởi quá đáng,
có thể gây nên bạo động; đồng thời Chúa cũng không muốn cho họ hiểu lầm những
cử chỉ tượng trưng của Ngài. Phép lạ này xảy ra ở miền Thập Tỉnh, là nơi có
nhiều người ngoại giáo ở lẫn lộn với người Do thái, nên chắc chắn họ không hiểu
được ý nghĩa tượng trưng của việc Chúa làm và như thế họ sẽ cho Ngài là một
thầy phù thủy cao tay, dùng phù phép và thần chú để chữa bệnh. Hơn nữa, việc
Chúa đưa người câm điếc ra khỏi đám đông, còn dạy chúng ta sự khôn ngoan, kín
đáo và khiêm tốn.
Thứ hai, Chúa xỏ ngón tay
vào tai người câm điếc. Đối với những người nghe được thì bao giờ Chúa cũng
dùng lời nói để đòi điều kiện đức tin. Còn đối với người điếc thì cần phải có
cử chỉ. Cử chỉ sẽ gây nên công hiệu làm nảy nở lòng tin để tin vào quyền phép Đấng
làm phép lạ. Việc Chúa xỏ ngón tay vào tai người câm điếc tượng trưng cho sức
mạnh Thiên Chúa. Chúa đặt tay vào tai để chuyển thông một sức linh diệu, một sự
nhạy bén, để họ có thể nghe thấy tiếng Chúa cách dễ dàng.
Thứ ba, Chúa bôi nước bọt
vào lưỡi người câm điếc. Có vẻ mất vệ sinh không ? Cứ sự thường nước bọt có
chứa nhiều vi trùng, nhất là nước bọt của người bệnh. Nhưng đối với Chúa là
Đấng tạo dựng con người và kể cả những vi trùng kia thì không có gì là mất vệ
sinh. Chúa dùng một chút nước bọt như vậy để cho bệnh nhân ngoại giáo này nhận
ra một cử chỉ uy quyền của Chúa sắp làm. Bệnh nhân này bị câm điếc nên cách
liên lạc với anh ta chỉ còn bằng cử điệu mà thôi, nên dễ hiểu Chúa Giêsu đã làm
cử chỉ này để lôi kéo anh ta chú ý vào Chúa.
Sau cùng, Chúa ngước mắt
lên trời, thở dài và nói "Ép-pha-tha : hãy mở ra". Không mấy khi đứng
trước những bệnh tật đau khổ của thân xác con người mà Chúa không nghĩ tới
những khốn khổ của linh hồn họ. Có lẽ sự liên tưởng đó đã khiến Chúa phát ra
tiếng thở dài ấy chăng ? Nhưng dù khốn khổ thế nào chăng nữa, cũng không phải
là vô phương cứu chữa. Đôi mắt Chúa ngước lên trời bày tỏ một niềm hy vọng sâu
xa vào quyền phép của Chúa. Một tiếng : "Phi-át : xin vâng" đã lôi cả
vũ trụ vạn vật từ chỗ không đến có, thì tiếng "Ép-pha-tha" này cũng
chữa lại vài sự lệch lạc nơi tạo vật ấy một cách dễ dàng như vậy.
Thường thường những người
mới sinh ra mà đã bị câm thì cũng bị điếc luôn. Người câm và điếc bị thiệt thòi
rất nhiều và mất đi nhiều hạnh phúc của cuộc đời. Ngoài trường hợp câm điếc bẩm
sinh, người ta có thể bị câm điếc vì một bệnh tật hay một tai nạn nào đó. Dù
câm điếc vì lý do gì vẫn là những người đáng thương và cần sự giúp đỡ của chúng
ta.
Tuy nhiên, ngoài những
người câm điếc thực sự về thể xác này, còn có những hình thức câm điếc khác
nữa, hiểu theo nghĩa bóng hoặc về phương diện tinh thần, thiêng liêng. Chẳng
hạn có những người câm điếc vì không muốn nói; không muốn nghe, do một lý tưởng
nào đó tác động : hạng người này rất hiếm và có thể có những trường hợp rất
đáng khen tụng, đó là những anh hùng tuẫn giáo hay những chiến sĩ, cán bộ can
trường, nhất định không chịu tiết lộ bí mật, không chịu phản bội lý tưởng.
Ngược lại, có những người câm điếc cố tình, vì ỷ lại, ươn hèn, sợ hãi. Hạng
người này lại đáng chê trách.
Lại có những người câm
điếc khi bảo gì cũng không chịu nghe, hay chỉ nghe trước quên sau. Người ta gọi
họ là những người cứng đầu cứng cổ, cố chấp, lì lợm : tai trâu, tau cối, lơ
dễnh. Lại có những người ù lì, hèn nhát, sợ sệt, hỏi không nói, gọi không thưa,
hay có nói thì ấp úng, không thưa được nửa lời, hay không chịu lên tiếng khi
cần, khi có nhiệm vụ, khi có trách nhiệm bênh vực sự thật. Những người đó cũng
được xếp vào loại những người câm.
Sau hết, có những người
câm điếc thiêng liêng. Câm thiêng liêng là những người không biết dùng miệng
lưỡi để ca tụng Chúa, không dám nói sự thật hay bẻ cong sự thật. Là cha mẹ mà
không biết dùng lời nói khôn ngoan, đứng đắn để dạy dỗ con cái. Trong nhà thờ,
không mở miệng đọc kinh, ca hát. Ở ngoài xã hội không dám nói về đạo hay bênh
vực sự thật khi cần phải lên tiếng vv...Còn điếc thiêng liêng là những người
không muốn nghe Lời Chúa, không muốn nghe tiếng Chúa nhắc nhở qua lương tâm hay
những người đại diện Chúa, không thích nghe những chuyện đạo đức, trong khi đó
lại thích nghe những chuyện tào lao, những chuyện gây thương tổn cho linh hồn
mình vv...Đàng khác, câm điếc thiêng liêng có thể là những người khép kín trong
chính mình, không chịu đối thoại, trao đổi...như thế dễ rơi vào tình trạng tự
tôn, tự cao hoặc cố chấp, yếm thế, bi quan, chán nản. Tóm lại, bệnh câm điếc
thiêng liêng nào cũng nguy hiểm, chúng ta cần đề cao cảnh giác và sửa chữa.
Lm. Giacôbê Phạm Văn
Phượng, OP.
18. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN
B
Mc 7, 31 - 37
Khi ở nước ngoài, có dịp
gặp những người Việt sinh sống xa quê hương xứ sở, tôi hỏi họ : "Sống ở
nước ngoài, điều gì khiến ông bà buồn khổ nhất". Họ trả lời : "Khổ
nhất là chúng con sống như những người điếc và ngọng. Không biết tiếng nên
ngọng nghiụ, nói chẳng nên lời, thành ra không làm cho người ta hiểu được mình.
Người ta nói gì mình cũng chẳng hiểu, thật y như người điếc".
