THỨ BA SAU CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN
NĂM LẺ
Dt 10, 1-10; Mc 3, 31-35
BÀI ĐỌC: Dt 10, 1-10
1 Thưa anh em, Lề Luật chỉ phác hoạ lờ mờ những phúc lộc của thế giới tương
lai, chứ không phản ánh chính xác những thực tại đó. Cho nên, Lề Luật không bao
giờ có thể làm cho những người tiến lại gần Thiên Chúa được nên hoàn thiện, nhờ
những ngần ấy thứ hy lễ người ta cứ dâng mãi năm này qua năm khác. 2
Chẳng vậy, người ta đã thôi không còn dâng hy lễ, vì giả như những kẻ làm việc
thờ phượng đã được thanh tẩy dứt khoát rồi, thì họ đâu còn ý thức mình có tội
nữa?3 Trái lại, năm này qua năm khác, chính những hy lễ đó nhắc cho
người ta nhớ mình có tội. 4 Thật thế, máu các con bò, con dê không
thể nào xoá được tội lỗi. 5 Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô
nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. 6
Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. 7 Bấy giờ con mới
thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh
đã chép về con.
8 Trước hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa
đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo
Lề Luật truyền. 9 Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý
Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. 10
Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình
làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.
ĐÁP CA: Tv 39
Đ. Lạy
Chúa, này con xin đến để thực thi ý Ngài. (x c 8a. 9a)
Tôi đã hết lòng trông đợi CHÚA, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu.
4ab Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng
ta.
7 Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ
vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, 8a
con liền thưa: "Này con xin đến!
10 Đức công chính của Ngài, con loan truyền
giữa lòng đại hội; lạy CHÚA, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh.
11 Đức công chính của Ngài, con chẳng
giữ riêng lòng mình biết; nhưng con đã nói lên đức trung tín và ơn cứu độ của
Ngài, chẳng giấu giếm chi cùng đại hội rằng Ngài thành tín và yêu thương.
TUNG HÔ TIN MỪNG: x Mt 11, 25
Hall-Hall: Lạy Cha là Chúa Tể trời
đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những
người bé mọn. Hall.
TIN MỪNG: Mc 3, 31-35
31 Một hôm, Mẹ
và anh em Đức Giê-su đến, đứng ở ngoài, cho mời Người ra. 32 Lúc ấy,
đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: "Thưa Thầy,
có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy! "33
Nhưng Người đáp lại: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? "34
Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: "Đây là mẹ tôi, đây
là anh em tôi. 35 Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh
em chị em tôi, là mẹ tôi.”
A. GIẢI ĐÁP
THẮC MẮC
Nhiều
người Công Giáo không nắm vững Giáo Lý, nên thường bị anh em Tin Lành tấn công
về chuyện Đức Mẹ đồng trinh. Họ thường dựa vào những Lời trong Kinh Thánh để
phủ nhận Đức Maria không đồng trinh. Cụ thể
-
Khi Đức Giêsu đang giảng dạy có Mẹ và anh em Ngài đến tìm
gặp Ngài (x Lc 8, 20; Mc 3, 31): anh em Tin Lành cho là Đức Giêsu còn có nhiều anh
em ruột.
-
Bà Maria sinh Con đầu lòng (x Lc 2, 7): anh em Tin Lành
cho là còn có những người con khác.
-
Giuse và Maria không ăn ở với nhau cho đến khi sinh Con (x
Mt 1, 25): anh em Tin Lành tin là Đức Maria chỉ đồng trinh cho tới khi sinh Đức
Giêsu mà thôi, và sau đó vẫn sống đời vợ chồng với thánh Giuse.
