THỨ
NĂM SAU CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN
NĂM
CHẴN
BÀI
ĐỌC: Kh 5, 1-10
1
Tôi là Gioan, tôi thấy trong tay hữu Đấng ngự trên ngai một cuốn sách viết cả
trong lẫn ngoài, niêm bảy ấn. 2 Rồi tôi thấy một thiên thần dũng
mãnh lớn tiếng công bố: "Ai xứng đáng mở cuốn sách và tháo ấn niêm phong?
"3 Nhưng không ai ở trên trời, dưới đất hay trong lòng đất, có
thể mở cuốn sách và nhìn vào đó. 4 Tôi khóc nức nở, vì không ai được
coi là xứng đáng mở cuốn sách và nhìn vào đó. 5 Một trong các vị Kỳ
Mục bảo tôi: "Đừng khóc nữa! Này đây, Sư Tử xuất thân từ chi tộc Giu-đa, Chồi
Non của Đa-vít đã chiến thắng, Người sẽ mở cuốn sách và bảy ấn niêm phong.”
6
Bấy giờ tôi thấy đứng ở giữa ngai và bốn Con Vật, giữa các vị Kỳ Mục, một Con
Chiên, trông như thể đã bị giết; Chiên đó có bảy sừng và bảy mắt, tức là bảy
thần khí của Thiên Chúa đã được sai đi khắp mặt đất. 7 Con Chiên đến
lãnh cuốn sách từ tay hữu Đấng ngự trên ngai. 8 Khi Con Chiên đã
lãnh cuốn sách, thì bốn Con Vật và hai mươi bốn vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước
mặt Con Chiên, mỗi vị tay cầm đàn, tay nâng chén vàng đầy hương thơm, tức là
những lời cầu nguyện của dân thánh. 9 Các vị hát một bài ca mới
rằng:
"Ngài xứng đáng lãnh nhận cuốn sách
và mở ấn niêm phong, vì Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên
Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước, mọi dân. 10
Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ
Thiên Chúa chúng ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này.”
ĐÁP
CA: Tv 149
Đ.
Lạy Chúa Ki-tô, Ngài đã làm cho chúng con
thành một vương quốc, thành những tư tế,
để phụng thờ Thiên Chúa chúng con. (Kh 5, 10)
thành một vương quốc, thành những tư tế,
để phụng thờ Thiên Chúa chúng con. (Kh 5, 10)
1 Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, ngợi
khen Người trong cộng đoàn những kẻ hiếu trung! 2 Hỡi Ít-ra-en, nào
hoan hỷ, vì có Chúa là Đấng tạo thành ngươi. Con cái Xi-on, hãy nhảy mừng, vì
được Chúa làm Vua hiển trị.
3 Mừng Thánh Danh, nào dâng điệu vũ, nhịp
trống hoạ đàn theo khúc hoan ca. 4 Bởi vì Chúa mến chuộng dân Người,
ban cho kẻ nghèo hèn được vẻ vang chiến thắng.
5 Kẻ hiếu trung hãy vui mừng rạng rỡ, nào
phủ phục mà cất tiếng reo hò, 6a miệng vang lời tán dương Thiên Chúa.
9a Đó là niềm vinh dự cho mọi kẻ trung hiếu với Người.
TUNG
HÔ TIN MỪNG: x. Tv 94, 7b. 8a
Hall-Hall: Ngày hôm nay, anh em chớ cứng lòng, nhưng hãy nghe
tiếng Chúa. Hall.
TIN
MỪNG: Lc 19, 41-44
41
Khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương 42
mà nói: "Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an
cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được.
43 Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây
và công hãm ngươi tư bề. 44 Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở
giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận
biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm.”
TẠI
SAO ĐỨC GIÊSU KHÓC?
Có nhiều người lầm tưởng khuôn mặt Đức
Giêsu rất buồn, vì cả bốn Tin Mừng không tác giả nào ghi Đức Giêsu cười. Trái
lại, ông Luca và ông Gioan lại ghi Đức Giêsu khóc. Chúng ta biết buồn quá cũng
khóc mà vui quá cũng khóc. Ta hãy tìm hiểu lý do nào khiến Đức Giêsu khóc, để
một khi đã biết ý Ngài, chúng ta phải làm cho Đức Giêsu luôn cười đến chảy nước
mắt!
