CHÚA NHẬT XXI QUANH NĂM A
I. Giáo Huấn Phúc Âm
Tông đồ Chúa phải tuyên tín
rằng “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên chúa hằng sống!”
Ơn Chúa ban cho người
biết nhìn nhận Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
Giáo Hội xây dựng trên
người tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên chúa.
Chúa chỉ trao quyền cầm
buộc và tháo gở cho tông đồ tuyên xưng Chúa Kitô là Con Thiên Chúa hằng sống.
Giáo Hội trường tồn vì
xây dựng trên niềm tin vào Thiên chúa là Đấng trường tồn.
II. Vấn nạn Phúc Âm
Ý nghĩa bài đọc I, trích
sách tiên tri Isaia 22,19-23 nói về việc Thiên chúa tước quyền Sepna và trao
cho Engiakim ?
Theo Bách Khoa tự điển: Shebna
là tổng trưởng tài chánh của Giuđa thời vua Hezekiah. Vì tính kiêu căng ngạo
mạng nên Chúa đã truất phế Ông và đặt Eliakim, con của Hilkiah thay Ông. Bài
đọc I có ý nói rằng: quyền bính nằm trong tay Chúa. Chúa thiết lập dân Chúa
theo triều đại vua Đavít. Nên chỉ những ai có tâm huyết với chương trình của
Chúa và triều đại Đavít mà sau nầy Đấng Cứu Thế sinh ra mới sẽ được trao quyền
lãnh đạo.Bài Phúc Âm Thánh Matthêô nói về việc Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là
Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Chúa Giêsu là Con Thiên chúa, thuộc dòng
dõi vua Đavit. Nên Phêrô được trao chìa khoá mở cửa nước trời và làm thủ lãnh
Giáo Hội Chúa ở trần gian.
Quyền lãnh đạo được trao cho
những ai tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và phục vụ vương quốc Chúa ở
trần gian là Giáo Hội. Nên quyền bính trong Giáo Chúa không để mang lợi cho cá
nhân hay thao túng, nhưng để phục vụ.
“Phêrô con là Tảng
Đá, trên tảng đá nầy Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” Chúa có liều lĩnh quá
không khi xây Giáo Hội trên Phêrô?
Chính là Chúa Kitô – Chúa
Kitô đã từng chiến thắng tà thần ngay từ buổi đầu truyền đạo. Thoạt đầu, ai
cũng phải nhìn nhận Chúa liều lĩnh khi xây Giáo Hội trên Phêrô. Vì Ông nầy, gốc
dân thuyền chài, chắc chắn không có chữ nghĩa bao nhiêu. Cũng không hiểu chương
trình của Chúa. Khi Chúa nói “lên Giêrusalam để chịu đau khổ” thì Ông can ngăn,
đến nỗi Chúa mắng “Satan, lui ra đàng sau Ta!” được tường thuật trong Phúc Âm
Matthêô 8, 33.
Phêrô cũng là người chối
Thầy ba lần và đã không dám có mặt dưới chân Thánh Giá khi Chúa chết. Sự kiện
nầy được ghi nhận trong cả bốn Phúc Âm: Matthêô 26:34; Marcô 14:30; Luca 22:34
và Gioan 13:38. Nhưng bản văn Kinh Thánh cho chúng ta thấy hai điều:
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên Phêrô có nghĩa là Tảng Đá. Nên Chúa không xây dựng Giáo Hội trên con người
mang tên Phêrô, nhưng trên tảng đá kiên vững. Chúa luôn gìn giữ Giáo Hội. “Thầy
ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế!” Chúa còn thách thức rằng “dù quyền
lực tử thần cũng không thắng nỗi!” Những yếu tố nầy làm cho Giáo Hội trường
tồn: Xây trên tang đá – Chúa luôn gìn giữ Giáo Hội – Giáo Hội
Thầy sẽ trao cho anh chìa
khoá nước trời: dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc, dưới
đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy. Như vậy là Chúa
theo nquyết định của Giáo Hội chăng?