Đức
Tin Công Giáo thì tin Đức Maria là Đấng trọn đời đồng trinh, vì những lý do sau:
1/ Anh em của Đức Giêsu:
a-
Từ anh em trong Kinh Thánh dùng, tiếng Do Thái là “Ăch”, tiếng
Hy Lạp là “Adelphoi”. Từ này hiểu chung cả về anh em ruột cũng như anh em họ, như
ngôn ngữ Việt Nam: con chú gọi là em, con bác gọi là anh. Thực vậy, ông Abraham
là chú của Lót, mà Abraham gọi Lót bằng từ “Ăch” (hoặc Adelphoi) [x St 13, 8;
14, 12; 29, 10].
b-
Về những anh em của Đức Giêsu là ông Giacôbê, ông Giôsê, ông
Giuđa, ông Simon (x Mc 6, 3), thì cũng chính ông Marco cho chúng ta biết ông
Giacôbê, ông Giôsê con của bà Maria khác (x Mc 15, 40). Như vậy rõ ràng ông
Giacôbê và ông Giôsê là những người anh em họ hàng với Đức Giêsu mà thôi.
c-
Trong sách Lêvi, tiếng anh em vẫn được dùng để chỉ những
người có họ xa: “Ông Môsê gọi các ông Misaên và Ensaphan, con ông Útdiên là chú
ông Aharon, và bảo họ: “Các chú lại đây, khiêng các người anh em của các chú từ
nơi thánh ra ngoài trại” (Lv 10, 4).
d-
Trước lúc tắt thở, Đức Giêsu trao Mẹ Ngài cho môn đệ Gioan
(x Ga 19, 25-27). Về mặt tâm lý và nhân bản, nếu Đức Giêsu còn những em ruột, thì
Ngài không thể làm như thế được.
2/ Con đầu lòng.
a-
Thánh sử Luca ghi “bà
sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông
bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2, 7). Con đầu lòng ở đây, ông
Luca không có ý nói còn có những người con khác, mà ông muốn nhấn mạnh gia đình
Nazareth rất cẩn thủ giữ Luật Môsê, nên con đầu lòng buộc cha mẹ phải dâng cho
Thiên Chúa (x Xh 13).
b-
Tại Tel el Yahudieh thuộc nước Ai Cập, trên mộ của người
phụ nữ Do Thái trước Chúa Giáng Sinh, có ghi câu diễn tả tâm tình người mẹ: “Khi tôi phải đau đớn sinh con đầu lòng, số
phận đã đưa tôi sang cuộc sống khác”. Bởi thế câu này phải hiểu sau khi
sinh đứa con đầu lòng, người phụ nữ này không thể có người con khác, vì đã chết.
Con đầu lòng đối với người Do Thái còn có ý nhấn mạnh được hưởng gia tài gấp
đôi người em, nếu có, hoặc có nghĩa là gia tài của cha mẹ thuộc trọn về người
con này, nếu không có anh em khác (x Dnl 21, 17).
3/ Thành ngữ “cho đến khi”.
-
“Ông không ăn ở với
bà cho đến khi bà sinh một con trai
và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu” (Mt 1, 25).
-
“Cho đến khi” là
một thành ngữ trong Thánh Kinh để nhấn mạnh về một điều gì đã có, đang có và không bao giờ mất! Vì dụ
-
Trước khi Chúa Giêsu về Trời, Ngài ra lệnh cho các môn đệ
đi khắp thế gian tập họp môn đệ cho Ngài… và Ngài hứa “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20). Có
nghĩa là Đức Giêsu đã từng ở với các môn đệ, Ngài đang hiện diện với các ông và
không bao giờ lìa xa họ. Thế thì câu Mt 1, 25 nhấn mạnh ông Giuse và bà Maria
đã không ăn ở với nhau và không bao giờ ăn ở với nhau, minh chứng Đức Maria
đồng trinh.
-
Bà Mikhan, con gái vua Saolê không có con cho đến ngày
chết (x 2Sm 6, 23), thì không lẽ sau khi chết, bà sinh con ư?!
4/ Sự đồng trinh của Đức Maria.
a-
Xét về nguồn gốc bản văn Kinh Thánh, lời ngôn sứ Isaia
chương 7 câu 14 tiên báo về Đấng Cứu Thế: “Một
người nữ sẽ sinh con”.
-
Người nữ này ngôn ngữ Do Thái là “Almah”. Almah không nhất
thiết là một phụ nữ đồng trinh hoặc đã mất trinh. Almah chỉ có nghĩa chung là
một cô vợ trẻ, hoặc cô gái đến tuổi dậy thì. Thế thì cô vợ trẻ hay cô gái đến
tuổi dậy thì cũng không tất yếu hiểu còn trinh hay mất trinh.
