LỄ GIÁNG SINH
(Lễ Đêm)
BÀI ĐỌC 1:
Is 9, 1-6
1 Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy
một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng
bừng lên chiếu rọi. 2 Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng
thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa
gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. 3 Vì cái ách
đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều
bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an. 4 Vì mọi giầy lính
nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa.
5 Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một
người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh
hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ
Lãnh hoà bình. 6 Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô
tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc
được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi
muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó.
ĐÁP CA:
Tv 95
Đ. Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã
sinh ra cho chúng ta
Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa. (Lc 2, 11)
Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa. (Lc 2, 11)
1
Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! 2a
Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh!
2b
Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, 3
kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công
của Người.
11
Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, 12
ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ.
12b
Hỡi cây cối rừng xanh, 13 hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa, vì Người
ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian. Người xét xử địa cầu theo đường công
chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người.
BÀI ĐỌC 2:
Tt 2, 11-14
11 Anh em thân mến, ân sủng của Thiên Chúa đã
được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. 12 Ân sủng đó dạy
chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng
mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. 13 Sở dĩ như vậy, là vì
chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là
Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. 14 Vì
chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất
chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một
dân hăng say làm việc thiện.
TUNG HÔ
TIN MỪNG: Lc 2, 10-11
Hall-Hall: Này tôi
báo cho anh em một tin mừng trọng đại: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho
chúng ta, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa. Hall.
TIN MỪNG:
Lc 2, 1-14
1 Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền
kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. 2 Đây là cuộc kiểm tra đầu
tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. 3
Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. 4 Bởi thế, ông
Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền
Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít. 5 Ông lên đó khai
tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. 6
Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. 7
Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai
ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.
8 Trong vùng ấy, có những người chăn chiên
sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. 9 Bỗng sứ thần Chúa
đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp
hãi hùng. 10 Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo
cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: 11
Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là
Đấng Ki-tô Đức Chúa. 12 Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em
sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.”13 Bỗng có
muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:
14 "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình
an dưới thế cho loài người Chúa thương.”
BÀI SUY
NIỆM 1:
MẦU NHIỆM CON THIÊN CHÚA NHẬP THỂ
Qua hình thức tổ chức lễ Giáng Sinh dựa vào lịch sử đời
sống của Hội Thánh, Phụng Vụ đã diễn tả về mầu nhiệm nhập thể:
-
Con Một Chúa Cha nhập
thể, là một nhân vật lịch sử phi thời gian.
-
Ngài là Mặt Trời Công
Chính.
-
Ngài sống nghèo cho
ta được giàu có.
-
Ngài nâng phẩm giá
con người vượt trên kiếp người.
I. CON MỘT CHÚA CHA
NHẬP THỂ, LÀ MỘT NHÂN VẬT LỊCH SỬ PHI THỜI GIAN.
1. Đức Giêsu là nhân vật
lịch sử.
Ngài không phải là một ý tưởng, hay lý tưởng
của nhân loại, như “Thần Tài” hay “Thần Lành” trong các tôn giáo nhân gian;
Ngài cũng không phải là nhân vật thần thoại như “Con Rồng” hay “Tiên Ông” …
Nhưng Ngài là con người lịch sử, sinh vào thời điểm đế quốc La Mã đang thống
trị Israel, dưới triều đại hoàng đế Augúttô và Quirintô làm đặc sứ toàn quyền
miền Syria đã ra lệnh mọi người phải về quê quán khai tên tuổi. Vào dịp này ông
Giuse và bà Maria đã mau mắn thi hành lệnh trở về Bethlem. Khi hai người đang ở
đó, thì Maria tới ngày mãn nguyệt khai hoa (x Lc 2, 1-6: Tin Mừng); và Ngài đã bị
giết chết theo lệnh Philatô làm tổng trấn miền nam nước Do Thái (x Ga 19, 12t).
Vậy ngay từ lúc chào
đời, Đức Giêsu đã dạy chúng ta phải biết tùng phục quyền bính đời (x
Lc 2, 2: Tin Mừng), để mỗi người chúng ta
phải nên thánh ngay trong môi trường và hoàn cảnh của mình đang sống!
2. Con Thiên Chúa được
sinh ra trong thời gian nhưng lại phi thời gian.
Niên lịch của nhân loại trước thế kỷ thứ 15
chưa thống nhất:
* Người Ai Cập, Assyri; Babylon dùng niên lịch theo các đời vua.
* Người Hy Lạp lấy ngày tế thần Zeus, đầu
tiên vào năm 776 trước Công nguyên.
* Người Roma tính từ ngày hai ông Romolus và
Remus xây thành Roma vào năm 750 trước Công nguyên.
* Người Do Thái tính từ ngày ông Abraham được
Thiên Chúa kêu gọi khoảng 2. 000 năm trước Công nguyên.
