CHÚA NHẬT
15 THƯỜNG NIÊN
NĂM B
BÀI ĐỌC I: Am 7,12-15
Ngày ấy, tư tế đền thờ Bết Ên là 12
A-mát-gia nói với ông A-mốt: "Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất Giu-đa,
về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! 13 Nhưng ở Bết Ên này, đừng có
hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của
vương triều.”14 Ông A-mốt trả lời ông A-mát-gia: "Tôi không
phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người
chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. 15 Chính Đức Chúa đã bắt lấy
tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: "Hãy đi
tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta.”
ĐÁP CA: Tv 84
Đ. 8 Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa,
ban ơn cứu độ cho chúng con.
ban ơn cứu độ cho chúng con.
9 Tôi lắng nghe điều
Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung
hiếu 10 Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh
quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta.
11 Tín nghĩa ân tình
nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. 12 Tín nghĩa mọc lên từ
đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao.
13 Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban
phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. 14 Công lý đi tiền phong
trước mặt Người,mở lối cho Người đặt bước chân.
BÀI
ĐỌC II: Ep 1,3-14
3 Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su
Ki-tô, Chúa chúng ta. Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc
cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. 4 Trong Đức Ki-tô,
Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta
trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. 5 Theo ý
muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức
Giê-su Ki-tô, 6 để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng
Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. 7 Trong Thánh Tử, nhờ
máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân
sủng rất phong phú của Người. 8 Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban
cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. 9 Người cho ta được
biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ
trước trong Đức Ki-tô.
10 Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy
tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô. Cũng trong
Đức Ki-tô, 11 Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý
muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế
hoạch của Người,12 để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng
vào Đức Ki-tô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người.
13 Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa anh em đã
được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Đức Ki-tô, một khi
đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần, Đấng Thiên Chúa đã hứa. 14
Thánh Thần là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của
Thiên Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.
TUNG HÔ TIN MỪNG: x Ep 1,17-18
Hall-Hall: Xin Thân
Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, soi trí mở lòng cho chúng ta thấy rõ, đâu
là niềm hy vọng, mà ơn Người kêu gọi đem lại cho chúng ta. Hall.
TIN MỪNG: Mc 6,7-13
Khi ấy, Đức Giê-su 7 gọi Nhóm Mười
Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ
quỷ. 8 Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ
trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng;9
được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. 10 Người bảo các ông:
"Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra
đi. 11 Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì
khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.”12 Các ông đi
rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. 13 Các ông trừ được
nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
ĐỂ XỨNG DANH TÔNG ĐỒ CỦA CHÚA
Giáo
huấn Chúa nhật 14 B, nhằm giải thích thế nào là phép lạ Đức Giêsu muốn thực
hiện; thì giáo huấn Chúa
nhật 15 B này nhằm dạy chúng ta những chỉ tiêu phải sống để trở thành
người Tông Đồ của Đức Giêsu, được cộng tác với Ngài để mở rộng và nối dài các
phép lạ như Đức Giêsu đã làm và còn hơn nữa (x Ga 14,12). Muốn được thế, ta
phải:
§
Định hướng việc Tông Đồ là liên kết muôn loài với Đức Kitô.
§
Xác định căn tính người Tông Đồ của Đức Kitô.
A. ĐỊNH HƯỚNG VIỆC TÔNG ĐỒ LÀ LIÊN KẾT MUÔN LOÀI VỚI ĐỨC KITÔ
Thánh
Phaolô trong Bài đọc II cho chúng ta biết: “Ý
muốn của Thiên Chúa từ muôn thuở, trước khi Ngài tạo dựng vạn vật trong vũ trụ,
là Ngài muốn thi ân giáng phúc cho ta trong Đức Kitô, để trước Thánh Nhan
Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người…Người đã
tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng
rạng ngời… nhờ Máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội
lỗi, theo lượng ân sủng rất phong phú của Người… cùng với tất cả sự khôn ngoan
thông hiểu… đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài
trong trời đất, dưới quyền một Thủ Lãnh là Đức Kitô” (Ep 1,3-14).