Nghe và nói là hai cánh
cửa. Nói là cánh cửa mở tâm hồn mình ra thông giao với thế giới bên ngoài. Có
gì tích chứa trong lòng, phải nói ra thì người khác mới hiểu. Nghe là cánh cửa
mở ra đón nhận thông tin từ thế giới bên ngoài. Phải nghe mới hiểu được người
khác. Không nghe không nói cũng giống như đóng kín cánh cửa cảm thông. Mình
không hiểu người mà người cũng không hiểu mình. Sống bên nhau mà không hiểu nhau
thì thật đáng buồn và đáng sợ.
Nếu điếc và ngọng thể lý
đã đáng buồn và đáng sợ, thì điếc và ngọng tâm lý còn đáng buồn và đáng sợ gấp
bội.
Có nhiều thứ điếc.
Có thứ điếc vì khác biệt
ngôn ngữ và văn hoá. Nghe mà không hiểu. Hoặc nghe tưởng là hiểu hoá ra lại
hiểu sai. Trường hợp này còn tệ hại hơn là không nghe thấy gì.
Có thứ điếc vì định kiến.
Ðã có sẵn định kiến với ai, ta không muốn nghe người ấy nói nữa. Người ấy có
nói hay đến đâu, ta cũng cho là dở. Người ấy có nói tốt đến đâu, ta cũng cho là
xấu. Những ý kiến của người ấy không thể lọt vào tai ta. Nếu có vào thì chỉ vào
những phần xấu.
Có thứ điếc vì bịt tai
không muốn nghe. Ðây là trường hợp của người tự làm cho mình trở thành điếc.
Mất tin tưởng vào anh em. Tuyệt vọng vì cuộc sống. Tự đóng kín trong vỏ ốc của
bản thân. Ðoạn tuyệt với mọi người.
Sau cùng, có thứ điếc
thiêng liêng không nghe được Lời Chúa. Không nghe được Lời Chúa vì thiếu học
hỏi. Nhưng nhất là không nghe được Lời Chúa vì cứng lòng. Vì để nghe Lời Chúa,
mở tai chưa đủ, cần phải mở lòng nữa. Bao lâu tâm hồn đóng kín, không nhậy cảm
trước những lời mời gọi ăn năn sám hối, không tỉnh thức tiếp thu những lời
hướng dẫn về đường lành, thì tai người ta sẽ chẳng nghe được Lời hằng sống. Bao
lâu tâm hồn còn đuổi theo dục vọng, còn toan tính những điều gian dối, bấy lâu
người ta vẫn còn điếc đặc trước những Lời của Thiên Chúa.
Tương tự như thế, có
nhiều thứ ngọng.
Có thứ ngọng do khác biệt
ngôn ngữ và văn hoá. Ta không hiểu người mà cũng chẳng thể làm cho người hiểu
ta.
Có thứ ngọng do ích kỷ.
Ta chỉ nói về những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của ta, mà chẳng
xét đến những quan tâm, những nhu cầu, những ước vọng của anh em. Nên lời ta
nói chẳng lọt vào tai anh em. Lời ta nói trở nên ngọng nghịu, anh em nghe mà
không hiểu.
Có thứ ngọng do sợ sệt.
Vì sợ sệt, ta không dám nói lên sự thật. Những nỗi sợ mất quyền lợi, sợ mất
danh dự, sợ mất lòng người khiến ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có thứ ngọng do lười
biếng. Vì lười biếng, ta không nói được những lời tốt đẹp khích lệ anh em. Vì
lười biếng, ta không nói được những lời an ủi người đang buồn sầu. Vì lười
biếng, ta không nói được những lời chia vui với người anh em gặp may mắn. Nhất
là vì lười biếng, ta không nói lên được những lời ca tụng Thiên chúa.
Những đam mê, những dục
vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây
trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Có nhiều bức tường ngăn
chặn làm tai ta điếc. Có nhiều sợi dây trói buộc làm cho lưỡi ta ngọng.
Hôm nay, Ðức Giê-su cũng
đến nói với ta : "Ephata". Hãy mở ra.
Hãy mở tai ra để lắng
nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định
kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường tâm hồn cứng cỏi để mở
rộng tâm hồn đón nhận anh em và đón nhận Lời Chúa.
Hãy mở miệng lưỡi ra để
đi đến với anh em và đi đến với Chúa.. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan
tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những
lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp,
những lời ca ngợi tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy chữa
bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con . Amen.
Gm. Giuse Ngô Quang Kiệt
19. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN
B
Mc 7, 31 - 37
"Người làm mọi sự
tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và Người câm nói được "
Có nhiều khi tôi tự hỏi :
Nếu một ngày nào đó tự nhiên mình bị câm và điếc lúc ấy cuộc đời mình sẽ ra sao
? Tôi lại nghĩ : Lúc ấy chắc sẽ buồn, sẽ thất vọng lắm.
Kinh Thánh Kitô Giáo của
mình trình bày con người của mình là một sinh vật được tạo dựng theo hình ảnh
của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không phải là một Thiên Chúa đơn độc, cô đơn. Nhưng
mà là một Thiên Chúa Ba Ngôi, là một cộng đồng hiệp thông trong yêu thương.
Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa. Mình phải làm thế nào để cuộc sống của mình sẽ
vươn tới chỗ hiệp thông, hiệp thông với nhau, hiệp thông với cả vũ trụ. Ðến lúc
ấy cuộc sống chúng ta sẽ phong phú lắm.
Ðể tiến tới sự hiệp thông
chúng ta phải dùng ngôn ngữ để chia sẻ với nhau. Nhờ lời nói chúng ta có thể
diễn tả được suy tư, cảm xúc tâm tư trong lòng. Ðồng thời chúng ta có thể nghe
được tâm sự của người khác. Từ đó nó sẽ hình thành một cuộc đối thoại, kiến tạo
một sự hiệp thông giữa hai người và làm cuộc sống của chúng ta phong phú hơn.
Như vậy, nếu chúng ta
không thấy, không nghe, rõ ràng chúng ta sẽ bị cắt đứt khỏi thế giới bình
thường của con người. Vì thế trong các trường khuyết tật bây giờ người ta cố
gắng giúp cho các em tập nghe và tập nói, để các em có thể hội nhập vào thế
giới bình thường của con người. Biết được nỗi đau của những người câm điếc ta
sẽ thấy quý cái tai và cái miệng của mình. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận được đấy
chính là ân huệ và là một quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban cho ta mà ta không
biết tạ ơn.
Chúng ta có miệng và tai
tốt lắm. Nhưng có khi nào chúng ta nghĩ mình bị câm điếc theo nghĩa toàn diện
không ? Chúa Giêsu đã có lần mắng các tông đồ : " Các anh có mắt mà như
mù, có tai mà như điếc". Thực sự vậy, nếu chúng ta quay lại định nghĩa của
Kitô Giáo về mục đích của con người là sự hiệp thông. Và ngôn là phương thế để
dẫn chúng ta đến sự hiệp thông. Lúc ấy chúng ta sẽ khám phá ra rằng: Rất nhiều
khi tai và miệng thay vì dẫn đến sự hiệp thông thì nó lại ngăn cản và có thể sẽ
huỷ diệt sự hiệp thông. Chúng ta trở thành câm điếc theo nghĩa đó.