Nói chung trước thế kỷ thứ 15, lịch thế giới
không thống nhất, nên tạo khó khăn trong vấn đề giao dịch. Mãi đến thế kỷ thứ 6
(năm 525), thày dòng Denys le Petit cho biết Chúa Giáng Sinh vào năm - 754 theo
lịch Roma. Đến đời Đức Giáo hoàng Grégorio XIII (1505-1583) mới quyết định lấy
ngày Chúa Giáng Sinh làm mốc thời gian cho cả thế giới. Nhưng tiếc là thày Denys
le Petit đã tính sai! Vì vào năm 1912, người ta tìm thấy tấm bia ở Antiôkia xứ
Pisiđia còn ghi lại rằng: lệnh khai hộ khẩu do ông Quirintô khởi xướng và ông
Sentiô hoàn tất vào năm 7 và 6 trước Công nguyên. Như thế, lịch hiện hành đã
tính trễ khoảng 6 – 7 năm.
Dầu sao thì không có ai biết chính xác Đức
Giêsu sinh ra vào ngày tháng nào! Điều này Chúa muốn dạy chúng ta:
a-
Đức Giêsu con người lịch sử được sinh ra, được
sinh ra mà không phải được tạo thành, không lệ thuộc vào thời gian.
b-
Đức Giêsu là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là
Đấng hằng hữu, thì không có khởi sinh không có tận cùng.
II. CHÚA GIÊSU LÀ MẶT
TRỜI CÔNG CHÍNH.
Thực ra vào thế kỷ thứ 4, lễ Giáng Sinh mới
bắt đầu hình thành, tức là vào năm 350, Đức Giáo hoàng Julius I chính thức chọn
ngày 25/12 là ngày mừng lễ Giáng Sinh. Lý do hoàn cảnh lúc ấy dân ngoại ồ ạt
theo đạo Chúa, nhưng trước đó họ có thói quen cứ đến ngày 25/12 là đi dự lễ hội
mừng ngày sinh của thần Mặt Trời. Do đó Hội Thánh Công Giáo muốn “rửa tội” cho
ngày đó bằng cách nói với dân ngoại đã trở lại Đạo rằng: Muốn thờ thần Mặt Trời,
thì chính Đức Giêsu là MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH đã đến viếng thăm nhân loại. (x Lc 1,
78)
III. CON THIÊN CHÚA
TRỞ NÊN NGHÈO ĐỂ TA ĐƯỢC GIÀU CÓ.
Phúc Âm không ghi Đức Giêsu sinh ra trong
hang đá, nhưng theo thánh Giustinô (thế kỷ thứ 2) thì nói Đức Maria sinh Đức Giêsu
trong một hang đá. Vào thế kỷ thứ 4, hoàng đế Constantinô cho xây một vương cung
thánh đường tại một hang ở Bethlem, mà theo truyền thống người ta tin Chúa
Giê-u sinh ra tại đó.
Còn việc làm hang đá ngày nay, được bắt đầu
vào thời thánh Phanxicô thành Assisi: Lúc ấy người ta đã tục hoá lễ Giáng Sinh,
đáng lẽ vào dịp lễ này người ta phải gia tăng cầu nguyện, nghe Lời Chúa và chia
sẻ, thì họ lại tổ chức tiệc tùng, ăn uống xa xỉ và đú đỡn với nhau! Đầu tháng
12 năm 1223, thánh Phanxicô báo trước cho mọi người là lễ Giáng Sinh năm nay
không cử hành tại Nhà Thờ mà là ở một nơi khác (không cho biết trước). Mỗi tín
hữu đêm ấy cầm đuốc đi theo thánh nhân vào một khu rừng vắng. Rồi thánh nhân
leo lên một triền núi phẳng và cùng với mọi người dâng Thánh Lễ tại đây, ngài
giảng một bài rất hùng hồn về cảnh nghèo nàn của Con Thiên Chúa vào đời, có ý
dạy mọi người tránh sống xa xỉ, để có điều kiện chia sẻ vào những công việc đạo
đức, hữu ích cho mọi người. Khi thánh Phanxicô đang giảng say sưa, thì thình
lình Chúa Hài Đồng hiện ra ngay trên Bàn Thờ, nằm giơ hai tay, hai chân như
muốn đòi thánh nhân bế. Từ điển tích này, người ta đặt tượng Chúa Hài Đồng nơi
hang đá không phải là một cậu bé được quấn tã nằm ngủ ngon trong máng cỏ, mà là
một Hài Nhi nằm “giơ bốn vó!”
Vậy “làm
sao chúng ta phải trở nên giàu có như Đức Giêsu, mà vì chúng ta, Ngài đã trở
nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có nhờ sự nghèo khó của Ngài!” (2Cr 8,
9) Ta phải trở nên giàu có như Đức Giêsu để có thêm điều kiện làm cho đồng loại
được giàu có về Đức Tin và của cải vật chất, còn ta trở nên nghèo khó giống Đức
Giêsu, đến nỗi Ngài không có nơi ngả đầu! (x Lc 9, 58), vì chết trần trụi trên
thập giá!
IV. CON THIÊN CHÚA
ĐẾN NÂNG PHẨM GIÁ CON NGƯỜI VƯỢT TRÊN MỌI LOÀI THỤ TẠO.
