Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN - B
CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN - B
MỤC LỤC
27. Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
28. Quyết đi
theo Chúa Vietcatholic
org.tw
29. Quyết bước
theo Chúa Lm
Giuse Đinh lập Liễm
30. Chọn lựa đi
theo Chúa Lm
Carolô Hồ Bạc Xái
31. Thầy có lời
ban sự sống Lm.
Phêrô Lê văn Chính
32. Sống là chọn
lựa Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
36. Não trạng
của chúng ta thế nào? Achille Degeest
37. Một quyết
định quan trọng... Charles E. Miller
1. Thử thách
Một chiếc tàu đánh cá Xô Viết được đưa vào sửa chữa bên cạnh tàu
tuần dương hạm của Hoa Kỳ tại bờ biển New England. Các quan chức Mỹ-Xô cùng
ngồi trên chiếc tàu Nga bàn luận sôi nổi về kỹ thuật đánh cá. Câu chuyện và mối
liên hệ của họ thật tốt đẹp cho đến một đêm nọ một thuỷ thủ người Nga tên là
Kudirka lẻn ra khỏi tàu Xô Viết, nhảy xuống biển và bơi qua tàu Mỹ, năn nỉ xin
được tị nạn chính trị. Thế nhưng, vị chỉ huy tàu Mỹ đã từ chối. Quyết định này
về sau đã bị các thượng cấp quở trách. Chàng thuỷ thủ bị trao lại cho nhà cầm
quyền Xô Viết, và bị giam vào ngục. Thời gian ở tù chàng đã nhiều lần tuyệt
vọng, nhưng nhờ người bạn đã dạy cho chàng một bài thơ, chính những vần thơ này
đã giúp chàng đương đầu với hiện tại và hy vọng tiến đến tương lai. Bài thơ ấy
như thế này: Nếu giành được chiến thắng hay gặp phải thất bại mà con vẫn xử sự
như nhau. Nếu sự thật con nói ra bị vu khống là gian dối mà con vẫn tỏ ra bình
thản. Nếu toàn bộ sự nghiệp đời con tan vỡ, mà con vẫn kiên trì xây dựng lại.
Phải, nếu con làm được như thế, thì trái đất và mọi sự trên đó sẽ thuộc về con.
Và hơn thế nữa, hỡi con, con sẽ là một con người đích thực.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay.
Trong cuộc đời, có những lúc chúng ta dường như sắp sửa mất tất cả, thì điều
quan trọng đó là chúng ta cần phải được giúp đỡ để không thất vọng và nản chí.
Các môn đệ cũng vậy, niềm tin của các ông đang bị thử thách. Trước lời xác
quyết của Chúa: Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, thì một số
môn đệ đã bỏ Chúa mà đi, vì không thể nào chấp nhận được lời giảng dạy ấy. Số
còn lại thì vẫn trung thành với Chúa và Phêrô đã thay mặt cho nhóm còn lại ấy
tuyên xưng: Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì chỉ mình Thầy mới có những lời
ban sự sống đời đời.
Bị dồn vào chân tường, nhóm còn lại vẫn tin tưởng vào Chúa,
trong khi đó, nhóm thứ nhất thì chỉ biết chú tâm vào vấn đề của họ mà thôi: Tại
sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn? Như thế, một đàng biết
chú tâm vào Chúa, còn một đàng chỉ biết chú tâm vào mình. Hai hình ảnh này một
lần nữa được diễn tả qua đoạn Tin Mừng kể lại: Đêm khuya, sóng biển nổi lên
Chúa Giêsu đi trên mặt nước tiến lại thuyền các môn đệ khiến họ hoảng sợ vì
tưởng là ma. Thấy vậy Chúa Giêsu lên tiếng trấn an: Thầy đây, đừng sợ. Phêrô
xin Chúa cho mình cũng được đi trên mặt nước tiến đến với Ngài. Thế nhưng khi
ông bắt đầu nghi ngờ, thì lập tức ông bị chìm xuống. Lập tức Chúa Giêsu nắm lấy
ông vào nói: Sao đức tin của con kém thế. Tại sao con lại hồ nghi? Như thế bao
lâu Phêrô biết vững tâm nhìn vào Chúa Giêsu, thì ông được an lành. Nhưng khi
ông rời khỏi Người và bắt đầu chú tâm lo vấn đề của riêng mình, thì lập tức ông
lâm vào tình trạng nguy hiểm.
Giữa những cơn gian nguy thử thách, giữa những lúc khổ đau cay
đắng, hãy tin tưởng vào Chúa để cuộc đời chúng ta tìm thấy được sự bình an và
hạnh phúc.
2. Theo ai?
Cứ nhìn vào các nhà thờ đông nghẹt người xem lễ, thì ai cũng nói
lòng đạo đức của người tín hữu hôm nay thật là lớn. Tuy nhiên, cuộc sống của họ
có đúng là đạo đức hay không? Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay sẽ giúp chúng ta xác
định xem mình đang theo Chúa hay là đã xa lìa Ngài?
Thực vậy, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở bí tích Thánh Thể mà thôi
thì chưa đủ theo đòi hỏi của Tin Mừng. Bởi vì Lời Chúa phải được đem ra thực
hiện thì mới trở thành bánh trường sinh được và mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa
càng sâu sắc hơn nếu mỗi người biết chia sẻ cho nhau không những của cải vật
chất mà còn cả tình thương trong cuộc sống.
Vẫn còn có nhiều người quan niệm đi lễ, giữ chay, đọc kinh, giữ
luật đạo, lâu lâu bố thí cho kẻ nghèo hay dâng cúng cho nhà thờ, thì đã thể
hiện được lòng đạo đức của mình. Còn ngay trong cuộc sống hằng ngày, họ không
cần biết đến người láng giềng đang sống như thế nào? Không cần biết đến xóm
làng đang có những vấn đề gì? Họ không cần để ý đến tình người ngay trong mối
quan hệ bình thường với kẻ khác. Và như thế vô tình họ đã khoanh vùng hoạt động
cho Chúa ở trong nhà thờ mà thôi, họ chưa đưa Chúa vào trong cuộc đời, đang lúc
Chúa Giêsu lại sinh hoạt ngay giữa lòng xã hội loài người. Nếu sống đạo như
thế, thì làm sao lời Chúa trở thành bán ban sự sống cho được?
Không ít người đã theo Chúa Giêsu chỉ vì phép lạ bánh hoá nhiều,
nhưng rồi họ lại vội vã bỏ Chúa mà đi vì lời Ngài thật chướng tai, không thể
chấp nhận được. Chỉ riêng nhóm 12 là đã xác tín rằng: Chỉ mình Chúa mới có Lời
ban sự sống. Điều xác tín này đã rõ nét trong khi xây dựng cộng đoàn tiên khởi:
mọi người bỏ của chung, chăm lo cho nhau và ai cũng no đủ, hạnh phúc.
Giáo Hội kết hợp với Đức Kitô, không chỉ trong các nghi lễ phụng
tự mà mỗi người trong Giáo Hội phải sống với tinh thần của Ngài ngay trong cuộc
sống hằng ngày. Xã hội vẫn còn những kẻ thiếu ăn, vẫn còn những bất công và áp
bức, thì Giáo Hội vẫn còn có những vấn đề được đặt ra cho mình. Làm thế nào để
ngày càng đẩy lùi những bất công, đói khổ và lạc hậu. Điều đó đồng nghĩa với
làm thế nào để tỏ lộ khuôn mặt Đức Kitô một cách rõ nét nhất trong cuộc sống
hiện tại.
Thiên Chúa không thích những của lễ, nhưng Ngài cần lòng nhân
ái. Lễ vật nào có ích gì khi sự thù hận đố kỵ vẫn còn trong người tín hữu hay
vẫn còn những kẻ đói khổ đau đớn bên cạnh mình. Xác tín đi theo Chúa trên con
đường cứu độ là phải mang lấy nỗi ưu tư, ray rứt về một xã hội chưa được an vui
hạnh phúc.
Vậy thì chúng ta đã theo Chúa như thế nào và đã thực hiện lời
Chúa ra làm sao để lời Chúa thực sự đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu?
3. Lời ban sự sống – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Bảo rằng lương thực hằng ngày như cơm, như bánh có thể mang lại
cho con người sự sống tạm bợ đời nầy là điều dễ chấp nhận, vì rõ ràng nhờ cơm
bánh mà chúng ta có thêm sức mạnh để lao động hằng ngày.
Bảo rằng thuốc men và các chất bổ dưỡng làm gia tăng sinh lực
cho con người thì cũng dễ hiểu thôi, vì chúng ta có thể cảm nhận hiệu quả ấy
trước mắt.
Thế nhưng Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô trong Tin Mừng hôm
nay: "Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời" là những lời khó
thuyết phục, vì lời nói thoảng bay trong gió, chứ có phải là lương thực, là
thuốc men đâu mà có sức kéo dài tuổi thọ của con người.
Thiên Chúa dùng Lời để tác tạo vũ trụ và thông ban sự sống.
Từ nguyên thuỷ, khi tất cả còn hư vô trống rỗng, Thiên Chúa đã
dùng Lời mà tác thành vũ trụ và sáng tạo muôn loài. Mọi sự sống trong hoàn vũ,
từ sự sống của các loài sinh vật đơn giản cho đến sự sống của loài người đều do
Lời Chúa phán mà ra.
Sáng thế ký chương I viết: “Thiên Chúa phán: "Nước phải
sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc,... liền có như vậy."
Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo
loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy.
Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình
ảnh chúng ta, giống như chúng ta..." Và từ Lời thần thiêng đó, con người
đã được tạo thành và được thông ban sự sống. (Stk 1, 20.24.26)
Lời Chúa hồi sinh kẻ chết
Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng dùng Lời thần thiêng
của mình để phục hồi sự sống cho những kẻ chết.
Hôm ấy, khi Chúa Giêsu thấy người ta khiêng cậu con trai duy
nhất của một bà goá ở thành Na-im đi chôn, người mẹ theo sau xác con gào khóc
thảm thiết. Động lòng thương, Chúa truyền cho người khiêng đứng lại và Người
dùng Lời của mình ban lại sự sống cho người thanh niên: "Hỡi thanh niên,
Ta truyền cho anh hãy chổi dậy" (Lc 7,14), lập tức người chết được hồi
sinh.
Rồi đến lượt La-da-rô đã chết đến bốn ngày, xác đã nặng mùi, thế
mà Chúa Giêsu cũng chỉ dùng Lời của mình ban lại sự sống cho anh.
"La-da-rô, hãy ra ngoài!". Vừa nghe lời quyền năng đó, người chết đội
mồ sống lại. (Gioan 11, 43)
Thế thì rõ ràng là Chúa Giêsu có những Lời truyền ban sự sống, nhưng
không chỉ thông ban sự sống sinh vật tạm thời mà còn đem lại sự sống vĩnh cửu
trên thiên quốc.
Khi giảng tại Hội Đường Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu khẳng định
Người chính là Bánh hằng sống, ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sống đời
đời. Lời đó khiến dân chúng và các môn đệ bị sốc, không chấp nhận và tuần tự bỏ
đi. Dầu vậy, thánh Phê-rô vẫn kiên vững tuyên xưng: "Thưa Thầy, bỏ Thầy
thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời
đời." (Ga 6, 68)
Chúa Giêsu được mệnh danh là Ngôi Lời, đã hiện hữu từ trước muôn
đời, "nhờ Người vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì
được tạo thành" (Gioan 1, 1-3) thì chắc chắn Người có đủ quyền năng ban sự
sống đời đời cho những ai tin nhận Người.
Nếu hôm nay trên thị trường có thuốc trường sinh, chắc chắn sẽ
có nhiều người xô đẩy nhau quyết tìm mua bằng mọi giá. Thế mà nay Chúa Giêsu
tặng ban miễn phí những Lời đem lại sự sống đời đời cho nhận loại, lẽ nào chúng
ta lại thờ ơ.
Vậy thì cùng với thánh Phê-rô, chúng ta hãy tuyên xưng với tất
cả lòng tin: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới
có những lời đem lại sự sống đời đời".
Cùng với Mẹ Maria là Đấng hằng ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa
trong lòng, chúng ta hãy hấp thụ Lời Chúa vào tâm hồn, để Lời Chúa sinh hoa kết
quả trong cuộc sống hằng ngày, nhờ đó mỗi người chúng ta được hưởng sự sống
hoan lạc đời nầy và sự sống vĩnh cửu mai sau.
4. Chọn lựa.
Cả chúng con nữa, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
Câu hỏi Chúa Giêsu đưa ra đòi buộc các môn đệ phải chọn lựa,
phải dứt khoát lập trường. Đây không phải là một việc dễ dàng, vì ngay trước đó
đã có nhiều môn đệ rút lui, bởi điều Ngài xác quyết một cách mạnh mẽ về thứ
lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn, thật là chói tai không thể nào chấp
nhận được theo lẽ tự nhiên: Thịt Ngài là của ăn và Máu Ngài là của uống mang
lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Với lời tuyên bố ấy, chúng ta có thể nghĩ tới bí tích Thánh Thể,
chúng ta đã cử hành trong suốt cả cuộc đời người công giáo, mà chẳng có lấy một
chút băn khoăn hay do dự. Chúng ta cũng đã từng đón nhận Mình và Máu thánh Ngài
một cách quen thuộc theo nghi lễ và chúng ta không còn nhận ra tính cách chói
tai và những khó khăn mà các môn đệ đã găp phải.
Sự tuyên xưng của các ông chính là một sự dấn thân, một
hành đông liên quan tới vận mạng của một con người. Tuy nhiên, điều đáng cho
chúng ta suy nghĩ hơn cả, đó là mặc dầu chúng ta tin tưởng vững chắc vào lời
xác quyết của Chúa: Thịt Máu Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đem
đến cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, nhưng trong thực tế, chúng ta lại sống, lại
hành động trái ngược với niềm tin tưởng ấy.
Đúng thế, có những người công giáo vốn tự xưng là đạo dòng, đạo
gốc… Thế mà cả chục năm không rước Chúa lấy được một lần. Có những người khác,
ngày Chúa nhật cũng đến nhà thờ nhưng cho qua lần đoạn lượt mà thôi. Họ đứng ở
ngoài sân, vừa nói chuyện, vừa phì phèo điếu thuốc lá và vừa tham dự thánh lễ.
Mình không tham dự đã đành, mà còn cả trở và làm cho người khác lo ra, chia
trí.
Hơn thế nữa, phần đông chúng ta lại tách biệt thánh lễ ra khỏi
cuộc sống.
Chúng ta giữ đạo ở trong nhà thờ như một người công chức tới giờ
đến sở làm việc. Có nghĩa là khi đến nhà thờ, chúng ta trang nghiêm sốt sắng.
Nhưng khi thánh lễ kết thúc, cửa nhà thờ đóng lại và chúng ta trở về với cuộc
sống thường ngày. Lúc bấy giờ chúng ta lại vội vã gian than, độc ác và bất
công. Trong nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng giữa lòng cuộc
đời, chúng ta lại hoá kiếp thành một loài sói dữ. Như vậy, thánh lễ cũng chỉ là
một chiếc ngăn kéo rất nhỏ bé giữa những ngăn kéo biệt lập khác của cuộc sống.
Thế nhưng, với những người có đức tin thì khác, cuộc sống phải
trờ thành thánh lễ, hay nói cách khác, tinh thần thánh lễ phải thấm sâu vào
cuộc sống của họ. Có nghĩa là chúng ta phải biến đổi đời sống chúng ta thành
một thánh lễ nối dài, bằng cách thực thi tinh thần yêu thương và hợp nhất, giúp
đỡ những người chung quanh, như một bài hát quen thuộc: Ta về thôi khi thánh lễ
đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến mọi
nơi, ta sống sao để làm chứng nhân.
Hãy góp nhặt những hy sinh rải rắc trong đời thường, để làm nên
tấm bánh và chén rượu, như những của lễ chúng ta dâng lên Chúa. Từ đó chúng ta
đi đến một câu hỏi, một kết luận, đó là chúng ta đã thực sự sống tinh thần
thánh lễ giữa lòng cuộc đời của chúng ta hay chưa?
5. Tình đời thay trắng đổi đen!
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Con người thường đổi trắng thay đen. Lòng người thường thay lòng
đổi dạ khiến cho nhiều người đã chua chát nhìn đời mà bảo rằng:
"Còn tiền còn bạc còn đầy tớ.
Hết tiền hết bạc hết ông tôi".
Người ta gắn bó với nhau thường là vì tình, vì tiền và quyền
lợi. Và một khi quyền lợi của mình bị lung lay, họ liền thay lòng đổi dạ để rồi
"gió chiều nào xuôi theo chiều đó" để được an toàn bản thân. Xem ra
tình cảm giữa con người với nhau thật mong manh. Mọi quan hệ đều được liên kết
với nhau bằng những quyền lợi và nghĩa vụ phải thi hành với nhau. Tình đời
thường thay trắng đổi đen nên mới có chuyện "ông ăn chả bà ăn nem".
Bất trung và phản bội với lời đoan hứa thường là sự mất tín nhiệm nơi nhau và
hậu quả là chẳng ai tin ai, ai cũng lo cho chính mình để khỏi bị thiệt hại bản
thân.
Lịch sử cứu độ là một chuỗi dài sự tha thứ của Thiên Chúa và sự
bất trung, phản bội của dân tộc được tuyển chọn. Họ hứa rồi quên. Họ đứng lên
rồi lại ngã qụy. Dân Do Thái đã từng hứa trung thành với Giavê Thiên Chúa,
nhưng rồi họ lại tin thờ thần ngoại bang. Mặc dầu Thiên Chúa luôn bảo vệ họ,
chăm sóc họ như tình phụ tử dành cho con cái. Ngược lại, họ thường lãng quên ân
huệ của Thiên Chúa. Họ năm lần bảy lượt quay lưng lại với tình yêu mà Thiên
Chúa dành cho họ.
Lời Chúa trong bài đọc thứ nhất là bằng chứng về quá khứ đầy
thất trung của dân tộc được tuyển chọn. Cha ông họ đã từng thờ thần ngoại bang.
Hôm nay họ tuyên hứa chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê duy nhất, nhưng rồi
lời hứa lại đi vào quên lãng chỉ còn lại những thất tín, bội thề. Thiên Chúa
đối với họ như là một kho ơn, chỉ đề rút tỉa và một khi không đáp ứng nguyện
vọng là họ lại tìm kiếm nơi các thần ngoại bang. Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng
tín trung với lời giao ước. Ngài chỉ giận, giận trong giây lát nhưng yêu
thương, yêu thương trọn đời.
Hôm nay, Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ một chọn lựa. Chọn gắn
bó với Chúa hay chạy theo thói đời của thế gian "hạnh phúc thì xum vầy,
gian nan thì bỏ chạy". Chúa đòi các môn đệ không lấp lửng, lập lờ
"làm tôi hai chủ", mà phải tỏ rõ lập trường. Bỏ đi hay ở lại. Chọn sự
sống đời đời hay sự sống chóng qua đời này. Các môn đệ đã gắn bó với Chúa bao
lâu nay nhưng liệu rằng bằng đó thời gian có đủ để niềm tin các ông trưởng
thành và có thể nhận ra Thầy là Chúa, là Đấng ban sự sống hay chưa? Trước câu
hỏi: "cả anh em, anh em cũng muốn bỏ Thầy đi sao?". Nhiều môn đệ đã
bỏ đi. Và chắc chắn ngay trong số 12 vẫn còn có kẻ muốn bỏ đi. Số còn lại do
dự, im lặng, chỉ có một mình Phêrô đã mạnh dạn thưa lên rằng: "bỏ Thầy
chúng con biết theo ai? Vì chỉ có Thầy mới có lời ban lại sự sống đời
đời". Thánh Phêrô đã ở lại với Thầy, vì ông tin vào Thầy mình là Đấng
Thánh của Thiên Chúa. Ông ở lại với Thầy vì chỉ có Thầy mới mang lại sự sống
đời đời.