-
Nhưng bản văn bằng tiếng Do Thái, khi dịch sang tiếng Hy
Lạp, thời Đức Giêsu và các Tông Đồ sử dụng bản văn này, thì lại xác định rõ: Cô
vợ trẻ đó là một trinh nữ (Parthenos). Dịch như thế là dựa vào lối giải thích
từ tiếng Do Thái theo trường phái Alexandria
(theo Bible Giêrusalem). Như vậy bản văn Hy Lạp xác định truyền thống giải
thích từ “Almah” với ý nghĩa rõ rệt là một trinh nữ, để chỉ người mẹ của Đấng
Emmanuel.
b-
Xét về mặt Thần học, Đức Maria là khuôn mẫu của Hội Thánh:
Maria sinh Đức Giêsu là Đầu Hội Thánh; còn Hội Thánh sinh các Kitô hữu là chi
thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Giêsu Kitô. Hội Thánh sinh con Thiên Chúa
qua Bí tích không liên hệ với người trần thế nào. Do đó Hội Thánh được gọi là
một cộng đoàn trinh nữ (x Mt 25, 1-13), thì Đức Maria cũng phải hiểu là một
trinh nữ trọn đời như Hội Thánh.
c- Thánh Irênê
nói: “Adam thứ nhất được sinh ra bởi đất trinh (đất chưa ai canh tác); Adam
cuối cùng (Đức Giêsu) được sinh ra bởi Mẹ đồng trinh.”
B. GIÁO HUẤN
XÁC THỊT
KHÔNG SINH ÍCH GÌ,
THẦN KHÍ MỚI LÀM CHO SỐNG! (Ga 6, 63)
THẦN KHÍ MỚI LÀM CHO SỐNG! (Ga 6, 63)
Vì quá đông người đang ngồi vây quanh Đức Giêsu để nghe Lời Ngài
dạy, nên Đức Maria và những người trong họ hàng của Ngài đến không thể gặp Ngài
được, họ phải nhờ người ta chuyển lời nhắn đến Ngài mà rằng: “Kìa mẹ Thầy và
anh em Thầy đang tìm Thầy ở ngoài” (Mc 3, 32: Tin Mừng). Đức Giêsu không
trả lời, mà hỏi lại: “Ai là mẹ Ta và là anh em Ta?”, rồi Ngài chỉ vào
những người ngồi quanh Ngài và nói: “Này là mẹ Ta và là anh em Ta, ai làm
theo ý Thiên Chúa, người ấy mới là anh chị em và là mẹ Ta” (Mc 3, 33-35:
Tin Mừng).
Sở
dĩ Đức Giêsu xem ra lạnh nhạt với người nhà của Ngài như thế vì hai lý do:
1/ Như sự trả đũa thái độ những người
nhà của Ngài trước đó đã làm Ngài mất uy tín trước mặt mọi người, khi Ngài đang
phục vụ mọi người: “Họ đến bắt Ngài và nói với mọi người: “Ông này mất trí
rồi!” (Mc 3, 21).
2/ Thần Khí hơn xác thịt: Thực ra những người đưa tin về việc người
nhà Đức Giêsu muốn gặp Ngài, là người ta chỉ nhắm đến những người có liên hệ
xác thịt với Ngài, nhưng Ngài lại muốn cho mọi người biết: nếu chỉ liên hệ với
Ngài vì dòng họ, vì huyết thống, thì phải nhớ rằng: “Xác thịt không sinh ích gì, Thần
Khí mới làm cho sống. Lời Ta là Thần Khí và là sự sống” (Ga 6, 63). Bởi
đó Đức Maria chỉ thực sự trở nên Mẹ Thiên Chúa, nhờ Mẹ thưa cùng Chúa: “Này tôi là tôi tớ Chúa xin Chúa làm cho tôi
điều Chúa nói” (Lc 1, 38). Nên bất cứ ai noi gương Mẹ Maria: có trái tim
nghe Lời để thực hành mà cộng tác với Chúa, thì người ấy giống Mẹ Maria. Có thế
mới được Đức Giêsu nhận vào gia tộc Thánh của Ngài, như Ngài đã nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi” (Mc 3,
34: Tin Mừng).