* Cũng
vào hoàn cảnh ở thế kỷ thứ 4 (năm 440), nhóm Manisê chủ trương khinh chê thân
xác con người, vì thân xác là nguồn gốc của tội lỗi!
*
Rồi đến năm 448, nhóm “Độc Tính” dạy rằng: Chúa Giêsu chỉ có một bản tính Thiên
Chúa, thân xác chỉ là “ốc mượn hồn”, con người không làm được gì tốt, phủ nhận
sự cộng tác của con người trong chương trình Chúa cứu độ, mà Thiên Chúa hoàn
toàn làm hết cho kẻ tin Ngài!
Để chống
lại hai lạc thuyết trên, lễ Giáng Sinh Hội Thánh dạy ta phải xác tín rằng:
1.
Mỗi người được Chúa ở cùng, thân xác họ là Đền
Thờ đích thực của Thiên Chúa. (x 1Cr 3, 16)
2.
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa không hỏi
ý kiến ai, vì chưa có ai để hỏi. Nhưng khi cứu độ con người, thì Thiên Chúa tôn
trọng họ, nên Ngài hỏi ý con người! (thánh Augustino) [x Mc 2, 1-12]
3.
Khi tạo dựng Ađam thứ I, Ađam cuối cùng (Đức Giêsu),
Thiên Chúa đã khắc ghi hình ảnh mình trong đó, như Lời tiền Tin Mừng Chúa đã
hứa: “Miêu duệ người nữ đạp nát đầu rắn”
(St 3, 15). Do vậy, Ađam cuối cùng đã lãnh nhận vai trò và tên Ađam thứ I: Vì Ađam
thứ I làm mất những gì tốt đẹp đã được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh Ngài
(x St 1, 26). Ađam trước đã khởi đầu, nhưng đi vào sự chết; Ađam cuối cùng sống
vinh phúc muôn đời. Do đó, người sau (Giêsu - Ađam cuối cùng) mới đích thực là
người đầu, như chính Ngài đã nói về mình: “Ta
là đầu và là cuối’’ (Kh 1, 17): Từ khởi sự cho đến hoàn tất, đều nhờ bởi
Chúa Giêsu.
4.
“Adam
cũ được dựng nên bởi đất trinh (đất chưa ai canh tác), còn Adam cuối cùng thì
được sinh ra bởi Mẹ Đồng Trinh” (Thánh Irênê). Thánh Gioan nói: “Những ai đón nhận được Ngài, thì Ngài ban
cho họ quyền làm con Thiên Chúa, ấy là cho những kẻ tin vào danh Ngài” (Ga
1, 12). Vì vậy mà thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Thiên Chúa làm người, cho con người được làm Thiên Chúa”. Và Chúa “không ngớt vui chơi, vui chơi trên mặt đất, đùa
giỡn với con cái loài người” (Cn 8, 30-31).
Nhưng ai muốn được những ơn trọng đại trên, buộc họ phải
sống trong Hội Thánh Chúa Kitô. Vì Chúa chỉ muốn cứu loài người trong một đoàn
chiên và một Chủ chiên (x Ga 10, 1-18). Chính vì thế mà giáo huấn Công Đồng Vat.
II trong Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 32 dạy: “Ngôi Lời nhập thể và tình liên đới nhân loại, Thiên Chúa không muốn
thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn
quy tụ họ thành một dân tộc, để họ nhận biết chính Ngài trong chân lý, và phụng
sự Ngài trong thánh thiện” .
Câu chuyện Đường Tăng (trích trong
“Phẩm Giá Của Con Người” của Nguyễn Thái Hợp:
“Đường
Tăng Huyền Trang là một nhân vật lịch sử. Một tăng sĩ dũng cảm, thông minh, tinh
tế và là một học giả uyên thâm kinh điển Phật giáo. Ông là một học giả thiên
tài và nghiêm túc đã dịch rất nhiều kinh sách Phật giáo ra chữ Hán. Ông đã ghi
chép cẩn thận những gì mắt thấy tai nghe trên đường đi thành tập “Tây Du Ký”. Đây
là một tài liệu giá trị về xã hội, địa dư, tôn giáo và lịch sử của Ấn-Độ thời
ấy. Nhưng chẳng mấy ai đọc “Tây Du Ký” của Huyền Trang.
Ngô Thừa Ân không sử dụng tài liệu lịch sử
của Huyền Trang, mà lại hư cấu một “Tây Du Ký” khác. Dưới ngòi bút của Ngô Thừa
Ân, Huyền Trang học giả biến thành một Đường Tăng khù khờ, cả tin, hơi u mê và
nhiều khi từ bi không đúng chỗ. Tuy nhiên, thầy trò Huyền Trang Tam Tạng của
Ngô Thừa Ân lại được nhiều người Á Đông biết đến và say mê, vượt rất xa tác
phẩm và nhân vật Huyền Trang chính thức.