Người xưa thường nói: "Qua gian nan mới biết ai là bạn, là
thù". Chúa Giêsu biết rõ một trong nhóm sẽ nộp mình. Ngài cũng Phêrô sẽ ba
lần chối Thầy và đa số sẽ bỏ Thầy cho người ta hành hạ và treo lên thập tự giá,
nhưng Ngài vẫn yêu thương. Ngài vẫn tìm mọi cách cho các môn đệ ở lại mãi trong
tình yêu của Ngài. Tình yêu của Thiên Chúa đời đời vẫn thế. Tựa như tình yêu
của cha của mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn mãi
mãi trung thành với tình yêu ban đầu. Ngài vẫn hằng tha thiết mời gọi con người
hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Dù rằng đó là đứa ngỗ nghịch, dù rằng đó là
đứa thường phạm sai lầm, đôi khi còn bất hiếu bất trung. Ngài vẫn yêu thương và
yêu thương cho đến cùng.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta "phần các con có
muốn bỏ Thầy không?". Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã
không còn tin có thế giới thần linh? Chúng ta có dám gắn bó với Người khi mà cả
khối đông nhân loại đang bỏ đi để chạy theo ma lực của đồng tiền và địa vị? Có
lẽ phần nhiều chúng ta do dự, phần nhiều chúng ta im lặng. Vì biết bao lần
chúng ta cũng bị cám dỗ bỏ đạo để được tiến thân trên đài cao danh vọng. Vì
biết bao lần đồng tiền đã làm mờ con mắt, khiến chúng ta chao đảo đức tin, muốn
buông xuôi theo thói gian dối của thế gian để tìm mối lợi cho bản thân của
mình. Có thể chúng ta đang đóng vai trò một Giuđa vẫn ở xen lẫn với nhóm 12
nhưng chỉ chờ cơ hội để bán đứng Thầy và bán đứng anh em.
Nguyện xin Thiên Chúa tình yêu tha thứ những yếu đuối, nhỏ nhen
đầy ích kỷ của chúng con. Xin Mình Máu Thánh Ngài nâng đỡ chúng con thoát khỏi
những cám dỗ trần thế để mãi mãi con có thể nói như thánh Phêrô ngày nào:
"Bỏ Ngài chúng con biết đến với ai. Thầy mới có Lời ban sự sống đời
đời". Amen.
6. Bỏ Thầy, Con Sẽ Theo Ai?
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã ban cho loài người được tự
do lựa chọn: hoặc chấp nhận hay khước từ ơn Chúa. Sau khi chu toàn sứ mệnh Môsê
trao phó để đưa dân Chúa chọn vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã triệu tập các vị
đại diện dân chúng tại Si-khem để khẳng định lại niềm tin vào Chúa. Ông nói với
họ rằng: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ
tuỳ ý chọn thần mà thờ... Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ
Thiên Chúa (Gs 24:15). Dân Ít-ra-en cũng đã lựa chọn. Họ quyết định phụng thờ
Thiên Chúa vì Người đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập, đã làm những
việc kỳ diệu và dẫn đưa họ vào miền đất hứa.
Tuy nhiên khi gặp khó khăn và thử thách trong sa mạc, họ lại bất
trung, phản nghịch cùng Chúa. Và mỗi lần họ ăn năn sám hối thì Chúa lại giang
tay đón nhận họ trở về với lòng bao dung tha thứ. Trong Phúc âm tuần trước, Đức
Giêsu dạy họ về việc ăn bánh hằng sống là thịt và uống máu Người thì mới có sự
sống muôn đời. Người Do thái liền tranh luận hỏi nhau: làm sao ông này có thể
cho họ ăn thịt Người được (Ga 6:52)?
Lớp thính giả thứ hai trong Phúc âm hôm nay là các môn đệ khi
nghe Đức Giêsu giảng dạy về việc ăn thịt và uống máu Người để được sống muôn
đời, cũng lẩm bẩm cho rằng lời nói thật là chướng tai (Ga 6:60). Và theo Phúc
âm thuật lại: Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa (Ga 6:66). Từ
ngữ môn đệ được hiểu là người theo Đức Giêsu và con số được ghi là bảy mươi hai
môn đệ. Và khi có những môn đệ bỏ cuộc, Đức Giêsu không ngạc nhiên, cũng không
buồn giận, và không thay đổi lập trường. Người không giải thích, cũng không rút
lại lời giảng dạy để mong bắt được mẻ cá lớn là các môn đệ.
Đến lượt lớp thính giả thứ ba là các tông đồ thì Đức Giêsu còn
thách đố các ông thêm nữa. Người đòi hỏi nơi các tông đồ một đức tin không dè
dặt, không lưỡng lự. Đức Giêsu gần làm hoảng hồn các tông đồ, khi Người hỏi
thêm các ông: Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi không (Ga 6:67)?
Hoặc ở lại hay bỏ đi, một câu hỏi mà họ không thể nào tránh né được. Để trả lời
câu hỏi, ông Phêrô tiến lên, đóng vai trò lãnh đạo, đáp lại: Thưa Thầy, nếu bỏ
Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời
đời (Ga 6:68). Ông muốn nói là không có ai khác để mà theo cả. Đức Giêsu đòi
hỏi một quyết định nơi các tông đồ. Và Người đã nhận được lời cam kết của thánh
Phêrô. Một lời cam kết đã làm tiêu tan những nghi ngờ của các tông đồ khác.
Cũng vậy, tất cả những người đã quyết định theo Chúa qua Bí tích
Rửa tội và Thêm sức đều phải đương đầu với những thử thách về đức tin. Hằng
ngày ta gặp nhiều cám dỗ để chối bỏ đức tin công giáo tông truyền. Ta gặp nhiều
tiếng gọi dụ dỗ bảo ta điều gì phải tin, điều gì không cần tin, việc gì phải
làm, việc gì không nên làm, điều gì cần phải được xét lại. Ta bị cám dỗ để giữ
đạo theo xu hướng nhất thời, tuỳ theo hứng khởi: vui thì đi lễ thờ phượng,
không thì ở nhà. Ta bị cám dỗ chỉ giữ đạo nếu Giáo hội thay đổi lập trường về
một vài nguyên tắc luân lý nào đó, nếu Giáo hội chiều theo ước muốn của ta.
Ta bị cám dỗ chối bỏ đức tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí
tích Thánh thể vì không hiểu sao bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép
vẫn giống bánh rượu trước khi truyền phép? Và đó chính là mầu nhiệm trong đạo
mà loài người không thể dùng lí trí để giải thích và hiểu được. Nếu người ta có
thể hiểu được mầu nhiệm trong đạo, thì cái được gọi là mầu nhiệm, không còn
phải là mầu nhiệm nữa, mà chỉ là một triết thuyết hay một hệ thống khoa học. Vì
thế mầu nhiệm vẫn mãi mãi là mầu nhiệm, nếu không thì đức tin không còn phải là
đức tin nữa, mà chỉ là sự hiểu biết thôi. Tuy nhiên, nếu không hiểu, tại sao
lại tin? Tin là chấp nhận dựa trên lời nói hay thế giá của người khác. Các tông
đồ không hiểu, nhưng vẫn tin vì dựa trên lời nói của Thầy mình.
Khi cảm thấy khó chấp nhận về đường lối giáo huấn chính thức của
Giáo hội, là phản ảnh của đường lối Phúc âm, về một vài vấn đề như tính dục, ly
dị, phá thai..., đó là lúc mà câu hỏi Chúa đặt ra cho các tông đồ sẽ lại vọng
lên bên tai ta: Còn con, con có muốn lìa bỏ Giáo hội mà Thầy đã thiết lập trên
nền tảng các tông đồ không? Khi bất đồng ý kiến với Giáo hội về một số chính
sách của Toà Thánh Vatican, đó là lúc mà một câu hỏi tương tự sẽ vọng lên bên
tai ta: Còn con, con có muốn chấp nhận đường lối của Giáo hội mà Thầy thiết lập
không? Khi thấy những gương xấu xẩy ra ngay trong hàng giáo sĩ, câu hỏi khác sẽ
vọng lên: Còn con, con có muốn ở lại trong Giáo hội để cầu nguyện và xây dựng
Giáo hội của Thầy không?
Khi phải đối chất với những lời giảng dậy chướng tai (Ga 6:60)
trong đạo, hoặc giáo lí khó khăn của đạo thì người theo đạo nửa mùa, hoặc mạo
nhận theo đạo, toan cắt nghĩa sao cho phiên phiến đi, để cho trở nên dễ dãi,
hoặc thay đổi lẽ đạo sao cho phù hợp với ước muốn và quan niệm của họ cũng như
của quần chúng. Thính giả trong Phúc âm hôm nay hiểu rõ lời Đức Giêsu giảng
dạy, hiểu ý Người muốn nói gì nên mới cho là chướng tai đấy. Vậy mà Chúa cũng
không cải chính về sự chướng tai đó đâu. Họ hiểu Chúa không nói đến việc ăn
thịt và uống máu theo nghĩa tượng trưng thôi đâu. Khi cảm thấy Chúa mà mình tôn
thờ, sao mà khó thế nếu so sánh với những chúa và thần của những đạo khác, đó
là lúc mà câu hỏi giả sử của ông Giôsuê cũng vọng bên tai ta: Nếu anh em không
bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ
(Js 24:15).
Phúc thay cho những gia đình, cộng đoàn giáo xứ và trong Giáo
hội mà có được những người nói được những lời bất hủ để bầy tỏ đức tin quả
quyết như Thánh Phêrô và ông Giôsuê hầu giúp củng cố đức tin của người khác
trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ và trong cả Giáo hội.
Lời cầu nguyện xin cho được giữ vững niềm tin vào Bí tích Thánh
Thể:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể.
Con xin cảm tạ Chúa đã lập Phép Thánh Thể
để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người.
Xin Chúa làm no thoả những đói khát của con
khi con lãnh nhận Mình Thánh Chúa
Và xin cho con giữ vững lời Chúa.
Đừng để con nghe theo lời quyến rũ rỉ tai
mà chối bỏ đức tin và xa lìa Chúa. Amen.
7. Mầu nhiệm Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu là một thực tại. Ngài hiện hữu như một sự kiện lịch
sử. Ngài là người không dễ hiểu tuy dù người ta biết cha mẹ và dòng tộc Ngài. Ngài
đã có những lời mà người đương thời không hiểu được, nhưng qua đó những người
tin vào Ngài biết rằng Ngài có nguồn gốc thần linh: Ngài là Con Thiên Chúa,
Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
I. Lời nói của Đức Giêsu khó hiểu
“Mình Ta là thật của ăn, máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta
và uống máu Ta, sẽ được sống đời đời”. Làm sao chấp nhận được câu nói này, khi
người ta biết Ngài từ nhỏ đã sống ở Nadarét, khi người ta biết cha mẹ Ngài là
Yuse và Maria! Ngài không được học hành gì, không có gì trổi trang hơn người
khác khi sống tại Nadarét. Không thể chấp nhận được lời nói này của Ngài, đó là
chuyện thường tình. Kể cả một số môn đệ, những người đã từng thán phục lời
giảng của Ngài trước đó, cũng không thể chấp nhận lời này: “lời chi sống sượng
thế, ai nghe cho nổi”. Họ đã bỏ đi, không muốn làm môn đệ của Ngài nữa.
Đức Giêsu nói với nhóm 12: cả các anh nữa, các anh có muốn bỏ đi
không? Phêrô được một ơn riêng nên trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con
biết đi theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời. Thầy là Đấng thánh của Thiên
Chúa”. Để chấp nhận lời của Đức Giêsu về chính Ngài, con người phải có ơn đặc
biệt từ trên, vì những gì Ngài nói vượt trên cái bình thường. Đức Giêsu cũng
biết điều này: “Không ai đến được với Ta, trừ phi được Cha Ta ban ơn đó”. Ngài
cũng biết những gì Ngài nói không phải chuyện “thuộc hạ giới”.
Những biểu lộ bên ngoài diễn tả điều gì sâu kín bên trong. Lời
nói diễn tả nội tâm và bản tính mỗi người. Đức Giêsu không chỉ là một con
người; qua lời Ngài, người ta nhận ra còn cái gì rất đặc biệt nơi Ngài. Làm sao
lý giải những gì Đức Giêsu nói về chính Ngài, khi những lời này cho thấy như
thể Ngài còn hơn là một con người? Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội,
thế mà Ngài lại nói: “Tội con đã được tha” (Mc.2, 7); Abraham là ông tổ của cả
dân Do Thái, thế mà Đức Giêsu lại nói: “trước khi có Abraham, Ta là Ta” (Ga.8,
58); Thiên Chúa là Đấng vượt trên tất cả, thế mà có lúc Đức Giêsu lại nói: “Ta
và Cha Ta là một” (Ga.10, 30). Nếu không phải là người mất trí, thì ắt hẳn còn
một điều gì đó mà người ta chưa hiểu về con người Đức Giêsu.
II. Đức Giêsu là một sự kiện khó lý giải
Biến cố Đức Giêsu phục sinh, giúp những người thân thiết với Đức
Giêsu, cụ thể là các tông đồ, hiểu hơn về Đức Giêsu. Nếu Ngài thuộc loại gian
dối, phạm thượng, thì Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài. Nếu Ngài được phục
sinh, ắt hẳn những gì Ngài nói về Ngài phải là sự thật. Vậy Đức Giêsu là ai?
Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa như thế nào? Đức Giêsu là một vấn đề
cho con người thời đó, và cho cả con người thời nay nữa.
Với những người đơn thuần nghĩ Ngài là người phạm thượng, cái án
tử hình dành cho Ngài thật là chính đáng. Nhưng biến cố phục sinh cho thấy cách
nghĩ như vậy là không thỏa đáng và sai lầm. Vậy Ngài là ai? Các môn đệ thân
tín, nhóm 12, có câu trả lời về người thầy thân yêu của họ. Ngài là tiên tri và
còn hơn một tiên tri, Ngài là Đấng Kitô và còn hơn một Đấng Kitô, Ngài là con
Thiên Chúa và còn hơn là con Thiên Chúa như những người công chính từng được
gọi là con Thiên Chúa. Vậy Ngài là ai?
Tin Mừng Gioan diễn tả Ngài là Lời đã thành xác phàm (Ga.1, 14).
Một số người diễn tả Ngài là con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt. Đức
Giêsu cũng thắc mắc về điều người ta nói về Ngài: “người ta bảo Con Người là
ai?” Đức Giêsu có vẻ hài lòng với câu trả lời của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống”. Tuy nhiên, điều này cũng không rõ ràng lắm với con người
ngày nay, vì có nhiều Đức Kitô, nghĩa là nhiều người được xức dầu, nhiều người
là Đấng Thiên Sai, chẳng hạn Môsê, Đavít. Cũng có nhiều người được gọi là con
Thiên Chúa, chẳng hạn các thiên thần, những người công chính, các vị vua. Công
Đồng Chung Nicea sau này (năm 325) xác định, Ngài là con đồng bản tính với
Thiên Chúa. Công Đồng Chung Chalcedoine xác định Ngài có hai bản tính: bản tính
Thiên Chúa và bản tính con người, Ngài thực sự là người và thực sự là Thiên
Chúa. Công Đồng Chung Epheso xác định Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa trong hai
bản tính. Dù thế nào chăng nữa, những tín điều về Đức Giêsu Kitô của Hội Thánh
sau này, là để giúp các tín hữu hiểu đúng những mặc khải đã được tỏ lộ cho các
tông đồ. Đức tin của Giáo Hội tựa trên nền tảng các tông đồ. Đức tin của các
Kitô hữu, là đức tin tông truyền.
III. Mở lòng đón nhận sự kiện Giêsu Kitô
“Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được
sống muôn đời”. Không thể hiểu lời này, vì xưa nay chưa có lương thực nào cho
con người sự sống vĩnh cửu. Vậy làm sao có thể chấp nhận lời nói này! Hơn nữa,
con người Giêsu cũng mong manh như bao người, vậy Giêsu lấy gì để bảo đảm cho
lời nói của Ngài là đáng tin, là sự thật?
Đức Giêsu là một sự kiện, một biến cố, và là một mầu nhiệm.
Những từ ngữ và lý giải, là để hiểu đúng và hiểu hơn về Đức Giêsu Kitô. Người
ta chưa hiểu hết về Ngài, người ta đang cố gắng hiểu và diễn tả về Ngài. Có
thể, mỗi một diễn tả giúp con người hiểu hơn về mầu nhiệm Giêsu; và có thể,
cũng che khuất Ngài dưới một khía cạnh nào đó. Một điều đáng mừng là ngày nay
người ta vẫn còn đang truy tìm về Đức Giêsu Kitô, người ta đang cố gắng diễn tả
về Đức Giêsu Kitô với hy vọng giúp con người ngày nay hiểu và chấp nhận Đức
Giêsu Kitô hơn. Tất cả những điều này cho thấy, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang
hoạt động nơi con người ngày hôm nay một cách rất sống động.
Xin cho con người ngày nay biết mở lòng và đón nhận mầu nhiệm
Giêsu Kitô, và xin cho mầu nhiệm Giêsu Kitô soi sáng mầu nhiệm con người, giúp
con người sống an bình và hạnh phúc trên đường trần gian này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có câu hỏi hoặc thao thức gì về Đức Giêsu?
2. Đức Giêsu có ảnh hưởng nhiều trên đời bạn không? Xin bạn cho
biết điều đó.
8. Lòng trung thành – Lm. JB. Nguyễn Minh
Hùng
Chúng ta vẫn thường hay nghe nói người này hứa dỏm, người kia
hứa lèo. Chính bản thân nhiều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng
lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống, đến những vấn
đề quan trọng nhất, người ta đều có thể bất trung thất tín. Ví dụ: Ai cũng
biết, hôn nhân là mối dây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một
hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản
bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để
đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó
hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến
tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp
diễn. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật
thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm
xỉa gì đến hậu quả.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản
bội, cũng bất trung không kém. Từ thuở bình minh của nhân loại, thế giới, theo
Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận
trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài. Nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo
đã làm hai ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó, mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để
bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung
với Người. Vì tội chống Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không
lường: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung
mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang
thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường nếm đủ mùi vị của khổ
đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn…, đã làm cho dân của Chúa mất kiên
nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron. Không dừng ở đó, họ
còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót
của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi
Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc để giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến
mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: Sao Ngài lại làm
khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất
cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu?... Một mình con
không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con
như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12tt). Trong sa mạc, lòng dân
quên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược
lại, nhiều lần họ đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về lòng
thương xót của Thiên Chúa và sự bất trung của dân Người. Sau những năm tháng
lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh
phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải
xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng
Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình:
“Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ các thần khác”, và dù cho lý do
buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung
với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời
quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay
thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho
dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên
Chúa. Chính sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần chuốc lấy cơn phẫn nộ
của Người. Nhưng nổi bậc lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn
cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoan dung, và tha thứ mà Thiên Chúa
dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một
công thức gồm ba động từ: phản bội – nổi giận – tha thứ. Dân không ngừng phản
bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt
chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích trong sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một
lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của
thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự
sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là
Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc
Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy
trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm,
cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng
để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá… Chính những giờ phút quan
trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quên mất lời tuyên xưng mới
đó, tính cho đến thời điểm diễn ra cuộc thương khó của Thầy, chưa được bao lâu.