Một hôm, đọc sách báo
tình cờ tôi có đọc được một câu chuyện kể về một người Phụ Nữ đã có chồng 5
con. Chị được đưa vào bệnh viện để giải phẩu mắt. Suốt ngày đêm chị than thân
trách phận. Chị sợ hãi, lo âu đủ chuyện. Chị chả hề quan tâm đến ai, kể cả
những bệnh nhân nằm chung phòng. Tuần sau có một Phụ Nữ khác nhập viện nằm gần
Chị. Người Phụ Nữ mới vào ngày nào cũng thăm hỏi an ủi khuyến khích nâng đỡ Chị
suốt mấy tuần lễ như vậy. Một hôm, sau khi chồng và các con đến thăm chị, người
Phụ Nữ mới vào sau nói với Chị "Này Chị ơi, chị phải biết là chị may mắn
và hạnh phúc nhiều lắm, vì có biết bao nhiêu người quan tâm và chăm sóc
Chị". Câu ấy làm cho Chị suy nghĩ và phải nhận đúng như vậy. Biết bao
nhiêu người quan tâm đến Chị mà chị chả biết quan tâm đến ai, ngay cả những
người trong gia đình. Chị nhận ra người bạn nằm cùng với mình chả có ai thăm
nuôi. Vậy mà Chị ta không hề than vãn một lời lại còn động viên an ủi mình. Chị
cảm thấy hối hận định sáng hôm sau sẽ an ủi xin lỗi Chị ấy. Nhưng đã muộn. Chị
ấy đã được Chúa gọi. Vài hôm, sau khi tháo băng Chị đọc được lá thư người bạn
gởi cho mình. Nội dung bức thư:
" Bạn thân mến, cảm
ơn bạn về những ngày rất đặc biệt này. Tôi cảm nhận niềm hạnh phúc trong tình
bạn của chúng ta. Tôi biết rằng bạn cũng chăm sóc cho tôi dù bạn không nhìn
thấy tôi. Ðôi khi để lôi kéo sự chú ý của chúng ta Thiên Chúa đã đánh gục chúng
ta, hay ít ra Chúa làm cho ta mù loà, với hơi thở cuối cùng này tôi cầu xin
Chúa cho Chị đựơc nhìn thấy trở lại. Nhưng không phải thấy như Chị thường thấy.
Nếu biết tập nhìn bằng con tim, cuộc đời của Chị sẽ phong phú hơn."
Chúng ta có đôi tai rất
thính, đôi mắt rất sáng, miệng rất đẹp. Vấn đề ở đây là chúng ta không nhìn
bằng cặp mắt bình thường, nghe và nói bình thường. Nhưng phải nói và nghe bằng
con tim.
Chúng ta câm điếc khi
chúng ta không nghe được những nỗi niềm ray rứt của người khác. Câm điếc khi
chúng ta dửng dưng trước những đau khổ của những người bệnh hoạn, tật nguyền,
trẻ thơ bơ vơ.
Chúng ta câm điếc khi
chúng ta không nghe Chúa Giêsu nói lời sự thật, nói lời yêu thương, nói lời hoà
giải. Có khi trong một ngày chúng ta nói biết bao là lời hằn học, hận thù, độc
ác, gây đau khổ, gây oán thù, gây chia rẽ. Muốn tránh đựơc những câm điếc này
chúng ta phải cầu nguyện : "Lạy Chúa xin cho con được nói, xin cho con
được nghe. Xin Chúa hãy phán một lời hãy mở ra ".
Không phải chúng ta chỉ
nghe nói một mình. Chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ và bước xa hơn nữa. Chúa
Giêsu đã chữa lành cho người câm điếc và Ngài mời gọi chúng ta thi hành tác vụ
chữa lành cho những người câm điếc. Chúng ta không thể chữa được như Chúa.
Nhưng chúng ta có thể trở nên đôi tai cho người điếc, trở nên cái miệng cho người
câm.
Ở bên Mỹ, muốn đoạt được
giải thưởng nổi tiếng thì tác phẩm của mình phải làm tác động đến trái tim
người đọc và có thể vượt qua mọi biên giới của các quốc gia. Có một nhà văn
cũng là một nhà báo mơ ước như vậy. Nhưng một ngày kia, tình cờ ông ta đến một
nhà dưỡng lão, gặp một cụ già ngồi ghế đá. Ông cụ kể về gia đình, con cái của
cụ. Ông có nhiều con nhưng chúng đi xa hết, đứa con gái út ở tận bên Ðức, ít
khi liên lạc được bằng điện thoại. Tay ông bị liệt nên không viết thư được cho
con, nghe vậy ông nhà báo liền lấy giấy viết ra viết dùm ông cụ một lá thư.
Viết xong anh cầm tay cho ông cụ ký tên. Và hai hàng nước mắt của cụ lăn trên
má. Ông cụ cảm thấy hạnh phúc vô cùng, anh nhà báo trở về nhà và hai hàng nứơc
mắt cũng tuôn chảy. Anh cảm thấy ngày hôm ấy anh đã đoạt được giải thưởng rồi.
Anh chỉ viết một lá thư thôi. Nhưng những dòng chữ ấy đã chạm đến trái tim con
người, anh đã cho cụ mượn đôi tay, mượn cái miệng để diễn tả nỗi lòng của ông
Cụ đối với đứa con gái thân yêu và xa cách nghìn trùng.
Trong cuộc sống hàng ngày
có biết bao nhiêu công việc, biết bao dịp để chúng ta có thể giúp đỡ người
khác. Chúng ta phải biết làm tác vụ chữa lành câm điếc của Chúa Giêsu, chúng ta
cho người không biết nói mượn miệng lưỡi của chúng ta, cho người khác nghe đựơc
lời sự thật, lời an ủi, lời khuyến khích.
Hôm nay tôi chỉ mời anh
chị em chiêm ngắm hình ảnh của người câm điếc để từ lòng chúng ta thốt lên một
lời tạ ơn về quà tặng và ân huệ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ðồng thời
chúng ta ý thức được chính mình cũng ở trong tình trạng câm điếc theo nghĩa
toàn diện để xin Chúa chữa lành. Xin Thiên Chúa đưa chúng ta vào trong tác vụ
chữa lành mà Chúa đã sống suốt cuộc đời của Ngài.