Vậy ta
hãy cầu nguyện: “Xin Thân Phụ Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta, soi trí mở lòng cho chúng ta thấy rõ đâu là niềm hy vọng,
mà ơn Người kêu gọi đem lại cho chúng ta” (Ep 1,17-18: Tung Hô Tin Mừng). Để
chúng ta biết tiếp tay với Chúa Giêsu thực hiện ý định từ muôn thuở Chúa Cha đã
tiền định cho mọi loài thụ tạo là “quy tụ
muôn loài trong trời đất, dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 3,10: Bài
đọc II).
B. XÁC ĐỊNH CĂN TÍNH NGƯỜI TÔNG ĐỒ CỦA ĐỨC KITÔ.
Có hai
cách xác định căn tính người Tông Đồ:
-
Liên
kết với nhau nhằm công bố chân lý chính xác.
-
Thực
hành chỉ thị của Đức Giêsu.
I. LIÊN KẾT VỚI NHAU NHẰM CÔNG BỐ CHÂN LÝ CHÍNH XÁC.
Phải liên kết mọi chủng tộc, liên kết mọi giai cấp.
Đức
Giêsu đã truyền lệnh cho các môn đệ: “Làm
cho muôn dân trở thành môn đệ của Ta bằng việc ban Bí tích Thánh Tẩy cho chúng ”
(Mt 28,19). Bởi thế chính Đức Giêsu đã không chỉ chọn 12 người Do Thái làm môn
đệ (x Lc 6,12-16), mà Ngài còn chọn 70 (hay 72) dân ngoại nữa (x Lc 10,1-20),
dựa vào gia phả của ông Noe cho chúng ta phải hiểu như thế (x St 10). Vì ý định
của Chúa muốn chọn mọi sắc tộc làm ngôn sứ cho Ngài. Điều này đã bộc lộ ngay
thời dân Chúa bị chia đôi thành hai vương quốc: Ông Giacob có 12 người con dưới
quyền lãnh đạo của vua Salômôn. Nhưng vì vua chiều ý các bà vợ ngoại giáo xây
chùa miếu đối diện với đền thờ Giêrusalem, chính vua còn đến đó thắp nhang thờ
cúng ngẫu tượng. Vì tội ấy, mười chi họ kéo nhau về phía Bắc lập vương quốc Israel, chỉ còn hai chi họ là Giuđa và Benjamin
lập vương quốc Giuđa ở miền Nam
(x 1V 12,20t). Chúa sai ông Amos vốn chỉ là người chăn súc vật chứ không phải
là ngôn sứ, từ vương quốc Giuđa miền Nam, lên miền Bắc giảng cho vương quốc Israel,
nên ông Amos bị tư tế Amátgia ở đền thờ BếtÊn mắng: “Thầy chiêm ơi, về Giuđa mà kiếm ăn, chứ đừng hòng nói tiên tri nữa, vì
đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của vương triều”! Ông Amos
trả lời: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng
chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật, và
châm quả cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt tôi, khi tôi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã tuyển chọn tôi: Hãy
đi tuyên sấm cho Israel
dân Ta” (Am 7,13-15: Bài đọc I). Ông Amos không phải là ngôn sứ, chỉ làm
nghề chăn chiên mà Chúa còn bắt ông đi loan báo Lời Ngài cho vương quốc Israel,
huống chi người Công Giáo, ai cũng đã là ngôn sứ của Chúa từ khi lãnh Bí tích
Thánh Tẩy, thì không được thua ông Amos, phải tìm cách liên kết mọi chủng tộc,
liên kết mọi giai cấp trong xã hội để cùng làm Tông Đồ cho Chúa, tưởng đó là
cách lý giải ý nghĩa Đức Giêsu sai từng hai người đi truyền giáo (x Mc 6,7: Tin
Mừng), để người Tông Đồ nói sự thật cho mọi người, vì theo luật Do Thái: “Chứng của hai người thì xác thực” (Ga
8,17).
II. THỰC HÀNH NHỮNG CHỈ THỊ ĐỨC GIÊSU ĐẶT RA.
1- Trước nhất phải lưu ý thực hành Lời
Đức Giêsu dạy “Hãy cầm gậy trong tay” (Mc 6,8a): Gậy các
môn đệ phải có trong tay chính là Lời Thiên Chúa các ông phải nắm vững và thi
hành. Bởi vì “Lời Chúa phán ra là cây gậy
đánh cường bạo” (Is 11,4b – Bản dịch NTT); thực vậy, người Tông Đồ Đức
Giêsu chỉ dựa vào Lời Chúa mới có khả năng phục vụ hữu hiệu và được bình an,
như lời Kinh đọc: “Cây gậy Ngài bảo vệ,
con vững dạ an tâm” (Tv 23/22,4). Bởi thế “con chẳng lìa xa điều Ngài quyết định, bởi chính Ngài chỉ giáo cho con.