Vì một chút sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là
ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên
xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Hội Thánh mời gọi ta suy niệm
các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành trong ngày Chúa nhật XXI, bạn và
tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta,
yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa
vẫn một lòng khoan dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên
tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình
yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông
đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi
vẫn có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung
thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không hy vọng nữa mà thôi. Ta
bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn
nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu
đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào
vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách
tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính
mình đã đánh mất.
9. Lời Hằng Sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sau khi ông Môisen qua đời, ông Joshua, con của ông Nun, lên kế
vị dẫn dân Do-thái vượt qua sông Jordan vào miền Đất Hứa. Toàn dân và gia đình ông
Joshua đến trước Thiên Chúa ở giữa công đường, ông Joshua gợi ý cho dân chọn
lựa tôn thờ Thiên Chúa hay tôn thờ các thần dân ngoại:Nếu anh em không bằng
lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là
các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của
người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng
tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Jos 24, 15). Dân chúng và gia đình ông Joshua đã
chọn Thiên Chúa làm phần gia nghiệp. Ông Joshua đã trở thành người lãnh đạo tín
trung và can đảm dẫn đưa dân vào miền đất chảy sữa và mật như lời đã hứa.
Dân Do-thái đã chọn đi theo Chúa tiến vào miền Đất Hứa nhưng rồi
chẳng được bao lâu, dân chúng quên lời đã thề hứa. Họ bỏ Chúa, chạy theo các
thú vui trần thế, tôn thờ các tà thần và sống theo thói tục của dân ngoại. Chúa
phạt tội lỗi của họ, nhưng rồi Chúa lại tha thứ. Lịch sử cứu độ cứ thế lập đi
lập lại với hết dòng dõi này sang dòng dõi khác. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn
đợi chờ. Qua các thử thách, Thiên Chúa hé mở những mầu nhiệm cao siêu trong
cuộc sống bình thường. Từ những biến cố xảy ra hằng ngày, Thiên Chúa lại mở
thêm những cánh cửa để dẫn con dân đi tìm về nguồn yêu thương. Không có một sự
cố nào xảy ra mà không ghi dấu ấn tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa. Con
đường cứu độ là con đường tình yêu và tha thứ. Yêu thương là ban tặng và dâng
hiến. Thiên Chúa trao cho nhân loại bánh hằng sống, chính là Con Một của Thiên
Chúa.
Sau khi Chúa Giêsu đã mạc khải về bánh ban sư sống bởi trời là
thịt và máu Chúa, có nhiều người khó chịu về giáo lý này. Họ nói rằng: Lời này
chói tai qúa! Ai nghe được. Chúa Giêsu biết rõ lòng họ nhưng Chúa không rút lại
lời đã nói. Chúa không ngại để họ được tự do ra đi. Ngay cả các tông đồ, Chúa
đã hỏi: Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không? Phêrô thưa: Lạy Thầy,
chúng con sẽ đi theo ai. Chúa không muốn mị dân để làm vừa lòng mọi người. Chúa
cho chúng ta được tự do chọn lựa thái độ. Chúng ta không thể đi nước đôi theo
kiểu bắt cá hai tay. Tông đồ Phêrô đại diện cho anh em tuyên xưng niềm tin một
cách xác tín: Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.
Thái độ của Chúa Giêsu khác biệt thái độ của nhiều nhà lãnh đạo.
Các lãnh tụ thế gian muốn mình trở thành số một, có quyền hành và muốn được
người khác phục vụ. Người cầm quyền dùng nhiều thủ đoạn tìm vinh quang và thu
gom cho mình mọi thứ ở trần gian. Họ thường dùng những lời hứa suông vượt trên
khả năng và quyền hạn của họ để bảo đảm sự an toàn cho người khác. Họ muốn giới
hạn tự do và ngay cả quyền thiêng liêng của con người để phục vụ cho chính sách
và đường lối chính trị của phe nhóm họ. Trái lại, Chúa Giêsu không tìm vinh
quang cho chính mình. Ngài qui mọi vinh quang và danh dự về Chúa Cha.
Khi Chúa chữa lành cho người phung hủi. Chúa nói với anh:
"Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì
anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng
cho người ta biết (Mc 1, 44). Chúa chối từ sự tôn vinh của người đời. Khi Chúa
hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no nê, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã
từ chối. Chúa Giêsu từ trời hạ sinh làm người, nhưng Chúa lại chọn con đường
phục vụ từ dưới thấp đi lên. Chúa khiêm hạ trong phục vụ. Chúa cúi xuống rửa
chân cho các tông đồ. Khi Chúa xua đuổi qủy ám ra khỏi người đàn ông Gerasene,
ông ta muốn ở lại với Chúa: Nhưng Chúa không cho phép, Người bảo: "Anh cứ
về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và
Người đã thương anh như thế nào (Mc 5, 19). Chúa mời gọi mọi người đi theo Chúa
để được lãnh nhận ơn cứu độ, nhưng Chúa không ép buộc hay cưỡng bức. Chúa để họ
được hoàn toàn tự do lựa chọn.
Chúa Giêsu là thủ lãnh, là chủ chiên tốt lành và là Chúa đầy
lòng xót thương. Chúa đã thí mạng sống vì đàn chiên. Trong vườn Cây Dầu, trước
lúc bị bắt trói và dẫn đi, Chúa đã yêu cầu quân lính cho các tông đồ được tự
do.Đức Giêsu nói: "Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh
tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi (Ga 18, 8). Chúa còn có những sứ
mệnh khác cho các tông đồ. Các Ngài sẽ nên nhân chứng cho sự đau khổ, sự chết
và sự sống lại của Thầy. Chúa không hứa một cuộc sống sung túc, đầy đủ, an bình
và hưởng lạc, nhưng là con đường thánh giá có nhiều chông gai. Chúa đáp lời môn
đệ muốn đi theo: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có
chỗ tựa đầu (Lc 9, 58).
Lời Chúa là thần trí và là sự sống. Tác giả thơ Do-thái đã viết:
Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các
ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh
Tử (Dt 1, 1-2). Qua Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về tình
yêu của ơn cứu độ. Lời của Chúa Giêsu là lời hằng sống. Lời Chúa có uy quyền
tác động biến đổi và có hiệu qủa ngay: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại
trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy (Ga 6, 56). Chúa Giêsu đã từng chữa lành
các bệnh nhân qua lời của Ngài.Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay ra!
" Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường (Mc 3, 5). Khi Chúa
Giêsu đang ngủ trên tàu gặp sóng gió:Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho
biển: "Im đi! Câm đi! " Gió liền tắt, và biển lặng như tờ (Mc 4, 39).
Thánh Phêrô chỉ cho chúng tabiết rằng Thầy mới có những lời ban sự sống đời
đời.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô đã khuyên dạy
chúng ta: Anh em hay phục tùng nhau trong sự kính sợ Thiên Chúa (Eph 5, 21).
Phaolô dùng hình ảnh của Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội để nói về việc vợ chồng
phục tùng lẫn nhau trong đời sống hôn nhân gia đình:Và như Hội Thánh tùng phục
Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy (Eph 5,
25). Giáo Hội luôn gắn kết với Chúa Kitô là đầu. Lời Chúa là kim chỉ nam và là
nguồn sống của Giáo Hội. Thánh Kinh và Thánh Truyền là hai nguồn bảo chứng giúp
Giáo Hội tồn tại.Giáo Hội tin tưởng vào quyền năng thánh hóa qua lời hằng
sống:Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống (Eph 5,
26).
Chúng ta lắng nghe, học hiểu, nhận biết và thực hành lời Chúa.
Lời Chúa là lời quyền năng giúp chúng ta biến đổi nội tâm. Chúng ta cần học hỏi
để có những kiến thức về đạo, nhưng điều quan trọng là tri và hành. Giống như
chúng ta cầm được tấm bản đồ, chúng ta học biết các vị thế và nơi chốn nhưng
chúng ta chỉ ngồi một chỗ thì sẽ chẳng bao giờ tới nơi. Lời của Chúa Giêsu mở
cửa tâm hồn dẫn chúng ta đến hạnh phúc. Thực thi lời Chúa là chúng ta đang đi
trên con đường chính thật. Chúng ta không thể đốt giai đoạn, mà hãy suy niệm và
sống lời Chúa trong từng giây phút và qua từng cách ăn nết ở trong cuộc sống
hằng ngày. Dấu chỉ của người môn đệ của Chúa là:Mọi người sẽ nhận biết anh em
là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau (Ga 13, 35).
Lạy Chúa, bỏ Chúa, chúng con biết theo ai. Chỉ có Chúa là Đấng
Cứu Độ và là nguồn an lạc cho đời chúng con. Chúng con xin chọn Chúa làm gia
nghiệp và là nơi chúng con nương náu ẩn thân. Chúng con xin chúc tụng và ngợi
khen danh Chúa đến muôn ngàn đời.
10. Chọn Chúa là gia nghiệp đời tôi
Cuộc đời con người là một chuỗi dài những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ
trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không có quyền lựa chọn, còn tất cả
mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Nếu chọn đúng, thì đời mình sẽ tốt
đẹp và hạnh phúc, còn nếu chọn sai thi đời sẽ bất hạnh. Sống là phải lựa chọn
luôn. Đời là vậy. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn.
Trong bài đọc I hôm nay, chúng ta nghe ông Giôsuê triệu tập toàn
thể dân chúng lại, truyền cho họ đứng trước nhan Chúa, rồi ông nói với họ:
"Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các
tà thần?". Dân Do Thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ,
đã cứu họ thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Mặc dù họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng
lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại phụng thờ Ngài. Toàn dân đã biết
hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đã đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ
Ngài. Họ thưa với Giôsuê: "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà
tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi". Đó là một
sự lựa chọn của dân Do Thái quyết tâm theo Chúa Giavê.
Trong Bài Phúc âm hôm nay kể lại việc sau khi dân chúng được ăn
no nê, họ được Chúa giảng về Bánh Hằng Sống và lương thực bởi trời; Ngài tự
xưng mình là Bánh Hằng Sống và quả quyết với họ rằng: "ai ăn bánh này thì
sẽ sống đời đời". Đứng trước lời mời gọi này có những kết quả chọn lựa
khác nhau, có nhiều người chọn giải pháp không đi theo Ngài nữa và cũng nhóm
những tâm hồn thành tâm thiện chí chọn đi theo Chúa Giêsu. Nhiều người cho rằng
"lời gì mà nghe chói tai quá" và họ quyết định không đi theo.
Vì thế, sau khi họ bỏ Chúa Giêsu ra đi, Ngài quay lại hỏi các Tông
Đồ: "Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy ra đi không?" Thánh
Phêrô đại diện các Tông Đồ thưa với Chúa rằng: "Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng
con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời". Đó là sự
chọn lựa của Phêrô. Như thế, dân Do Thái chọn bỏ Chúa còn Phêrô thì chọn theo
Chúa Giêsu, chọn Chúa Giêsu là gia nghiệp đời mình.
Là người Công Giáo, khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta quyết
định chọn Chúa và đi theo Chúa, chúng ta tôn nhận Chúa là Thiên Chúa và chỉ tôn
thờ, phụng sự, yêu mến duy một mình Người. Đó chỉ là sự chọn lựa của đức tin.
Tuy nhiên, trong cuộc sống của mình, chúng ta đứng trước nhiều cơ hội để chọn
lựa hơn nữa, để sống và làm chứng cho đức tin. Chúng ta hãy triệt để thi hành
những điều phù hợp với ý Chúa, đó là cách chọn lựa thích hợp nhất theo bản vẽ
mà Chúa đã thiết kế cho đời chúng ta. Vì thế, chọn sống theo ý Chúa và thực
hành theo đức tin là một việc làm liên tục, thường xuyên cho đến chết. Đó là
một đòi hỏi của đức tin.
Vì thế, đức tin này là một con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một
con đường dài mà ta sẽ phải đi suốt cuộc đời. Con Đường đức tin có những quãng
đầy hoa thơm cỏ lạ, ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi,
mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng
đường gian nan đầy sóng gió không còn êm trôi. Có khi ta gặp khó khăn thử
thách, gặp đau khổ, thất bại. Đôi khi chúng ta không tìm đâu ra lối thoát như
chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Lúc đó,
chúng ta sẽ cảm thấy mệt mỏi chán chường, muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác, bị
cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn. Đó là trường hợp
của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.
Thật thế, Khi Đức Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn
người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi và mừng vui. Họ
tin Người chính là Đấng Cứu thế đến cứu dân tộc Do Thái. Thế nhưng khi Đức
Giêsu tuyên bố: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời",
khi nghe nói như thế thì đám đông và một số môn đệ bỏ Chúa mà đi. Đức tin tưởng
chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước, nay đã tan biến. Đức
tin gặp thử thách và họ không thể vượt qua. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức
Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín.
Đức tin phải trải qua thử thách. Chỉ có những người bạn trung
thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên
vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Giữa cơn khủng hoảng
ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù
chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào
Người. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều và sau khi chứng
kiến Người đi trên mặt nước, các môn đệ có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Lời
tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng
hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn
gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách.
Hành trình đức tin và sự chọn lựa của chúng ta chắc chắn sẽ
không khác của các tông đồ. Có những lúc thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao
mãnh liệt. Khi đó Lời Chúa êm ái ngọt ngào. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui,
niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa,
chúng ta dễ dàng chọn Chúa. Nhưng rồi tới những ngày tăm tối, ta cảm thấy niềm
tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy lời Chúa làm
cho ta mất bình an. Lời Chúa đánh vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời
Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không
bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người
Do Thái trong bài Phúc âm hôm nay, không còn muốn chọn Chúa nữa. Vì thế, trong
những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đến lời tuyên xưng
của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin
đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một
tình yêu chân thực. Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với
Chúa như thánh Phêrô: "Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy
mới có lời ban sự sống đời đời". Đó là cách chọn lựa phù hợp ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khôn ngoan và sáng suốt để
biết chọn Chúa là gia nghiệp đời mình. Cho dù chọn Chúa thì chúng con phải can
đảm sống đức tin, biết theo Chúa, phụng sự Chúa suốt cuộc đời con. Tuy nhiên,
đó là cách chọn lựa bảo đảm sự sống đời đời cho chúng con. Xin cho chúng con
biết đáp trả bước đi theo Chúa suốt cuộc đời chúng con. Amen.
11. Lội ngược dòng – Lm. Phêrô Hồng Phúc
"Đối với loài người thì không có thể,
nhưng đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể".
Chúa Giêsu đã đưa ra mô hình sau để chúng ta kiểm nghiệm: Con
lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa.
Chúa Giêsu không lên án những người giàu, bởi vì giàu có hay
nghèo khó đều là của cải Chúa ban trên mặt đất này. Bản thân của cải chưa nói
lên điều gì, sở hữu của cải cũng chưa phải là tội hay là phúc. Điều quan trọng,
người ta dùng của cải để giúp đỡ anh em hay là họ ham mê của cải đến mức độ
tích trữ, thậm chí tìm mọi cách tham lam mưu mô để chiếm đoạt của cải của người
khác. Tội hay phúc từ đó mới phát sinh.
Những người mà lòng tham vô đáy, tìm mọi mưu mô và chiếm đoạt
của mọi người, để làm giàu cho mình dù là họ không đạt được ý nguyện, có khi
trong tay cũng chẳng có tiền của nữa nhưng lòng tham vẫn là lòng tham, giàu có
vẫn là giàu có. Những hạng như vậy: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn những
người giàu có kiểu đó mà vào được Nước Trời.
Có những người của cải Chúa ban có thể họ được rất nhiều nhưng
họ có cơ hội để giúp đỡ anh em, chị em, hoặc là những công việc từ thiện, những
công việc truyền giáo, họ có rất nhiều tiền của mà họ vẫn là những người có
tinh thần nghèo khó.
Như vậy Chúa Giêsu đề cao tinh thần nghèo khó và Chúa kết án
lòng tham vô độ của con người khi chỉ muốn hưởng thụ và đam mê đời này. Một
kiểm nghiệm trên để cho chúng ta thấy rằng tiền của hay thế giới vật chất chưa
phải là điểm đến của chúng ta, lời mời gọi mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta cao
hơn, xa hơn và vì thế khi Phêrô hỏi Chúa Giêsu: "Chúng con đã bỏ mọi sự mà
đi theo Thầy, chúng con được gì". Đức Giêsu không ngần ngại cho chúng ta
thấy một hoa trái thật là lớn lao: "Thầy nói thật với các con: không ai đã
bỏ cha mẹ vợ con ruộng nương vì Thầy, vì Phúc âm mà không được gấp trăm ngay ở
đời này và ngày sau được ngự trên tòa xét xử mười hai chi tộc Israel"(Mt
19,29); Khi Giacôbê và Gioan xin được ngồi bên tả bên hữu trong Nước Thầy, Chúa
Giêsu từ chối. Thế nhưng hôm nay Chúa Giêsu lại hứa cho tất cả những ai từ bỏ
mọi sự mà theo Chúa sẽ được ngồi trên tòa xét xử mười hai chi tộc Israel, tức
là ở nơi vinh dự cao sang, nhưng đó là vinh dự cao sang của Nước Trời, mặc dầu
thế, ngay ở đời này họ cũng được gấp trăm. Chúa không nói ai bỏ ra một nghìn
đồng Chúa sẽ cho một trăm nghìn đồng, ai bỏ ra một triệu đồng Chúa sẽ cho trăm
triệu đồng. Nhưng Chúa nói gấp trăm về nhiều phương diện: sự bình an, niềm vui,
hạnh phúc... Họ là những người được chúc phúc ngay ở đời này, họ cảm thấy về ý
nghĩa đời sống, về sự may lành, về những gì mà Thiên Chúa gìn giữ yêu thương
quan phòng dẫn dắt họ, nghĩa là họ đi trong ánh sáng, trong niềm vui, những
điều đó gấp trăm gấp nghìn lần những gì mà của cải hứa hẹn hưởng thụ trong mệt mỏi,
trong rã rời, trong âu lo thậm chí trong chán nản và thất vọng.
Hôm nay, với mô hình Chúa đưa ra để cho chúng ta lựa chọn và rõ
ràng là có những người đã lựa chọn sai cho nên có những kẻ trước hết danh vọng,
chức quyền, của cải ngất trời ở đời này thì lại lên sau hết. Còn có những người
đã dám hy sinh từ bỏ đến cả mạng sống của mình, từ bỏ của cải, từ bỏ đam mê, từ
bỏ hưởng thụ, họ là những người nghèo khó, thậm chí là những người hành khất,
họ nên giống Chúa Giêsu lang thang nhưng họ sẽ là những người ở đời này là bé
mọn là rốt hết sẽ lên trước nhất.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đưa ra mô hình mà chúng con thấy khó thực hiện quá!
Tất cả đều là đảo ngược so với những suy nghĩ,
những bước đi tự nhiên của chúng con.
Nhưng chúng con đã thấy các thánh là những người thực hiện
theo những bước đi lội ngược dòng mà Chúa đề ra.
Các thánh đã đạt tới đỉnh điểm của hạnh phúc,
Các thánh đã đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của Nước Trời.
Xin cho chúng con ngày hôm nay dám từ bỏ,
dám lội ngược dòng để chúng con là những người rốt hết,
sẽ được nên những người trước nhất trong ngày sau hết.