Vào đầu thập niên 90, Trương Quốc Dũng đã hư
cấu một Huyền Trang khác trong truyện thật ngắn mang tựa đề “Đường Tăng”. Trong
lời bạt của cuốn sách “40 truyện rất ngắn”, nhà phê bình Lê Ngọc Trà nhận định
sắc nét: “Truyện Đường Tăng đầy những câu văn ngắn có hồn. Chữ ít nhưng dường
như chữ nào cũng sống, cũng có một âm điệu tình cảm, một không gian…”. Xin được
phép trích nguyên văn truyện thật ngắn này, một trong hai truyện được giải nhất
trong cuộc thi truyện rất ngắn 1993-1994 (dưới 1. 000 chữ) của bán nguyệt san
Thế Giới Mới:
“Đêm cuối cuộc trường chinh đầy gian khổ, ngày
mai vào yết kiến Như Lai để lên kiếp Phật, đường Tăng trằn trọc không sao ngủ
được. Suốt cuộc đời tâm nguyện tới cõi này, giờ đây khi sắp trút bỏ kiếp người,
ông bỗng thấy lòng day dứt.
“Chiều
nay, thân thể Đường Tăng đã rã rời, đầu óc đầy mộng mị, tay biếng lần tràng hạt.
Tâm linh như muốn níu chân dừng lại. Máu ông nhức nhối thấm lần qua tim, cứa
vào qúa khứ đau xé. Ông nhớ tới những người sinh thành ra mình. Tình cha, huyết
mẹ tạo nên mà bao nhiêu năm nay ông không một lần thắp hương, không một lần
nhắc nhở.
“Chặng
đường dài tới đất Phật khiến trái tim ông dần chai sạn. ông đã quá nhiều lần
phải lạy lục, cầu khẩn các thần lớn bé, đã qua nhiều lần dẫm đạp lên xác máu
yêu ma xa gần, chỉ với một mục đích: mau thành chánh qủa. ông thương người. Nhưng
đêm nay, trước ranh giới cuối cùng của cõi Người và Phật, ông chợt hiểu ra cội
rễ của tình thương ấy. Mỗi lần cứu giúp con người, ông chỉ thầm tính toán như
xây thêm cho mình một bậc thang tới Phật đài.
“Nhiều
lần Đường Tăng đã tự hỏi tại sao nước mắt mình ngày càng lạnh giá. Giờ đây ông
thầm biết, trên con đường thỉnh kinh về cứu rỗi người đời, ông đã dần dần xa lạ
với con người.
“Ông
trở mình, thở dài: không là người, ta sẽ là ai? Yêu quái cản đường, biết bao kẻ
chính từ trên đây xuống, pháp thuật vô biên, ác nghiệt vô cùng. Ta nhập vào
chốn ấy biết rồi thành Phật hay thành ma?
“Đường
Tăng chợt nhói trong tim. Ông khẽ rên lên, hai tay ôm ngực. Mở mắt thấy các đồ
đệ đang đứng bên giường nhìn ông âu lo. Cả ba hình như đều không ngủ.
“Đường
Tăng thở hắt: “Không sao đâu, ta chỉ chợt
nhớ tới ngày xưa”. Nói rồi lại nhắm mắt.
Nghe tiếng Ngộ Không: “Xin thầy đừng tự dối lòng. Thầy đang nhớ cả kiếp người – Đường Tăng
rùng mình khi giọng Ngộ Không quá u uất – Con từ đá sinh ra. Coi thường cả thần
thánh, yêu ma, chỉ mong được thành người. Thầy đã là người lại tự bỏ mình đi
tìm hồn phách khác. Đêm nay sao khỏi xót xa”.
“Bát
Giới cười khẽ: “Làm người có gì vui. Chúng
ta đã dốc lòng theo đạo, ngày mai được lên chốn thần tiên, sung sướng biết bao
nhiêu. Thầy đừng luyến tiếc.”
“Sa
Tăng an ủi: “Thầy trò mình sắp hóa Phật, mang
đạo xuống khai sáng cho loài người. Công qủa vĩ đại lắm!”
“Đường
Tăng lắc đầu, nằm im hồi lâu, hai tay vẫn đặt lên tim, mắt vẫn nhắm, nước mắt
trào ra ấm nóng lại. Rồi như trăn trối: “Ta
ước gì đêm nay đừng sáng. Ta đau đớn cho mười mấy năm viễn du. Ngộ Không ơi!
Một đời con mong được thành người thì bị ép phải theo ta để thành Phật. Bát
Giới tự dối mình, giác ngộ thật ra
chỉ là đi tìm một chốn hoan lạc mới. Sa Tăng rời cõi u mê này sang cõi hoang
tưởng khác mà lại hy vọng khai sáng. Còn ta? Không còn là người, không phải là
người thì làm sao đồng cảm mà đòi khai sáng, cứu vớt con người.”
“Ngộ
Không sụp xuống nắm tay thầy, ngẹn ngào: “Thầy
đã nhận ra chân lý. Nhưng chậm quá rồi.”
Truyện Đường Tăng cho ta phải suy nghĩ: Đường
Tăng mong thành Phật, khi sắp thành Phật lại buồn vì không còn là người! Mà
không là người làm sao cứu được người? Như vậy Đường Tăng thua xa Chúa Giê-su, Ngài
vừa là Thiên Chúa vừa là người.”Ngài đã
trải qua thử thách và đau khổ, nên Ngài có thể cứu giúp những ai bị thử thách!”