I. LÝ DO ĐỨC GIÊSU KHÓC THEO THÁNH SỬ LUCA
GHI (x. Lc 19, 41).
Chủ đích của Tin Mừng Luca, ông nhấn mạnh
về nhân tính của Đức Giêsu, Ngài có
bản tính như mọi người: biết vui, biết buồn, biết sợ, biết đói, biết khát, ngoại
trừ tội lỗi. Để nhấn mạnh Đức Giêsu có nhân tính, ông Luca ghi trước giờ Tử Nạn,
Ngài sợ hãi đến toát mồ hôi máu (x. Lc 22, 44). Với bản tính yếu đuối trong
thân phận làm người, Đức Giêsu khóc vì dân Do Thái không đón nhận Ngài là Đấng
Cứu Độ duy nhất, như các ngôn sứ đã báo cho họ biết trước, thì tai họa sẽ ập
xuống trên dân tộc: Ngài nhìn thấy trước cảnh hoang tàn của thành Giêrusalem, và
dân tộc Ngài bị phân tán khắp mọi dân mọi nước. Thực vậy, vào năm 70 quân Roma
thình lình kéo đến vây bủa thành Giêrusalem phá bình địa, không còn hòn đá nào
chồng trên hòn đá nào, dân Ngài cố thủ và bám vào Đền Thờ như bùa hộ mệnh, thế
mà kẻ thì bị giết, người thì bị bắt đi đày (x. Lc 19, 28-44: Tin Mừng).
Sự cố đau thương này đã khai mở từ lúc
Ngài sinh vào đời, cha mẹ Ngài không tìm kiếm được nơi êm ấm trong thành của
người Do Thái để sinh Con, nên Ngài được cha mẹ đặt nằm trong máng cỏ ngoài
thành (x. Lc 2, 7). Vì dân khước từ Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban để cứu chuộc
họ (x. St 3, 15), do đó Chúa để cho vua Hêrôđê ra lệnh truy nã diệt hài nhi Do
Thái nào mới sinh ra từ hai tuổi trở xuống ở thành Bethlem và các vùng phụ cận,
vì ông nghĩ rằng có kẻ sinh ra manh nha để tiếm quyền của ông, làm cho tổ phụ của
họ là bà Rakel, vợ ông Giacob, dù đã được an táng cũng đội mồ chỗi dậy khóc
thương dòng giống của bà, đến nỗi không ai an ủi được, vì con cháu của bà đã
không biết đón nhận Đấng Cứu Độ, nên chắc chắn hành động dã man của vua Hêrôđê
truy nã giết Đức Giêsu trở thành dấu chỉ dòng giống của bà Rakel sẽ còn khốn
nạn vì, chính họ quyết liệt giết Con Thiên Chúa thì, chắc chắn họ phải khổ hơn
thời lưu đày ở Babylon suốt 40 năm (x. Mt 2, 1-18).
Như vậy tiếng khóc của Đức Giêsu theo
thánh sử Luca là tiếng khóc nối dài của bà Rakel tổ phụ của họ, vì họ không đón
nhận Ngài, thì tới năm 70, Chúa để cho quân Roma đến phá thánh điện Giêrusalem,
dân phải khổ hơn thời vua Nabukodonosor cho phá Đền Thờ này và bắt dân đi lưu đày
bên Babylon. Dưới bàn tay độc ác của vua Nabukodonosor, dân Do Thái chỉ bị khổ
40 năm, bắt đầu vào năm 587 trước Công nguyên, sau đó Chúa lại dùng vua Cyros, người
ngoại giáo xứ Ba Tư giải phóng cho dân Do Thái khỏi ách nô lệ Babylon, đặc biệt
nhà vua còn cung cấp tiền của cho người Do Thái trở về quê hương tái thiết Đền
Thờ, Đền Thờ này rất lộng lẫy và nguy nga, đến nỗi sử gia Flavius tấm tắc khen:
“Một trăm vẻ huy hoàng của vũ trụ thì
Giêrusalem chiếm 90%”.
Thế nhưng, vì dân này cố tình và quyết
liệt muốn loại trừ Con Thiên Chúa, Đấng khơi nguồn sự sống từ Do Thái để bung
ra khắp thế giới (x. Ga 4, 22), nên Đền Thờ nguy nga này và dân tộc của Ngài bị
xóa trên bản đồ thế giới đã kéo dài gần 2. 000 năm, cho dẫu từ năm 1948, sau Đệ
nhị thế chiến, Liên Hiệp quốc tạo
điều kiện cho những người Do Thái lưu vong trở về để tái lập quốc gia, nhưng
cho đến ngày hôm nay Israel vẫn không xác định được ranh giới đất nước của mình,
Đền Thờ Giêrusalem cũng không thể tái thiết được, bởi vì giữa dân Israel, dòng
giống của ông Isaac, con bà Sara, vợ chính thức của ông Abraham, vẫn không
ngừng gây chiến với dân Palestin dòng giống của Ismael, con của bà Hagar, nữ tỳ
của ông Abraham. Như thế, Isaac và Ismael con cùng cha khác mẹ vẫn hăm he chờ
thanh toán nhau để chiếm từng mảnh đất cho mình. Ta biết nguyên nhân giữa người
Palestin và người Israel luôn gây chiến là tại lỗi bà Sara, vợ ông Abraham, vì
Chúa đã hứa cho vợ chồng Abraham và Sara có con (x. St 15), thế mà bà Sara lại
đưa đứa nô lệ Hagar ăn ở với chồng, sinh ra Ismael (x. St 16), đến khi bà Sara
sinh Isaac, từ bấy giờ giữa Isaac, tổ phụ Israel luôn bất hòa với Ismael, tổ
phụ Palestin. Sự cố đau thương này vẫn đang diễn ra và không hy vọng có thời
kết thúc. Sự cố lịch sử này càng chứng minh Lời Đức Giêsu đã tiên báo về số phận
dân tộc Do Thái bị ly tán và thành Giêrusalem mãi mãi không còn đá chồng trên
đá, thì làm sao Đức Giêsu lại không khóc về dân tộc của Ngài được?! Vì Ngài
cũng có bản tính người như bà Rakel.
II. LÝ DO ĐỨC GIÊSU KHÓC THEO TIN MỪNG GIOAN (11, 35).
Đặc biệt thánh sử Gioan khi viết Tin
Mừng, ông nhấn mạnh về thiên tính
của Đức Giêsu: Đức Giêsu đứng trước cuộc Khổ Nạn, Ngài không run sợ như tác giả
Luca ghi: “Toát mồ hôi máu”, mà Ngài
rất oai hùng khi nhìn đoàn quân Roma kéo đến vây bắt Ngài, chúng đứng trước mặt
Ngài mà không biết Ngài là Giêsu Nazareth để bắt, dù hôm đó có Giuđa dẫn đầu. Ngài
hỏi chúng: “Các ngươi đi tìm ai?”
Chúng thưa: “Chúng tôi đi tìm ông Giêsu
Nazareth”. Ngài nói: “Này Ta đây”.
Chúng liền giật lùi và bổ ngửa ra hết (x. Ga 18, 3-6), lúc ấy Đức Giêsu có
quyền đạp trên chúng mà đi, nhưng Ngài đã cho phép chúng đứng dậy để bắt Ngài.