Xin đừng để chúng con leo lên bậc trước nhất
để rồi ngày sau hết ngã xuống bậc rốt hết.
Chúa gọi chúng con đi ngược dòng
chính là trở về với cội nguồn ơn cứu độ.
Xin Chúa ban ơn để chúng con đạt tới ơn cứu độ đời đời. Amen.
12. Thách đố lớn nhất – Lm. Giuse Đỗ
Vân Lực
Trên bước đường theo Chúa, các môn đệ gặp rất nhiều thách đố từ
ngoại cảnh hay nội tâm. Có bao giờ họ có thể tưởng tượng chính Chúa lại trở
thành thách đố lớn nhất? Thế mà hôm nay, khi lên tiếng đòi hỏi một niềm tin lớn
lao về quyền năng Thiên Chúa, chính bản thân Đức Giêsu đã trở thành một vấn đề
khó vượt nhất, vấn đề có tính cách quyết định cho cả định mệnh con người, vì
liên quan tới chính sự sống nhân loại.
Nguồn sống
Trước bao nhiêu đe dọa mạng sống, con người cảm thấy bất lực.
Những sản phẩm tử thần phơi bày nhan nhản khắp nơi. Trươc tình cảnh ấy, Đức
Giêsu xuất hiện như một nguồn sống: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được
sống muôn đời.” (Ga 6:54a) Lời đề nghị vô cùng lạ lùng, chưa từng nghe thấy bao
giờ. “Nghe vậy nhiều môn đệ của Người liền nói: ‘Lời này chướng tai quá! Ai mà
nghe nổi?” (Ga 6:60) Người trở thành đối tượng của lời xầm xì. Kết quả nhiều
môn đệ đã theo Người lâu năm, cũng đành giũ áo ra đi (x. Ga 6:66). Tưởng việc
ra đi đó sẽ khiến Người đổi thái độ. Nhưng không, Người vẫn không hề nao núng,
dù chỉ còn ít người ở lại: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga
6:67) Thật là căng thẳng! Thật là một thách đố lớn!
Trước sự im lặng đến ngộp thở, ông Phêrô lên tiếng: “Thưa Thầy,
bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống
đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng
Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6: 68-69) Chính Chúa Cha đã mạc khải tất cả sự thật
về Chúa Con. Thật vậy, “Không ai đến được với Thầy, nếu Chúa Cha không ban ơn
ấy cho.” (Ga 6:65) Bởi đó, niềm tin là một ân sủng vô cùng cao quí. Đến với Đức
Giêsu tưởng như một hành vi đơn giản. Thực tế phải có một sức mạnh nội tại phát
xuất từ Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tin vào Lời Chúa và sự hiện diện đích
thực của Chúa nơi con người Đức Giêsu và nhất là trong bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu hiện diện thật trong bí tích Thánh Thể. Nhưng sự hiện
diện đó vẫn khác với sự hiện diện trong thân xác tại thế của Đức Giêsu. Nói
khác, “thịt và máu” chỉ hiện diện một cách bí tích trong “bánh hằng sống”. Đây
là một sự hiện diện sâu xa và đích thực. Bên ngoài chỉ là một tấm bánh hay một
chén rượu. Nhưng dấu chỉ bên ngoài đó nói lên sự thật lớn lao bên trong. Đức
Giêsu trở thành của ăn thức uống nuôi sống muôn dân khỏi cơn đói khát thiêng
liêng. Bởi đó lấy sự hiểu biết bình thường để đo thực tại Thiên Chúa, con người
sẽ bất lực. Trái lại phải có sức mạnh Thần khí mới có thể hiểu nổi Lời Chúa.
Thực vậy, “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy
nói với anh em là thần khí và là sự sống.” (Ga 6:63) Bản chất Lời Chúa là thần
khí mà lại lấy con mắt xác thịt để nhìn, thật là không cân xứng. Xác thịt chỉ
dẫn đến xác thịt, hoàn toàn bất lực trước những đòi hỏi của Thần khí. “Vì chữ
viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống.” (2 Cr 3:6)
Những người còn ở lại với Chúa vì đã chấp nhận Lời Chúa và tin
vào sự hiện diện đích thực của Người trong “bánh hằng sống”. Họ đã hiểu Lời
Chúa dưới lăng kính Thần khí. “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không
thuộc về Đức Kitô.” (Rm 8:9) Đó là lý do tại sao “nhiều môn đệ rút lui” (Ga
6:66) và nhiều người “lấy làm chướng” và “xầm xì về vấn đề ấy.” (Ga 6:61) Thần
Khí sẽ làm im bặt mọi tiếng xầm xì và nghi hoặc, vì Người chính là sức mạnh của
Chúa Cha kéo ta lại gần Đức Kitô. Thần Khí không pha chút vẩn đục mới thấy hết
được chiều sâu Lời Chúa. Xác thịt không có độ trong suốt đó để thấy tất cả sự
thật. Thách đố chính là cuộc đối đầu giữa Thần Khí và xác thịt. Người môn đệ
Đức Giêsu luôn bị đặt trước sự lựa chọn.
Ngày xưa, dân Do thái cũng đứng trước lựa chọn lớn lao đó. Ông
Giôsuê đã lên tiếng trước toàn dân: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa,
thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ... Về phần tôi và gia đình tôi,
chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa.” (Gs 24:15) Giữa bao nhiêu cám dỗ, dân Do thái
đã có lúc nghiêng ngả. Đã đến lúc họ phải dứt khoát. Oâng Giôsuê “đã cho họ một
cơ hội để canh tân giao ước Sinai (Xh 19-24)” (Faley 1994:557) Họ đã nhớ lại
tất cả sự nghiệp hiển hách Chúa đã làm trên đường về Đất Hứa. Tất cả đều lặp
lại lời tuyên xưng đức tin như ông Giôsuê: “Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ
phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.” (Gs 24:18b) Tất cả
lịch sử Do thái đều xây trên lời tuyên tín này. Như vậy ông Giôsuê đã chinh
phục được toàn dân về cho Chúa. Nhưng suốt lịch sử không phải lúc nào niềm tin
cũng trong sáng như vậy. Cuộc thách đố không bao giờ chỉ đến một lần. Trái lại,
cuộc phấn đấu dai dẳng suốt bốn mươi năm trên sa mạc là cuộc phấn đấu với niềm
tin.
Những sự kiện trái ngược
Các môn đệ Đức Giêsu còn phải phấn đấu cam go hơn nữa khi Đức
Giêsu đòi hỏi phải tin “ai ăn thịt tôi và uống máu tôi...” (Ga 6:54) Ngày xưa,
sau khi Người công bố về bánh hằng sống, “nhiều môn đệ rút lui.” (Ga 6:66) Đức
Giêsu đã dám đánh đổi cả sự nghiệp lấy niềm tin đó. Giả sử lúc đó Chúa cũng
chiều theo thị hiếu quần chúng, thử hỏi hôm nay Người còn độ hấp dẫn không?
Chính vì niềm xác tín lớn lao đó, ngày nay Giáo hội vẫn còn là
điểm thu hút giới trẻ về với Đức Giêsu. Bằng chứng gần 3 triệu bạn trẻ khắp thế
giới đã tề tựu về Roma trong ngày Quốc Tế Giới Trẻ từ ngày 15 đến 20 tháng 8
năm 2000 để lắng nghe Lời Chúa và tìm kiếm Đức Giêsu. Một biến cố lớn lao vượt
ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Các bạn trẻ đã tuốn về Roma với niềm phấn
khởi hân hoan. Họ đã đi bộ hằng chục cây số để vác tượng thánh giá theo gót Đức
Giêsu. Họ đã quì gối giữa phố xá để cùng đọc kinh Truyền tin lúc 12 giờ trưa
giữa những tiếng chuông nhịp nhàng nơi kinh thành ánh sáng đó. Để chuẩn bị cho
ngày Đại Hội, hằng chục ngàn bạn trẻ đã phải làm việc mệt nhọc hằng tháng hay
hằng năm trước. Các bạn trẻ hoàn toàn thoải mái vì được ăn uống ngủ nghỉ hoàn
toàn miễn phí. Đại hội đã chuẩn bị 9 triệu bữa ăn cho các bạn trẻ. Có đủ dịch
vụ y tế và vệ sinh đáp ứng nhu cầu của các bạn. Các nhà dân chúng ở Roma đã mở
rộng cửa đón tiếp các bạn. Cả Đức Giáo Hoàng cũng đón tiếp 15 bạn trẻ vào ở
chung với Người. Nhiều bạn trẻ thuộc thế giới thứ ba đã được bao vé máy bay về
Roma. Các ân nhân đã đóng góp 3.5 triệu đô la giúp đỡ các bạn trẻ. Thật là một
ngày vui lớn có tầm mức quốc tế. Niềm vui có thể đo lường được bằng những màn
hội diễn văn nghệ, nhảy múa, ca hát. Tất cả đều tìm thấy nhau trong niềm vui
hòa hợp với nhau và nhất là với Thiên Chúa. Có khoảng 2.000 linh mục sẵn sàng
đáp ứng nhu cầu hòa giải nơi 300 tòa cáo giải ngay tại quảng trường Colossê.
Cũng trên chính quảng trường đó, trước đó hơn một tháng, nghĩa
là ngày 8 tháng 7 năm 2000, một cảnh tượng trái ngược đã diễn ra. Cũng một Đại
Hội Giới Trẻ. Cũng vào đầu thế kỷ 21. Những chuẩn bị cũng rất công phu. Ước
vọng cũng rất lớn. Người ta hi vọng một triệu người trẻ đồng tính luyến ái sẽ
qui tụ về Roma để biểu tình phản đối Tòa Thánh Vatican. Kết quả sau những ngày
kêu gọi ầm ĩ và chuẩn bị rầm rộ, chỉ non 7000 bạn trẻ tham dự. Còn đâu hứa hẹn
tự do đáp ứng mọi nhu cầu ăn chơi của tuổi trẻ bằng thế giới những người đồng
tính luyến ái? Các bạn trẻ không nghe thấy tiếng kêu gào của những người tổ
chức hay sao? Trong khi đó, một tiếng kêu gọi của một cụ già 80 tuổi đã được
các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt. Gần 3 triệu bạn trẻ nghe tiếng nói của lẽ
phải. Chưa tới 7000 nghe theo những hò hét điên cuồng. Nguyên con số cũng cho
thấy thất vọng về tuổi trẻ là một sai lầm. Tuổi trẻ là niềm hi vọng lớn lao!!!
13. Lời ban sự sống.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chẳng nên ngạc nhiên nếu có lúc đức tin gặp khủng hoảng.
Cả lịch sử Cựu Ước đong đưa giữa tin và không tin.
Khi Đức Giêsu đến, người ta phải đứng trước một lựa chọn: tin
hay không tin vào Lời Ngài, vào con người Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một kinh nghiệm về khủng hoảng
đức tin nơi chính các môn đệ. Kinh nghiệm ấy thật gần gũi với con người hôm
nay.
Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?
Đó là phản ứng của các môn đệ ngày xưa khi nghe Thầy Giêsu vén
mở căn tính của Thầy. Thầy khẳng định mình từ trời mà xuống (Ga 6,38), và Thầy
sẽ trở lại nơi Thầy đã ở trước kia (c.62), sau khi hiến mình chịu chết cho nhân
loại (c.51) và nuôi nhân loại bằng chính máu thịt mình (c.53).
Hôm nay chúng ta vẫn có thể thấy chúng chướng tai. Mầu nhiệm
Nhập thể, mầu nhiệm Tử nạn của Con Thiên Chúa, bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm
Chúa về trời: đó vẫn là và mãi mãi là những mầu nhiệm khôn dò.
Phải yêu mến mới hiểu được, mới chấp nhận được.
Hôm nay vẫn có câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vì
chướng tai, chướng cả với suy nghĩ và tình cảm của ta. Lời Chúa đòi tôi đi xa
hơn và bắt tôi điều chỉnh lại mối tương quan đã có với Chúa.
Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Ngài nữa. Họ đã đi với
Ngài một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới
cùng cuộc phiêu lưu này.
Trở nên môn đệ hay trở nên một Kitô hữu không phải là một bảo
đảm chắc chắn mình sẽ trung tín mãi mãi với Đức Kitô.
Trở nên môn đệ là bước vào cuộc phiêu lưu, là khám phá ra một
Đức Kitô luôn luôn mới, là để Ngài từ từ đưa ta đi sâu vào mầu nhiệm hơn.
Cuộc phiêu lưu nào cũng có chút rủi ro, cũng đòi chút liều lĩnh,
vì đây là cuộc phiêu lưu của tình yêu, của lòng tin.
Đã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại
cũng có kẻ phản bội. Để khỏi bỏ cuộc, cần bỏ mình...
Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?
Đại diện Nhóm Mười Hai, Phêrô bày tỏ thái độ ở lại. Không phải
vì ông và các bạn hiểu được lời Thầy Giêsu, nhưng vì họ tin vào con người của
Thầy, tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã cho dân ăn no nê, Đấng đã
đi trên biển. Lòng tin này khiến họ chấp nhận cả những lời chướng tai.
Lời chướng tai là lời đem lại sự sống đời đời.
Nhiều bạn trẻ hôm nay cô đơn, nhưng không biết đến với ai. Hãy
cùng nhau đến với và ở lại bên Thầy Giêsu, Ngài sẽ không làm chúng ta thất
vọng.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Giới trẻ hôm nay khó tin vào Thiên Chúa, vào Đức Kitô, vào
tương lai tươi sáng, vào tình bạn bền lâu, vào tình yêu chung thủy..." Bạn
nghĩ gì về nhận xét này? Nhận xét này có đúng cho giới trẻ ở Việt Nam không?
Ở một số nước phương Tây, đang rộ lên cả ngàn giáo phái. Người
trẻ bị mê hoặc đến độ cuồng tín bởi các vị tự xưng là giáo chủ. Bạn nghĩ gì về
hiện tượng này? Đâu là nguyên nhân và cách giải quyết?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa
thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không
là của Chúa. Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương
vào một mình Chúa. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con
sinh thêm hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn
về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán
khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và
thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
14. Hành trình đức tin – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
Đức tin là một con đường: con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một
con đường dài. Vì ta sẽ phải đi suốt cuộc đời mới hết. Đường đức tin có những
quãng đầy hoa thơm cỏ lạ và tiếng chim hót véo von. Đó là những khi niềm tin
dâng đầy. Ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự
diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian
nan đầy chông gai sỏi đá. Ta gặp khó khăn thử thách. Ta gặp đau khổ thất bại.
Ta không tìm đâu ra lối thoát. Ta như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh
sáng nào soi đường dẫn lối. Đó là khi niềm tin bị thử thách, bị nghiêng ngả
chao đảo. Ta cảm thấy mệt mỏi chán chường. Ta muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác.
Ta bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn.
Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm
nay.
Khi Đức Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm
tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi mừng vui. Họ tin tuyệt đối
rằng Người chính là Đấng Cứu Thế đến cứu dân tộc Do Thái. Niềm tin của họ mạnh
mẽ đến nỗi khi Đức Giêsu trốn đi, họ vẫn đuổi theo sát nút với ý định tôn Người
lên làm vua cai trị họ.
Thế mà hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu
tôi, thì được sống muôn đời”, đám đông đã bỏ Chúa. Một số môn đệ cũng bỏ Chúa
mà đi. Đức tin bồng bột tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm
trước nay đã tan tành như mây khói. Sự gắn bó tưởng chừng như không gì chia cắt
nổi bỗng trở nên nhạt nhẽo lạnh lùng. Đức tin gặp thử thách và họ đã không đủ
mạnh tin để vượt qua thử thách. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn
bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín. Người không
vì thế mà nói những lời nhẹ nhàng hơn. Đức tin phải trải qua thử thách. Lửa thử
vàng, gian nan thử lòng trung tín. Chỉ có những người bạn trung thành qua những
khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp
mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa.
Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên
xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng
các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Thế mới gọi là tin. Vì chưa thấy nên
mới cần tin. Đã thấy rõ, đã biết rõ thì đâu cần tin nữa. Tuy nhiên niềm tin
không phải là cái gì vô lý. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra
nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nuớc, các ông hoàn toàn có cơ sở
để đặt niềm tin nơi Người. Đó là hai khía cạnh trái ngược của niềm tin. Tin là
một ngọn đèn soi cho ta bước đi trong đêm tối. Ngọn đèn chỉ sáng đủ cho ta bước
đi từng bước nhỏ trong niềm tin. Nhưng màn đêm vẫn tăm tối đủ cho ta nghi ngại.
Chính vì thế mà niềm tin mới có giá trị và cần thiết.
Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi
người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ
dàng. Nhưng vẫn tin tưởng gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử
thách đó mới thật sự là niềm tin chân chính.
Hành trình đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ không khác hành
trình đức tin của các Tông đồ. Có những thời gian thuận lợi, ta thấy niềm tin
dâng cao mãnh liệt. Khi ấy Lời Chúa là những lời êm ái ngọt ngào làm phấn chấn
lòng ta. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời
Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa.
Nhưng rồi tới những ngày u ám tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung
lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy Lời Chúa làm cho cuộc
đời ta mất bình an. Lời Chúa gõ vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa
gõ vào sức khoẻ ta. Lời Chúa gõ vào gia sản ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu
tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những
lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Tin Mừng
hôm nay.
Trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ
đên những lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử
thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng
hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực.
Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa
như thánh Phêrô: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời
ban sự sống đời đời”. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đã có khi nào bạn cảm thấy niềm tin chao đảo, lung lay? Bạn
đã làm gì để vượt qua những giờ phút khó khăn đó?
2- Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Bạn có xác tín điều đó không?
3- Sau khi những khó khăn qua đi, bạn nhìn thấy tất cả đều là ơn
Chúa. Bạn có kinh nghiệm đó không?
15. Trung thành theo Chúa.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cha Maurice Zundel đã kể một câu chuyện: Trong căn phòng chỉ còn
lại hai người: linh mục phụ trách tu viện và viên sĩ quan Xô Viết. Viên sĩ quan
nói: Hiện giờ chỉ có hai chúng ta. Ông và tôi, không một ai chứng kiến. Vậy ông
hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả. Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất
cả những chuyện về Chúa, Mẹ, trong tôn giáo mà ông vẫn tuyên xưng phải không?
Linh mục đáp: Có, tôi tin chứ!
Viên sĩ quan buông súng xuống, ôm chầm lấy người linh mục. Ông
reo lên: Quả thật, đây là điều tôi trông đợi. Đây là người tìm kiếm. Vâng, thưa
cha, bây giờ thì tôi cũng thế: Tôi tin Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Có lẽ vị linh mục trong tu viện đó đã từng xác định sự chọn lựa
đi theo Chúa của mình, nên cha mới có được một phản ứng dứt khoát, kiên trung,
điềm nhiên đến như thế. Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta xác định lại sự
chọn lựa của chúng ta.
Bài đọc 1 đã cho ta thấy, bốn mươi năm về trước, dân Do Thái đã
cam kết chọn Thiên Chúa trong Giao Ước tại núi Sinai. Nhưng hôm nay họ đã đặt
chân và Đất Hứa, nhưng năm tháng rong ruổi trong sa mạc đã qua, những ngày
tháng đói khát thiếu thốn đã chấm dứt, và từ nay họ bắt đầu cuộc sống định cư,
đất đai phì nhiêu, cuộc sống thoải mái. Trước hoàn cảnh mới này, niềm tin của
họ có còn mạnh mẽ sốt sắng như xưa hay đã sớm bỏ quên Chúa để chạy theo các
thần địa phương. Ông Giôsê, mà cả toàn dân đã nói lên sự chọn lựa dứt khoát:
“Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác”.