Chúng ta có cảm tưởng như
Chúa khoán trắng hay giao Giáo Hội hoàn toàn cho Phêrô và những người kế vị
Ông. Các Ông tha hồ thao túng, muốn cầm buộc hay tháo gở tuỳ ý. Thật sự đây là
chuyện trao quyền thừa hành dưới sự chỉ đạo của tối cao của Chúa. Chúng ta sẽ
cảm thấy dễ hiểu hơn khi hiểu từ “chức linh mục thừa tác”, tức người thừa hành
chức linh mục của mình trong sự chia sẻ với chức linh mục sung mãn của Chúa
Kitô. Nên khi một linh mục được bổ nhiệm làm Cha Sở, Đức Giám Mục đến đặt vị
linh mục trên ghế chủ toạ phụng vụ, trao chìa khoá nhà tạm, trao sách thánh và
những quyền khác… Tân Cha Sở được trao quyền lãnh đạo giáo xứ, ban bí tích và
giảng dạy… dưới quyền của Giám Mục địa phận. Đó gọi lả quyền thừa hành. Hành xử
quyền bính dưới danh nghĩa của người trao quyền. Chúa Giêsu trao chìa khoá nước
trời cho Phêrô, tức quyền thừa hành quyền bính tối cao của Chúa. Người thừa
hành có quyền ra luật lệ, chúng ta hiểu là quyền cầm buộc. Nhưng nói đúng ra
chỉ là làm trọn vẹn hay cụ thể hoá luật Chúa mà thôi.
Thí dụ: Luật Chúa dạy
điều răn thứ ba là : Giữ ngày của Chúa tức ngày Chúa Nhật.
Giáo Hội thừa hành quyền
cầm buộc ở chỗ ấn định: Phải đi lễ ngày Chúa Nhật, ai không đi vì làm biếng sẽ
mắc tội trọng… Đúng ra Giáo Hội không hề ra luật buộc phải đi lễ Chúa Nhật,
nhưng Giáo Hội thừa hành việc Chúa buộc giữ ngày của Chúa bằng cách qui định
rằng: Ai không giữ ngày của Chúa là có tội trọng. Hơn nữa chúng ta thấy rằng:
Muốn hành xử quyền tháo gở nầy, Phêrô đã phải tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống và được trao quyền làm thủ lãnh Giáo Hội, tức phải hy
sinh sống chết vì Giáo Hội và phải giữ Giáo Hội trường tồn. Nên quyền tháo gở
không là quyền tuỳ ý thao túng cho quyền lợi cá nhân mình , nhưng là mưu ích
cho phần rỗi các linh hồn và cho Giáo Hội Chúa.
III. Thực hành Phúc Âm
Trưng dẫn về lòng trung thành của một Giám
Mục Việt Nam:
Đức Cha Giacôbê Nguyễn ngọc Quang Giám Mục Cần
Thơ.
Nguồn: Web GPCT
Đức cha Nguyễn Ngọc Quang
sinh ngày 23-07-1909 tại họ đạo Phước Lễ, tỉnh Bà Rịa. Thụ phong linh mục ngày
21-09-1935. Năm 1940 được Đức cha Ngô Đình Thục, Giám mục giáo phận Vĩnh Long
gửi qua Pháp du học, đỗ Cử nhân Lịch sử và Địa lý. Năm 1946, cha trở về Việt
Nam phục vụ giáo phận Vĩnh Long. Trong thời gian 1946-1960, cha đảm trách các
nhiệm vụ: Giám đốc Tiểu chủng viện Vĩnh Long, cha sở họ Chính tòa Vĩnh Long,
Tổng Đại diện kiêm Giám đốc Công giáo Tiến hành giáo phận.
Ngài được thụ phong Giám mục
ngày 05-05-1965, và nhận giáo phận ngày 06-05-1965 với chức vụ Giám Mục phó.
Năm 1968 khi Đức cha Nguyễn Kim Điền chính thức trở thành Tổng Giám mục Huế thì
Đức cha Nguyễn Ngọc Quang cũng chính thức trở thành Giám mục Chính tòa Cần Thơ.
Ngài là vị Giám mục thứ ba của giáo phận kể từ khi giáo phận được thành lập.
Năm 1966, Đức cha mở Tiểu Chủng viện “Á Thánh Quý” ở
Cái Răng.
Cũng năm 1966, Đức cha được bầu giữ chức Tổng Thư ký
Hội đồng Giám mục miền Nam Việt Nam, nhiệm kỳ 1966–1970.
Năm 1967, Đức cha thành lập Dòng Con Đức Mẹ ở làng
Bình Thủy.
Năm 1970-1975, Đức cha được tín nhiệm giữ chức Chưởng
ấn Viện Đại học Đà Lạt.
