TẠI VIỆT NAM CÓ BAO NHIÊU ĐẠO?
Các dân tộc, tùy văn hoá mỗi nơi, tôn thờ nhiều
thần minh (gods) khác nhau với nhiều nghi lễ khác nhau. Tại Việt Nam có tới 10 đạo khác nhau.
Ý niệm về tôn giáo là ý niệm
phổ quát nơi mọi dân tộc, dù man di mọi rợ hay văn minh tân tiến: Người Do thái
(Jews) được Thiên Chúa tuyển chọn tỏ mình ra cho biết Danh Ngài là Đấng Tự hữu
(Tự mình mà có, không ai sinh ra Ngài). Các dân tộc khác, tùy văn hoá mỗi nơi,
tôn thờ nhiều thần minh (gods) khác nhau với nhiều nghi lễ khác nhau: Người
Rôma thờ thần Jupiter, người Phenicia thờ thần Baal, người Ba tư- Persian- Iran
thờ thần Ánh sáng (Ormuz), người Ấn độ thờ Đấng Chí linh (Bhram), người Tàu thờ
Đấng Thượng Đế .
1. Người Việt nam
thờ đấng nào, theo những đạo nào?
- Người Việt nam trong gia
đình theo lòng hiếu thảo, thờ Ông Bà; trong xã hội thờ những vị thần làng;
trong thiên nhiên thờ những vị thần phù hộ, khi có các đạo từ ngoài đưa vào,
người ta thờ thần thánh riêng của mỗi đạo, nhưng trên hết, người Việt nam thường
kêu cầu Ông Trời.
- Tại Việt nam có tới 10 đạo
khác nhau: 1. Đạo Ông bà (Ancestor Worship), 2. Đạo thờ Thần (Idolatry), 3. Đạo
Lão (Taoism), 4. Đạo Khổng (đạo Nho) (Confucianism), 5. Đạo Phật (Buddhism), 6.
Đạo Công Giáo (Catholicism), 7. Đạo Tin Lành (Protestantism), 8. Đạo Cao Đài
(Caodaism), 9. Đạo Phật giáo Hoà Hảo (Hoa Hao Buddhism), 10. Đạo Hồi
(Islamism).
Xin nói sơ về mỗi đạo:
1- Đạo Ông bà:
Không hẳn là một tôn giáo.
Con cháu tỏ lòng hiếu thảo biết
ơn đối với ông bà tổ tiên khi còn sống cũng như lúc
đã qua đời. (Xác ông bà được chôn táng ngay trong vườn cạnh nhà. Vong linh
(spirit) ông bà coi như đang sống nơi giường thờ. Từ việc tết nhất, cưới hỏi, từng
bữa cơm, lúc vui buồn, khi con cháu ốm đau..., ông bà đều được nhớ đến, được khấn
vái. Tùy gia đình giầu nghèo, tùy lúc bình thường hay cấp bách. Mâm cúng thường
là một mâm cơm, hoặc ít là trầu cau hoa quả. Giữa đêm khuya, cúng một chén nước
lã với nén hương. Thời gian cúng là chờ cho tàn một tuần hương, tức là chờ bó
nhang cháy lụn, lúc đó kể như ông bà đã dùng của lễ dâng. Sau đó dọn xuống để
con cháu cùng nhau hưởng. Con cháu phải lo ăn ở sao cho khỏi mang chữ bất hiếu.
Lời cha mẹ dặn văng vẳng bên tai. Dòng máu tổ tiên sôi trong huyết mạch, người
con cảm thấy tủi hổ về cách ăn ở của mình nếu đã làm điều bất xứng).
Tác giả Toan Ánh thêm: "Việc thờ thần linh cũng nói lên việc
nhớ ơn người trước, nhắc nhớ những gương sáng tiền nhân để lại, và bảo nhau làm
điều lành lánh điều dữ.” (Toan Ánh, Tín Ngưỡng Việt nam, quyển thượng trang
192).