Khi Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hoá nhiều, dân chúng theo Chúa
rất đông. Nhưng từ phép lạ ấy, Chúa dẫn họ đến lương thực hằng sống: “Ai ăn
thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời”. Nhưng họ cho rằng “lời này chói
tai quá, ai mà nghe được”. Nên từ lúc đó, có nhiều người rút lui không còn theo
Chúa nữa. Bấy giờ Chúa đặt thẳng vấn đề với nhóm Mười Hai: “Cả anh em cũng muốn
bỏ đi hay sao?”. Nhưng Phêrô đã đại diện các Tông Đồ xác định sự chọn lựa của
mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai bây giờ? Thầy mới có những
lời ban phúc trường sinh”.
Thưa anh chị em,
Sống trong một thế giới đổi thay không ngừng, con người dễ bị
lôi kéo vào thái độ thay lòng đổi dạ. Ngày nay con người gặp nhiều thứ khủng
hoảng, trong đó khủng hoảng về lòng trung thành là một vấn đề quan trọng. Các
hợp đồng kinh tế bị vi phạm, giao ước hôn nhân bị đổ vỡ, tình bạn bị phản bội.
Ngay cả các Kitô hữu nhiều lúc cũng bị cám dỗ bỏ Chúa hoặc không sống đúng ơn
gọi của mình, nhất là khi đứng trước một biến cố hay một hoàn cảnh; một thử
thách hay một cám dỗ; một nỗi buồn hay một niềm vui… Xã hội Việt Nam hôm nay
đổi thay từng ngày, và sự đổi thay nhanh chóng ấy đang tác động mạnh trên đời
sống đức tin của các Kitô hữu. Ảnh hưởng tích cực có, mà tiêu cực cũng nhiều.
Khá nhiều Kitô hữu trước kia là những người đạo đức, nhưng nay không còn đứng
vững trước sức tấn công của nền kinh tế thị trường, của tiền bạc, lạc thú, công
việc kinh doanh. Có những người đang từ nghèo thành giàu mà quên Chúa. Và ngược
lại, một số khác đang từ giàu thành nghèo cũng bỏ Chúa. Nhiều người không còn
muốn bước theo Chúa vì không thể chấp nhận được những nỗi ô nhục của thập giá
trong đời mình. Cũng như những người không còn muốn trung thành với giáo huấn
của Hội Thánh vì “lời này chói tai quá, ai mà nghe cho nổi?” Người môn đệ Chúa
Kitô cần xác định lại để trung thành bước theo Chúa.
Từ lòng trung thành với Chúa sẽ dẫn đưa con người đến lòng trung
thành với nhau, nhất là trong đời sống gia đình. Đời sống gia đình hôm nay của
đang gặp khủng hoảng. Người ta cam kết thề hứa trung thành suốt đời, nhưng chỉ
đi với nhau một đoạn đường ngắn để rồi sau đó chia tay nhau. Thánh Phaolô hôm
nay mời gọi các bậc vợ chồng ngước nhìn lên mầu nhiệm Chúa Kitô yêu thương Hội
Thánh để trung thành trong tình yêu hôn nhân.
Anh chị em thân mến,
Chúa muốn chúng ta trung thành và chúng ta cũng muốn trung
thành. Nhưng trung thành bước theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Quả vậy, có
những lúc ta cảm thấy mình quá yếu đuối, tầm thường, quá bé nhỏ mỏng manh trước
sức tấn công của thử thách, của cám dỗ, của tiện nghi vật chất, tiền bạc, thú
vui sắc dục, danh vọng, quyền lực…. Chỉ có ơn Chúa mới có thể giúp ta trung
thành đi theo Chúa: “Thần Khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì…
không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơi ấy cho”. Thánh Phêrô đã
nhìn lên Chúa, để tiếp tục chọn lựa đi theo Chúa: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng
con biết đi theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh” Quả
thực, Thánh Phêrô đã cảm nhiệm được Lời Chúa là ánh sáng, là niềm vui, là sự
sống và Ngài đã an tâm tín nhiệm vào Chúa. Cũng thế, ở đại hội Sikem, dân Do
Thái kiên quyết chọn Chúa vì đã nhận biết những việc kỳ diều Chúa đã làm khi
giải phóng họ khỏi nô lệ Ai Cập và đưa về Đất Hứa.
Mỗi người chúng ta hôm nay phải đích thân nói lên lời cam kết
trong ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi hôn nhân hay ơn gọi dâng hiến. Chúng ta muốn chọn
lựa một cách dứt khoát và vĩnh viễn, dù hôm nay ta chưa biết hết được những gì
sẽ đến trong ngày mai. Sự chọn lựa ấy đòi ta tín trung. Và để tín trung trong
ơn gọi, ta cần bắt đầu lại mỗi ngày, chỗi dậy mỗi ngày để “trung thành với tình
yêu ban đầu” (Kh 2,4).
Chúa Giêsu Thánh Thể tự hiến trên bàn thờ và ở lại với chúng ta
mọi ngày cho đến tận thế chính là bằng chứng của tình yêu trung thành. Chúa là
nguồn sự sống luôn luôn tươi mới và là nguồn động lực để ta mãi mãi trung thành
đi theo Chúa.
16. Hãy làm điều bạn có thể – Gm.
Arthur Tone.
John là một người thanh niên, chàng lần lần rời xa Giáo Hội.
Chàng không đi lễ nữa, không chịu các bí tích. Trong thế chiến thứ hai, khi
chàng đăng ký nhập ngũ, sự lo âu của mẹ chàng tăng thêm: Nếu chàng bị chết thì
sao? Linh hồn chàng sẽ ra sao? Khi chàng chuẩn bị lên đường. Mẹ chàng nói với
chàng: “John ơi, mẹ muốn con làm cho mẹ một việc”. John hỏi: “Cái gì đó, mẹ?”.
“Mẹ muốn con đọc ít nhất mỗi ngày 1 lần kinh Kính Mừng. Hãy đọc,
bất kể con bận hay con mệt tới mức nào”. Một chút do dự, John đã hứa.
Trải qua năm, tháng. Những bức thơ của John thưa dần. Một ngày
kia một bức thơ của cha tuyên úy cho hay John bị thương nặng và chàng đã xin
chịu các phép bí tích. May mắn, John bình phục. Trong bức thơ đầu về nhà, chàng
viết: “Mẹ ơi, cám ơn mẹ đã bảo con làm lời hứa ấy. Con đã giữ. Mỗi lần có dịp
con đi lễ và rước lễ”.
Mỗi vị linh mục đều đã nghe những câu chuyện như thế. Nó làm tôi
nghĩ ngay: Dẫu một linh hồn trôi dạt xa Chúa bao xa. Nếu họ giữ một liên hệ nào
đó với Chúa dù chỉ một kinh Kính Mừng một ngày, có hy vọng và có cơ may linh
hồn ấy sẽ dần tìm đường trở về với Chúa.
Như rất nhiều người Công giáo ngày nay, John đã bắt chước những
người môn đệ trong Tin Mừng hôm nay: Họ không đến với Chúa nữa. Những môn đệ ấy
từ chối tin rằng Đức Kitô có thể lấy thịt sống của riêng Ngài cho họ ăn, Máu
Ngài cho họ uống. Dẫu rằng họ đã thấy với 5 cái bánh, Đức Giêsu đã làm cho
5.000 người ăn no và họ đã thấy Người đi trên mặt nước.
Hầu hết những lý do người Công giáo xa lìa Giáo Hội có liên quan
tới điều này. Thí dụ: “Thánh Lễ không liên hệ đến tôi”. Họ muốn nói Thánh Lễ
không cho họ một rung động thể lý hay xúc cảm. Họ làm gì thay vào đó? Không làm
gì cả. Kinh nghiệm cho thấy những người như vậy thường không đọc lấy một kinh,
điều đó không lạ. Họ phải nói điều các Tông đồ đã nói với Chúa Giêsu: “Chúng
con biết theo ai?”. Điều này áp dụng đặc biệt cho người Công giáo kết hôn ngoài
Giáo Hội, và họ không thể lãnh các bí tích. Hầu hết mọi nơi, họ chẳng làm gì
cả.
Quan điểm của tôi là người ta phải làm cái gì họ có thể làm
được, điều này đem lại sự nâng đỡ và ơn của Chúa.
Đây là mấy đề nghị: Hãy đọc kinh “Lạy Cha”, kinh “Kính Mừng”.
Hãy cầu nguyện bằng ngôn ngữ của riêng bạn như: “Lạy Chúa, xin giúp con làm mọi
cái con có thể, để làm vui lòng Chúa”.
Bạn để ý cho con em của bạn để chỉ dạy về tôn giáo. Chính bạn
phải dạy chúng. Hãy tham gia công việc của họ đạo. Bố thí cho người nghèo,
người túng thiếu. Hãy giữ luật Chúa, những luật bạn có thể giữ được.
Rất thường xảy ra là một người Công giáo, khi họ nghĩ họ không
thể giữ một giới răn nào đó của Chúa, họ sẽ gác bỏ tất cả mọi giới răn của Chúa
qua một bên.
Bạn hãy làm những gì bạn có thể làm được, nhất là cố gắng tham
dự Thánh Lễ mỗi ngày Chúa Nhật. Nếu bạn không thể rước lễ, bạn hãy rước lễ
thiêng liêng. Nghĩa là bạn hãy thưa với Chúa Giêsu rằng bạn muốn rước Người vào
trái tim bạn. Hãy thưa với Người rằng bạn hối hận vì tội lỗi của bạn, bạn ước
ao Người đến với bạn một cách thiêng liêng. Bạn đón tiếp Người.
John trong câu chuyện chỉ làm một việc rất nhỏ là đọc mỗi ngày
một kinh Kính Mừng. Chúa đã thưởng anh. Bạn hãy làm những gì bạn có thể làm
được. Chúa sẽ thưởng bạn.
Xin Chúa chúc lành bạn.
17. Lời Chúa là thần trí và là sự sống – Noel Quesson.
Một người vô tín ngưỡng dừng chân ở một nông trại bên Hòa Lan,
anh lớn giọng với ông chủ trại:
- Chẳng bao giờ tôi tin điều gì tôi không hiểu.
Ông chủ nông trại nói:
- Điều này khó đấy. Này nhé, thí dụ trong trại này, cậu có thấy
đống cỏ không? Ngựa của tôi ăn cỏ, lớn lên lông nó mọc khắp mình. Con cừu ăn
cỏ, thế là nó có len. Con ngỗng của tôi ăn cỏ, cả mình nó đầy lông vũ. Cậu có
hiểu tại sao không nào?
Thực vậy, cho dù thông minh uyên bác đến mấy, người ta cũng
không thể hiểu rõ toàn bộ những hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên. Một số
kiến thức khoa học, chúng ta cũng chỉ nghe nói lại chứ đâu phải ta đích thân
thí nghiệm và biết cặn kẽ chính xác. Vậy mà chúng ta vẫn tin. Chúng ta tin có
vi trùng, tin trái đất tròn, tin nước gồm hai thành phần khí hợp lại…
Từ lãnh vực tự nhiên bước sang siêu nhiên cũng vậy. Không ai
hiểu được các mầu nhiệm trong đạo. Chúng ta tin là vì Chúa dạy, vì Chúa thấu
suốt mọi sự và cũng vì yêu thương ta, Chúa đã tỏ bày cho chúng ta. Đó là căn
bản của mọi niềm tin.
Mầu nhiệm Thánh Thể là mầu nhiệm mà Chúa Giêsu đích thân dạy dỗ.
Thánh Gioan đã nghe và tường thuật cho chúng ta khá đầy đủ. Nhưng chính Gioan
cũng như đa số người nghe Chúa, không ai hiểu hết được. Họ đã chia ra làm hai
phe. Một phe tỏ ra khó chịu, cho rằng những lời này làm chói tai, họ đã bỏ đi.
Một phe thiểu số còn lại cũng không hiểu gì mấy, nhưng vẫn tin vào Chúa vì tin
Ngài là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa hằng sống. Chúa biết trình độ hiểu biết
hữu hạn của con người, kể cả những nhà hiền triết Đông Tây, nên Chúa đòi hỏi
phải có lòng tin, tin vào Lời Ngài.
Thầy nhiều người bỏ đi, Chúa buồn lắm, nhưng Chúa không rút lại
lời đã khẳng định. Chúa cũng không níu kéo họ, vì lòng tin phải được biểu lộ
hoàn toàn tự do. Niềm tin đòi hỏi ta vượt trên ánh sáng khoa học. Không phải
chỉ học hỏi về lòng tin mà là dấn thân, là thực hành trong cầu nguyện, trong
việc đón nhận lời mạc khải từ Thiên Chúa. Lắng nghe Lời Chúa và làm theo Lời
Chúa dạy, từ đó sẽ có lòng tin, một lòng tin chính Chúa ban tặng cho. Lòng tin
vào Thánh Thể, có thể nói được là lòng tin trung tâm của đời sống Kitô hữu đến
nỗi người ta thường gọi người giữ đạo là những người có đi lễ. Lòng tin vào
Thánh Thể gồm hai khía cạnh rõ rệt: thứ nhất là ăn bánh sự sống; thứ hai là
chia sẻ sự sống Đức Kitô, Ngài là tình yêu hiện thực.
Lòng tin như thế, nhất thiết phải xây dựng trên Lời Chúa, phải
tiếp nhận Lời Chúa với lòng mến yêu tôn kính. Vì “Lời Chúa là Thần Trí và là Sự
Sống”. Đó là một tâm tình cần phải có khi đọc Tin Mừng. Chúa Giêsu thường được
kể là một vĩ nhân, một học giả, một ngôn sứ, một nhà giải phóng… Nhưng còn hơn
thế nữa, Chúa là Thiên Chúa yêu thương.
Lạy Chúa, bỏ Ngài, chúng con biết theo ai? Vì Ngài có những lời
hằng sống. Chúng con tin nhận Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Xin thêm lòng
tin cho chúng con và giúp chúng con chia sẻ tình thương Chúa cho mọi người
trong cuộc sống bác ái hôm nay.
18. Dứt khoát theo Chúa.
Sau khi rao giảng về Bí tích Thánh thể, dân chúng và ngay cả một
số đông môn đệ đã lấy làm chướng tai gai mắt và khó nghe, nên đã lìa bỏ Chúa.
Thấy vậy, Chúa bèn quay về với nhóm Mười Hai. Ngài đòi các ông phải có thái độ
và lập trường dứt khoát, Ngài hỏi các ông:
- Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
Và như thế chúng ta đã thấy, Phêrô thay mặt cho tất cả anh em
trong nhóm đã thưa lên cùng Chúa:
- Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới
có những lời ban sự sống đời đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ, một lần khác, khi thầy trò tới địa hạt xứ
Cêsarêa Philipphê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ:
- Người ta bảo con người là ai?
Các ông đã lượm lặt dư luận đó đây và thưa lên cùng Chúa:
- Người thì bảo là Êlia, người thì bảo là Giêrêmia, người thì
bảo là một tiên tri nào đó và kẻ khác lại nói là Gioan tẩy giả.
Có lẽ lúc bấy giờ, Chúa Giêsu đã nhìn các ông và đặt một câu hỏi
nòng cốt, đòi các ông phải bày tỏ lập trường:
- Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Và Phêrô cũng thay mặt cho anh em trong nhóm tuyên xưng đức tin:
- Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.
Xuyên qua những lời giảng dạy, Chúa Giêsu bao giờ cũng đòi hỏi
nơi những người muốn bước theo Ngài một thái độ dứt khoát, một lập trừờng rõ
rệt. Ngài bảo:
- Ai yêu thương cha mẹ, vợ con, tiền bạc nhà cửa hơn Ta, thì
không xứng đáng làm môn đệ Ta. Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì nếu yêu chủ
này thì sẽ ghét chủ kia, cũng vậy không thể làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền
bạc. Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Sở dĩ như vậy là vì tinh thần của Chúa thì trái với tinh thần
của thế gian như lửa với nước, như ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là theo trót
cả tâm hồn, chứ không thể trung lập, lửng lơ, đi nước đôi và bắt cá hai tay.
Cựu ước có kể lại một mẩu chuyện như sau: Ngày ấy, Giosuê triệu
tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem và ông nói với họ:
- Hôm nay các ngươi hãy lựa chọn, một là thờ phượng Đức Giavê,
hai là thờ phượng các thần của dân ngoại. Riêng phần tôi và gia đình, chúng tôi
nhất quyết chỉ thờ phượng một mình Đức Giavê mà thôi.
Bấy giờ dân chúng trả lời rằng:
- Không hề có chuyện chúng tôi lìa bỏ Đức Giavê mà tôn thờ những
thần dân ngoại. Đức Giavê là Thiên Chúa của chúng tôi, chính Ngài đã dẫn chúng
tôi ra khỏi đất Ai Cập, đã làm những việc kỳ diệu trước mặt chúng tôi và đã gìn
giữ chúng tôi suốt những con đường chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi chỉ phụng thờ
Đức Giavê vì chỉ mình Ngài là Thiên Chúa chúng tôi.
Có lẽ giờ đây Chúa Giêsu cũng nhìn mỗi người chúng ta và muốn
chúng ta tỏ bày cái thái độ dứt khoát. Thế nhưng, có lẽ chúng ta đã phải cúi
mặt xuống, bởi vì mặc dù mang tiếng là người có đạo, là kẻ đã tin theo Chúa,
nhưng cuộc đời chúng ta vẫn còn chồng chất quá nhiều tội lỗi, bản thân chúng ta
vẫn thường xuyên nhượng bộ cho những cám dỗ, những khuynh hướng xấu xa. Chúng
ta vừa muốn phụng thờ Chúa, vừa muốn phụng thờ ma quỷ. Vừa muốn bước theo Chúa
lại vừa muốn phạm tội.
Chúng ta giống như người tân tòng khi được ghìm xuống nước để
lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì ông cứ giơ một bàn tay lên cao. Vị linh mục bèn
hỏi tại sao, thì ông trả lời:
- Con muốn tin theo Chúa thật đấy, nhưng lại muốn dành bàn tay
này cho tội lỗi, để khi bàn tay này ăn trộm ăn cắp, gây gỗ đánh lộn thì nó
không thuộc về Chúa.
Hãy có một thái độ và một lập trường dứt khoát. Hãy dâng hiến
cho Chúa trọn vẹn cả tâm hồn lẫn thể xác bởi vì nếu chúng ta nói rằng mình yêu
mến Chúa, mà còn giữ lại một xó góc con tim cho tội lỗi, dù là một xó góc nhỏ
bé nhất, thì đó là một dấu chỉ chắc chắn nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến
Chúa.