(Dt 2, 18) Và không ai có thể lên cõi Phúc (lên Trời), ngoại trừ “Đấng từ Trời mà xuống, để ai tin vào Ngài
thì được sống hạnh phúc đời đời!” (Ga 3, 13. 15) Như vậy, muốn cứu ai ta
phải có hai điều kiện:
-
Sống kiếp người giống như đồng loại ta muốn
cứu, để ta cảm nghiệm được hoàn cảnh đau khổ của họ. Đó là lý do Đấng Cứu Thế
muốn làm người như chúng ta.
Nếu Thiên Chúa ngồi trên trời sai thiên thần đến Việt Nam, xem
hoàn cảnh dân chúng sống ra sao, khi thiên thần trở về chắc chắn thưa với Chúa:
“Lạy Chúa, “đầy tớ nhân dân” rất giàu có, trái lại nhân dân làm chủ lại quá
nghèo khổ, bo bo không có đủ mà ăn. Chúa ngạc nhiên hỏi: “Tại sao thế, Ta không
hiểu, đầy tớ lại giàu hơn chủ nghĩa là sao?” Thiên thần thưa: “Đầy tớ nhân dân
giàu lắm, họ rửa tiền bằng cách đi xe hơi và uống bia ôm. Còn nhân dân làm chủ
thì không ai làm chủ một tấc đất, họ chỉ có quyền sử dụng, nên họ phải đi xe ôm
và uống bia hơi!”
Nghe thế, Chúa phán: “Ta phải xuống xem sao, chứ nghe báo
cáo thế thì “Tây” nó cũng chẳng hiểu nổi!”
Vậy muốn cứu ai đạt hiệu quả cao, không nhưng ta phải giống
mà còn phải hơn người ấy.
Nhờ ngòi bút của ông Luca, cho ta lưu ý hai
lần ông viết “Hôm nay”, đặc biệt ở đầu và cuối cuộc đời Đức Giêsu:
-
Ngày Con Đấng Tối Cao giáng trần, Thiên thần
nói: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta, Người
là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2, 11: Đáp ca).
-
Ngày Con Đấng Tối Cao lìa bỏ trần thế về Trời,
Ngài nói với tên trộm biết sám hối tội mình và xin theo Ngài: “Hôm nay, ngươi
ở trên Thiên Đàng với Ta” (Lc 23. 43). Đúng với Lời thiên thần nói
với các chú mục đồng: “Này tôi báo cho
anh em một Tin Mừng trọng đại: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em
trong thành vua Đavid, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2, 11: Tung Hô
Tin Mừng).
Kinh Thánh viết như thế, muốn nhấn mạnh rằng:
Chúa Giê-su rất muốn đến với chúng ta từng ngày hôm nay trong suốt đời ta.
Ngài không hẹn ta vào ngày khác đến gặp Ngài. Do đó, nếu mỗi người chúng ta hôm nay
rộng mở cửa tâm hồn đón Chúa Giêsu Phục Sinh, khi ta dự Thánh Lễ, thì cho dù
ngày hôm
nay ta còn vương vấn tội lỗi mà biết sám hối, nếu Chúa lại gọi
ta hôm
nay ra khỏi thế gian này, chắc chắn Chúa cũng đưa ta vào Thiên
Đàng ngay hôm nay, bởi vì ta không đến nỗi tồi tệ như tên trộm
lành suốt đời chỉ chôm chỉa của người khác. Như thế ta không phải xuống luyện
tội một thời gian để thanh tẩy mới được vào Thiên Đàng, giống như nhiều người
phải thanh tẩy nơi luyện tội. Vì Chúa Giêsu cũng đã hứa: “Ai nghe Lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta thì có sự sống đời đời và khỏi
phải đến tòa phán xét, nhưng đã ngang qua sự chết mà vào cõi sống” (Ga 5, 24).
Chính vì vậy, mà thánh Phaolô nói: “Bây
giờ án phạt không có nữa cho những ai ở trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 8, 1), nên
“nếu Đức Kitô ở trong anh em, thì tuy
thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng làm cho anh em được
sống, vì anh em đã được trở nên công chính” (Rm 8, 10).
Nhất là ta dự Lễ trọn vẹn: nghe Lời và rước
lễ là cách chắn chắn được Chúa ở cùng, Ngài giúp ta thắng satan, thắng tội lỗi,
thắng thần chết, hơn xưa Chúa chỉ ở cùng ông Ghêđêôn qua dấu chỉ “tấm lông chiên ông phơi ngoài sân đẫm ướt
sương” (x Qa/Tl 6-7), nhờ thế mà ông chiến thắng quân Mađian (x Is 9, 1-6:
Bài đọc I).
Vậy ngày hôm nay ta dự Lễ là được Chúa ở cùng,
chắc chắn Ngài cho ta mạnh sức hơn ông Ghêđêon, để “Ngài giúp ta từ bỏ lối sống vô luân, hầu ta xứng đáng là dân riêng của
Chúa, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2, 11-14: Bài đọc II).