Tôi xin anh chị em hãy
nhớ lại một cử chỉ rất quen thuộc mà mỗi lần tham dự thánh lễ chúng ta đều thực
hiện. Ðây là lúc nghe đọc Tin Mừng chúng ta đọc : "Lạy Chúa Vinh danh
Chúa" và ta làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực. Ðấy chính là
dấu chỉ bề ngoài để nói lên ý nghĩa bên trong. Hãy mở ra: ý muốn nói : Lạy Chúa
xin hãy mở trí khôn con, xin mở miệng con, xin mở trái tim con, để con được
hiểu, để con cảm nhận, để con có thể nói lời của Chúa. Một cử chỉ rất quen
thuộc và vì quá quen nên chúng ta xem thường. Ước gì mỗi lần làm dấu thánh giá
chúng ta ý thức được: Phải mở trí, mở lòng, mở miệng ra để chúng ta thoát khỏi
cảnh câm điếc.
Lạy Chúa, xin hãy dùng
con theo ý Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho những ai
phải đui mù, làm lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lữơi cho những người
không nói được, làm tiếng kêu cho những người bị bất công. Lạy Chúa xin cứ gởi
con ra đồng lúa để đem cơm cho những người đói đang chờ, đem nước cho những
người bị khát, đem thuốc thang cho những người đau ốm, đem áo quần cho những
người trần trụi, đem mềm đắp cho người rét đang run. Lạy Chúa, xin cứ gửi con
ra đường thắp đèn soi cho ai bước trong đêm, đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh.
Truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi, nâng đỡ dậy cho những kẻ bị chà đạp, đem
tự do cho những kiếp đoạ đày .Amen
Gm. Nguyễn Khảm
20. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN
B
Mc 7, 31 - 37
Tình cờ tôi đọc được một
lời nguyện cho người câm điếc như sau: " Lạy Chúa, người ta thường có
thiện cảm với kẻ mù, người què, nhưng nổi xung, bực bội với kẻ điếc, nên người
điếc luôn phải ẩn tránh bạn hữu và ngày càng phải sống cô đơn...". Lời
kinh này phần nào cho chúng ta thấy được nỗi khổ tâm của những người câm điếc.
Bình thường, chúng ta vẫn nghĩ người mù khổ hơn người điếc, nên chúng ta dễ
thông cảm với họ hơn. Nhưng theo Helen Keller, một người vừa bị mù vừa bị điếc,
thì bà cho rằng điếc khổ hơn mù nhiều, vì các cánh cửa cuộc đời đều bị khoá
chặt lại đối với họ: mở radio vô ích, xem truyền hình chẳng thú vị gì, không
thể nói chuyện với ai, không thể diễn tả tâm tư tình cảm của mình... và cảm
thấy cô đơn chán nản (Minh hoạ lời Chúa, tập 3, trang 70-71). Hay nói một cách
khác, những người bị khuyết tật nói chung và câm điếc nói riêng, thường bị mọi
người coi thường, khinh rẻ. Họ hầu như bị tách ra khỏi đời sống của cộng đoàn.
Do đó, khi đọc lại câu chuyện
Đức Giêsu chữa lành người câm điếc trong bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội, một
lần nữa, cho chúng ta thấy Đức Giêsu đích thực là Đấng đến để đem lại tự do cho
chúng ta, giúp chúng ta hội nhập với cộng đoàn. Hay nói như những người Do
thái: " Người làm mọi sự thật tốt đẹp".
1. Nỗi bất hạnh của người
câm điếc:
Để có thể thấy rõ hơn tâm
tình của Đức Giêsu khi Ngài chữa lành cho một người câm điếc trong bài Tin Mừng
hôm nay, có lẽ chúng ta cần nhìn lại hoàn cảnh của anh ta. Trong tình trạng bị
câm điếc, anh ta thật bất hạnh vì tai anh không hề một lần được nghe lời ru
ngọt ngào của mẹ, và miệng anh cũng không thể thốt ra lời yêu thương với những
người mà anh yêu thương nhất. Lòng anh có tâm sự gì cho dù là vui hay buồn,
chuyện lớn hay chuyện nhỏ cũng không thể chia sẻ thành lời với bất cứ ai. Anh
cũng không thể lắng nghe để làm vợi đi nỗi buồn của những người thân yêu. Hơn
nữa theo quan niệm của nhiều người, thì những tật bệnh chính là hậu quả của tội
lỗi. Nhất là hiện nay, anh đang sống ở miền Thập Tỉnh, nghĩa là vùng đất của
dân ngoại, một dân tội lỗi và ô uế theo cách nhìn của người Do thái.
Do đó, một cách nào đó,
anh còn bị coi là những kẻ tội lỗi. Mọi người đều coi thường và không muốn tiếp
xúc với anh. Anh quả thật là người bất hạnh trong những người bất hạnh. Cuộc
đời của anh tưởng chừng như đi vào con đường cùng. Anh đã được sinh ra trong
câm lặng, và có thể sẽ chết đi trong cay đắng âm thầm. Suy nghĩ một chút như
thế, chúng ta mới có thể phần nào nhận ra được lòng khao khát được "
nói", được "nghe", nghĩa là được hội nhập vào cộng đoàn của anh.
Do đó, lời Chúa nói qua
miệng ngôn sứ Isaia: " Các ngươi hãy nói với những tâm hồn xao xuyến: Can
đảm lên, đừng sợ!... Chính Người sẽ đến cứu thoát các ngươi. Bấy giờ mắt người
mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như
nai, và người câm sẽ nói được" đích thực là một niềm vui và đem lại cho
từng người chúng ta một niềm hy vọng tuyệt vời. Đây là lời của niềm vui, và hy
vọng vì nó được loan báo ngay lúc dân đang bị lưu đày. Chính trong bối cảnh đau
thương đó, vị ngôn sứ đã báo trước cho dân một cảnh thanh bình vào thời của
Đấng Thiên Sai: "Bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, và tai người điếc sẽ mở
ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, và người câm sẽ nói được, vì nước
sẽ chảy lên nơi hoang địa, và suối nước sẽ chảy nơi đồng vắng. Đất khô cạn sẽ
trở thành ao hồ, và hoang địa sẽ trở nên suối nước".
Tất cả những lời này giờ
đây đã thực sự được thực hiện nơi Đức Giêsu. Ngài chính là Đấng đến để đem lại
sự giải thoát, phục hồi sự tự do, xoá đi mọi hận thù, chia rẽ và giúp con người
hiệp thông với nhau như lời tác giả Thánh vịnh: " Thiên Chúa giải thoát
những kẻ bị khòm lưng khuất phục,... Thiên Chúa che chở khách kiều cư".
2. Đức Giêsu, Đấng đem
lại tự do cho con người:
Đọc tiếp Tin mừng, chúng
ta thấy ngay khi thấy người ta dẫn đến cho Chúa người bị câm điếc, Đức Giêsu
lập tức thấy được nỗi cô đơn của anh. Ngài đã không bỏ mặc anh, hay chờ anh năn
nỉ, cầu xin. Trái lại, Ngài đã nắm lấy tay và dắt anh ra khỏi đám đông, Ngài
còn động chạm đến con người của anh khi đặt ngón tay Ngài vào tai anh, và bôi
nước miếng vào lưỡi anh. Và quả thực như nhận xét của những người Do thái lúc
đó: " Người làm mọi sự thật tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe đựơc và
người câm nói được". Ngài đã cho anh một cơ hội để anh hội nhập với cộng
đoàn, để anh có cơ hội sống như một con người bình thường.