Ba bài Tin Mừng của ba Chúa nhật trước đã thuật lại bài giảng
của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống và cho biết thái độ cũng như phản ứng của
dân chúng. Mặc dầu được thấy các sự lạ, được ăn bánh hóa nhiều, nhưng khi nghe
Chúa nói Ngài là manna mới, là bánh bởi trời đích thực, Ngài bởi trời xuống,
thịt Ngài thật là của ăn, máu Ngài thật là của uống, ai ăn thịt Ngài và uống
máu Ngài thì sẽ được sự sống đời đời… họ lẩm bẩm với nhau, xô xát nhau và phản
đối Chúa dữ dội, họ đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và cũng chính là ý nghĩa mà
Chúa muốn nói, nên chẳng những Chúa không cải chính mà còn giải thích rõ hơn và
nhấn mạnh hơn, nên có nhiều người đã bỏ đi không nghe Chúa nói nữa.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại phản ứng của các môn đệ nói chung và
của nhóm 12 tông đồ nói riêng, mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và
giải thích thêm. Trước hết, nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng
như những người Do Thái khác: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”, họ lẩm bẩm
với nhau như thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa
giải thích thêm cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu xa hơn vào bản thân và
sứ mạng của Ngài. Nhưng có nhiều môn đệ đã rút lui không đi theo Chúa nữa. Như
vậy, không những dân chúng chán ngán vì những lời Chúa Giêsu tuyên bố với họ,
mà cả các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã
bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm 12, những người được coi là thân tín
nhất của Chúa. Những người này đã có thái độ thế nào hay phản ứng của họ ra
sao? Ông Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: Họ không bỏ
Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban
sự sống đời đời. Như vậy, ông Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên lời tuyên
xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tin vào sứ mạng
của Ngài, Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời.
Như vậy, qua bài giảng về Bánh Hằng Sống, chúng ta thấy đám đông
dân chúng vì thấy Chúa không đáp ứng nguyện vọng của họ, nên lẩm bẩm, không tin
và bỏ đi. Ngay cả các môn đệ cũng bỏ Ngài, vì không chấp nhận nổi những lời
tuyên bố của Ngài, họ cũng thất vọng và bỏ đi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn còn
một niềm an ủi, đó là các tông đồ thân tín, vẫn cương quyết đi theo Ngài và tin
vào lời Ngài.
Nhìn về chúng ta, đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người phải đích
thân chọn lựa. Đành rằng cộng đoàn đức tin nâng đỡ mỗi người sống đức tin,
nhưng mỗi người phải đích thân dứt khoát: đứng lại với Chúa không phải chỉ vì
thấy người khác còn đứng lại hay vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng
đứng lại với Chúa vì tin rằng Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không
còn ai khác để mình đi theo, tức là đòi hỏi chúng ta phải luôn trung thành với
Chúa dù gặp hoàn cảnh nào cũng vậy, chẳng hạn như ông Ma-ranh trong câu chuyện
sau:
Thời vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có một sĩ
quan tên là Ma-ranh, xuất sắc, lừng danh, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết
Ma-ranh sắp được thăng đại tướng, chính ông cũng rất hy vọng như thế. Nhưng
Ma-ranh là người Công giáo tốt, suốt đời ông chỉ xin ơn trung thành với lời hứa
ngày chịu phép Rửa tội. Khi ấy, một trong các đại tướng Rôma chết bất ưng. Hôm
sau, vị toàn quyền mời Ma-ranh đến vui vẻ nói: “Tôi vừa được lệnh nhà vua gọi
ngài lên chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài,
nhưng nghe đâu ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không chịu để một người
Công giáo nào trong sĩ quan quân đội hoàng gia, vậy xin ngài nói cho biết ngài
có phải là người Công giáo không?”. Ma-ranh quả quyết: “Thưa, đúng thế, tôi là
người Công giáo”. Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: “Tôi cho ngài ba tiếng đồng
hồ để nghĩ lại, nếu chối Giêsu thì làm đại tướng, nếu không ngài phải chết”.
Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục
cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa
Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Kitô. Rồi vị giám mục rút thanh
gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: “Này ông
Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, phải chọn một trong hai, xin ông nhớ lại ngày rửa
tội, rồi tùy ý ông”. Ma-ranh mạnh mẽ cầm sách Tin Mừng nói: “Con thề trung
thành với Chúa, con xin trung thành”. Vị giám mục âu yếm nhìn Ma-ranh nói: Con
hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời con, ngày hôm nay là
ngày con đại thắng”. Và ngày hôm đó, Ma-ranh đã đổ máu vì đức tin Công giáo.
Trong những thế kỷ đầu của Giáo hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy
người có đạo anh dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự can đảm lạ lùng
ấy? Thánh Síp-ri-a-nô trả lời: “Chính nhờ Mình Thánh Chúa gìn giữ mà người có
đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy”. Đời vua Tự Đức, tổ tiên
chúng ta cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma, nhờ đâu? Nhờ rước
Mình thánh Chúa, trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều sau:
“Không được để cho người ta đem đến cho kẻ có đạo một thứ bánh mầu nhiệm gì đó,
vì thứ bánh ấy làm cho họ không biết sợ và vui vẻ chịu chết”.
Trong cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa chọn như ông
Ma-ranh hay không bị bách hại như các vị tử đạo, nhưng rất có thể có nhiều lựa
chọn khác hay những thử thách khác, đòi hỏi chúng ta phải sống ngay thẳng, công
bình, bác ái. Xin Mình Thánh Chúa mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh để
chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách ở đời này, nhất là về phương diện
đức tin.
20. Sống Lời Chúa.
Chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ, Chúa Giêsu vào trong hoang địa và bị cám
dỗ. Lúc bấy giờ ma quỉ hiện ra và nói với Ngài:
- Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy biến những hòn đá này trở
nên bánh mà ăn.
Sở dĩ ma quỉ cám dỗ Ngài như thế là vì nó biết sau 40 ngày đêm
ăn chay cầu nguyện, hẳn Ngài phải đói. Thế nhưng, Ngài đã thẳng thắn trả lời ma
quỉ:
- Con người ta không phải chỉ sống bởi bánh, mà còn sống bởi
những lời từ miệng Thiên Chúa phán ra.
Và qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng đã thấy: Sau phép lạ
bánh hóa nhiều nuôi năm ngàn người trong hoang địa, lợi dụng biến cố đó, Chúa
Giêsu đã giới thiệu với họ một thứ lương thực thiêng liêng bổ dưỡng cho tâm
hồn, đó là Mình Máu Thánh Ngài như lời Ngài đã phán:
- Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt
Ta và uống máu Ta sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời và Ta, ta sẽ
cho họ sống lại ngày sau hết.
Trước những lời giới thiệu đầy trang trọng ấy, một số các môn đệ
đã lấy làm chướng tai, không thể chấp nhận được, và thế là họ đã bỏ Chúa mà đi.
Bấy giờ Chúa Giêsu quay lại vànói với nhóm mười hai:
- Còn các con, các con không bỏ Thầy mà đi hay sao?
Phêrô bèn thay mặt cho nhóm nhỏ ấy mà tuyên xưng:
- Lạy Thầy, bỏ Thầy, chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy
mới có những lời ban sự sống đời đời.
Tuân giữ và thực thi lời Chúa truyền dạy là điều Ngài luôn luôn
nhấn mạnh và đòi buộc mỗi người chúng ta. Thực vậy, có lần Ngài đã phán:
- Không phải những kẻ nói rằng Lạy Chúa tôi mà được vào nước
trời, nhưng là những người tuân giữ những điều Ta truyền dạy.
Trước khi về trời, Ngài cũng đã căn dặn các môn đệ:
- Các con hãy đi giảng cho muôn dân, dạy họ tuân giữ những điều
Thầy đã truyền cho các con và đây Thầy ở cùng các con cho đến tận thế.
Sở dĩ, lời Chúa dẫn chúng ta tới cuộc sống vĩnh cửu vì lời Chúa
vạch ra cho chúng ta con đường phải đi và chính con đường ấy sẽ dẫn đưa chúng
ta trở về với Chúa. Như thế, việc tuân giữ lời Chúa sẽ là một bảo đảm chắc chắn
nhất cho chúng ta ơn cứu rỗi, cũng như niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Để kết luận, tôi xin kể lại một mẩu chuyện nho nhỏ:
Trong một xưởng thợ, người ta bàn tán và cho rằng tôn giáo, nhất
là Thiên Chúa giáo làm mê muội trí khôn, bức hiếp lẽ phải và làm sai lạc phán
đoán.Một anh công nhân nghe thế bèn góp ý:
- Đúng thế, đạo Chúa và lời Ngài đã làm cho tôi mất đi tất cả.
Mọi người ngạc nhiên, sững sờ đưa mắt nhìn anh. Anh nói tiếp:
- Các bạn có biết không, tôi là người rượu chè be bét, nhưng đạo
Chúa và lời Ngài giúp tôi chừa bỏ được rượu. Tôi là người thích cờ bạc, nhưng
đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi xa tránh được tật này. Xưa kia gia đình tôi luôn
cãi vã xô xát nhau, nhưng đạo Chúa và lời Ngài, làm tôi mất đi cái địa ngục ấy
và đem vào đó một bầu khí cảm thông và hạnh phúc. Và còn nhiều thứ khác nữa,
đạo Chúa và lời Ngài đã làm mất đi nơi tôi và gia đình tôi. Các bạn hãy thực
hành lời Ngài và sống đức tin của mình chắc chắn, các bạn sẽ không bao giờ phải
hối hận đâu.
Hãy lắng nghe Lời Chúa, hãy suy gẫm Lời Chúa và nhất là hãy sống
Lời Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ đạt tới niềm hạnh phúc Nước Trời.
21. Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh
Chắc bạn vẫn nghe thường xuyên về người này hứa dỏm, người kia
hứa lèo. Hoặc chính bản thân nhều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ
đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống đến những
vấn đề quan trọng nhất, người ta đều cóp thể thất trung, bất tín. Ví dụ: Ai
cũng biết, hôn nhân là mối giây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội
nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người
ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được
ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai
đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa.
Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không
ngừng tiếp diễn từng ngày. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta
như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với
nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả của nó.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản
bội, cũng bất trung không kém. Từ thủơ bình minh của nhân loại, thế giới theo
Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người thôi: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an
phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài, nhưng không, lòng tham, sự kiêu
ngạo đã làm ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để
bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung
với Người. Vì tội chống lại Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả
không lường hết được: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung
mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang
thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường, nếm đủ mùi vị của khổ
đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn..., đã làm cho dân của Chúa mất kiên
nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron đã vậy, họ còn oán
trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa:
không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để
mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần
ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: " Sao Ngài lại làm khổ tôi
tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân
này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu, có phải con sinh ra nó
đâu?... Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức
con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn..." (Ds 11,
12 tt). Trong sa mạc, lòng dân quyên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không
biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại nhiều lần đi từ thái độ bất trung đến
đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về sự bất
trung và lòng thương xót ấy. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó
trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước
nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường
của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu
hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: " Không đời nào chúng
tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác", và dù cho lý do buộc họ phải
xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa,
thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm
trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi.
Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của
Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính
vì sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần phải chuốc lấy cơn phẫn nộ của
Người. Nhưng nổi bật lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả
sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoang dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành
cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công
thức gồm ba động từ: phản bội - nổi giận - tha thứ. Dân không ngừng phản bội,
nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài
của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần
nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của
thánh Phêrô: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban
sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là
Đấng Kitô, Con Thiên Chúa". Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc
Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy
trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm,
cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng
để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá... Chính những giờ phút quan
trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quyên mất lời tuyên xưng mới
đó, tính cho đến nay chưa được bao lâu. Vì một chúc sợ hãi và yếu lòng, Phêrô
đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng
chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên
xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Giáo Hội mời gọi ta suy niệm các
bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành của ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một
lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng
người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một
lòng khoang dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ
chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu
đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ
trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi
vẫ có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung
thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không còn hy vọng nữa mà thôi.
Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn
hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu
đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào
vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách
tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính
mình đã đánh mất.
22. Suy niệm của JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Câu Đức Giêsu nói: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được
sống muôn đời" có lạ tai không? Câu nói trên cần phải hiểu theo nghĩa tâm
linh hay theo nghĩa vật chất? Sau khi câu nói câu ấy, Đức Giêsu có nói câu nào
để hướng dẫn người nghe phải hiểu theo nghĩa tâm linh không? Ngài nói gì?
2. Nếu bạn là các môn đệ Ngài hồi ấy, khi nghe lời ấy, bạn sẽ
phản ứng thế nào? bỏ Ngài và rút lui, hay theo Ngài tới cùng như Phêrô?
3. Trước hai phản ứng khác nhau của các môn đệ, ta rút ra bài
học gì? Có nên tin vào lý trí của mình hơn tin vào Thầy mình, hay vào Thánh
Thần chăng?
Suy tư gợi ý:
1. «Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?»
Khi nghe Đức Giêsu nói: «Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được
sống muôn đời», chẳng những người Do-thái nghe không lọt tai, mà ngay cả các
môn đệ cũng có những người không chấp nhận được. Họ đã hiểu câu Ngài nói theo
nghĩa vật chất, theo mặt chữ, mà không chịu hiểu theo nghĩa tâm linh, theo Thần
Khí. Thế là «nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa». Ngài đã để mặc
họ bỏ Ngài, vì thấy họ không thích hợp với công việc của Ngài, vốn mang nhiều
tính chất «thần khí» hay tâm linh.
a) «Ai có tai thì nghe!» hay «ai hiểu được thì hiểu!»
Trong Tin Mừng có nhiều trường hợp tương tự như trường hợp này.
Nhiều lần, Đức Giêsu nói xong, người ta không hiểu, Ngài chẳng những không giải
thích thêm, lại còn nói: «Ai có tai thì nghe» (nghĩa là ai hiểu được thì hiểu)
(Mt 11,15; 13,9; 13,43; Mc 4,9; 4,23; 7,16; Lc 8,8). Vì chân lý không phải là
ai cũng có thể hiểu và sẵn sàng đón nhận, như Ngài đã nói: «Thế là đối với họ,
lời sấm của ngôn sứ Isaia đã ứng nghiệm: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng
hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, vì lòng dân này đã ra chai đá» (Mt
13,14). Một hình thức của chai đá tâm trí là chỉ hiểu được lời Chúa theo nghĩa
vật chất mà không thể hiểu theo nghĩa tâm linh, chỉ biết chấp vào lời mà không
chịu hiểu ý, nhất là khi lời đó diễn tả những chân lý thâm sâu về Thiên Chúa và
đời sống tâm linh.
b) Đừng hiểu theo nghĩa vật chất, mà theo nghĩa tâm linh
Khi thấy có những môn đệ không chấp nhận vì hiểu sai, Ngài đã
soi sáng thêm: «Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu
anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?» Ngài gợi ý cho họ thấy
hai cách hiện hữu của Ngài: cách hiện tại là hiện hữu trong xác thịt, còn cách
hiện hữu trước kia là hiện hữu trong thần khí. Nhắc tới hai cách hiện hữu ấy,
Ngài gợi ý cho các ông hiểu rằng: lời của Ngài cần hiểu theo nghĩa tâm linh,
chứ không thể hiểu theo nghĩa thể chất. Câu nói kế tiếp của Ngài lại càng khai
sáng vấn đề hơn: «Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời
Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống». Lời Ngài nói là thần khí chứ
không phải xác thịt, nên phải hiểu theo nghĩa tâm linh chứ không phải nghĩa thể
chất. Hiểu theo nghĩa thể chất thì những từ «thịt» và «máu» Ngài vừa nói chính
là thịt và máu vật chất, tức xác thịt. Ngài đã loại bỏ cách hiểu này: «Xác thịt
chẳng có ích gì». Ngài đề cao cách hiểu theo nghĩa tâm linh qua câu: «Thần khí
mới làm cho sống».
Thánh Phaolô cũng so sánh hai cách hiểu ấy: «Giao Ước Mới không
phải là Giao Ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì
giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống» (2Cr 3,6). Chữ viết là vật chất, ai
chỉ biết hiểu lời Chúa theo nghĩa vật chất của chữ viết, thì cách hiểu ấy sẽ
giết chết tâm linh của người ấy. Lời Chúa cần được hiểu theo nghĩa tâm linh,
nghĩa là «dựa vào Thần Khí», cách hiểu này mới «ban sự sống». Sự sống ở đây là
sự sống tâm linh chứ không phải thể chất. Về vấn đề giữ luật, thậm chí luật cắt
bì là một luật hết sức quan trọng trong Cựu Ước, thánh Phaolô chủ trương phải
giữ theo tinh thần của lề luật chứ không phải theo chữ viết: «Phép cắt bì chính
hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải
theo chữ viết của Lề Luật» (Rm 2,29). Vậy, khi đọc Kinh Thánh, đặc biệt sách
Khải Huyền, những chân lý thâm sâu cần được hiểu theo nghĩa tâm linh. Hiểu theo
nghĩa vật chất nhiều khi dẫn tới sự phi lý và không đem lại «sự sống» hay lợi
ích thực tế.
2. Hai phản ứng khác nhau của các môn đệ
Khi nghe Đức Giêsu nói câu khó hiểu, thậm chí có vẻ phi lý và
chướng tai ấy, tôi nghĩ, chắc hẳn ngay lúc ấy chẳng ai trong các môn đệ đủ
trình độ để hiểu được ý nghĩa lời của Ngài. Nhưng các môn đệ đã phản ứng theo
hai cách: một số rút lui và số còn lại vẫn trung thành theo Ngài.
a) Đừng quá cố chấp vào những hiểu biết mình đang có:
Những môn đệ từ bỏ Ngài, không chịu làm môn đệ Ngài nữa, là vì
họ nghe Ngài nói điều mà họ thấy là phi lý không thể chấp nhận được. Họ hoàn
toàn có lý của họ. Nhưng phải nói họ là những người đã bị chai đá về mặt lý
trí. Hễ điều gì họ đã cho là đúng, mà có ai nói ngược lại, nói những điều không
lọt tai họ, thì họ tiên thiên cho là sai, và không thèm nghe, suy nghĩ hay tìm
hiểu thêm. Những người này sẽ không bao giờ tiếp nhận được những kiến thức mới,
những khám phá mới về chân lý. Vì chân lý thì vô tận, con người khám phá không
ngừng và không bao giờ hết. Những khám phá mới nhiều khi phủ nhận hoặc vượt qua
những khám phá cũ. Chẳng hạn nếu các em học sinh cấp I cứ chấp cứng vào kiến
thức mà các em thu thập được ở trường lớp là: không được lấy số lớn trừ số nhỏ
vì đó là một sự phi lý, thì các em sẽ cho các thầy dạy cấp II là dạy bậy. Vì ở
cấp II, việc lấy số nhỏ trừ số lớn để ra một số âm là chuyện bình thường. Hay ở
cấp II và III, việc đặt số âm trong một căn hiệu là phi lý, nhưng ở đại học,
khi học về số ảo, thì một số âm vẫn luôn luôn có căn số.
Đức Phật có đưa ra một minh họa về vấn đề này: Một người có duy nhất
một đứa con mà ông rất thương yêu. Khi ông đi vắng để đứa con ở nhà thì kẻ cướp
đến đốt làng cướp bóc và bắt con ông đi. Khi về, ông thấy thi hài một đứa bé
cháy đen bên căn nhà mình. Ông tin ngay là con mình và chôn cất trong sự thương
tiếc. Mấy tháng sau, con ông tìm cách thoát được bọn cướp, tìm về đến nhà lúc
nửa đêm và gõ cửa xin vào. Nhưng ông không chịu ra mở cửa vì cứ nhất định là
con ông đã chết rồi, và cho rằng đứa gõ cửa là một thằng mất dạy nào đó trêu
chọc ông. Rồi ông nhất quyết không nhận nó là con, bất chấp những bằng chứng
hợp lý trước mắt.
Người ta nói: «Khoa học là mồ chôn những giả thuyết», vì giả
thuyết mới phủ nhận giả thuyết cũ. Sự vật thì không thay đổi, nhưng khi ta biết
10 điều, ta nghĩ về sự vật thế này. Khi biết 100 điều, ta lại nghĩ thế khác.