Ngày 20 tháng 06 năm 1990, lúc 07 giờ 40 phút, Đức cha
Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang qua đời tại Cần Thơ, thọ 81 tuổi với 25 năm Giám mục
Chính tòa Cần Thơ.
Khi nói về “Chân dung linh
mục” có lẽ chúng ta không nên nghĩ rằng mình đang nói về nhũng vị thánh nhưng
là những con người “rất người” mà có khi chúng ta đã từng quen biết, tiếp cận
với nhiều kỷ niệm vui buồn, các ngài đã sống trong thiên chức linh mục của mình
với tất cả những nỗ lực và để lại những bài học đáng trân quý cho chúng ta.
Đức cha Giacôbê đã là một con
người như thế. Ai đã từng sống gần gũi ngài đều thấy ngài có những đức tính
nhân bản nổi bật như:
Đúng giờ:
Luôn chính xác trong các giờ chung đến từng phút giây, Cha thư ký của ngài cho
biết vào cuối đời ngài yếu bệnh, đi xuống nhà cơm phải nghỉ một lúc, nên ngài
đã đi sớm hơn để đến nhà cơm đúng giờ. Trong các cuộc đón rước giám mục, nếu
tài xế chạy nhanh đến sớm sẽ được dạo phố vài vòng để có thể đưa Đức cha đến
nơi đúng giờ không sớm không muộn.
Ý chí:
Có một chuyện vui là sau năm 1975 các giám mục không còn đi xe hơi nên ngài tập
chạy xe Honda, nhưng tập mãi mà không được, có người nói chắc ngài nản chí nên
bán chiếc xe Honda 50 cho cha Antôn Vũ Huy Chương (bây giờ là Giám mục Hưng
Hoá). Tuy nhiên không phải vậy, ngài đã kiên trì và đã thành công. Ngài vẫn
chạy chiếc Honda lên nhà dòng Bình Thủy dâng lễ cho các Soeur.
Khó nghèo, cần kiệm và tự
lập: Đức
cha Giacôbê tự giặt quần áo, khâu vá hay tự lo cho những nhu cầu tiêng tư của
mình. Đức cha chỉ có ba chiếc quần dài màu đen và ba chiếc áo vải trắng. Chúng
tôi quen gọi là đồ bà ba. Nhưng thực sự đó chỉ là đồ mặc trong nhà. Ngài mặc áo
dòng dường như cả ngày, nhất là khi ra khỏi phòng. Nên áo dòng nhiều hơn áo
thường. Có đến gần 10 chiếc, kể cả áo có viền đỏ, phẩm phục giám mục và loại
đơn giản của linh mục. Sau này khi phải mặc quần tây và áo sơ mi để chạy xe
Honda đi dạy học trong Chủng viện, dòng Bình Thuỷ hay dòng Chúa Quan Phòng…
ngài mới nhờ thợ may người công giáo ở khu Toà Giám Mục Cần Thơ sắm cho Ngài
hai bộ đồ: quần tây và áo sơ mi. Nếu ai có ý quan sát thì sẽ thấy ngay đây là
loại vải rẻ tiền nhất vì nó nhăn nheo và bị co rút ngắn dần. Chúng tôi thường
nói đùa: “quần chó táp ba ngày không tới!”
Không bao giờ Đức cha sai ai
quét dọn phòng ốc hay sắp xếp vật dụng cho ngài. Ngài quán xuyến hết mọi
chuyện! Đức cha tự làm bao thư bằng cách lấy giấy quay ronéo một mặt và sử dụng
mặt còn lại. Những giấy nháp hay ghi chú không bao giờ là tờ giấy mới nguyên.
Hoa kiểng, cây cối trong Toà Giám Mục, một mình ngài cắt tỉa, vun quén, tháp
ráp hay chỉ bảo người khác phụ giúp. Toà Giám Mục Cần Thơ có chuối ăn tráng
miệng quanh năm, có xoài cát ngon trái chín oằn cây… tất cả đều do sự xếp đặt
rất tiết kiệm của Đức cha Giacôbê theo chủ trương “cây nhà lá vườn.”
Kiến thức: Ngài thích tìm hiểu và
có kiến thức bách khoa. Ngài đã từng làm bài phú mừng Đức cha GB Nguyễn Bá Tòng
năm 1933, và cũng không phải tình cờ mà ngài được mời làm chưởng ấn Viện Đại
Học Đà Lạt.