Theo lời hứa của Ngài, xin cho con vững bước, chớ để sự gian tà chế ngự được
con” (Tv 119/118,102. 133).
Sau đó mới
lưu ý thực hành các chỉ thị khác: “Không
mang bánh, bao bị, tiền vặn thắt lưng” (x Mc 6,8b):
2- Không mang bánh: Đi truyền giáo
không lo lấy gì mà ăn, mà uống, mà mặc, chỉ lo làm vinh danh Thiên Chúa, còn về
lương thực đi tới đâu người ta cho cái gì thì dùng cái đó, vì “làm thợ thì đáng được công” (Lc 10,7-8).
Ai hết lòng lo việc Nước Thiên Chúa như thế thì, những sự khác Chúa sẽ ban thêm
sau (x Mt 6,33). Cụ thể giáo đoàn Galat chẳng tiếc ông Phaolô điều gì, nếu có
thể họ đã sẵn sàng móc mắt dâng (x Gl 4,15); Luật Do Thái quy định: dòng tư tế
Lêvi được chia 48 thành làm nơi cư ngụ, cùng với đồng cỏ thuộc các thành ấy (x
Ds 35,7). Tuy nhiên Chúa phán với tư tế Aharon: “Đất chia cho chún, ngươi không có phần, ngươi không có phần gia nghiệp.
Chính Ta là gia nghiệp của ngươi. Thuế thập phân Israel dâng cho Ta, con cái
Lêvi sẽ được hưởng, vì dòng họ Lêvi có công phục vụ nơi Ta cư ngụ (Lều Hội Ngộ)”
(x Ds 18,20-24). Chính Chúa cũng đã hứa: “Thức
ăn ngon Ta đãi hàng tư tế” (Gr 31,14). Nhất là người môn đệ cần phải ý thức
rằng khi làm tròn bổn phận Chúa trao chính là lương thực nuôi sống mình, như
Đức Giêsu đang lúc đói khát, Ngài nói với các môn đệ: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công
trình của Người” (Ga 4,34).
3- Không bao bị: Người Tông Đồ
chính là người quản lý trung trực của Thiên Chúa, bất kỳ lúc nào Chúa đến cũng
gặp thấy đang chia sẻ đúng lúc phải thời (x Lc 12,42). Bởi thế không mang bao
bị để thu tích của cải cho riêng mình.
4- Tiền không vặn thắt lưng: Làm việc tôn giáo
không phải thương mại kiếm lời, hãy bắt chước ông Êlysa từ chối không nhận quà
của ông Naaman, dù ông Naaman đã được ngôn sứ Êlysa chỉ cho đi tắm sông Giodan
để được khỏi bệnh cùi (x 2 V 5,1-16). Chính vì vậy mà thánh Tông Đồ nói: “Đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao
giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành
cho tôi” (1Cr 9,18).
5- Chân đi dép (x Mc 6,9a): Sẵn
sàng lên đường để lãnh đạo mọi người thoát nô lệ tội lỗi, giống như ông Môsê
nói với dân: Mỗi người hãy xỏ chân vào dép và mau mắn theo ông lên đường thoát
ách nô lệ Ai Cập (x Xh 12,11).
6- Không mặc hai áo (x Mc 6,9b): Đó là
người sống đơn giản, như Đức Giêsu nói với chị Matta đang lo lắng, bận rộn việc
phục vụ bữa ăn: “Cần thì ít thôi” (Lc
10,42), để có điều kiện chia sẻ, như ông Gioan Tẩy Giả là mẫu người sống đơn
giản: “Mặc áo da thú, ăn châu chấu và mật
ong dại” (Mt 4,3), nên ông có lý để khuyên những người đến với ông: “Ai có hai áo hãy chia cho người không có,và
kẻ có của ăn cũng hãy làm như thế” (Lc 3,11). Bởi vì “giàu có, của cải lấp mắt không nhận biết Chúa” (Cn 30,8).