Khi biết 1000 điều, ta lại nghĩ hoàn toàn khác nữa. Ta nên tiếp tục nghĩ rằng
khi biết 2000, 3000… điều, ta cũng sẽ tiếp tục nghĩ khác. Vậy trong đời sống
tâm linh, hãy luôn luôn tỉnh thức để đón nhận những đổi mới của Thánh Thần
trong cả cách nhìn về Thiên Chúa và về những chân lý cao sâu. Các tư tế và kinh
sư Do-thái chính vì chấp vào những hiểu biết dựa trên Kinh Thánh và thần học
của họ mà đã lên án và giết Đức Giêsu!
b) Hãy tin tưởng vào sự hướng dẫn của Thánh Thần:
Còn những môn đệ khác mà điển hình là Phêrô, tuy cũng thấy phi
lý và chói tai, nhưng nghĩ rằng mình chưa hiểu được hết ý của Ngài. Qua những
sự kiện thấy được nơi Đức Giêsu, họ tin Ngài là người nắm được những chân lý
cao siêu, là «Đấng Thánh của Thiên Chúa». Vì thế, dù Ngài nói điều gì nghe
không lọt tai, họ vẫn tạm chấp nhận để tiếp tục theo Ngài, mong có cơ hội sau
này hiểu được điều ấy. Và đương nhiên sau này họ đều hiểu. Đó là thái độ khiêm
nhường nhưng rất hợp lý: cho rằng khả năng hiểu biết mình còn non kém thì đúng hơn
là cho rằng Thầy mình nói sai.
Tất cả những hiểu biết của nhân loại - kể cả của Giáo Hội - đều
là những hiểu biết tương đối, phù hợp với số lượng những khám phá của họ. Khi
khám phá ra nhiều sự kiện hơn nữa, ắt nhiên mọi người sẽ phải thay đổi quan niệm
hay hiểu biết của mình. Trong đời sống tôn giáo hay tâm linh, điều quan trọng
là chúng ta phải sẵn sàng đổi mới quan niệm và sẵn sàng từ bỏ những kiến thức
cũ của mình thì mới theo kịp Thánh Thần. Ngài là Đấng luôn luôn «đổi mới mặt
đất này» (Tv 104,30) và sẽ dẫn chúng ta «tới sự thật toàn vẹn» (Ga 16,13). Nên
nhớ cách hành động của Thiên Chúa là: «Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới,
Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi, thì
sẽ tan biến đi» (Dt 8,13). Nếu ta cứ chấp vào giao ước cũ, làm sao ta đón nhận
được giao ước mới? Nên nhớ, chỉ một mình Thiên Chúa là không thay đổi, còn mọi
hiểu biết của con người về Thiên Chúa thì phải thay đổi theo trình độ trí thức
và tâm linh con người. Cứ chấp vào hiểu biết cũ làm sao đón nhận những hiểu
biết mới?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, Thánh Thần của Cha luôn luôn đổi mới mọi sự trong thế
gian này. Xin cho chúng con biết thích ứng với Thánh Thần, sẵn sàng từ bỏ quan
niệm cũ, cách hiểu biết cũ để theo quan niệm và cách hiểu biết mới mà Thánh
Thần hướng dẫn. Đừng để chúng con đi vào bánh xe đã đổ của các kinh sư Do-thái:
cứ chấp vào hiểu biết cũ nên không theo kịp cái mới của Thánh Thần, để cuối
cùng bị đào thải về mặt tôn giáo. Amen.
23. Chọn lựa: một hành vi không dễ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cả anh em nữa, anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không? Chúa Giêsu
không hỏi: anh em có tiếp tục theo Thầy không mà lại hỏi thẳng thừng: anh em có
muốn bỏ Thầy mà đi không. Một câu hỏi không thuộc dạng mời gọi như trước đây mà
là đặt vấn đề chọn lựa rõ ràng, dứt khoát.
Kitô hữu chúng ta theo đạo không phải là theo một học thuyết
mang tính triết lý hay thần học nào đó, nhưng là theo một "con
người", theo một "ai đó", một "Đấng nào đó". Đấng hay
con người mà chúng ta lựa chọn đi theo, lựa chọn để gắn bó, đó là Đức Giêsu
Kitô. Phụng Vụ Lời Chúa ngày Chúa nhật XXI TN B đặc biệt lưu ý chúng ta đến
hành vi lựa chọn. Chọn lựa một công việc để làm kế sinh nhai quả không mấy dễ.
Chọn lựa một bậc sống thật lắm phân vân đủ bề. Chọn lựa một con người để làm bạn
đời trăm năm cũng lắm sự nhiêu khê. Và chọn lựa Đấng để trao gửi hạnh phúc hôm
nay và vĩnh cửu chắc chắn sẽ khó khăn hơn nhiều. Vì thế, khi phải chọn lựa
trong một vấn đề quan trọng, chúng ta cần có đủ cơ sở một cách nào đó.
Sau khi nhắc lại cho dân tình yêu của Thiên Chúa qua các kỳ công
Người đã thực hiện để bảo vệ dân, Giosuê khẳng khái trước toàn dân rằng:
"Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa" (Gs
24,15). Và dân đã đáp lại rằng họ không hề có ý định bỏ Đức Chúa để phụng thờ các
thần khác! Họ sẽ thờ phụng Thiên Chúa, vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của họ
dùng quyền năng thực hiện những dấu lạ lớn lao để đem họ cùng với cha ông họ ra
khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ mà vào đất hứa. Như thế, cơ sở để dân Chúa xưa
chọn thờ phụng Người đó là vì Người quyền năng đã đưa họ ra khỏi nhà nô lệ.
Trước câu hỏi của Chúa Giêsu, một kiểu đặt vấn đề đòi hỏi có sự
chọn lựa dứt khoát thì Phêrô đã thay mặt nhóm Mười Hai trả lời: " Thưa
Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự
sống đời đời" (Ga 6,68). Không kể trường hợp một phần tử trong nhóm không
tin, thì câu trả lời của Phêrô nói lên sự chọn lựa của cả nhóm Tông Đồ. Và sự
chọn lựa ấy đặt cơ sở trên điều này: vì Thầy mới có những lời đem lại sự sống
đời đời. Để nói lên được những lời này, chắc chắn cùng với các bạn, Phêrô đã
từng chứng kiến uy quyền của Thầy khi khiến nước lã hóa thành rượu ngon (x.Ga
2,1-12). Các vị đã từng nghe Thầy nói với viên sĩ quan cận vệ nhà vua rằng:
"Ông cứ về đi, con ông sống" và đứa con trai của ông ta đang đang hấp
hói đã đuợc cứu sống (x. Ga 4,46-54). Và các ngài chưa thể quên lời tạ ơn mới
đây của Thầy đã giúp cho năm ngàn người đàn ông chưa kể đàn bà và con trẻ no nê
chỉ từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá (x. Ga 6,1-15).
Không ai tự nguyện dấn thân theo một lý tưởng, thực hiện một
trách vụ hay gắn bó với một con người mà không ấp ủ một hoài bão, một ước mơ
hay niềm hy vọng nào đó. Xưa, dân Do Thái chọn tôn thờ Thiên Chúa là để một mặt
khỏi bị Người giáng họa, trừng phạt, mà trái lại sẽ được Người chúc phúc và che
chở trước các "kẻ thù" lân bang (Gs 24,19-20).
Cái hoài bão, uớc mơ, đúng hơn là cái mục đích việc Phêrô thay
mặt anh em chọn gắn bó với Thầy đó là vì "Thầy mới có những lời đem lại sự
sống đời đời". Sự sống đời đời là một ước mơ của con người, mọi thời và
mọi nơi. Dù đủ đầy của cải vật chất, dù nắm trong tay quyền sinh sát của bậc đế
vương thì con người vẫn cảm nhận cái hữu hạn của cuộc sống đời này. Danh vọng
quyền lực, của cải hay tiền tài không thể giúp ta kéo dài cuộc sống đến vô tận.
Một thanh niên có nhiều sản nghiệp đã đến tham vấn Chúa Giêsu: Thưa Thầy, tôi
phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời? Sau khi biểu anh ta giữ các
giới răn, Chúa Giêsu đã mời gọi anh ta hãy bán của cải, phân phát cho người
nghèo rồi đến mà theo Người (x. Mt 19,16-22; Mc 10,17-22; Lc 18,28-30).
Chọn lựa là hy sinh. Một câu nói cho thấy
một lẽ tất yếu của việc chọn lựa, Chọn ra đi thì phải hy sinh chuyện không ở
lại, chọn việc cất tiếng nói thì đương nhiên phải mất thái độ giữ im lặng, đã
chọn tôn thờ Thiên Chúa thì phải bỏ các thần của dân ngoại (x. Gs 24,23)... Tuy
nhiên sự hy sinh trong việc chọn lựa không chỉ dừng lại ở các nội dung xem như
đối lập của sự chọn lựa mà còn có đó sự hy sinh ngay trong chính hành vi chọn
lựa. Sự hy sinh ở đây được hiểu như một sự đánh cược, một sự dân thân, một sự
"liều lĩnh" nào đó. Vì chưng, chúng ta vốn khó có được các cở sở một
cách chắc chắn kiểu trăm phần trăm khi chọn lựa một điều gì đó. Chúng ta dễ
nhận ra ngay hiện thực này qua việc các bạn thanh niên nam nữ chọn bạn đời hay
chọn ơn gọi tu trì. Như thế, sự hy sinh ở đây có thể hiếu như sự can đảm dấn
thân, chấp nhận nhiều "cái giá" phải trả khi chọn lựa.
Cái giá mà chúng ta phải trả khi chọn lựa đi theo Chúa Giêsu,
gắn bó với Người đó chính là "vác thập giá".
"Ai không các thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi
được" (Lc 14,27). Cái giá mà Phêrô sẽ phải trả được Đấng Phúc sinh báo
trước: "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt
lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho
người khác thắt lưng và dẫn anh đế nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám
chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi Người bảo ông:
"Hãy theo Thầy" (Ga 21,18-19).
"Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người
không thể cứu tôi mà cần có tôi" (thánh Augustinô). Tự do là một quà tặng
cao quý Chúa ban cho loài người, loài cao trọng nhất trong các loài hữu hình
Người dựng nên. Tự do là một ân ban cao quý và cũng là một thử thách ắt có của
tình yêu. Được sống đời đời hay phải chết đời đời có nghĩa là được hạnh phúc
bất diệt hay bị trầm luân mãi mãi, các khả thể này đang tùy ở sự lựa chọn của
chúng ta. Ai lại không muốn được sự sống đời đời, được hạnh phúc bất diệt,
nhưng vấn nạn khó vượt qua đó là chúng ta thường e ngại phải trả giá.
24. Suy niệm của Lm Vũ Xuân Hạnh.
Chắc bạn vẫn nghe thường xuyên về người này hứa dỏm, người kia
hứa lèo. Hoặc chính bản thân nhều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ
đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống đến những
vấn đề quan trọng nhất, người ta đều cóp thể thất trung, bất tín. Ví dụ: Ai
cũng biết, hôn nhân là mối giây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội
nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người
ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được
ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai
đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa.
Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không
ngừng tiếp diễn từng ngày. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như
chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau,
không cần đếm xỉa gì đến hậu quả của nó.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản
bội, cũng bất trung không kém. Từ thuở bình
minh của nhân loại, thế giới theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người thôi:
Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an
bài, nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm ông bà không chấp nhận hạnh
phúc đó mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không
vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống lại Thiên
Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường hết được: cả loài người
cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung
mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang
thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường, nếm đủ mùi vị của
khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn…, đã làm cho dân của Chúa mất kiên
nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron đã vậy, họ còn oán
trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa:
không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để
mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần
ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ
Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này
lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu, có phải con sinh ra nó đâu?…
Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu
Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12 tt). Trong sa
mạc, lòng dân quyên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa
của mình, ngược lại nhiều lần đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên
Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về sự bất
trung và lòng thương xót ấy. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó
trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước
nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường
của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu
hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: “Không đời nào chúng tôi bỏ
Đức Chúa mà đi thờ những thần khác”, và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại
đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải
vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa
trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của
lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần
bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính vì sự bất trung
liên tục mà dân Chúa đã bao lần phải chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi
bật lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của
dân vẫn là tình yêu khoang dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc
Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba
động từ: phản bội - nổi giận - tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần
Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch
sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần
nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của
thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự
sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là
Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc
Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy
trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm,
cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng
để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá… Chính những giờ phút quan
trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quyên mất lời tuyên xưng mới
đó, tính cho đến nay chưa được bao lâu. Vì một chúc sợ hãi và yếu lòng, Phêrô
đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng
chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên
xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Giáo Hội mời gọi ta suy niệm các
bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành của ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một
lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng
người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một
lòng khoang dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ
chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu
đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ
trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi
vẫ có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung
thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không còn hy vọng nữa mà thôi.
Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn
hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu
đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào
vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách
tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính
mình đã đánh mất.
25. Bỏ đi hoặc ở lại – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Với bản văn hôm nay, độc giả đi tới đỉnh cao của Diễn từ về Bánh
trường sinh, đỉnh cao của cuộc “khủng hoảng” báo trước cuộc Thương Khó của Đức
Giêsu: các thính giả phản ứng lại các lời của Đức Giêsu; họ bị đặt trước một
chọn lựa là tin hoặc không tin vào Người.
Thứ lương thực lạ lùng và Bài Diễn từ về Bánh khác các dấu lạ và
các diễn từ khác của Đức Giêsu do sự kiện là trong vấn đề này, các môn đệ lấy
lập trường. Tại đây Đức Giêsu đã mạc khải các ân ban đặc biệt của Người và các
ân ban này chính là thịt máu của Người. Các môn đệ của Người chia rẽ về điểm
này: bỏ đi vì không thể chấp nhận các lời Đức Giêsu nói, hoặc ở lại với Người,
vì tin rằng chỉ Người mới có “những lời đem lại sự sống đời đời”.
2.- Bố cục
Bản văn phụng vụ có thể chia thành ba phần:
1) Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng sống (6,54a);
2) Những môn đệ bỏ đi (6,60-66);
3) Nhóm Mười Hai ở lại (6,67-69).
3.- Vài điểm chú giải
- Nghe rồi, […]: "Ai mà nghe nổi? (60):
Động từ “nghe” (akouein) được dùng hai lần với nghĩa khác nhau: lần đầu, từ này
có nghĩa là “nghe” mà không có sắc thái một sự chấp thuận; lần sau, có nghĩa là
“nghe” với sự chấp thuận.
- nhiều môn đệ của Người (60): Bản văn không
nói là các “môn đệ” này có hàm chứa cả Nhóm Mười Hai hay không. Tuy nhiên, vì
Phêrô đã lấy lập trường mà nói nhân danh Nhóm Mười Hai, rất có thể Nhóm Mười
Hai không được kể vào số các “môn đệ” càm ràm, xầm xì này (có lẽ ngoại trừ
Giuđa, vì Đức Giêsu gọi ông là “quỷ”, x. c. 70).
- lên nơi đã ở trước kia (62): tức lên với
Chúa Cha (x. Ga 17,5).
- Lời Thầy nói với anh em (63): dịch cho nổi
bật các sắc thái là: “Những lời mà Thầy đây, Thầy đã nói với anh em”. Chủ từ egô
được viết ra trong bản văn để tạo sự cường điệu.
- là Thần Khí và là sự sống (63):
Đây là một “phép thế đôi”[1], nên cần dịch diễn ra là “lời Thầy nói với anh em
là Thần Khí ban sự sống”.
- Nhóm Mười Hai (67): Ga 6,67-71 là
nơi duy nhất trong TM IV mà tác giả minh nhiên nói đến Nhóm Mười Hai (ngoại trừ
một hoạt cảnh khác chỉ được nhắc tới trong TM này, ở Ga 20,24). Hai lần nhắc
tới “Nhóm Mười Hai” (hoi dodeka) ở cc. 67 và 71 “đóng khung” phân đoạn ngắn này
thành một đơn vị văn chương. Tác giả ghi nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được Đức
Giêsu chọn (Ga 6,70), dù không cho biết vào dịp nào và trong những hoàn cảnh
nào. Do sự trung tín của họ với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ở vào thế tương phản
với những môn đệ đã sa sút. Không giống với các môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai
ở lại với Đức Giêsu. Đối với các ông, các ông không còn chỗ nào khác mà đi.
Phêrô đã nói thay anh em: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?
Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Đoạn Ga 6,67-71 là nơi duy nhất trong TM mà tác giả minh nhiên
nói đến Nhóm Mười Hai (ngoại trừ một hoạt cảnh khác chỉ được nhắc tới trong TM
IV, ở Ga 20,24). Hai lần nhắc tới “Nhóm Mười Hai” (hoi dodeka) ở cc. 67 và 71
“đóng khung” phân đoạn ngắn này thành một đơn vị văn chương.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng sống (54a)
Sau các vòng giới thiệu, đây là khẳng định tối hậu Đức Giêsu nêu
ra về mầu nhiệm bản thân Người: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống
muôn đời” (c. 54a). Các động từ được chọn để diễn tả tính hiện thực của ân ban
là thịt máu Đức Giêsu đã đạt mục tiêu: các môn đệ sẽ phản ứng.
* Những môn đệ bỏ đi (60-66)
Phần lớn các môn đệ không thể chấp nhận được các lời Đức Giêsu
đã nói, đến mức không còn có thể lắng nghe được nữa. Và thật sự các lời của Đức
Giêsu không thể chịu nổi, nếu Người chỉ là một người phàm. Các lời Đức Giêsu đã
nói quả không thể chấp nhận được, nếu người ta chỉ đón nhận theo cảm xúc và hời
hợt, nếu người ta chỉ để ý đến các chi tiết chứ không thấy bối cảnh tổng quát.
Đức Giêsu tìm cách cung cấp cho các môn đệ một điểm hỗ trợ hầu có thể hiểu,
nhưng Người cũng nói rõ ra lý do đích thực của phản ứng khó chịu của họ: họ
thiếu đức tin. Trước hết, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng Người không nói như
một người thường, nhưng như là Con Người, đã từ Thiên Chúa mà đến và sẽ quay về
với Thiên Chúa. Trong bài Diễn từ về Bánh trường sinh, Đức Giêsu đã nhiều lần
nêu bật điều này là Người được Thiên Chúa cử đến và có sự sống phát xuất từ
Thiên Chúa (x. Ga 6,27.57). Điều kiện tiên quyết để hiểu được các lời của Đức
Giêsu, đó là hiểu và nhìn nhận bản thân Người.
Thế rồi Đức Giêsu đi vào một điểm đặc biệt trong Bài Diễn từ.