THUỘC LÒNG.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào
Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga
3, 16)
BÀI SUY
NIỆM 2:
CUỘC ĐỜI LÀ HIẾN TẾ CỨU ĐỘ
Thiên Chúa Ngôi Hai, Ngài là Đấng Hằng Hữu và Toàn Năng, nhưng
Ngài chỉ trở thành Tư Tế khi được sinh ra làm người và trở thành của lễ dâng
Chúa Cha sinh ơn cứu độ cho loài người, đúng với ý nghĩa danh Giêsu (Thiên Chúa
Cứu Độ) đã được sứ thần Gabriel ra lệnh cho Đức Maria và ông Giuse đặt cho Ngài
(x Lc 1, 31; Mt 1, 18-25).
Ta biết Đức Giêsu hoàn tất Hy Lễ mới của Ngài:
-
Khởi đi từ lúc nhập thể, đỉnh cao nơi thập
giá.
-
Để mạc khải cho “kẻ bé mọn” sự khôn ngoan của
Thiên Chúa.
-
Để tạo nên một dân riêng thoát ách Luật, chuyên
lo việc lành.
-
Để ta theo gương Đức Maria cộng tác với Đức
Giêsu hoàn tất công trình sáng tạo mà Chúa Cha đã khởi sự.
-
Con Chúa đến qua Phụng Vụ Hội Thánh cử hành
để hoàn tất việc tạo dựng con người.
1/ ĐỨC GIÊSU VÂNG LỜI
SỐNG NGHÈO TỪ LÚC NHẬP THỂ, ĐỈNH CAO LÀ THẬP GIÁ.
·
Ngày Đức Giêsu vào trần gian, cha mẹ Ngài
phải vâng lời hoàng đế Roma về Bêlem, thành của vua Đavid mà đăng ký hộ khẩu, trong
cảnh nghèo khổ: Không kiếm được chỗ trú thân trong thành, nên cha mẹ Hài Nhi
phải lấy tã vấn và đặt nằm trong máng cỏ! (x Lc 2, 7). Phải chăng người ta coi
Ngài như thân sâu bọ nằm trong cỏ, dựa vào lời ngôn sứ Isaia đã nói: “Dáng vẻ của Ngài không còn thuộc hạng người
ta” (Is 52, 14); “Không duyên dáng, không
oai vệ bắt chúng tôi phải để ý” (Is 53, 2).
·
Nhưng còn tệ hơn, ngày Đức Giêsu lìa đời, Ngài
lại phải vâng lời quyền bính Roma, tại thành của vua Đavid, để lãnh án tử, chết
nhục trên thập gía! Rồi được ông Giuse quê tại Arimathia và một môn đệ bí mật
xin ông Philatô đưa xác Ngài đem đi liệm táng trong mồ! (x Ga 19, 38t) Đúng như
lời ngôn sứ Isaia đã nói: “Ngài bị khinh
khi, và là đồ phế bỏ của người đời!” (Is 53, 3)
2/ ĐỂ MẠC KHẢI CHO
“KẺ BÉ MỌN’’ ĐƯỜNG LỐI KHÔN NGOAN CỦA THIÊN CHÚA.
·
Ngày Ngôi Hai giáng trần, Ngài sai thiên thần
đến mạc khải cho các chú mục đồng, là những “kẻ bé mọn” về dấu chỉ: “Một
trẻ vấn tã nằm trong máng cỏ”,
để nhận ra Đấng Cứu Thế. Mà thực, chỉ có lũ trẻ ranh con
này được tin mới tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu, còn hạng người tự mãn là khôn ngoan
thông thái chỉ mở Sách Thánh tra tầm nơi sinh của Hài Nhi, Vua Do Thái, để chỉ
điểm cho bạo chúa Hêrôđê ra lệnh chém giết, chứ nào họ có đến thờ lạy?! (x Mt
2)
·
Bởi vậy, cái chết của Đức Giêsu trên thập gía
là cớ vấp phạm cho người Do Thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại; chỉ có kẻ bé
mọn như ông Phaolô mới được Đức Giêsu mạc khải cho biết đó là đường lối khôn
ngoan của Thiên Chúa. (x 1Cr 1, 17)
3/ ĐỂ TẠO NÊN MỘT DÂN
RIÊNG THOÁT ÁCH LỀ LUẬT, CHUYÊN LO VIỆC LÀNH.
Ngôn sứ Isaia trong Bài đọc I đã cho ta biết trước gía trị
ơn cứu độ do Đấng Cứu Thế thực hiện: “Ngài
đập tan cái ách đè trên vai dân…” (Is 9, 3t). Đây chính là cái ách, cái
gánh nặng, cái roi của Lề Luật đặt trên nhân loại, vì “Luật chỉ làm cho ta nhận biết tội’’ (Rm 7, 7), và nó “giam ta trong tội” (Gl 3, 22). Chỉ có
Đức Giêsu giải phóng cho “kẻ bé mọn” thoát án phạt của Lề Luật (x Gl 3, 24 và
Mt 11, 25-30). Ai được Chúa ở cùng, người ấy được Ngài ủng hộ và bênh đỡ thắng
sự ác, còn hơn xưa Thiên Chúa ủng hộ ông Ghêđêôn thắng quân Mađian để bảo vệ
dân Ngài (x Tp 6). Bởi vì Ngài vừa là Đấng cao cả nhất lại trở nên thấp hèn
nhất! Ngài vừa khác ta, vì Ngài là Thiên Chúa, Ngài lại giống ta, vì Ngài là
người như mọi người, ngoại trừ tội lỗi!