7- Vào nhà nào hãy lưu lại đó cho đến lúc
đi ra khỏi nơi ấy (x Mc 6,10): Thánh Phaolô nhắc lại ý Chúa: “Anh em không biết rằng người lo các thánh vụ
thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của
bàn thờ sao? Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng được sống
nhờ Tin Mừng” (1Cr 9, 13-14). Bởi vì đi loan báo Tin Mừng là làm phát triển
Nước Thiên Chúa, mà “Nước Thiên Chúa
không phải là chuyện ăn uống” (Rm 14,17), nên không lân la từ nhà này đến
nhà kia để kiếm chác! Hoặc đứng núi nọ trông núi kia cao, chỉ muốn chọn nơi có
nhiều lợi nhuận!? Hãy biết rằng việc Tông Đồ không phải là một nghề kiếm ăn,
như lời tư tế Amatgia gán cho ông Amos: “Này
thầy chiêm ơi mau chạy về Giuđa, về mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm” (Am
7,12: Bài đọc I). Người Tông Đồ của Chúa còn phải cần cù làm việc không thua
ông Amos: ông làm nghề chăn súc vật hay châm quả sung cho chín để súc vật ăn. Có
cần cù làm việc mới trở nên giàu có như Đức Kitô để có điều kiện phục vụ, chia
sẻ cho đồng loại, làm cho người anh em không chỉ giàu về vật chất, mà còn được
giàu ơn Chúa, mới giống Đức Giêsu, “Ngài
vốn dĩ là Đấng giàu, nhưng đã trở nên nghèo vì chúng ta, để nhờ sự nghèo khó
của Ngài mà chúng ta được nên giàu có” (2Cr 8,9).
8- Nơi nào không đón nhận anh em, thì hãy
ra khỏi nơi đó rũ bụi chân làm chứng trước mặt chúng (x Mc 6,11): Đấy
là cử chỉ của người Do Thái khi từ miền đất dân ngoại trở về quê hương, họ phải
rũ bụi chân để làm chứng rằng: họ không bị nhiễm lây lối sống của dân ngoại
không có Lề Luật Chúa hướng dẫn. Ai không đón tiếp môn đệ Đức Giêsu, họ bị liệt
vào hàng dân ngoại, và người Do Thái khinh chê dân ngoại đến nỗi không thể ngồi
ăn chung với họ (x Gl 2,11-14). Do đó Đức Giêsu dạy các môn đệ phải giũ bụi chân để tỏ dấu tố cáo những kẻ
không tiếp đón các ông; cũng không nghe các ông giảng, chúng bị liệt vào hàng
dân ngoại, thì các ông hãy phó mặc họ cho Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu bắt
đầu đi rao giảng, Ngài tới vùng dân ngoại, làm cho dân đang ngồi trong bóng tối
sự chết thấy được ánh sáng ban sự sống (x Mt 4,12-17; Ga 8,12). Người Do Thái
còn coi dân ngoại chỉ là loài chó, họ mới là con Chúa, thế mà Chúa vẫn cứu con
gái bà ngoại giáo xứ Canaan thoát tay quỷ ám
(x Mt 15,21t). Người môn đệ Đức Giêsu phải nhớ rằng mình chỉ là đầy tớ vô dụng,
không biết làm gì hơn là chu toàn bổn phận đã được trao phó (x Lc 17,10). Nói
như thánh Tông Đồ: “Tôi trồng anh tưới,
Thiên Chúa mới làm cho mọc lên” (1Cr 3,6), hay có tâm tư như ngôn sứ Isaia:
“Tôi đã vất vả luống công phí sức mà
chẳng được gì, chính Chúa minh xét cho tôi, và phần thưởng của tôi ở nơi tay
Ngài” (Is 49,4). Bởi vì “chính Chúa
sẽ tặng ban phúc lộc, và đất chúng ta trổ sinh hoa trái” (Tv 84: Đáp ca).