Tại Việt nam, số người thờ
cúng ông bà tổ tiên chiếm số đông nhất trong toàn thể dân số.
* Việc thờ cúng Ông bà nhắc nhớ cho con cháu quí trọng hồn thiêng sống mãi,
và gắng sống sao cho mình sau này cũng được mát mẻ dưới "suối vàng" với
ông bà Tổ tiên. Đó là những ước ao rất tốt từ tâm thức con người mong một cõi
linh thiêng giải thoát khổ cực đời này.
2- Đạo Thờ Thần:
Khó có thể kể hết tên các
vị thần của người Việt. Trên trời có thần mưa, thần gió, thần sấm, thần sét, thần
mặt trời, mặt trăng; dưới đất có thần tử, thần sinh, thần cây đa cây đề; trong
nhà có Thổ công (Thần đất được thờ trong miếu nhỏ), thần Táo (thờ trong bếp),
thần Tài (thờ trong góc nhà). Trong làng có Thành hoàng, dưới sông có Hà bá;
ngoài biển có thần Thuỷ. Mỗi nghề nghiệp, mỗi địa phương đều có thần riêng.
Thờ Thần chỉ là những lối tỏ bày niềm tin nơi các Sức mạnh linh thiêng mà người ta tin rằng có quyền che chở và chúc phúc, giúp thoát khổ, thoát
nạn, có ảnh hưởng đến con người từ lúc còn là bào thai trong lòng mẹ tới khi nhắm
mắt đi vào lòng đất. Qua việc thờ Thần này, vì không có giáo điều hướng dẫn,
nên sinh những mê tín, lừa bịp.
* Quan niệm về đời sau dựa trên niềm tin của dân gian, tưởng tượng, truyền
khẩu nhiều hơn.
3- Đạo Lão:
Vị Sáng lập Đạo Lão là cụ
Lão Tử bên Tàu (Tục truyền: mẹ mang thai con 80 năm, sinh con ra đầu đã bạc,
nên gọi là lão, (theo Phan Kế Bính, Việt Nam Phong Tục, Miền Nam xb, trang220).
Đạo Lão có từ 7 thế kỷ trước
Chúa Kitô ra đời.
Vẫn theo tác giả Phan Kế
Bính: "Lão tử soạn ra bộ Đạo Đức kinh gồm năm nghìn câu nói, chủ ý dạy con
người giữ "Cách tự nhiên thanh tĩnh, không cần phải làm gì.” Muôn việc cứ phó mặc tự nhiên,
không cần phải lo lắng nghĩ ngợi, mới hưởng được khoái lạc tiêu dao"(sách
trên, trang trên).
Về phương diện triết lý,
tương tự thuyết Tiến hoá. Lão Tử cho rằng Đạo là nguyên lý huyền diệu, vô hình,
vô sắc, đã sinh ra âm dương trời đất và muôn vật. Muôn vật sinh ra khắp cả thế
gian rồi lại quay trở về đạo, để lại hóa ra muôn vật muôn loài, theo cuộc tuần
hoàn biến cải thiên nhiên.
Đạo Lão được truyền vào Việt
Nam cùng với việc cai trị của người Trung Hoa. Đã có thời toàn thịnh, ảnh hưởng
giới trí thức chán công danh, ưa nhàn du, tiêu dao phóng khoáng; ảnh hưởng giới
bình dân ưa chuyện đồng bóng thần tiên huyền ảo.
* Đạo Lão không đề cao Thượng đế và không nói tới sự Sống đời sau.
4- Đạo Khổng: (đạo
Nho)
Theo một truyền thuyết, Đức
Khổng Tử đã lập đạo này vào cuối thế kỷ 6 trước Chúa Kitô.
Tôn chỉ: Đạo Khổng xây dựng con người và xã hội
qua việc: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Để đạt đích trên, con người
cần giữ luân lý tam cương (vua-tôi, cha-con, vợ-chồng); nam giới cần có ngũ thường
(nhân, nghĩa, lễ, trí, tín); nữ giới cần có tam tòng (ở nhà theo cha, lấy chồng
theo chồng, chồng chết theo con) và tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh).