Trung thực nhưng biết thông cảm lắng nghe:
Quý cha Cần Thơ đều có kinh nghiệm về một chiêu thức đặc biệt của ngài: đó là
“đánh phủ đầu” nhưng sau đó ngài lắng nghe quý cha trình bày và rất thông cảm
nếu quý cha trình bày rõ ràng và thành thật. Ngài sống rất lý trí nhưng cũng
giàu tình cảm đúng như câu “thấu tình, đạt lý”. Các cha, các thầy gặp khó khăn
ngài tạo điều kiện giúp đỡ dến nơi đến chốn. Có một cha luôn kẹp ảnh Đức cha
Giacôbê trong sách PVGK để cầu nguyện cho ngài vì cha nói ngài đã giúp cha
“khỏi một bàn thua trông thấy”.
Phục thiện: Có một thay đổi lớn
trong tính tình của ngài, đó là trước đây ngài rất nóng nảy, la rầy lớn tiếng,
có khi đập bàn… nhưng sau này có lẽ từ 1975 trở đi ngài trở nên rất hiền lành,
nhẫn nại, nhỏ nhẹ… như một người cha nhân từ.
Lòng yêu mến Hội Thánh: Ưu
tư lớn nhất của Đức cha Giacôbê là vấn đề đào tạo linh mục. Từ khi mới làm Giám
mục Cần Thơ, ngài đã tập trung mọi công sức cho việc xây dựng cơ sở Tiểu chủng
viện Cái Răng.
Với tầm nhìn ngôn sứ ngay từ đầu năm 1975, tất cả 80 đại chủng sinh
giáo phận Cần Thơ học ở ba Đại chủng viện Đà Lạt, Long Xuyên và Vĩnh Long đều
được Đức cha chuẩn bị tinh thần cho biến cố lớn lao của đất nước. Sau biến cố
30-4-1975, ngài phân chủng sinh thành nhiều nhóm nhỏ, tự lập sinh sống trong
các họ đạo, làm nhiều nghề nuôi thân và phục vụ họ đạo. Trong hoàn cảnh khó
khăn thời bao cấp cũng có nhiều chủng sinh tìm cách “vượt biên”. Ngài nói với
các chủng sinh khi dạy môn Giáo sử: “Các nhà thừa sai ngày xưa thì vất vả ‘nhập
biên’ để truyền giáo, còn các thầy bây giờ thì lại muốn ‘vuợt biên’ để trốn
tránh gian khổ!” Phương pháp gắn bó với họ đạo như vậy đã đào tạo những linh
mục rất gần với dân và rất nhập cuộc: biết đồng hành với dân tộc và biết cảm
thông với người khác, biết “khóc với người đau khổ và cười với nguời vui!” Phải
nói đây là thế hệ linh mục rất đúng nghĩa linh mục do Đức cha Giacôbê đào tạo.
Năm 1988, Đại chủng viện Thánh Quý được chính thức khai giảng. Ngôi
nhà chính của Chủng viện được sửa sang, sơn phết khang trang cho kịp ngày khai
giảng nhưng có mấy ai biết là Đức cha Giacôbê đã bán chiếc Peugeot 404 để lo
công việc này.
Không ai biết rõ gia đình hay thân nhân ruột thịt của Đức cha
Giacôbê như thế nào. Cũng không bao giờ nghe ngài nói đến là ba mẹ ngài mất hồi
nào, còn bao nhiêu anh chị em và họ đang ở đâu. Con cháu thế nào và làm gì ở
đâu. Ngài đúng là người đã cầm cày và không bao giờ quay lại phía sau.
Viết về một người cha thì có lẽ bao nhiêu cũng chẳng đủ nhất là nếu
thu thập dữ liệu của tất cả những người con. Chỉ xin gợi lên vài nét đặc trưng
về một “chân dung linh mục” đã được chính các linh mục giáo phận Cần Thơ trong
tuần tĩnh tâm linh mục đầu năm 2010 bình chọn và giới thiệu, để góp phần làm
phong phú những chân dung linh mục Việt Nam và cũng để mỗi người chúng ta suy
nghĩ và rút ra những bài học cho cuộc sống của mình, nhất là trong Năm Linh Mục
này.
Lm Pet Trần Thế Tuyên