Đức Giêsu đã đến và phục
hồi lại phẩm giá của từng người chúng ta bằng cuộc Vượt Qua của Ngài. Trước mặt
Thiên Chúa, mỗi người cho dù là nam hay nữ, giàu sang hay nghèo hèn, người trí
thức hay thất học ..., tất cả đều có một giá trị tuyệt đối vô song, một giá trị
mà cả thế giới cũng không đổi được (x. Mt 16, 26). Do đó thánh Giacôbê trong
bài đọc hai nhắn bảo chúng ta: " Anh em là những người tin vào Đức Giêsu
Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị". Chúng ta không được
thiên vị, đánh giá người khác qua vẻ bên ngoài theo cách của những người không
tin mà thánh Giacôbê đề cập đến: "Giả sử trong lúc anh em hội họp, có
người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người
nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn, nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ
mà nói: "xin mời ông ngồi chỗ danh dự nầy". Còn với người anh em
nghèo khó thì anh em lại nói rằng: "Còn anh đứng đó", hoặc: "Anh
hãy ngồi dưới bệ chân tôi". Và thánh nhân kết luận: "Đó không phải là
anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em sao?".
Qua một vài chia sẻ trên,
chúng ta phần nào thấy được tình trạng khốn khổ của những người câm điếc. Họ
không thể nói cũng không thể nghe. Hoàn cảnh của họ thật đáng thương. Tuy nhiên
" Nhìn người lại nghĩ đến ta", mỗi người chúng ta đây, có thể không
ai bị câm điếc về thể xác, nhưng chúng ta có thể đang bị câm điếc về tâm linh,
khi không thể nói lời chân thật, không thể nói lời yêu thương, và cũng không
thể lắng nghe lời Chúa và sự chỉ dạy của người khác.
Chúng ta cũng có thể trở
thành câm điếc, khi sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình mà quên mất việc chia sẻ,
lắng nghe những thao thức của tha nhân. Chúng ta sẽ trở nên câm điếc khi tự
mình tách ra khỏi cộng đoàn bởi những tự ái cá nhân vô lối của chúng ta. Để
khỏi rơi vào tình trạng câm điếc tâm linh như thế, giờ đây với cả tấm lòng
thành, chúng ta cùng hiệp ý với trẻ Samuel và tông đồ Phêrô để thưa với Chúa:
" Lạy Chúa xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban
sự sống đời đời".
Đức Giêsu đã tỏ rõ lòng
nhân hậu của Ngài khi chữa lành cho người bị câm điếc để anh được hội nhập với
cộng đoàn. Giờ đây, mỗi người chúng ta cũng hãy thành tâm, mở rộng tâm hồn, sẵn
sàng đón Chúa vào lòng nhờ việc hiệp lễ, để Ngài chữa lành bệnh câm điếc thiêng
liêng trong tâm hồn chúng ta. Nhờ đó, chúng ta sẽ trở nên những con người mạnh
khoẻ trong tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
Câu chuyện minh hoạ
Tạo cơ hội để mọi người
được nói, được chia sẻ: bổn phận sửa dạy con cái: câu chuyện một thiếu niên 14
tuổi giết mẹ và tự tử ở Trung Quốc (bồi dưỡng tinh thần 5).
- Đồng hành với mọi người
- Cho mọi người một cơ
hội để nói
- Sẵn sàng lắng nghe
chúng ta: Giakêu, người mù Bartimê trên đường đi Giêrikhô
- Giúp cho chúng ta được
"nói rõ ràng"
- Giúp chúng ta nghe Lời
Chúa
- "Người làm mọi sự
tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
Đức Giêsu chữa lành người
câm và điếc để đưa anh trở lại hội nhập với cộng đoàn.
- Chúng ta cần biết
"lắng nghe": Lời Chúa;Tha nhân: chồng, vợ, cha mẹ, con cái, những
người đang sống quanh ta. Nghe để hiểu và thông cảm.
- Cộng đoàn hiệp thông,
mỗi người hiểu rõ nhau hơn.
- Một lối sống ích kỷ chỉ
nghĩ đến mình.
- Đánh giá người khác qua
vẻ bên ngoài
- Một số người không có
tiếng nói và không được lắng nghe trong cộng đoàn.
- Không dám lên tiếng
bênh vực sự thật và loan báo Tin mừng
- Sự bất an trong tâm hồn
Người câm là người không
nói được, hoặc là chỉ phát ra những âm thanh vô nghĩa. Như vậy, nếu những khi
cần nói, chúng ta không nói, hoặc nói không đúng, lúc đó, chúng ta cũng là
những người câm.
Người điếc là người không
nghe được. Do đó, bất cứ ai không có khả năng lắng nghe, thì cho dù âm thanh có
lọt vào tai cũng coi như bị điếc.
Không thể nói, không thể
nghe là người không thể hiệp thông với cộng đoàn, tự tách mình ra khỏi cộng
đoàn. Vậy, nếu ai chỉ nghĩ đến mình, không biết chia sẻ với anh chị em mình
cũng là những người câm và điếc.
Chúng ta những người bình
thường, có bao giờ chúng ta cảm thấy hạnh phúc vì chúng ta thấy được, nghe
được, nói được không? Hay là chúng ta cứ mãi loanh quanh với biết bao những lo
toan về tiền tài, danh vọng, cùng với những đam mê bất chính để rồi cứ mãi
" than trời trách đất".
Tự do là điều quý nhất
của con người. Tự do cho thấy con người có giá trị và nhân phẩm. Tự do đòi
trách nhiệm.
Sau khi nguyên tổ phạm
tội, con người trở nên nô lệ của tội lỗi, mất tự do.
Chúa Giêsu đến phục hồi
tự do cho con người khi Ngài cho con người có quyền nói và nghe được. Mỗi người
đều có giá trị như nhau trước mặt Thiên Chúa (bđ2)
Ngài thực hiện điều này
nhờ việc Nhập Thể của Ngài. Ngài dùng chính thân xác của Ngài để đem lại ơn cứu
độ: đặt ngón tay vào tai, nhổ nước miếng vào lưỡi, thân xác chịu đóng đinh ...
Đức Kitô đã dùng những phương tiện hữu hình để thông ban ơn thánh. Đây là điều
mà các bí tích thực hiện. Thông qua những dấu hữu hình: nước, dầu, bánh,
rượu... bí tích đem lại cho ta chính ân sủng của Đức Kitô Phục Sinh. Đồng thời,
điều này cho thấy ơn cứu độ mà Đức Kitô đem đến rất gần chúng ta. Đức Giêsu
đang đồng hành với ta (Dt 4, 15).