-
Ông Emerson nói: “Muốn quan sát một khu vực, ta phải leo lên nơi cao nhất, và còn phải
xuống nơi thấp nhất.” Ví dụ: Một người muốn tham quan một địa danh để biết
tường tận nơi đó, thì người ấy phải ngồi trên máy bay nhìn xuống, đồng thời họ còn
phải lội qua từng dòng suối, xuống tận thung lũng sâu thẳm!
-
Còn ông P. Tillich nói: “Muốn hiểu ai, ta phải vừa giống họ, lại vừa khác họ.”
Vậy chỉ có Đức Giê-su hiểu hết những nhu cầu, những khát
vọng của ta, vì Ngài cao cả không ai bằng, cũng không ai hạ mình xuống thấp
nhất như Ngài: Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa toàn năng, lại trở nên như người nô lệ
để phục vụ, thậm chí người ta liệt Ngài vào hạng tội nhân phải loại trừ!
Để minh chứng Ngài giống ta để hiểu ta nhất, làm thỏa mãn
khát vọng nên thánh của ta, thánh Phaolô nói: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
… Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày
Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh
quang. Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi
điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của
Người, một dân hăng say làm việc thiện.” (Tt 2, 11-14: Bài đọc II).
4- TA THEO GƯƠNG ĐỨC
MARIA CỘNG TÁC VỚI ĐỨC GIÊSU ĐỂ HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH SÁNG TẠO CỦA CHÚA CHA.
·
Theo gương Đức Maria: Khi các chú mục
đồng vào thành Bêlem, họ thuật lại tất cả các lời thiên thần loan báo, làm mọi
người kinh ngạc – một thái độ nghi ngờ chưa tin – chỉ riêng Đức Maria thì giữ
kỹ các điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng (x Lc 2, 15-20). Thái độ của
Đức Maria trước ý định của Thiên Chúa đã trở thành mẫu mực cho mọi thành phần
trong Hội Thánh, để nhờ nhẫm đi nhắc lại Lời Chúa suốt đêm ngày, họ làm gì cũng
thành công! (x Tv 1, 2-3)
·
Cộng tác với Đức Giêsu ngay “Hôm Nay’’:
Trong Tin Mừng của thánh sử Luca, ông đã dùng 8 lần thuật ngữ “HÔM NAY’’ để nói
về ơn cứu độ Chúa ban:
1.
Hôm nay Đấng Cứu Thế sinh ra (x Lc 2, 11).
2.
Hôm nay Cha sinh ra Con (x Lc 3, 22).
3.
Hôm nay ứng nghiệm điều tai các ngươi vừa nghe (x Lc
4, 21).
4.
Hôm nay chúng ta được thấy điều kỳ lạ: Con Người có
quyền tha tội (x Lc 5, 26).
5.
Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh
tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất (x Lc 13, 32).
6.
Hôm nay tôi phải lưu lại nhà ông Giakêu (x Lc 19, 5).
7.
Hôm nay nhà này được ơn cứu độ (x Lc 19, 9).
8.
Hôm nay anh ở trên Thiên Đàng với tôi (x Lc 23, 43).
Như thế, thời Cựu Ước, Chúa đã tạo dựng vũ trụ trong 6 ngày,
ngày thứ 7 Ngài nghỉ ngơi (x St 1). Đó là dấu chỉ trong thời Tân Ước, vào ngày
Thứ Bảy Tuần Thánh, Đức Giêsu được nghỉ ngơi (an táng trong mộ), và Ngày Thứ
Tám, Ngài sống lại, thì 8 lần “Hôm Nay” trong đời Đức Giêsu, Ngài lấy cả sự ác
làm hoàn tất việc tạo dựng mà Chúa Cha đã khởi sự. Cụ thể Ngài đưa anh trộm
lành dâng lên Chúa Cha để tôn vinh Người. Đúng là như lời thiên thần báo cho các
mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một Tin
Mừng trọng đại: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua
Đavid, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2, 11: Tung Hô Tin Mừng).
(Ta lưu ý:
Trong Tin Mừng của Luca, còn nói đến hai lần “Hôm nay” nữa, nhưng không được kể
là HÔM NAY CHÚA BAN ƠN, vì tác gỉa nói đến hình phạt đối với người từ chối Đức
Giêsu: Lc 19, 42: Ngài trách người Do Thái hôm nay
không biết đón nhận phúc bình an! Lc 22, 34: Ngài
báo trước ông Phêrô sẽ chối Thầy: “Hôm nay gà sẽ không gáy cho đến lúc ngươi chối ba
lần là không biết Ta”).