Học thuyết căn bản trong đạo
Khổng: là tuân theo mệnh Trời (Thiên mệnh). Thiên mệnh hướng dẫn hoạt động của mọi người, không ai thoát
khỏi.
Khổng giáo truyền vào Việt
nam cùng với việc cai trị của người Trung Hoa và đã gây ảnh hưởng rất lớn trong
đời sống và văn chương người Việt từ Vua Chúa tới dân thường, đã có thời trở
thành quốc giáo.
* Đạo Khổng tuy đề cao Trời, nhưng không nói tới Sự Sống đời sau. Đức Khổng
chỉ nói: “Khi chết, phách con người trở về với đất, khí con người bay lên không
trung.”
5- Đạo Phật:
Phật tổ tên là Gautama
Shidata, con vua nước Ấn độ, sinh năm 563 trước Chúa Kitô. Năm 29 tuổi, Người
đi thăm dân chúng ở kinh thành, gặp nhiều cảnh khổ của dân, sau đó, Người quyết
định rời cung điện đi tìm đường giải thoát. Sau thời gian tu luyện, năm 35 tuổi,
Người đã tự giác ngộ, tìm được đường giải thoát khi đang suy niệm cạnh cây bồ đề
trong một đêm trăng tròn tháng Năm dương lịch. Do đó, Người được gọi là Buddha
(Bụt, Phật).
Đạo Phật chủ trương:
"giải thoát con người.” Theo Đức Phật: Đời là bể khổ, sinh khổ, bệnh khổ,
già khổ, chết khổ. Mà nguồn gốc của khổ là lòng tham muốn. Vậy muốn khỏi khổ, phải diệt lòng tham muốn. Khi đã diệt được lòng tham muốn rồi, con người sẽ được giải thoát (tức là
tình trạng niết bàn).
Về niềm tin: Mỗi người có
nhiều Kiếp (đời). Từ kiếp này Đầu thai (reincarnate) qua kiếp khác (gọi là Luân
hồi = xoay vần như bánh xe ). Tin có Nhân-Quả ( Cái Nghiệp (Karma: phận việc)
ta có ở kiếp này sinh từ cái Quả ta đã làm ở kiếp trước, và Nghiệp ta làm ở kiếp
này là cái Nhân sinh ra cái Quả của ta ở kiếp sau. Nghiệp báo cứ luân hồi mãi
cho tới khi ta giải thoát xong mà được về Niết bàn (nơi hư không). (Lê Văn Đức,
Lê Ngọc Trụ, Việt Nam Tự Điển trang 199 Phần III).
Đạo Phật không dạy tin có
Thượng đế. (Trên con đường giải thoát, người ta tùy sức mình, không cần ai hay
thần thánh nào giúp. Như vậy, không cần cầu nguyện với thần thánh.
Về luân lý: Dạy giữ ngũ giới:
Cấm sát sinh, cấm trộm cướp, cấm gian dâm, cấm nói dối, cấm rượu thịt.
Đạo Phật cho phép trong kiếp
người, con người có thể tự hủy mạng mình, tức tự thiêu.
Đạo Phật vào Việt Nam khi
người Trung Hoa sang đô hộ từ thế kỷ 2. Đã có những thời kỳ rất thịnh đến trở
thành quốc giáo và ảnh hưởng rất nhiều trong dân gian cũng như trong văn học
(theo Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo sử, quyển II, trang 126).
* Đạo Phật không chỉ rõ cho con người được hạnh phúc đời đời như tâm thức
con người mọi thời hằng mong muốn. Sau khi vất vả diệt dục và làm thiện, đạo Phật
chỉ nói tời Niết bàn là một tình trạng giải thoát mà thôi.
Phải chăng Phật tổ thấy
trước Đức Kitô sẽ ra đời khi Người nói với Ananda: "Ta không phải là Đức
Phật đầu tiên giáng thế, mà cũng không phải là Đức Phật cuối cùng. Lúc cần đến,
sẽ có một Đức Phật khác xuất hiện trên thế giới, một vị chí tôn, chí tuệ, hành
vi đạo đức, đem lại điềm lành, biết rõ vũ trụ, một vị lãnh đạo vô song của loài
người, một vị Chúa tể của thiên thần và thế nhân, Đức Phật ấy sẽ dạy những chân
lý bất diệt" (Trịnh Văn Thanh, Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển, Xuân
Thu xuất bản, trang 334).
6- Đạo Công giáo:
7- Đạo Tin lành:
Gọi đúng ra là đạo
(Protestantism). Đạo Tin lành phát xuất từ Đạo Công giáo.
Theo lịch sử, Ông Lutherô,
một linh mục Công giáo người nước Đức (Germany), năm 1517 đã phản đối giáo huấn
của Giáo hội Công giáo về các vấn đề Ân xá, Bí tích, lời khấn hứa..., phủ nhận
quyền lãnh đạo tối cao của Đức Giáo hoàng Rôma.
Mười hai năm sau khi tuyên
thệ phản đối, ông và đồng bạn đã tuyên bố tách rời Giáo hội Công giáo Rôma, lập
giáo phái mới, lấy Kinh Thánh (Bible) làm sách kinh hướng dẫn đời sống đạo. Do
đó gọi là đạo Tin lành.
Ông chủ trương: người ta nên công chính (justification) bằng đức tin của mình. Công nghiệp của cá nhân không ích gì cho phần rỗi linh hồn. (Lm.
Bùi Đức Sinh, OP, Lịch sử Giáo hội Công giáo, Sài gòn 1972, II trang 9).
Ông chủ trương thuyết Tiền
định (Predestination), theo đó, sự sống đời đời của mỗi người đã được Thiên
Chúa định trước, cho dù con người có cố gắng thoát ra cũng không thoát nổi. Thật
ra trong Kinh Thánh, Chúa nói rõ trong sách Khải huyền chương 22, câu 12 như
sau: “Họ sẽ được trả công tùy theo việc họ làm (22, 12).
Vì không có thủ lãnh tối
cao, đạo Tin lành sau đã lan ra thành nhiều phái khác nhau.
Đạo Tin lành vào Việt Nam
thời người Pháp qua đặt nền đô hộ tại Nam Kỳ. Năm 1911 người Tin lành Mỹ tới mở
trường dạy Thánh Kinh và huấn luyện nhà truyền giáo. (Lm. Phan Phát Huồn, Việt
nam Giáo sử, II, Sài gòn 1962, trang 195).
8- Đạo Cao Đài:
Người thành lập đạo Cao
đài là ông Ngô văn Chiêu quê tại Bình Tây Chợ lớn, cùng với nhóm trí thức hay cầu
cơ ở Sàigòn. Đạo Cao đài xuất hiện vào năm 1926. Trụ sở trung ương, tức Toà
thánh đặt tại Tỉnh Tây Ninh, Nam Việt.
Đạo Cao đài là tổng hợp các đạo Khổng, Lão, Phật và Công giáo.
Mục đích đạo Cao đài (đài
của Đấng Tối cao) là nhắc cho mọi người bổn phận với mình, với gia đình, với xã
hội và với thế giới. Đạo khuyên con người từ bỏ danh vọng, xa hoa trần thế để
tìm an bình cho tâm hồn.
Đạo lấy Con Mắt (Thiên
nhãn) là biểu hiệu sự sáng suốt của Đấng Chí Tôn. Cầu Cơ là lối duy nhất để hỏi
ý Người và các Tiên thánh trong việc hành đạo.
Tín đồ phải giữ chay từ 2
tới 10 ngày một tháng, tùy là thượng thừa hay hạ thừa. Cầu nguyện hằng ngày lúc
sáng, trưa, chiều và 12 giờ khuya.
* Đạo Cao Đài ảnh hưởng Phật giáo về kiếp sau, nhận có linh hồn bất diệt và
luân hồi, nhưng cũng không dạy rõ ràng về sự Sống đời đời, là nơi hạnh phúc trường
kỳ.
9- Đạo Phật giáo
Hoà hảo:
Lập đạo vào năm 1939, do Đức Huỳnh Phú Sổ người
làng Hoà Hảo tỉnh Long Xuyên, Nam Việt.
Phật giáo Hoà hảo chọn màu
đà (màu nâu nhạt) là màu tổng hợp các mầu, tượng trưng sự hợp nhất các chủng tộc.
Đạo Hòa hảo khuyên người đời
thực hiện Tứ đại ân:
Đền ơn cha mẹ, đền ơn đất nước, đền ơn Phật Pháp Tăng, đền ơn đồng bào nhân loại.
Đạo dạy tránh sát sanh, trộm
cắp, tà dâm; giữ bát chánh (kiến, tư duy, nghiệp, tín, tấn, mạng, niệm, định)
(theo Trịnh văn Thanh, Thành ngữ điển tích Danh nhân Từ điển).
* Vì ảnh hưởng của Phật giáo, nên chủ trương về sự Sống đời sau cũng giống
như Phật giáo, tức là cõi Niết bàn (nơi hư không).
10- Đạo Hồi (Hồi
giáo - Islamism):
Do ông Mahômet thành lập
khoảng năm 622. Ông là dòng dòi Ismael, con tổ phụ Abraham với người tớ nữ. Năm
40 tuổi, ông tự xưng là tông đồ và ngôn sứ (prophet) của Thiên Chúa, được ơn mạc
khải (revelation) và được sai đến để cải cách tôn giáo, xã hội. Nhờ đọc Kinh
Thánh của Công giáo, ông đã viết sách Quran coi như Kinh thánh của đạo ông và
truyền lại cho dân Ả rập.
Bổn phận của người Hồi, có
5 cột tru:
1. Đọc kinh Tin
kính (Không có Thiên Chúa nào khác, trừ ra
Thiên Chúa và Mahomet là tiên tri của Người), nhiều người đọc hằng ngày.
2. Cầu nguyện mỗi
ngày 5 lần (sáng, trưa, sau trưa, sau mặt trời lặn,
trước đi ngủ), quay mặt về Thủ đô Mecca mà đọc.
3. Đóng thuế 2,5%
cho quĩ bác ái.
4. Ăn chay trong
tháng Mahomet nhận kinh Quran từ Allah.
5. Nếu có thể, hành
hương Mecca một lần trong đời.
* Hồi giáo tin vào một Thiên Chúa quyền phép, và thương xót, công bằng,
Mahomet là đại tiên tri cuối cùng của Thượng đế.. Tin có Satan, có thiên đàng,
hỏa ngục, nhưng thiên đàng có thỏa mãn xác và hồn.. Kiêng rượu, xì ke, cờ bạc,
cấm thịt heo, cấm kỳ thị màu da. Về hôn phối, đàn ông được lấy 4 vợ chính và một
số nàng hầu vô định. Trong gia đình, người đàn ông có toàn quyền sinh sát.
* Về sự sống đời sau, Hồi giáo chủ trương: Ai không có đức tin sẽ phải sa hỏa
ngục, ai có đức tin sẽ được lên thiên đàng. Thiên đàng của Hồi giáo nặng về thú vui thể xác như được
hưởng rượu ngon, thịt béo, đàn bà đẹp, có quyền hành... nhưng không có chứng
minh từ người chết hiện về cho biết thật hư thế nào?
Hồi giáo muốn chinh phục
thế giới, độc quyền phát triển, không nhân nhượng tôn giáo khác.
Hồi giáo Việt Nam thuộc khối
Á châu phần lớn do người Việt gốc Chàm tin theo. Ngày nay, tại vùng Biên hòa,
cũng có chừng vài ngàn người theo đạo này.