Như thế, với Đức Giêsu,
triều đại của Đấng Thiên Sai mà ngôn sứ Isaia loan báo đã trở thành hiện thực
" Mọi sự, Người đã làm cách hoàn hảo". Điều này gợi nhớ lại trình
thuật Sáng tạo. Sau khi tạo dựng, Thiên Chúa thấy "mọi sự đều tốt
đẹp". Đức Giêsu là Đấng tái tạo.
Với Đức Giêsu, ơn cứu độ
không còn giới hạn ở dân Do thái, mà mở rộng ra cho hết mọi người. Điều này
được thánh Maccô chứng minh qua phép lạ được thực hiện ở vùng Thập tỉnh, bên
Đông sông Giocđan, miền đất dân ngoại.
Theo dõi tin tức qua báo
chí, và các phương tiện truyền thanh, truyền hình chúng ta thấy hình như thế
giới không có lấy một ngày yên ổn. Đặc biệt là cuộc xung đột giữa Israel và
Palestin và gần đây là cuộc nội chiến tại Libêria. Biết bao cuộc hội nghị, đàm
phán đã diễn ra. Thế nhưng, tiếng súng, tiếng bom đạn vẫn tiếp tục nổ lúc chổ
này, lúc chổ khác, khiến cho không biết bao nhiêu gia đình phải ly tán, vợ mất
chồng, con mất cha, cha mẹ mất con cái.
Nhìn lại cuộc chiến giữa
Israel và Palestin, chúng ta thấy đã có nhiều cuộc trao đổi, hoà giải để mong
lập lại hoà bình ở vùng này, nhưng cho đến nay, kết quả cũng chưa có gì khả
quan. Điều đó, cho thấy, tuy ngồi chung một bàn đàm phán, nhưng cả hai bên đều
không thể nghe nhau nói, và cũng không thể hiểu nhau. Họ giống như hai người
câm điếc nói với nhau.
Do đó, họ đã không thể
tìm ra một giải pháp hoà bình cho cả hai bên. Không thể nghe và không thể nói
đúng, như thế phải chăng những người này, một cách nào đó, cũng đang ở trong
tình trạng câm và điếc? Chính vì con người đang trở nên câm và điếc đối với
nhau, nên vẫn còn đó những xung đột, bất hoà.
Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
21. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN
B
Mc 7, 31 - 37
1. Các thứ bệnh điếc và
ngọng: thể chất, tinh thần, tâm linh, nơi cá nhân, xã hội và giáo hội
Trong xã hội con người,
có rất nhiều người bị bệnh: bệnh thể chất, bệnh tinh thần, và bệnh tâm linh. Đó
là nói về bệnh cá nhân. Ngoài ra, một xã hội cũng có thể có nhiều chứng bệnh:
bệnh thể lý như dịch tễ, bệnh tinh thần như sự bất công, áp bức, các tệ nạn xã
hội (đĩ điếm, ma túy), bệnh tâm linh như vô tín, đạo đức xuống dốc, tình trạng
tội lỗi... Một cộng đoàn tôn giáo có thể bị những bệnh như: cơ cấu làm tê liệt
thần khí, hình thức bên ngoài làm mất đi tinh thần bên trong, quyền bính bị lạm
dụng, chia rẽ không hiệp nhất, trên dưới không nghe nhau, khô khan nguội lạnh,
thỏa hiệp với kẻ ác...
Đức Giêsu đến trần gian
để chữa chủ yếu những bệnh tinh thần và tâm linh của con người, của xã hội và
giáo hội, nhưng Ngài cũng chữa cả những bệnh thể lý như dấu chỉ khả năng chữa
lành tinh thần và tâm linh. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Ngài chữa lành
« một người vừa điếc vừa ngọng» thể lý, là dấu chỉ của loại bệnh «vừa điếc vừa
ngọng» tinh thần hay tâm linh. Điếc là không nghe được, hoặc không nghe rõ.
Ngọng là không nói được, hoặc nói không rõ, khó nghe. Số người điếc, ngọng, câm
thể lý chiếm một tỉ lệ tương đối nhỏ trong xã hội. Nhưng số người điếc, ngọng,
câm về tinh thần và tâm linh chiếm một tỉ lệ rất cao. Thậm chí có cả bệnh «câm
điếc xã hội», nghĩa là có những xã hội bị điếc, ngọng và câm nữa. Nếu Đức Giêsu
trong bài Tin Mừng hôm nay có thể chữa lành bệnh điếc và ngọng thể lý, thì Ngài
còn có thể chữa lành một cách hữu hiệu hơn nữa bệnh điếc và ngọng về tinh thần,
tâm linh, nơi cá nhân cũng như trong xã hội và giáo hội.
2. Điếc, ngọng về tinh
thần và tâm linh
Điếc và ngọng về thể chất
thì ai cũng biết, thiết tưởng chúng ta không cần đề cập tới trong khuôn khổ nhỏ
hẹp của bài chia sẻ Tin Mừng này. Chúng ta cần bàn tới bệnh điếc và ngọng về
tinh thần và tâm linh, mà ai trong chúng ta cũng bị không nhiều thì ít.
Nhiều người thính và tinh
tai thể chất, nhưng lại điếc về tinh thần và tâm linh. Họ rất thính tai khi
nghe những gì liên quan đến tiền tài, của cải, lạc thú, danh vọng, quyền lực,
địa vị, nhưng lại trở nên giống như điếc khi nghe những điều hay lẽ phải, những
chân lý đem lại sức mạnh tinh thần hay tâm linh, giúp họ sống yêu thương nhiều
hơn. Nhiều người nói năng rất hùng biện về kiến thức, triết lý, khoa học, về đủ
mọi đề tài... nhưng lại hành xử như người câm, hoặc cảm thấy rất ngượng nghịu,
mắc cỡ khi phải nói lên điều hay lẽ thật, những lời chân thành yêu thương,
những lời làm mát lòng người khác, những lời đem lại bình an, hòa thuận, những
lời giúp mọi người hiểu ra đường ngay lẽ thật.
3. Điếc và ngọng trước
chân lý
Nhiều người đã trở thành
điếc trước những quan niệm mới, những cách nhìn mới hay những cách diễn tả mới
về chân lý. Vì họ luôn luôn cho rằng những quan niệm, cách nhìn hay cách diễn
tả chân lý mà họ lãnh hội được trước đây chính là chân lý. Mà đã là chân lý thì
không bao giờ thay đổi. Thực ra, chân lý thì bất biến, muôn đời không thay đổi,
nhưng cách hiểu, sự lãnh hội và cách diễn tả chân lý của con người thì luôn
luôn thay đổi tùy theo khả năng nhận thức của họ. Cũng như cơ cấu của vật chất,
từ ngàn xưa đến nay không hề thay đổi, nhưng quan niệm, cách nhìn, cách mô tả
của con người về cơ cấu vật chất luôn luôn thay đổi: càng về sau, con người
càng quan niệm và diễn tả đúng hơn.
Một khi đã coi một quan
niệm, cách nhìn hay cách diễn tả nào đó là chân lý bất biến, con người sẽ không
còn khả năng chấp nhận những cách diễn tả khác phù hợp với thời đại mới, với
nhận thức mới của con người thời đại. Ta đã thấy gương về sự cố chấp này trong
Kinh Thánh: Thiên Chúa thì bất biến, nhưng cách diễn tả Thiên Chúa trong Cựu
Ước và Tân Ước rất khác nhau. Các kinh sư Do-thái chính vì cố chấp vào cách
diễn tả cũ nên họ đã không chấp nhận được Đức Giêsu, với quan niệm mới, cách
nhìn mới, cách diễn tả mới mẻ về Thiên Chúa của Ngài. Vì thế, họ đã nhắm mắt
bịt tai trước lời của Ngài: lời Ngài có vẻ như không phù hợp với quan niệm rất
hạn hẹp của họ. Tâm trí họ giống như một tách trà đã đầy nước, không thể tiếp
nhận thêm một giọt nước nào nữa, nếu cứ rót vào, nước trà sẽ tràn ra ngoài.
Một khi đã điếc trước
cách diễn tả mới về chân lý, họ cũng trở thành câm hay ngọng đối với cách diễn
tả ấy.
4. Điếc và ngọng trong xã
hội và tôn giáo
Trong những xã hội hay
tôn giáo độc tài, chỉ có một bè đảng, một phe nhóm hay một giáo phái nào đó
được ưu đãi và toàn quyền hành động, thì người dân luôn luôn phải chịu cảnh bất
công áp bức. Lúc đó, người dân sẽ trở thành những kẻ điếc và ngọng. Điếc vì họ
bị bọn cầm quyền bưng bít không cho nghe những thông tin nào bất lợi cho chúng,
khiến cho người dân trở nên bức xúc và đấu tranh. Ngọng hay câm vì họ không thể
nói lên được những uất ức, những bực bội, những tư tưởng, những ước muốn của
họ. Đương nhiên bị điếc và ngọng thì hết sức bực bội, khổ não, và không hạnh
phúc.
Trong những xã hội hay
tôn giáo ấy, còn một loại điếc và ngọng khác, đó là bệnh điếc và ngọng của
những người theo lý tưởng ngôn sứ. Đó là một lý tưởng cao đẹp tuyệt vời! Lý
tưởng này rất cần thiết, đặc biệt trong những xã hội hay tôn giáo đang chịu đầy
dẫy bất công áp bức. Lý tưởng đó là « loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, giải
phóng những kẻ bị giam cầm, cho người mù được sáng mắt, trả lại công lý cho
người bị áp bức» (Lc 4,18). Sách Châm ngôn diễn tả một công việc quan trọng của
những người mang lý tưởng đó: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện
hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng phán xử thật công minh, biện hộ cho
những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9). Nhưng có rất nhiều người mang danh
theo lý tưởng ngôn sứ này, đáng lẽ họ phải nói thay cho người câm hay ngọng,
nhưng tiếc thay chính họ dường như cũng bị câm và ngọng luôn! Thay vì sáng mắt
thính tai để nghe và thấy tình cảnh khốn cùng của những người chung quanh mình
hầu lên tiếng thay cho họ, thì họ cố tình giả điếc làm ngơ, bưng tai bịt mắt để
khỏi thấy, hầu có thể câm miệng làm thinh cho yên thân, để «cố đấm ăn xôi» hay
«ngậm miệng ăn tiền»!
5. «Épphatha», hãy mở ra!
Tuy không điếc và ngọng
thể lý, nhưng rất có thể chúng ta đang bị điếc và ngọng về tinh thần hay tâm
linh. Điếc và ngọng thể lý thì không phải chịu trách nhiệm về căn bệnh. Nhưng
điếc hay ngọng về tinh thần hay tâm linh, thì chúng ta sẽ bị quy kết trách
nhiệm trước Thiên Chúa và lương tâm của mình. Vì thế, xét về mặt tâm linh, điếc
và ngọng tinh thần hay tâm linh nguy hiểm hơn nhiều. Bị căn bệnh tâm linh này,
chúng ta cần chữa cho khỏi. Dù là điếc, ngọng hay câm loại nào, Đức Giêsu cũng
có thể chữa lành được, miễn là chúng ta tin vào quyền năng của Ngài và quyết
tâm cộng tác với Ngài. Chỉ cần Ngài rờ vào cái tai tâm linh và cái miệng tâm
linh của ta và truyền cho chúng: « Épphatha, hãy mở ra!» là bệnh điếc, ngọng,
câm tâm linh của ta sẽ được chữa lành. Điều quan trọng là chúng ta phải xác
định được mình đang thật sự bị điếc và ngọng về tâm linh thì Ngài mới chữa lành
ta được! Nếu bị bệnh mà mình lại cứ nói mình chẳng bệnh gì cả, thì Chúa có
quyền năng đến đâu Ngài cũng đành bó tay. Hãy nghe Đức Giêsu nói với người
Pharisêu: «Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các
ông nói rằng: "Chúng tôi thấy", nên tội các ông vẫn còn!» (Ga 9,41).
Cầu nguyện
Lạy Cha, con cảm thấy con
đang bị điếc và câm - hay ít ra là đang giả điếc và giả câm - trước lời mời gọi
của Cha. Cha mời con mở to mắt ra để thấy những nỗi cùng khốn của những người
chung quanh con, banh lỗ tai ra để nghe những tiếng rên xiết đau thương của họ,
đồng thời mở miệng ra để an ủi họ, xoa dịu đau thương cho họ, và nhất là nói
dùm họ, tranh đấu cho họ... Nhưng con đang giả mù giả điếc để có thể câm
lặng... hầu được an thân, hầu khỏi bị mất mát những gì mà kẻ áp bức đang ban
cho con! Xin Cha hãy chữa lành bệnh ấy cho con!
John Nguyễn
22. CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN
B
Mc 7, 31 - 37
Thường người ta không
đánh giá được sự vật mà họ có cho tới khi người ta mất đi sự vật đó. Nếu ta đặt
mình vào địa vị người câm và điếc trong phúc âm hôm nay, ta mới đánh giá được
cơ quan tai và lưỡi. Mục đích của việc Thiên Chúa tạo dựng nên cái lưỡi và tai,
là để ta có thể thông đạt cho người khác, nghĩa là nói cho người khác nghe, và
nghe người khác nói. Người điếc trong Phúc âm hôm nay phải cảm thấy ước muốn
được chữa lành nên người ta mới xin Chúa chữa anh ta. Phúc âm ghi lại 'Chúa đặt
ngón tay vào lỗ tai anh ta và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn ngước mắt
lên trời, Người rên một tiếng và bảo: Ephrata, nghĩa là "hãy mở ra".
Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được dễ dàng (Mc
7: 33-34).
