Giải đáp giáo lý
VẠ TUYỆT THÔNG
Giáo Hội là Mẹ,
Giáo Hội không phạt vạ để trừng trị hay khai trừ con cái mình, nhưng để chữa trị
và cứu sống. Có người Mẹ nào lại đi nhẫn tâm phạt vạ để trừng trị con mình?
(Is. 49.15)
I. Khái quát
Lối
sử dụng từ kép TỘI-VẠ rất hay, nhưng không nói lên sự khác biệt giữa TỘI và VẠ.
TỘI,
tiếng Latinh: peccatum, tiếng Anh: sin, là việc
của một người đủ trí khôn và hiểu biết thấu đáo và cố tình lỗi phạm luật cấm của
Chúa hay của Giáo Hội. Như vậy, chỉ thành tội khi hội đủ ba yếu tố: Có luật cấm,
biết rõ có luật và cố tình phạm. Thí dụ: Người lính nào cũng biết có luật cấm
giết người, nhưng nhiệm vụ đi lính khi ra trận là cầm súng và bắn giết chết đối
phương… Giết chết người trong trường hợp nầy không có tội! Vì thiếu yếu tố cố
tình hay chủ ý giết người.
VẠ,
tiếng latinh: censura, là hình phạt do Giáo Hội ấn định gắn
liền với một số tội.
Xin
có những điểm lưu ý quan trọng:
Vạ
không phải là luật Chúa, mà là luật của Giáo Hội dựa trên Giáo Huấn Phúc Âm.
Giáo Hội Công Giáo Đông Phương không có vạ tuyệt thông tiền kết.
Giáo
Hội Công Giáo Rôma phạt vạ nhằm mục đích hoán cải và chữa trị. Nên phạt vạ còn gọi là dược hình, tiếng la tinh: remedium poenale hay tiếng
Anh: Medicinal penalties. Nên nhớ Giáo Hội là Mẹ, Giáo Hội không phạt vạ để trừng
trị hay khai trừ con cái mình, nhưng để chữa trị và cứu sống. Có người Mẹ nào lại
đi nhẫn tâm phạt vạ để trừng trị con mình? (Is. 49.15)
Áp
dụng việc phạt vạ được qui định rõ ràng trong Giáo Luật: Tội nào sẽ có vạ và ai có quyền tuyên bố áp dụng phạt vạ.
Nên không ai có quyền tuyên bố dứt phép thông công bừa bãi để gọi là “cho biết
tay hay cho sáng mắt ra!” Một Giám Mục địa phận không được đình chỉ (treo chén)
công việc mục vụ của một linh mục nếu đã không qua các giai đoạn như: Điều tra
– thuyết phục – cảnh cáo – đương sự cố chấp không sửa đổi – và sau cùng Giám Mục
phải ra vạ đình chỉ… Dù sau khi đã phạt vạ treo chén… đương sự buộc thi hành án
phạt, nhưng vẫn có quyền thượng cầu, tiếng Latinh gọi là recursus, tức khiếu nại
và xin phán quyết của Tòa Thượng Thẩm Roma, tức linh mục bị vạ kiện Giám Mục
mình với Tòa Án Roma. Roman Rota sẽ ra phán quyết sau cùng. Thường thì Giám Mục
hay thắng kiện, nhưng có vài trường hợp thua kiện và phải tuyên bố rút lại hình
phạt và trả giáo vụ lại cho linh mục. Tôi muốn nói là chuyện ra phạt
vạ không dễ dàng theo kiểu “mì ăn liền!” hay tùy cảm
giác nóng lạnh hay tùy hứng của người có quyền. Không có ở Việt Nam, nhưng ở nước
ngoài, thỉnh thoảng nghe Giám Mục đi Rôma, không hẳn là đi họp đâu, đôi khi các
Ngài đi hầu tòa.
Phải
có tội trước mới có vạ. Không phải tất cả các tội đều có vạ. Có những tội không
kèm theo vạ hay hình phạt. Thí dụ: Nguyên tội tà dâm nếu phạm thầm kín riêng tư
không có vạ kèm theo. Ai xưng tội tà dâm thuần túy thì chỉ có nhận việc ăn năn
tội thôi, chứ không có phạt vạ. Phạt vạ thường là chuyện công khai, là
hậu quả của tội công khai. Tuy nhiên nếu vì tà dâm
mà đi đến phá thai thì lỗi giới răn Thứ Năm và có vạ tuyệt thông. Chuyện phá
thai dù không ai biết nhưng có can dự đến người khác như: thai nhi, bác sĩ, y
tá hay thuốc men…
II. Biện pháp chế tài trong trong Giáo
Hội (Sanctiones in Ecclesia – Sanctions in the
Church)
Giáo Luật điều 1311: (1) Giáo Hội có quyền lợi bẩm sinh và riêng biệt để
câu thúc bằng chế tài hình sự những tín hữu phạm tội.