Loài
người hèn hạ tội lỗi mà được mang danh là “Mẹ Thiên Chúa”, thì quả là diễm phúc
khôn tả, vượt trí con người, không ai suy thấu. Ơn huệ đó khởi đi từ lúc Lời
Chúa chiếm đoạt thân xác Mẹ Maria, để Mẹ trở thành Hòm Bia Thiên Chúa. Vì vào
thời Tân Ước, Thiên Chúa không còn ghi Lời trên hai tấm đá như xưa, nhưng được
Thánh Thần ghi trên tấm linh hồn và thân xác của Đức Trinh Nữ Maria. Việc ông
Đavid kiệu Hòm Bia Thiên Chúa về lều của ông đã rộ lên niềm vui mừng: Vua và
toàn dân, nào kèn nào trống, nào đàn ca tiếng hát hòa với các vũ điệu nhảy múa
trước Hòm Bia, và để biểu lộ niềm vui trọn vẹn ấy, vua Đavid đã phát cho mỗi
người một chiếc bánh ngọt, một phần thịt, và một chiếc bánh nho (x 2Sm 2, 12-19:
Bài đọc năm chẵn). Niềm vui ấy vẫn không sánh bằng ngày nay mỗi khi ta đi dự
Thánh Lễ, là ta nhờ Mẹ Maria được thể hiện qua tay Hội Thánh, Lời Chúa lại được
Thánh Thần khắc ghi trên tấm linh hồn và thân xác ta (x 2Cr 3, 3), biến con
người tồi tệ của ta thành Đền Thờ đích thực của Thiên Chúa ngự (x 1Cr 3, 16-17),
và ta cũng trở thành “Mẹ Thiên Chúa” (x Mc 3, 34: Tin Mừng), một khi ta để Lời
Chúa làm chủ mọi hoạt động của ta, ta lại đem ơn cứu độ đến cho đồng loại, giống
Mẹ Maria đã trao ban Đấng Cứu Độ cho ta. Có sống như thế ta mới làm cho muôn
dân mở rộng cõi lòng đón Đấng Cứu Độ trong niềm hân hoan, như tâm tình của vua
Đavid và toàn dân rước Hòm Bia về thành Đavid trong sự ngỡ ngàng: “Đức Vua vinh hiển đó là ai, là Đức Chúa mạnh
mẽ oai hùng. Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa hỡi cửa đền cổ kính, để
Đức Vua vinh hiển ngự vào” (Tv 24/23, 7-8: ĐC năm chẵn).
Lời
kinh này cho thấy rõ dân Israel
vẫn chưa xác định được “Đức Vua vinh hiển
đó là ai?” Thì vào thời Tân Ước, tác giả thư Do Thái mới xác định cho muôn
dân biết Vua đó là Chúa Giêsu Phục Sinh, Ngài tiến thẳng vào cung thánh trên
trời thi hành chức Tư Tế, ngự bên hữu Chúa Cha hằng chuyển cầu cho Hội Thánh, như
Ngài nói: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến
tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và
lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực
thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà
thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã
hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10, 5-7. 9b-10: Bài
đọc năm lẻ), và Ngài muốn mọi người Công Giáo hằng ngày hiệp dâng Thánh Lễ với
Ngài, một khi đã đi chung đường phục vụ theo ý Cha trên trời để rồi trong Chúa
Giêsu cùng cất lời thưa: “Lạy Chúa, này
con xin đến để thực thi ý Ngài” (Tv 40/39, 8a. 9a: ĐC năm lẻ). Và cùng với
Chúa Giêsu cất lời tạ ơn Chúa Cha: “Lạy
Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mạc khải mầu nhiệm
Nước Trời cho những người bé mọn” (Mt 11, 25: Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Chúa Giêsu xác nhận: “Mẹ
tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”
(Lc 8, 21).
Lm GIUSE ĐINH
QUANG THỊNH