9- Hãy rao giảng Tin Mừng kêu gọi người
ta ăn năn sám hối (x Mc 6,12): Sám hối không phải chỉ là ray rứt vì tội đã
phạm, mà còn thể hiện bằng làm việc lành (x Lc 3,8). Chính vì vậy những người
đến chịu phép rửa của ông Gioan, ai cũng đặt câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?” Ông Gioan đã chỉ cho họ: Hãy làm việc lành
ngay trong địa vị của mình (x Lc 3,10-14). Vì hối cải được thể hiện qua làm việc
lành là hành động đầu tiên để được thâu nhận vào Nước Thiên Chúa. Thậm chí nếu
họ không có điều kiện làm việc tốt, thì Chúa cũng cho họ vào Thiên Đàng ngay
giống anh trộm lành (x Lc 23,39-43).
10- Xua trừ ma quỷ (x Mc 6,13a): Vì Lời Chúa là vũ khí sắc bén xua trừ ma quỷ.
Đức Giêsu đã dùng Lời Kinh Thánh để đẩy lui Satan ba lần nó tấn công Ngài (x Mt
4,1-11). Do đó thánh Tông Đồ khuyên chúng ta: “Hãy đội lấy mũ chiến cứu độ, đeo gươm Thần Khí tức là Lời Thiên Chúa,để
dập tắt mọi tên lửa của Kẻ Dữ” (Ep 6,16-17).
11- Xức dầu chữa lành bệnh nhân (x Mc 6,13b): Đức
Giêsu chữa lành bệnh nhân, thì Ngài không cần dùng đến dầu hay loại thuốc nào,
trái lại các môn đệ muốn chữa lành bệnh người nào, các ông phải dùng dầu, là dấu
chỉ phải lệ thuộc vào Đức Giêsu. Thánh Gioan nói: “Dầu-Xức anh em đã lãnh nơi Ngài hiện lưu lại trong anh em, nên anh em
không cần nhờ ai dạy bảo, phải hơn như Dầu-Xức của Ngài dạy anh em về hết mọi
sự, và là sự thật, không phải là sự dối trá, nên chiếu theo điều Dầu-Xức đã dạy
anh em hãy lưu lại trong Ngài” (1Ga 2,27). Vì vậy mà hai ông Phêrô và Gioan
gặp anh què ngồi ở Đền Thờ, các ông đã cho anh được lành mạnh, nhờ ông Phêrô
nói: “Nhân danh Đức Giêsu người Nadareth,
anh hãy bước đi” (Cv 3,6b).
Vậy sứ
mệnh của người Tông Đồ phải làm cho người anh em thăng tiến đời sống Đức Tin
từng bước.
-
Bước
tốt thôi: dạy người anh em sống nhân ái với đồng loại. Nói cách
khác: sống có nhân bản (x 1Ga 3,17).
-
Bước
tốt hơn: dạy người anh em hiểu Kinh Thánh và đem ra thực hành, dù
biết rằng Kinh Thánh vẫn còn giam chúng ta trong tội, vì không ai chu toàn mọi
điều tốt Kinh Thánh dạy, cũng không ai tránh hết mọi điều xấu Kinh Thánh chỉ (x
Gl 3,22).
-
Bước
tốt nhất: chu toàn bước tốt thôi và bước tốt hơn, nhưng còn phải đi
bước thứ ba là giúp cho người anh em được kết hợp với Chúa Giêsu khởi đi từ
việc lãnh Bí tích Thánh Tẩy và hoàn hảo trong Bí tích Thánh Thể (x Gl 3,24).
Có đi
trọn ba bước trên, mới được sống hạnh phúc muôn đời trong Nước Thiên Chúa,vì đã
“trở nên trọn lành như Cha trên trời là
Đấng trọn lành” (Mt 5,48).
THUỘC LÒNG.
-
Tôi
trồng, anh tưới, Thiên Chúa mới làm cho mọc lên, vì thế, trồng hay tưới chẳng
là gì, Đấng làm cho mọc lên mới đáng kể!(1Cr 3,6-7)
-
Khi
đã hoàn tất những gì theo lệnh phải làm, hãy nói: “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng,
không biết làm gì hơn là việc bổn phận phải làm” (Lc 17,10).
-
Tôi
đã vất vả luống công phí sức mà chẳng được gì, chính Chúa minh xét cho tôi, và
phần thưởng của tôi nơi tay Ngài (Is 49,4).
Lm GIUSE
ĐINH QUANG THỊNH