Giáo Luật điều 1312: (1) Những chế tài hình sự trong Giáo Hội là:
1. những hình phạt điều trị hay vạ, được liệt
kê ở các điều 1331-1335;
2. những hình phạt thục tội, nói ở điều
1336.
(2) Luật có thể thiết lập những hình phạt
thục tội khác, tước người tín hữu mất một thiện ích thiêng liêng hay trần thế
nào đó; những hình phạt ấy phải phù hợp với mục đích siêu nhiên của Giáo Hội.
(3) Ngoài ra, còn được sử dụng những biện
pháp hình sự và các việc sám hối: biện pháp hình sự cốt ý nhất là để phòng ngừa
tội phạm; còn việc sám hối nhằm thay thế hay gia tăng một hình phạt.
Có nhiều từ ngữ cần phân biệt:
Chế tài –
Sanctio –
sanction, cũng gọi là những chế tài hình sự (Penal sanctions) tức nhìn nhận
Giáo Hội có quyền ra hình phạt hạn chế hay tước đoạt quyền hiệp thông thiêng
liêng như cấm rước lễ dành cho giáo dân hay quyền thi hành giáo vụ như cấm giảng
dạy công khai dành cho giáo sĩ. Để thực hành quyền hạn cho phép chế tài nầy,
Giáo Hội có quyền ra hình phạt. Có hai loại hình phạt trong Giáo Hội là:
1) Dược hình – remedium poneale hay
cũng gọi là censura. Hình phạt không mang mục đích trừng trị, nhưng có tính
cách chữa trị và hoán cải. Có 3 loại dược hình:
(1) vạ tuyệt thông – excommunication;
(2) vạ cấm chế - interdictum; và
(3) vạ huyền chức – suspension, tiếng bình dân hay gọi là treo chén.
2) Thục hình –
Poenae expiatoriae – Expiatory Penalties – Là hình phạt thật sự nhằm tước đoạt
quyền hành, tước vị, đặc quyền… trục xuất khỏi nhiệm vụ kiêm nhiệm và sa thải khỏi
bậc giáo sĩ.. Thục hình có thể áp dụng vĩnh viễn hay trong một thời gian được ấn
định.
Tội phạm – delictum – delicts là những tội được qui định trong
Giáo Luật kèm theo biện pháp chế tài, tức có phạt vạ. Nên khi nói đến những chế
tài hình sự, Giáo Luật thường dùng những từ như tội phạm tức delictum trong tiếng
Latinh hay delicts trong tiếng Anh. Những từ khác như tội lỗi, peccatum hay
culpa trong tiếng Latinh hay sin trong tiếng Anh hay tội nhân, peccator trong
tiếng Latinh hay sinner trong tiếng Anh… Là những từ rất chung chung chỉ về những
tội lỗi điều răn Chúa và Giáo Hội, nhưng không diễn tả chính xác về những tội
phạm hình sự bị chế tài bởi phạt vạ như trên.
III. Dược hình - Vạ tuyệt thông,
tiếng latinh: Excomunicatio hay trong tiếng Anh: excommunication.
Cũng
có những từ bình dân chúng ta thường nghe như: Rút phép thông công hay dứt phép
thông công. Vạ tuyệt thông là một trong ba vạ nằm trong thể loại hình phạt gọi
là dược hình.
Vạ tuyệt thông là hình phạt nặng nhất
do Giáo Hội thiết lập để phạt vạ những Kitô hữu nào lỗi phạm trầm trọng những
điều được qui định trong Giáo luật. Dùng từ Kitô hữu (Christifideles hay
Christianfaithful) để ám chỉ tất cả: Giáo sĩ và giáo dân. Giáo sĩ bao gồm Giám
Mục, linh mục và Phó tế. Giáo dân tức những ai đã rửa tội mà không có chức
thánh như nữ tu hay nam tu cũng là giáo dân theo Giáo Luật.
Kitô
hữu bị vạ tuyệt thông là người bị tước đoạt quyền
thông công và hiệp thông trong thân thể mầu nhiệm
của Chúa Kitô là Giáo Hội như không được xưng tội rước lễ, không được tham dự
các lễ nghi và hưởng nhờ các ơn phúc thiêng liêng, không được đảm nhận chức vụ
gì trong Giáo Hội. Nếu giáo sĩ nào bị phạt vạ tuyệt thông thì thường là bị huyền
chức, tức bị đình chỉ giáo vụ và nếu không ăn năn sám hối và sửa đổi, đấng bản
quyền sẽ phải tiến hành việc sa thải vĩnh viễn và cho hồi tục.
Vạ
tuyệt thông được chia làm hai loại: tiền kết và hậu kết, hay cũng gọi là phán kết.
1) Dược hình - Vạ
tuyệt thông tiền kết, tiếng La tinh: Latae sententiae,
tức hình phạt đi liền với tội phạm được Giáo Luật qui định và có hậu quả lập tức
(ipso facto) ngay khi đã thực sự phạm tội. Bộ Giáo Luật ban hành năm 1983 qui
thành 17 vạ tuyệt thông tiền kết trong loại hình phạt gọi là dược hình. 17 vạ
tuyệt thông tiền kết được chia làm 3 nhóm: 7 cho vạ tuyệt thông, 6 cho vạ huyền
chức và 4 cho vạ đình chỉ hay cấm chỉ
Có
7 vạ tuyệt thông tiền kết được Giáo Luật qui định là:
· Bỏ đạo, rối đạo,
ly khai khỏi Giáo hội Công Giáo Rôma (G.L. 1364)
· Xúc phạm đến Mình
Thánh Chúa (G.L. 1367)
· Hành hung Đức
thánh cha (G.L. 1370)
· Giải tội cho người
đồng phạm về điều răn thứ sáu, trừ trường hợp nguy tử
(GL. 1378)
· Phong chức Giám mục
không có phép của ĐGH (GL. 1382)
· Lỗi ấn tín tòa giải
tội (GL. 1388)
· Phá thai, trực tiếp (GL. 1398) hay đồng lõa như chỉ chỗ, giúp phương tiện và việc
phá thai có kết quả (GL. 1329§2)
Tuy
nhiên sẽ không được gọi là mắc vạ tuyệt thông
tiền kết nếu tội nhân ở trong tình trạng không hoàn
toàn tự do về tâm sinh lý hay bị một ảnh hưởng gây phán đoán bất toàn hay mù
quáng được qui định trong G.L. điều 1324.
2) Dược hình - Vạ
tuyệt thông hậu kết hay phán kết, tiếng latinh: Ferendae
sententiae – Hình phạt đến sau khi đã hoàn tất tiến trình luật pháp hay hành
chánh và được Đấng có thẩm quyền tuyên bố hình phạt. Nên vạ tuyệt thông hậu kết
chỉ được áp dụng có hiệu lực sau khi công bố phán quyết. Giáo luật qui định những
tội có vạ hậu kết hay phán kết trong những khoản Giáo Luật sau:
Điều 1378 §3:
§1
Tư tế hành động ngược lại các quy định ở điều 977, sẽ bị mắc vạ tuyệt thông tiền
kết dành cho Tòa Thánh.
§2
Sẽ bị hình phạt tiền kết cấm chế hay, nếu là giáo sĩ, hình phạt huyền chức:
1. người nào không có chức tư tế mà dám cử hành Hy Tế Thánh Thể;
2. người nào, ngoài trường hợp nói ở triệt 1, dù không thể ban bí tích giải
tội cách hữu hiệu mà dám giải tội hoặc nghe xưng tội như bí tích.
§3
Trong những trường hợp nói ở triệt 2, tùy theo mức độ nặng nề của tội phạm, có
thể thêm những hình phạt khác nữa, kể cả vạ tuyệt thông.
Điều 1388§2:
§1 Cha giải tội nào vi phạm trực tiếp ấn bí
tích, phải bị mắc vạ tuyệt thông tiền kết dành cho Tòa Thánh. Còn ai chỉ vi phạm
gián tiếp, sẽ bị phạt tùy theo mức nặng của tội phạm.
§2
Thông dịch viên và những người khác nói ở điều 983, triệt 2, nếu vi phạm bí mật,
phải bị phạt hình phạt xứng đáng, kể cả vạ tuyệt thông.
Nên
cần phải có phát quyết rõ ràng của bản quyền để thành sự và áp dụng vạ tuyệt
thông hậu kết.
3) Dược hình - vạ
cấm chế hay cấm chỉ hay đình chỉ - tiếng Latinh: interdictum tiếng Anh:
Interdict.
Đây
cũng là vạ tuyệt thông nhưng không tuyệt đối, tức người bị vạ bị cấm tham dự một
số việc phụng vụ, như không xưng tội rước lễ, tuy nhiên vẫn có thể duy trì những
chức vụ hay công việc trong Giáo Hội. Vạ cấm chỉ nầy được qui định trong khoản
Giáo Luật 1332.
Ðiều 1332:
Người
mắc vạ cấm chế thì bị ràng buộc bởi những lệnh cấm nói ở điều 1331, triệt 1, số
1 và 2. Sau khi vạ cấm chế đã tuyên kết hay tuyên bố, thì phải tuân giữ quy định
ở điều 1331, triệt 2, số 1.