Đức Giêsu có bản tính Thiên Chúa oai
hùng như thế, nên Ngài biết trước sự chiến thắng của Ngài, do đó khi Ngài đứng
khóc trước mộ Ladarô (x. Ga 11, 35) là vì quá vui mừng, như Ngài thưa với Chúa
Cha: “Lạy Cha, Con biết Cha hằng nhận lời
Con là sẽ cho Ladarô sống lại, để cho mọi người nhận biết Cha đã sai Con đến để
cứu họ, nên Con hằng tạ ơn Cha” (x. Ga 11, 41b-44). Đó là lý do Ngài đã xác
định với bà Matta, chị của Ladarô đã chết: “Em
con sẽ sống lại, phục sinh và sự sống chính là Ta” (Ga 11, 23-25). Đây là
sự chiến thắng của Đấng Toàn Năng, chỉ duy mình Chúa Giêsu đánh gục thần chết, giải
thoát những ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời, còn niềm vui nào lớn lao
hơn! Vì Ngài quá vui mừng mà khóc, bởi Ngài đã nói với các môn đệ rằng: “Ta
mừng, vì không có Ta ở bên Ladarô,
nên Ladarô ngủ (chết) và Ta sẽ đến đánh thức ông ấy dậy” (Ga 11, 11-15).
Tuy nhiên ông Gioan cũng không phủ nhận
Đức Giêsu có bản tính loài người, nên Ngài khóc là khóc cho dân của Ngài, vì
sau phép lạ Ngài làm cho Ladarô sống lại, Ngài không làm một phép lạ nào nữa, vì
đây là dấu Ngài đã đạt mục đích vào trần gian để làm cho loài người dù chết
cách nào cũng được sống lại, ai tin vào Ngài thì khỏi phải chết và được sống
muôn đời. Ta biết Tin Mừng Gioan chỉ ghi bảy phép lạ Đức Giêsu thực hiện, trở
thành dấu chỉ về cuộc sáng tạo mới, mở đầu Đức Giêsu hóa nước thành rượu nho (x.
Ga 2, 1t), thứ hai là Đức Giêsu cho con ông sĩ quan ngoại giáo thoát tay tử
thần (x. Ga 4, 43t), thứ ba là Đức Giêsu chữa lành người bất toại 38 năm nằm
bên bờ hồ có năm dãy hành lang (x. Ga 5, 1t), thứ bốn là Đức Giêsu hóa bánh
nuôi dân ăn no nê (x. Ga 6, 1t), thứ năm là Đức Giêsu đi trên mặt nước đến với
thuyền các môn đệ gặp sóng gió (x. Ga 6, 16t), thứ sáu là Đức Giêsu chữa lành
cho người mù từ thuở mới sinh (x. Ga 9, 1t), cuối cùng, thứ bảy là Đức Giêsu
cho Ladarô đã an táng bốn ngày trong mồ được sống lại (x. Ga 11). Nhìn vào bố
cục bảy phép lạ trên, ta thấy mở đầu nước hóa thành rượu nho là dấu chỉ nhờ
nước Thánh Tẩy ta được tháp vào Đức Giêsu là cây nho thật (x. Ga 15), để được
sống đời đời, qua dấu chỉ Đức Giêsu cho anh Ladarô sống lại. Chỉ khi nào loài
người được Chúa cho từ cõi chết sống lại, công trình sáng tạo của Thiên Chúa
mới hoàn hảo.
Nhưng tiếc rằng những người Do Thái
chứng kiến phép lạ ấy, nhất là những vị kỳ mục của dân lại tỏ ra phẫn uất, quyết
liệt loại trừ Ngài và đòi giết luôn cả Ladarô (x. Ga 11, 45-53; 12, 10). Họ đã
loại trừ Giêsu là nguồn sống thì không thể có sự sống nơi họ (x. 1Ga 5, 12). Ông
Gioan lại ghi Đức Giêsu có lòng thương cảm chị em Matta và Maria, cùng với
những người thân của gia đình này đang khóc nức nở trước mộ Ladarô, làm cho Đức
Giêsu bực dọc tâm thần và xao xuyến cả mình, vì Ngài nhìn thấy nhiều người chưa
đủ Đức Tin nhận ra Ngài có quyền cho kẻ chết sống lại, họ tưởng Đức Giêsu khóc
chỉ vì thương gia đình Matta và Maria, nên họ nói với nhau: “Ngài thương ông ấy dường nào” (x. Ga 11,
36). Nhưng câu đó lại trở nên lời tiên báo: Đức Giêsu thương Ladarô vì dẫu Ngài
cho anh sống lại, thì các đầu mục Do Thái lại quyết định giết luôn cả Ladarô (x.