5- CON CHÚA ĐẾN QUA
PHỤNG VỤ HỘI THÁNH CỬ HÀNH ĐỂ HOÀN TẤT VIỆC TẠO DỰNG LOÀI NGƯỜI.
Nhờ tình thương và quyền năng lạ lùng Con
Thiên Chúa đã thực hiện như đã đề cập ở trên, làm cho các chú mục đồng cùng với
các thiên thần chung lời tôn vinh ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa
thương” (x Lc 2, 14. 20).
Lời tôn vinh trên, đêm hôm nay mọi Ki-tô hữu
đều cất lời cùng chung tiếng hát với các thiên thần, để nối dài và mở rộng niềm
vui ơn cứu độ đã đựơc công bố cách đây trên 2. 000 năm, và còn đang tiếp tục
thực hiện cho tới ngày Chúa lại đến, để tập họp thêm những người thiện tâm theo
Ngài đi vào vinh quang bất diệt!
Vì khi tạo dựng Ađam thứ I, Ađam cuối cùng
(Đức Giêsu) đã khắc ghi hình ảnh mình trong đó. Vì vậy Ađam cuối cùng lãnh nhận
vai trò và tên của Ađam thứ I đã bỏ mất những gì tốt đẹp Thiên Chúa ban, nhất
là được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài (x St 1, 26). Ađam đầu, Ađam cuối: Người
trước đã có khởi đầu, Người sau sẽ tồn tại mãi mãi, vì Người sau mới thực là
Người đầu, như chính Ngài đã nói về mình “Ta
là Đầu và là cùng đích” (x Thánh Phêrô Kim Khẩu – Bài Giảng 117).
Đức Kitô Giêsu xuất hiện không phải một lần, mà
Ngài cứ muốn đến lần nữa, lần sau huy hoàng hơn lần trước. Thực vậy, lần I Ngài
đến chịu trăm nghìn đau khổ, còn lần sau Ngài đến biểu lộ vương quyền của Thiên
Chúa, vì nơi bản tính Thiên Chúa, hai lần Ngài được sinh ra: Lần I sinh ra bởi
Thiên Chúa từ trước muôn đời, lần II được sinh ra do quyền năng Chúa Thánh Thần,
nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Ngài đến âm thầm như sương xuống tấm lông
chiên của ông Ghê-đê-on, và lần II Hội Thánh sinh Ngài qua Bí tích Thánh Thể, như
sương từ trời xuống lần II trên mảnh đất ông Ghêđêon phơi tấm lông chiên, mà
tấm lông chiên không đẫm ướt sương! Đó là dấu chỉ Chúa thúc bách ông Ghê-đê-on
xuất quân chiến thắng kẻ địch Mađian giải phóng cho dân tộc! (x Tp/Qa 6, 36t).
Lần I, Đức Kitô Giêsu đến được Mẹ bọc tã đặt
trong máng cỏ (x Lc 2, 7); lần II Ngài đến trong bộ áo cẩm bào muôn ánh hào
quang.
Lần I, Đức Giê-su đến vác thập giá mà chẳng
hề nhuốc hổ, lần II vào ngày Quang Lâm, Ngài đến trong vinh quang, có các đạo
binh thiên thần hộ tống.
Lần I, Ngài đến với ta qua Bí tích Thánh Tẩy,
để ta được tháp vào Ngài như cành tháp vào cây, cho ta trở thành chi thể trong
Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Giêsu Phục Sinh, còn lần II Ngài đến với ta qua Bí
tích Thánh Thể, để ta được sống bằng sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa (x Ga 6, 57),
bảo đảm cho sự sống lại, một sự sống dồi dào và vĩnh cửu (x Ga 6, 54; 10, 10).
Như thế người ta được sinh ra lần I theo ý
muốn xác thịt của cha mẹ, thì loài người được nhân lên và chia rộng ra; còn lần
II ta được sinh ra qua Bí tích Khai Tâm bởi ý muốn của Thiên Chúa, trong Chúa
Giêsu (x Cv 2, 38), thì ta lại được thu họp trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa
Ki-tô là Hội Thánh, để ta vừa được sống bởi Chúa Giêsu, vừa được sống dồi dào
bởi các chi thể trong Thân Mình Đức Kitô thông chia cho, đó là “áo cưới của
Hiền Thê Tân Lang Giêsu”, thánh Gioan nói đó chính là “áo trúc bâu, là công đức của các thánh, để được mời vào dự tiệc cưới
Con Chiên trong ngày cánh chung” (x Kh 19, 7-8).
Vậy chúng ta hãy trông chờ Đức Giêsu đến lần
II quan trọng hơn lần I và bổ túc cho lần I, hầu lần II, Ngài cho chúng ta cùng
cất tiếng tung hô: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ
đã sinh ra cho chúng ta, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2, 11: Đáp
ca). Ta “hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
hát lên mừng Chúa hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa chúc tụng Thánh Danh.
Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ” (Tv 96/95, 1-2).
THUỘC LÒNG.
Ngày hôm nay, ước gì
anh em nghe tiếng Chúa. (Tv 95/94, 7)
Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH