Lời Chúa cntn 18a _ đạo mến Chúa yêu người

ĐẠO MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI
Các thánh tử đạo của chúng ta, không phải chỉ hy sinh mạng sống để chu toàn giới răn mến Chúa, mà các ngài còn luôn biểu lộ lòng bác ái trong cuộc sống đối với đồng loại.  
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Chúa Giêsu tuy là Thiên Chúa thật, nhưng Ngài cũng còn là một con người có một quả tim rung động, đầy lòng trắc ẩn trước những đau khổ của chúng ta. Thánh Matthêô đã ghi chép trong bài tin mừng ta vừa nghe: Ra khỏi thuyền, người thấy dân chúng đông đảo thì thương xót họ và sợ để họ ra về đói lả, sau khi đã nghe Ngài giảng, Ngài đa hóa bánh ra nhiều để nuôi họ.
Các thánh tử đạo của chúng ta, không phải chỉ hy sinh mạng sống để chu toàn giới răn mến Chúa, mà các ngài còn luôn biểu lộ lòng bác ái trong cuộc sống đối với đồng loại.
Gia phả con cháu của Ông Phạm Trọng Tả (tử đạo ngày 13.1.1859, 59 tuổi) có chép:
“Đầy tớ Ông rất đông, chưa tết Ông đã đi thăm viếng từng nhà, và cho tiền mừng tuổi rất hậu. Số tiền ấy thường gấp đôi số quà họ biếu Ông trong năm. Tiền thóc gia nhân vay mượn Ông thường cho một nửa; nếu túng quá, Ông cho luôn. Dân trong làng nợ Ông, Ông cũng hay châm chước như thế. Bà vợ cằn nhằn thì Ông trả lời: Mình quên nợ người, thì Chúa quên tội mình.”
Phạm Trọng Tả sinh năm 1800 cũng tại Quần Cống, anh em thúc bá với cụ Án Khảm, là con Ông Đaminh Thành. Ông Giuse Tả là một Kitô hữu đạo đức, là cựu chánh tổng. Phụ lực với cháu, Ông tìm cách giúp mọi người sống đạo, trong hoàn cảnh khó khăn.
Các Ông Tả, Khảm và Thìn bị bắt và giải về Nam Định, và sau này được giam chung với nhau. (Coi Thánh Đaminh Phạm Trọng Khảm)
Sau bốn tháng rưỡi bị giam, một hôm quan báo cho biết là ba người đã bị án xử giảo (án bị xiết cổ).
Ngày 13 tháng 1 năm 1859, ngoài ba vị Án Khảm, Cai Tạ và Cai Thìn còn có bảy giáo hữu khác cũng thuộc xứ Quần Cống được đưa ra pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định và bị xử giảo
Các tín hữu xứ Quần Cống đưa thi thể các anh hùng tử đạo về quê mình và tổ chức lễ an táng trọng thể.
Trong những ngày tháng ở tù, cha Luca Vũ Bá Loan (tử đạo ngày 5.6.1840, 84 tuổi) được rất nhiều người thăm nom tiếp tế. Quà biếu nhận được, Ngài luôn luôn sẵn sàng chia sẻ cho lính và các bạn tù.
Trước ngày bị trảm quyết, hai ba giáo xứ nài nỉ cha Vũ Bá Loan làm tờ di chúc thi hài sau khi chết cho giáo xứ mình. Cha chỉ cười và nói:
“Xác tôi cũng là tro bụi. chết rồi cũng tanh hôi cho giòi bọ rúc rỉa, các ông xin làm chi?”
Thế nhưng cha cũng nhận lời ký giấy trao thi thể mình cho họ Chuôn Trung, xứ Kẻ Chuôn (Hà Đông), tức là họ đạo có người giúp cha trong tù, được lo liệu mai táng.
Vũ Bá Loan sinh năm 1756 ở họ Bút Quai, thuộc Giáo xứ Bút Đông (Hà Nam). Qua nhiều năm học tập tại Phú Đa và Kẻ Bèo (Hà Nam) và sau khi thụ phong linh mục, cha Loan đến giúp xứ Nam Xang (Hà Nam) 6 tháng, rồi về giúp cha già Liêm xứ Kẻ Vôi (Hà Đông). Năm 1828, khi đức cha Longer Gia chia xứ Kẻ Vôi làm hai, thì cha Loan nhận xứ mới là Kẻ Sổ cho tới ngày bị bắt.
Cha Loan chăm chú nhiều vào việc giảng dạy. Các mùa chay, mỗi ngày cha giảng ba lần. Bài giảng của cha ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu và rất thực tế với những chỉ dẫn áp dụng cụ thể trong cuộc sống. Cha ít dùng lý luận, cha nói bằng kinh nghiệm bản thân mình về Đấng cha đã gặp gỡ thực sự trong kinh nguyện và thánh lễ.
Khi cầu nguyện cha quên hết mọi chuyện chung quanh, dù ai gây tiếng động sát bên, cũng không ảnh hưởng tới Cha. Thánh Lễ cha cử hành rất trang nghiêm, khoan thai, cung kính đặc biệt. Một thầy giảng góp ý xin cha dâng Lễ lẹ lên một chút như các vị linh mục khác. Cha đáp “Không được con ạ, lễ Misa là việc cao trọng nhất trần gian. Không có gì đáng để chúng ta phải cử hành Thánh Lễ cách vội vã cả. Việc thờ phượng Chúa cần phải làm cho trang nghiêm sốt sắng.” Sau thánh lễ, cha quỳ lại lâu giờ trước Thánh Thể để cảm tạ Chúa. Cha thường xuyên đi thăm viếng người nghèo khổ bệnh tật, cha không quản ngại nuôi vài em hiền lành nhanh nhẹn, cho ăn học, chuẩn bị chức linh mục tương lai. Cha nhiệt tình hướng dẫn nhiều tín hữu sống thân thiện bác ái, giúp đỡ mọi người, dù có đạo hay không.
Một đặc điểm khác nơi cha Loan là lòng khiêm tốn trong phục vụ. Khi đức cha gởi linh mục phó xứ về Kẻ Sổ, cha tín nhiệm, khích lệ và nâng đỡ tận tình. Cha nói: “Xin trao phó mọi sự cho cha, tôi đã già, lại chậm chạp. Xin cha săn sóc cửa nhà, người giúp việc và coi sóc cả tôi nữa.” Tuy được giáo dân sẵn sàng trợ cấp mọi nhu cầu cần thiết, nhưng cha Loan lại tự giới hạn cho mình. Cha muốn sống nghèo theo gương Đức Kitô, và Ngài cũng luôn nghĩ tới cảnh túng nghèo của dân chúng. Áo quần, cha mặc cho đến sờn rách, vá trên, vá dưới mới chịu dùng cái khác. Ăn uống, cha ăn những món bình dân. Khi đi giảng ở đâu, nếu ai dọn mâm sang cỗ đầy một chút là được cha tỏ thái độ liền. Thừa sai Jeantet Khiêm nói về cha như sau: “Nhận xét các việc cha Loan làm từ khi chịu chức linh mục đến ngày tử đạo, tôi thấy có lẽ trong hàng linh mục Việt Nam từ trước đến nay, không ai sánh kịp.”
Có hai người Bá Hộ Kiểng ở làng Bún và đô Cang ở phố Vồi, cả hai đều ngoại giáo, bấy giờ đang chờ xét xử vì tội phạm pháp. Họ bàn tính với nhau đến bắt cha Loan để lập công chuộc tội. Thế ngày 10.1.1840 tại họ Kẻ Chuân (Hà Đông), khi cha vừa dùng cơm xong, họ giả làm khách đến thăm cha, rồi mời cha xuống thuyền chở thẳng về làng Bún. Các tín hữu nghe biết tin đến xin chuộc, họ đòi 2000 quan. Cha Loan thương giáo hữu nghèo, cha nói: “Các anh đòi 200 quan may ra còn liệu được, chứ bạc ngàn thì vô phương.” Bá Hộ Kiểng định hạ giá xuống, nhưng Đô Cang không chịu, vì muốn có cơ hội để được giảm án cho mình.
Hai người đem nộp cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không nhận, họ lại phải đưa cha lên thẳng Hà Nội. Vừa đến công trường, quan tổng đốc chỉ thẳng vào mặt hai người mắng rằng: “Quân dại dột, sao chúng bay đang tâm bắt người hiền lành đạo đức, đáng tuổi cha ông chúng bay thế này?” Tuy nhiên vì nhà vua đã ra lệnh bắt đạo, và việc đạo trưởng Loan bị bắt đã công khai, quan đành phải ra lệnh giam cha.
Tuy phải ra tòa hai lần, nhưng cha luôn được các quan đối xử lịch sự và kính trọng mái đầu bạc. Các quan chỉ điều tra lý lịch là khuyên cha lên đạp Thánh Giá. Cha tìm cách nói khéo rằng: “Các linh mục nuôi tôi và đức cha truyền chức cho tôi đã chết hết cả rồi. Chỗ tôi ở thì nay đây mai đó, nơi nào không chứa, tôi ẩn mình trong chùa nọ đình kia. Riêng việc khóa quá thì thưa quan, tôi là đạo trưởng làm sao tuân theo điều đó được?” Khi quan hỏi sao lại theo đạo ngoại quốc, cha trả lời: “Tôi chẳng theo Chúa của nước nào cả, tôi chỉ thờ Chúa trời đất, Chúa của muôn dân thôi”
Trong trại giam, cha Loan không bị gông cùm, vì các tín hữu đút tiền cho lính canh và nói: “Cụ già quá rồi, có bảo trốn cũng chẳng đi đâu được, mấy anh cùm làm chi.” Lính thông cảm tuổi già nên không cùm cha một ngày nào. Một lần quan tổng đốc xuống trại giam thăm cha, dặn dò lính canh: “Cụ già tuổi tác, phải xử cho hẳn hoi, đừng cấm người ta vào thăm.” Nhờ thế trong những ngày tháng ở tù, cha Loan được rất nhiều người thăm nom tiếp tế. Quà biếu nhận được, cha chia sẻ cho lính và các bạn tù, nên càng được mọi người quý mến.
Tuy không thiếu thốn vật chất, nhưng vì sức yếu tuổi già, lại phải ở nơi chật nẹp hôi tanh, sau một tháng tù cha Loan trở bệnh nặng, chân phù sưng, cộng với căn bệnh suyễn kinh niên, làm cha kiệt sức, nhiều lúc tưởng không ra tới pháp trường. Viên cai ngục thấy tội nghiệp, tâu trình quan cho một số tín hữu họ đạo Chuôn Trung ở luôn trong ngục chăm sóc cha cho đến ngày xử.
Quan tổng đốc Hà Nội tuy kính trọng cha, nhưng sợ triều đình, nên khi thấy cha cương quyết không bỏ đạo, ông phải làm án xử trảm quyết. Vua châu phê và ra lệnh thi hành. Trước ngày xử, một giáo dân tìm cách đưa cha Tuấn vào ngục giải tội và trao Mình Thánh Chúa cho cha.
Ngày 5.6.1840, lính tình nguyện cáng cha già Loan ra pháp trường, nhưng cha cám ơn và từ chối. Vì trời nắng gay gắt cha chỉ chấp nhận cho hai tín hữu đi cầm lọng che. Viên quan giám sát chủ trì phiên xử thấy cha đi bộ cũng bỏ ngựa, trao cho lính hầu, rồi cùng đi ra Ô Cầu Giấy.
Tới pháp trường, quan nói với cha: “Cụ muốn làm gì thì làm đi.”
Cha Loan quỳ xuống cầu nguyện, rồi vui vẻ đưa tay cho lính trói vào cọc.
Mười người lính được chỉ định chém cha Loan bỗng trốn đâu hết. Để giải quyết vấn đề, quan sai một người lính xứ Nam tên Minh, người lý hình bất đắc dĩ đó đã đến vái lạy cha Loan và biện bạch rằng:
“Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho, cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời, xin cụ nhớ đến cháu.”
Cha Loan gật đầu, rồi ra hiệu cho anh thi hành phận sự. Chỉ một nhát chém, cha giã từ trần thế lãnh triều thiên Tử đạo quanh vinh. Các tín hữu xô nhau, lấy áo thấm máu Cha. Theo tờ di chúc, giáo dân xứ Kẻ Chuôn đưa thi hài cha về họ Chuôn Trung an táng.


Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Đề tựa của Lm. HK