Ga 12, 10). Ladarô trước đã chết vì bệnh, thì không sợ bằng sau này chết vì sự
ghen tỵ của bọn đầu mục đối với Đức Giêsu. Với sự lỳ lợm của các đầu mục Do
Thái như thế, chứng tỏ dân tộc của Ngài không đón nhận được sự sống, đó là lý
do Ngài khóc!
Vậy cả hai tác giả Luca và Gioan khi ghi
nhận Đức Giêsu khóc, hai ông đã chung một ý là với bản tính nhân loại, Ngài
thương dân tộc của Ngài, vì ngay từ thời vua Antiôkhô, nhiều người Do Thái đã
bỏ Luật Môsê đi tôn thờ các ngẫu tượng của dân ngoại, mà vua này đã ra lệnh cho
toàn dân phải tuân theo, ai làm theo lệnh vua thì được sống và hưởng nhiều bổng
lộc, kẻ bất tuân thì sẽ bị giết. Chỉ có ông Máttítgia, là đầu mục Do Thái, cùng
các con của ông thì quyết tâm không bỏ Luật Chúa ban qua ông Môsê, dù vua dụ dỗ
và hứa ban cho ông Máttítgia, nếu ông làm theo ý vua thì được chức vụ cao trong
triều đình và hưởng nhiều vàng bạc châu báu. Nhưng ông Máttítgia ý thức mình là
thủ lãnh của dân Do Thái, ông thề không theo lệnh vua để hưởng bổng lộc mà làm
cớ cho dân tộc ông bắt chước. Lúc ấy ông nhìn thấy có người Do Thái ra tế lễ
ngẫu thần ở Môđin, lòng ông sôi sục vì có kẻ lỗi Luật Môsê, ông xông vào hạ sát
hắn, và phá hủy tế đàn, rồi ông cùng cả gia đình với một số người còn trung
thành với Luật Môsê trốn lên núi (x. 1Mcb 2, 15-29: BĐ năm lẻ). Thế mà Đức
Giêsu nhìn các đầu mục Do Thái vào thời của Ngài chẳng ai còn có Đức Tin giống
ông Máttítgia, tổ phụ các thủ lãnh của họ, thì những mục tử độc ác này sẽ dẫn
toàn dân Do Thái sa xuống vực thẳm chung cư với tử thần, làm sao Đức Giêsu
không khóc thương họ được?!
Lối sống đạo của một người Do Thái tiến
ra tế thần M-đin theo lệnh vua Antiôkhô, chẳng khác nào lối sống đạo của dân Do
Thái chối từ không tôn thờ Chúa Giêsu Phục Sinh, mà cứ bám vào lối tế tự theo
Luật Môsê, làm cho ông Gioan khóc nức nở, vì không ai xứng đáng mở Cuốn Sách
(Tân Ước), và nhìn vào đó hòng được cứu độ (x. Kh 5, 4: BĐ năm chẵn). Mãi cho
tới khi “sư tử xuất thân từ chi tộc
Giu-đa” (Tin Mừng Marco được công bố), chồi non của Đa-vit đã chiến thắng. Người
sẽ mở Cuốn Sách và bảy ấn niêm phong (x. Kh 5, 5: BĐ năm chẵn). Thực vậy, Tin
Mừng của Marco được công bố đầu tiên vào khoảng năm 60. Nhờ Tin Mừng này mà
loài người nhận biết Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng đầy sức mạnh
(bảy sừng) và là Đấng khôn ngoan (bảy mắt), “tức là bảy thần khí của Thiên Chúa đã được sai đi khắp mặt đất. Con
Chiên đến lãnh cuốn sách từ tay hữu Đấng ngự trên ngai Khi Con Chiên đã lãnh
cuốn sách, thì bốn Con Vật và hai mươi bốn vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước mặt
Con Chiên, mỗi vị tay cầm đàn, tay nâng chén vàng đầy hương thơm, tức là những
lời cầu nguyện của dân thánh. Các vị hát một bài ca mới rằng:"Ngài xứng
đáng lãnh nhận cuốn sách và mở ấn niêm phong, vì Ngài đã bị giết và đã lấy máu
đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi
nước, mọi dân. Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để
phụng thờ Thiên Chúa chúng ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này.” (Kh 5, 6-10:
BĐ năm chẵn).