Các môn đệ dường như cảm thấy bị vấp phạm nhất về sự kiện Người ban thịt làm
của ăn và máu làm thức uống. Đức Giêsu đảm bảo với họ rằng nếu đi từ “thịt”
hiểu là con người phàm trần – kể cả nhân tính của Đức Giêsu – người ta chẳng có
gì để mong đợi, vì “thịt” thì hư hoại và tiến về cái chết; đi từ “thịt”, ta
không thể chờ đợi sự sống bất hoại. Sự sống này chỉ đến từ Thánh Thần, từ quyền
lực không bao giờ cạn kiệt ban sự sống của Thiên Chúa (x. Ga 3,6). Nhưng Đức
Giêsu cũng nhấn mạnh rằng toàn thể các lời Người là Thần Khí và sự sống. Người
không chỉ trình bày một vài suy tư về Thánh Thần và sự sống, về quyền lực không
bao giờ cạn kiệt ban sự sống của Thiên Chúa và về sự sống bất hoại, nhưng Thần
Khí và sự sống hiện diện trong chính các lời nói của Người và Người cho một
chứng minh rõ ràng nhất về điểm này. Kể cả các lời Người nói về thịt và máu
Người là Thần Khí và là sự sống, theo nghĩa là các lời ấy nói về Đấng không chỉ
là thịt, mà là Ngôi Lời trở thành xác thịt (x. 1,14). Người ta chỉ hiểu Đức
Giêsu đúng đắn nếu để ý đến chuyện Người là ai và bản chất các lời Người nói là
thế nào. Nhưng người ta lại đáp lại bằng sự thiếu lòng tin, sự từ khước, sự ngờ
vực đối với Người và đối với lời Người. Đức tin là một ân ban của Thiên Chúa
(x. 6,37-44); nhưng đồng thời vẫn còn nguyên trách nhiệm của những người không
tin và xa lìa Đức Giêsu. Nhiều môn đệ lãnh trách nhiệm này khi “rút lui, không
còn ở với Người nữa” (c. 66).
* Nhóm Mười Hai ở lại (67-69)
Mẩu đối thoại của Đức Giêsu với nhiều môn đệ đã khởi đầu bằng
lời phản đối của họ và bằng cách họ đánh giá các lời của Người theo cảm xúc.
Bây giờ Đức Giêsu ngỏ lời với nhóm thứ ba bên trong đám đông, Nhóm Mười Hai,
một nhóm rất gần gũi với Người, nhưng cũng bị cám dỗ, bị lay động, bị thách
thức bởi những lời đòi hỏi của Người. Mẩu đối thoại của Người với Nhóm Mười Hai
bắt đầu bằng một câu hỏi Người đặt ra: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi
hay sao?” (Ga 6,67). Câu hỏi này không hề có đặc tính gây hấn, như thể Đức
Giêsu muốn nói: “Anh em cứ việc bỏ đi!”, trái lại câu hỏi này hàm chứa một lời
mời ở lại. Đức Giêsu đặt câu hỏi và để cho các môn đệ tự do quyết định. Nhưng
Người không rút lại bất cứ điều gì Người đã nói. Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm
(“chúng con”) nói lên một câu trả lời có suy ngẫm và nêu ra ba lý do khiến các
ông ở lại với Đức Giêsu chứ không đi theo đa số: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng
con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng
con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên
Chúa” (Ga 6,68-69).
Lý do thứ nhất là một suy tư sáng suốt:
‘Chúng con không thể bỏ đi kiểu mù quáng. Khi bỏ đi, chúng con cần phải biết
chúng con muốn bỏ ai, và gặp được điều gì tốt hơn và thuyết phục hơn nơi người
nào. Chỉ đơn giản bỏ đi thì không có ý nghĩa’. Suy tư này giúp tránh những
quyết định vội vã, theo tình cảm. Bởi vì không tìm được một vị thầy nào dứt
khoát khá hơn, thì khôn ngoan là ở lại với Đức Giêsu.
Lý do thứ hai nhắc đến đặc tính của các lời Đức Giêsu.
Chính Người đã nói: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (6,63).
Bây giờ Phêrô chấp nhận điều ấy: “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời
đời” (c. 68). Ông đã hiểu rằng ân ban cao trọng nhất của Đức Giêsu là sự sống
đời đời và nhận biết rằng Đức Giêsu nói về điều đó trong tư cách đáng tin nhất;
Đức Giêsu không chỉ nói về điều đó, Người còn mang sứ điệp chắc chắn về sự sống
đời đời và mở đường vào sự sống đó.
Lý do thứ ba liên hệ đến việc nhận biết bản thân Đức Giêsu.
Phêrô nói về con đường giúp nhận biết như thế và nói về nội dung của nhận thức
này. Nhóm Mười Hai đã ký thác và tín nhiệm hoàn toàn vào Đức Giêsu. Trên nền
tảng của thái độ này, các ông đã hiểu và nhận biết rằng Đức Giêsu là “Đấng
Thánh của Thiên Chúa” (c. 69). “Thánh” chính là điều thuộc về Thiên Chúa. Nếu
Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, điều này có nghĩa là Người hoàn toàn
thuộc về Thiên Chúa và được kết nối với Thiên Chúa trọn vẹn. Chính vì Đức Giêsu
có một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa,
mà Người có những lời ban sự sống vĩnh cửu, và do đó, thật là điên rồ nếu xa
lánh Người.
Qua câu trả lời ấy của ông, Phêrô đề cập đến ba chủ đề lớn của
TM IV: (1) “sự sống đời đời” (36 lần; các TMNL: 14 lần); (2) “tin” (98 lần;
toàn bộ Tân Ước còn lại: 145 lần); (3) “[nhận] biết”(56 lần; các TMNL: 58 lần).
Lời tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu cũng chính là lời tuyên xưng tình yêu đối
với Người.
+ Kết luận
Các lập trường đã rõ, các phe đã được xác định. Giuđa và những
người Do-thái có thể chuẩn bị vụ xét xử Đức Giêsu. Trong thực tế, chính Con
Người mới sắp xử dân bị Thiên Chúa loại trừ, ngay giữa niềm hân hoan của Lễ Lều
và lễ Cung hiến Đền Thờ, là hai ngày lễ quy tụ Dân Thiên Chúa (Ga 7–10). Các
môn đệ của Đức Giêsu cũng sẽ “bị xét xử”: các hoàn cảnh sống của Đức Giêsu buộc
các ông phải chọn lựa dứt khoát. Chỉ có một trong hai cách: bỏ đi hoặc ở lại
với Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khi suy niệm bản văn Ga 6,60-69, người tín hữu hôm nay không
được phép bằng lòng với việc trách móc nhóm môn đệ đã bỏ đi hoặc khen ngợi Nhóm
Mười Hai vẫn còn ở lại. Làm như thế là quên mất rằng chính mình cũng là một môn
đệ, là một trong Nhóm Mười Hai. Do đó, họ phải tự hỏi: Quan niệm của tôi về Đức
Giêsu lâu nay như thế nào? Tôi đang đặt những niềm chờ mong gì nơi Người? Tại
sao tôi còn ở lại với Người? Những câu hỏi này bắt tôi phải ra khỏi tình trạng
nửa vời để dứt khoát chọn Đức Giêsu.
2. Người ta không thể nhận biết Đức Giêsu từ xa, nhưng chỉ khi ở
gần; và người ta cũng không thể nhận biết Đức Giêsu khi dựa trên sự lãnh đạm,
sự chỉ trích và kiêu ngạo, nhưng chỉ nhờ tin tưởng hoàn toàn vào Người. Phêrô
không nhắc lại một trong cách danh hiệu quen thuộc của Đức Giêsu; ông không
nhấn mạnh trên tầm quan trọng của Người đối với loài người, nhưng ông xác định
được về Người nhờ dựa trên tương quan của Người với Chúa Cha.
3. Chúng ta không được lãnh nhận Đức Kitô trong bí tích Thánh
Thể rồi lại đi tìm các thú vui riêng cho mình; nếu chúng ta chỉ nghĩ đến mình,
chúng ta không thật sự tin vào Đức Kitô. Đức Giêsu biết khó khăn này, nên Người
mời chúng ta đi vào thế giới của Thánh Thần. Nếu chúng ta đặt sự chọn lựa của
chúng ta trên nền tảng là lô-gích người phàm, chúng ta sẽ thất vọng. Chỉ khi
nào chúng ta có thể lắng nghe tiếng gọi của Chúa Cha, khi nào chúng ta để cho
Thần Khí thúc đẩy, chúng ta mới có thể hiểu và chọn Đức Kitô.
4. Có thể nói hoạt cảnh ngắn trong đó Phêrô xuất hiện ra như là
người phát ngôn của Nhóm Mười Hai là phương tiện giúp tác giả suy tư về Nhóm
Mười Hai. Tác giả ghi nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được Đức Giêsu chọn (Ga 6,70),
dù không cho biết vào dịp nào và trong những hoàn cảnh nào. Do sự trung tín của
họ với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ở vào thế tương phản với những môn đệ đã sa
sút. Không giống với các môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại với Đức Giêsu.
Tuy nhiên, tương lai còn đó để Nhóm Mười Hai xác nhận sự chọn lựa của các ông:
cuộc Thương Khó của Đức Giêsu sẽ là biến cố tối hậu bắt các ông phải minh định
lập trường của mình.
26. Chú giải của Noel Quesson.
BÁNH HẰNG SỐNG
Đức Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um:
“Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời... Nghe rồi, nhiều môn
đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”.
Chúng ta đã đọc đến đoạn cuối của diễn từ “Bánh hằng sống".
Chúng ta sẽ tìm hiểu hiệu quả bài giảng của Đức Giêsu đối với thính giả, qua
ngòi bút của một nhân chứng đã đích thân tham dự buổi diễn giảng này. Có hai
hiệu quả:
Đó là sự vấp phạm và khước từ của đa số cử tọa.
Nhưng cũng là sự trung thành, khiêm tốn đầy tin cậy của nhóm
nhân tố "Mười Hai".
Ở đây chúng ta có chứng tích lịch sử bậc nhất về cuộc sống của
Đức Giêsu. Ba thánh sử kia cũng đã ghi lại rõ ràng khúc quanh quan trọng này
trong sứ vụ của vị tiên tri làng Nagiaret: Đó là cơn khủng hoảng! Cho tới bây
giờ, đám đông đã đi theo và tìm kiếm Người: Ở đây Gioan đã gọi họ là "môn
đệ". Nhưng các "môn đệ" này, những người đã bắt đầu đi một đoạn
đường với Đức Giêsu, đang từ bỏ Người. Sự mạc khải mầu nhiệm Thánh Thể bắt đầu
làm cho đa số thính giả chán ngán vào cuối chương này, chúng ta có thể đếm số
môn đệ nhỏ nhoi còn lại.
Tin Mừng đã thẳng thắn không che giấu chúng ta rằng Chúa đã thất
bại trong ý định giúp ta hiểu về "bánh" của Người, "Bánh đích
thực". Bởi vì nói cho cùng thì ai có thể hơn Đức Giêsu để giải thích cho
chúng ta vấn đề này? Hai mươi thế kỷ qua đi, chúng ta vẫn tiếp tục ngạc nhiên
khi thấy những con người nam nữ già trẻ từ chối bước theo Đức Giêsu để
"nhận lấy mà ăn bánh và cầm lấy mà uống rượu của Người, và như Người tuyên
bố thì đó là thịt và máu của Người". Và có thể chúng ta vẫn lên án Giáo
Hội về điểm đó: "ôi giá kể Giáo Hội đã không thay đổi nhanh hơn... ôi, nếu
Giáo Hội có lập trường như lập trường của tôi".
Thực ra chính "đức tin" là nguyên nhân của sự việc
này, chứ không phải là một truyền thống phụng vụ, văn hóa, xã hội nào đó, và
Đức Giêsu sẽ nói lại điều này với chúng ta một cách rõ ràng, không chút nhượng
bộ.
Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về
vấn đề ấy.
Các bạn thấy không? Đức Giêsu không cần nghe những lời lẩm bẩm
đó. Người biết trước, Người không ngạc nhiên, Người đang chờ đợi những lời đó.
"Đức tin" khó khăn biết bao! Vì đức tin là "khước từ cách hiểu
biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận" để "tin vào một
người khác" đó là "tin mà không thấy", như Thánh Gioan sẽ nói
rất nhiều lần.
Người bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không
chấp nhận được ư?".
Vâng lạy Thầy, điều đó làm chúng con vấp phạm. Và Thầy biết rõ
như thế. Từ Hy Lạp là động từ "Scandahzô" Ở đây dịch là vấp phạm, có
nghĩa là điều đó làm các ngươi bất bình, các ngươi vấp phải ta như vấp phải một
hòn đá chướng ngại. Chúng ta thường có khuynh hướng làm cho đức tin trở thành
một thứ giáo huấn. Nếu giảng hay, những người trẻ sẽ đi dự lễ. Họ sẽ hiểu, họ
không còn "biết" gì thêm nữa. Nhưng đối với Đức Giêsu, như chúng ta
đã thấy đức tin luôn gây đụng chạm! Đức tin không hẳn nhiên là thế? Đức tin
luôn luôn cho ta thấy chướng. "Đức tin" không phải là một bài học
được lặp đi lặp lại, "nhưng" là một dấn thân trong cuộc sống".
Đức tin là một "thực hành có hiệu quả". Đức tin là một sự "thúc
hối" phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính
khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được
bằng những phương thế nhân loại. “Tuyên xưng đức tin" thực sự, không phải
là đọc kinh Tin kính hay một "công thức" nào hay nhất do bộ óc văn
minh của chúng ta, mà là thực hành không gì Chúa đã dạy. Mầu nhiệm trung tâm
của đức tin, chắc chắn là Bí tích Thánh Thể. Khi ta nói "Người Kitô hữu là
người đi dự lễ", thì ta chưa nói hết. Nhưng ta đã nói một phần nào cốt
yếu, nếu ta hiểu Thánh lễ như chúng ta đang cố cử hành với chính Chúa Giêsu.
Đức tin đó là một "quyết định". Quyết định này bao gồm hai khía cạnh:
1 “An bánh hằng sống”.
2. "Sống đời mình bằng yêu thương hữu ích".
Thế khi anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?
Làm sao người này có thể cho thịt của mình để chúng ta ăn? Chính
vì người này không chỉ là một con người. Đức Giêsu, thay vì rút lại lời khẳng
định của mình hay là giải thích hoặc làm giảm nhẹ chúng, Người lại nhấn mạnh
bằng cách gợi cho chúng ta một "mầu nhiệm" khác mà mầu nhiệm Thánh
Thể chỉ là sự diễn dịch. Chúng ta đang thực sự ở trong đề tài Nhập Thể của
Thiên Chúa. "Thần Khí" trở thành xác phàm.
Đây thực là một mầu nhiệm "thần linh" (không ai đã
thấy Chúa) và vì thế con người không thể tự sức riêng mà hiểu được. Đức Giêsu
ám chỉ rõ ràng "hữu thể thần linh của Người". Người nói Người sẽ trở
về nơi mà trước kia Người đã ở. Chúng ta hãy lưu ý tới giọng nói hạch hỏi của
Đức Giêsu này. Câu nói của Người hầu như chưa dứt: "Và khi anh em sẽ thấy
Con Người lên nơi mà Người đã ở trước thì sao?".
Vâng, xuyên qua sự tối tăm, vẻ tầm thường, sự thân mật nơi thân
phận con người hiện tại của Đức Giêsu, cần phải tiến đến sự khám phá vinh quang
của Chúa Ba Ngôi. Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha, trong sự sống động của Thần
Khí, mà Người đã lãnh nhận từ Chúa Cha. "Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã
sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha, thế nào thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được
sống như vậy".
Thực sự chúng ta không biết sự sống là gì: sự sống bình thường
của thảo mộc, cũng như động vật, không ai, không một nhà bác học nào đã có thể
nói sự sống là gì?
Vậy thì “sự sống" của Thiên Chúa thì sao? Những phương tiện
để hiểu biết mà con người có được đều bất lực, không thể giúp hiểu mầu nhiệm
này. Người ta không thể giải thích Bí tích Thánh Thể chỉ bằng lý trí con người:
Mầu nhiệm này thật vĩ đại, khôn dò, đó là mầu nhiệm đức tin.
Thần khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì
Lạy Chúa, xin lặp lại cho con những lời đó. Ước chi những lời
này không làm cớ cho con vấp phạm và nghi ngờ.
Những lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống. Nhưng
trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết
những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người.
Hơn mọi lời khác, lời Chúa, nói về phép Thánh Thể, đã giả định
trước tác động của Chúa thánh Thần. Chúng ta thực sự đang ở trung tâm điểm của
Tin Mừng. Làm sao có thể giản lược Tin Mừng vào những giải thích luân lý: Đức
Giêsu con người vĩ đại nhất, nhà hiền triết, vị ngôn sứ nhà cách mạng, là phong
trào xã hội, là giải phóng... tất cả đều đúng, nhưng không phải là bản chất
riêng của Chúa. Có một khía cạnh nổi bật khác, không thể thu nhỏ được mà chúng
ta gọi là thần linh! Tức là vô hình, vượt trên tất cả. Chúng ta chỉ thấy được
một phần nào siêu việt qua con người hữu thể của Người, mà phải mất một chút
đoán nhận ra "ngang qua xác thể" nhưng đó vẫn thuộc về trật tự Thần
khí và Sự sống.
Người nói: "Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với
Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho".
Chúng ta đang ở trong mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa, sự sống
của Ba Ngôi. Hình trạng Chúa Ba Ngôi của Rublev đã diễn tả mầu nhiệm này cách
kỳ diệu.
Ba nhân vật ngồi chung quanh một “cái bàn" và chỉ dùng một
"chén". Tam vị nhất thể được tiếng trưng bằng một vòng tròn mà chu vi
bên ngoài của ba ngôi vẽ nên cách ăn khớp tuyệt hảo. Là 3 hình nhưng để tạo nên
một vòng duy nhất. Đó là một vòng tròn sống động luôn vận chuyển. Chúa Cha chủ
tọa bên kia bàn. Người nhìn bằng cái nhìn tình yêu xuyên suốt trái tim, lồng
ngực của Chúa Con. Còn Chúa Con lại nhìn sang Chúa Thánh Thần. Nhưng ta hãy
nhìn kỹ dung mạo của Ngôi Ba và cử động bàn tay phải của người: Cả mặt và tay
hướng xuống đất! Hình tròn được mở về phía chúng ta là những người đang đứng
phía trước bàn, để ngắm nhìn "hình" này. Vâng, sự sống của Ba Ngôi
được ban cho chúng ta, tại chiếc bàn này: Thần khí là sự sống được ban cho
chúng ta, được dâng tặng cho chúng ta. Thiên Chúa, vì là Tình yêu, nên rõ ràng
Người không thể ép buộc ai.
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa.
Nên Đức Giêsu mới hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ
đi hay sao?".
Dường như Chúa nói': "Tôi không giữ anh em, anh em được tự
do”. Trong cuộc xung đột đang xảy ra giữa những "môn đệ ra đi" và
những người ở lại với Chúa, trong cuộc xung đột giữa cha mẹ và con cái chẳng
hạn... chúng ta hãy nhớ lời của Chúa: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ
đi hay sao? “ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con
biết đến với ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh, phần chúng
con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên
Chúa".
Đây là những lời đầy khiêm hạ và đơn thành: "Bỏ Thầy, thì
chúng con biết đến với ai bây giờ". Lời nói chứa chan tình yêu và sự phó
thác, vì đối với họ, Đức Giêsu là Đấng "không ai có thể thay thế
được". Tuy nhiên chúng ta nên ghi nhớ, Nhóm Mười Hai đêm trước đã có một
kinh nghiệm có thể soi sáng cho họ: Giữa phép lạ hóa bánh ra nhiều và diễn từ
về Bánh hằng sống là thịt của Người các ông đã thấy thân thể đó "bước đi
trên mặt nước hồ đang nổi sóng dữ dội trong cơn bão tố" (Ga 6,16-21). Thân
thể này không có trọng lượng như chúng ta. Đó là Thánh Thể Đấng Thánh của Thiên
Chúa. Tại sao chúng ta lại giới hạn Thiên Chúa vào trong khả năng hiểu biết của
chúng ta? Thiên Chúa vượt mọi khả năng của chúng ta. Điều đó thật hiển nhiên!