Có bao giờ ta cảm đội
Thiên Chúa đã ban cho ta cái lưỡi để nói và tai để nghe không? Một cách tốt
nhất để cảm đội ơn Chúa về hai cơ quan nói và nghe là biết dùng cho đúng mục
đích của Đấng Tạo dựng. Miệng lưỡi ta được dựng nên để thông đạt in tức, thông
đạt sự thật và sự thiện hảo. Tai ta phải được dùng một cách khôn ngoan chứ
không phải để khuyến khích người khác nói hành, nói xấu, bỏ vạ, cáo gian. Nghe
người khác nói hành, nói xấu, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống là lạm dụng mục đích
của Đấng tạo dựng đôi tai. Có bao giờ khi xưng tội, ta xưng tội đã nghe người
khác nói hành nói xấu, xuyên tạc, bịa đặt không?
Hơn nữa miệng lưỡi và lỗ
tai còn được tạo dựng với mục đích cao hơn nữa là để thông đạt lời Chúa. Khi
lãnh phép rửa tội, linh mục chạm vào tai ta, và đọc chính lời Chúa nói trong
Phúc âm hôm nay : Hãy mở ra. Đây có nghĩa là tai ta phải được mở ra đón nhận
lời Chúa, và lắng nghe lời Chúa bằng đức tin. Đức tin mở tai ta cách thiêng
liêng. Ta có thể nghe lời Chúa trong Phúc âm. Tuy nhiên nếu không có đức tin,
ta chỉ nghe như đọc chuyện thường, chứ không phải nghe lời Chúa. Lời Chúa phải
có sức tác động tâm hồn và thay đổi đời sống con người. Lời Chúa mạc khải trong
Thánh kinh là kho tàng chung của nhân loại, nhưng chỉ có những người mở rộng
tâm hồn, những người khiêm tốn, mới lãnh hội được lời Chúa. Ta biết lắng nghe
là một yếu tố quan trọng trong việc thông đạt hàng ngày. Người biết lắng nghe
là người không những chỉ nghe bằng tai, mà còn lắng nghe với cả tâm hồn. Tai ta
có thể nghe câu chuyện Thánh kinh, nhưng chỉ có tâm hồn mới có thể lắng nghe
tiếng Chúa.
Tóm lại mục đích của việc
tạo dựng giác quan là để dùng vào việc ca tụng và làm vinh danh Chúa. Chúa cho
ta cái tai nghe để nghe những lời ca tụng Người. Chúa cho ta miệng lưỡi để tung
hô ngợi khen Chúa. Đó chính là việc người câm điếc đã làm sau khi được Chúa
chữa khỏi : Ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được (Mc 7: 37).
Hôm nay ta hãy cầu xin
Chúa cho ta biết sống trong tâm tình biết ơn : biết ơn Chúa cho ta có thể nói
được với nhau và nói được với Chúa trong lời cầu nguyện và thờ phượng, biết ơn
Chúa vì ta có thể nghe được người khác, cũng như nghe được lời Chúa khi có
người tuyên xưng. Trong thánh lễ ta lắng nghe lời Chúa trong Thánh kinh, trong
bài giảng. Nghe lời Chúa rồi ta cần đáp trả bằng cách tuyên xưng lời Chúa, bằng
việc thờ phượng và cầu nguyện, bằng đời sống đạo hạnh. Lời Chúa không phải là
tiếng nói một chiều, nhưng bao hàm việc đáp trả. Trong một buổi học hỏi Thánh
kinh, ông cha hỏi :
* Sao Chúa nhật rồi bài
Phúc âm nói về gì vậy?
Mọi người thinh lặng:
người thì bóp trán, người thì gãi tai, người khác gãi đầu. Cuối cùng có một ông
giơ tay phát biểu.
- Dạ thưa cha con nhớ
rồi.
- Ông nhớ sao ?
- Dạ thưa cha, con nhớ
cha đọc : Đó là lời Chúa.
Lm Trần Bình Trọng, USA
23. HÃY MỞ RA
Mc 7, 31 - 37
Cách đây không lâu trên
đài truyền hình người ta có nói tới một khám phá mới để nuôi thơ nhi sinh ra
còn thiếu tháng bằng chính hơi ấm của người mẹ, bằng sự đụng chạm da thịt của
người mẹ với đứa con thay vì nuôi trong lồng kiếng với các dụng cụ khoa học như
từ trưóc tới nay. Sau thời gian thử nghiệm, phương pháp này đã mang lại những
hiệu quả tốt đẹp. Em bé đã phát triển bình thường.
Khoa học tiến bộ theo năm
tháng, nhưng qua bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Kitô đã dùng đường
lối này để chữa bệnh cho dân chúng từ ngàn xưa. Ngài đã lấy ngón tay đặt vào lỗ
tai anh và nhổ nước miếng của mình để bôi vào lưỡi anh. Hành động này nói lên
rằng: Ngài đã truyền sinh lực của Ngài cho anh để không những chỉ mở lưỡi và
tai nhưng còn mở tất cả con người anh đang bị trói buộc bởi thần dữ, nhờ đó anh
có thể nghe, đón nhận, hiểu biết và thực thi lời giáo huấn của Ngài.
Nhìn vào thời đại hiện
nay, chúng ta thấy biết bao người đang phải đương đầu với những cảnh sống cô
đơn. Tại sao thế! Tại vì họ muốn câm, muốn điếc đối với những người chung
quanh, hay có khi họ không muốn hiểu, không muốn liên đới tới thế giới bên
ngoài để rồi đóng kín mình trong vỏ ốc cứng của cá nhân và ích kỷ. Chính mình
đã làm cho mình trở nên câm điếc mà không hay. Con người chỉ có thể nghe rõ và
hiểu rõ, cũng như nói ra những điều hay, lời tốt, khi họ biết xử dụng các giác
quan của mình với một trái tim mở rộng và chân thành.
Một bà mẹ nói với con:
„Sao hôm nay con bị nặng tai à!- Con đã không hiểu mẹ vì con đã không biết lắng
nghe mẹ bằng cả con tim của con."
Tất cả chúng ta sẽ trở
thành những người câm điếc nếu chúng ta không biết thành tâm đón nhận Tin Mừng
để đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày. Chính vì thế mỗi người chúng ta
cũng luôn cần được sự đụng chạm của Chúa và lời tháo gỡ thần lực của Ngài: „Hãy
mở ra", để chúng ta không còn bị ràng buộc bởi những sự sợ hãi, những điều
xấu lôi kéo. Nhờ sức mạnh mới chúng ta có thể nghe, hiểu được và hăng say rao
truyền chân lý của Tin Mừng, không còn phải sống trong tình trạng câm điếc nữa.
Lạy Chúa xin mở miệng
lưỡi, mở trái tim con cho con biết ca khen tình thương của Chúa và con hiểu và
cảm thông với tha nhân. Xin Chúa hãy cho con luôn cảm nhận được ý nghĩa sâu xa
của lời: "Hãy mở ra".
Sr. Margareta Maria Hiền
vietcatholic.org