Vì từ khi Con Thiên Chúa vào đời, Chúa
Cha chỉ nhận của lễ “Con Chiên Thiên Chúa,
Đấng đã hiến mạng cứu loài người tội lỗi” (Ga 1, 29). Vì thế, Chúa Giêsu đã
nói với người phụ nữ Samari: “Giờ đã đến
-và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng
Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng
Người như thế” (Ga 4, 23). Kẻ bỏ Thiên Chúa mà tế thần Môđin làm cho ông Mattítgia
sôi máu, ông xông vào hạ sát hắn, và phá hủy tế đàn thờ ngẫu tượng (x. 1Mcb 2, 23-24:
BĐ năm lẻ). Thì vào thời Tân Ước, Chúa khiến cho quân Roma tức giận xông lên
giết tất cả dân tộc Do Thái, phá tan Đền Thờ Giêrusalem, không còn hòn đá nào
chồng trên hòn đá nào! (x. Lc 19, 44: Tin Mừng), để chấm dứt lối tế tự của Do
Thái giáo vào năm 70! Biến cố đau thương này lại trở thành dấu chỉ vào ngày
cánh chung, Chúa để cho Satan sôi máu diệt hết mọi kẻ chống đối Kitô giáo, không
muốn kết hợp với Chúa Giêsu Phục Sinh, để tôn thờ Thiên Chúa cho phải đạo. Bởi
vì, vào ngày cánh chung, Chúa chỉ cứu những ai đã từng tham dự Phụng Vụ của Hội
Thánh mà cầu nguyện “lạy Chúa Kitô, Ngài
đã làm cho chúng con thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ
Thiên Chúa chúng con” (Kh 5, 10: ĐC năm chẵn).
Vậy “ngày
hôm nay anh em chớ cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa” (Tv 95/94, 7b-8a:
Tung Hô Tin Mừng), để sống Đạo theo gương ông Máttítgia, đó là “người sống đời hoàn hảo, Chúa cho hưởng ơn
cứu độ của Ngài” (Tv 50/49, 23b: ĐC năm lẻ).
Một nhà sinh vật học, khi đi tìm kiếm
các sinh vật để khảo cứu, ông đi vào một hang động có rất nhiều dơi đậu hai bên
vách đá, nhưng ông không thấy những con dơi lớn, ông hiểu là chúng đi kiếm ăn, chỉ
còn lũ dơi con đang bám tòng teng trên vách đá. Ông bắt tất cả các dơi con về
nghiên cứu. Hôm sau trở lại hang, ông vô cùng kinh ngạc khi thấy xác những con
dơi lớn nằm la liệt. Ông lại lượm xác chúng về khảo cứu, xem lý do nào chúng
chết hàng loạt như thế! Cuối cùng ông cũng khám phá ra hai điều:
- Những con dơi bị chết đều là những dơi mẹ.
-
Giải phẫu chúng thì thấy tất cả đều bị đứt ruột mà chết.
Dơi mẹ biết thương con như thế, cũng chỉ vì Thiên Chúa đã phú bẩm cho nó. Vậy
Thiên Chúa chính là Tình Yêu (1Ga 4, 8), thì Ngài còn thương chúng ta hơn biết
mấy khi Satan bước vào trần gian, thu góp những kẻ chống đối Đức Giêsu đưa về
sào huyệt của nó!
THUỘC LÒNG
Anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và
Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền Thờ
Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi
thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em (1Cr 3, 16-17).
Vui với người vui khóc với người khóc (Rm 12, 15).
Lm
GIUSE ĐINH QUANG THỊNH