Ðiều 1331:
§1 Người mắc vạ tuyệt thông bị cấm:
1. không được tham phần bằng bất cứ cách nào như thừa tác viên vào việc cử
hành Hy Tế Thánh Thể, hay vào các lễ nghi phụng tự nào khác;
2. không được cử hành các bí tích hay á bí tích, và lãnh nhận các bí tích;
§2 Sau khi vạ tuyệt thông đã bị tuyên kết
hay tuyên bố, phạm nhân:
1. muốn hành động nghịch lại quy định ở triệt 1, số 1, thời phải bị trục xuất,
hay lễ nghi phụng vụ phải đình chỉ, trừ khi có một lý do hệ trọng cản lại;
4) Dược hình - vạ
huyền chức hay đình hoãn – tiếng Latinh: suspensio, tiếng Anh: suspension,
tiếng bình dân hay gọi là treo chén.
Vạ huyền chức chỉ dành cho Giáo sĩ mà thôi
(Gl. 266, §1)
Vạ huyền chức hạn chế một phần hay toàn bộ
việc thi hành quyền thánh chức như cử hành phụng vụ, giảng dạy hay ban bí tích,
nhưng không làm mất hoàn toàn nhiệm vụ hay quyền hạn của Giáo sĩ. Vạ huyền chức
cần được phán quyết và xác định rõ ràng những hạn chế nào và không hàm chứa sự
tước đoạt nơi cư trú hay phải bị trục xuất.
Ðiều 1333:
§1 Vạ huyền chức chỉ có thể chi phối giáo
sĩ; người mắc vạ này bị cấm:
1. hoặc tất cả hay vài hành vi của quyền thánh chức;
2. hoặc tất cả hay vài hành vi của quyền cai trị;
3. thi hành tất cả hay vài quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với một chức vụ.
§2 Trong luật pháp hay mệnh lệnh có thể ấn
định rằng, sau khi án văn tuyên kết hay tuyên bố, người bị huyền chức không thể
ban hành hữu hiệu quyết định cai trị.
§3 Sự ngăn cấm chẳng bao giờ chi phối:
1. những chức vụ hay quyền cai trị nào không lệ thuộc vào quyền hành của Bề
Trên thiết lập hình phạt;
2. quyền cư ngụ, nếu phạm nhân đã có chỗ ở chiếu theo chức vụ
3. quyền quản trị những tài sản gắn liền với chức vụ của người bị huyền chức,
nếu là hình phạt tiền kết.
§4 Sự huyền chức nào ngăn cấm lãnh nhận lợi
lộc, lương, hưu bổng, hay các thứ khác, thì cũng bao hàm nghĩa vụ phải hoàn lại
mọi thứ đã lãnh nhận bất hợp pháp, cả khi vì ngay tình.
IV. Thục hình – Poenae expiatoriae – Expiatory Penalties
Thục
hình là hình phạt thực sự dành cho phạm nhân mà Giáo Hội thấy cần phải tước đoạt
quyền lợi, quyền hành và năng quyền có thể vĩnh viễn hay tạm thời. Hình phạt cụ
thể được nêu ra trong Giáo Luật điều 1336 như sau:
(§1)
Hình phạt thục tội
có thể chi phối phạm nhân suốt đời hay trong một thời gian hạn định hay vô hạn
định. Ngoài một số hình phạt khác mà pháp luật có thể thiết lập, hình phạt thục
tội gồm những thứ sau đây:
1. cấm chỉ hay bắt buộc lưu trú tại một nơi hay một lãnh thổ nhất định;
2. tước mọi quyền hành, chức vụ, nhiệm vụ, quyền lợi, đặc ân, năng quyền,
ân huệ, danh hiệu, phù hiệu, dù chỉ là thuần túy danh dự;
3. cấm thi hành những điều kê khai ở số 2, hoặc cấm thi hành các điều ấy ở
một nơi hay ngoài một nơi nhất định; sự ngăn cấm này không bao giờ được gắn với
hình phạt vô hiệu hóa;
4. thuyên chuyển có tính cách hình sự đến một chức vụ khác;
5. trục xuất khỏi hàng giáo sĩ.
(§2) Chỉ có thể phạt tiền kết những hình phạt thục tội
kê khai ở triệt 1, số 3.
V. Ai có quyền ra hình phạt hay công bố áp dụng hình phạt
hay giải vạ?
Cách
chung: Thường không ai phải ra hình phạt, vì hình phạt, dù dược hình hay thục
hình đã được Giáo Luật qui định rõ ràng. Hơn nữa, Giáo Luật số 1341 yêu cầu rằng:
Hình phạt phải là biện pháp sau cùng, sau khi đã sửa sai trong tình huynh đệ, đã cảnh cáo… Nhưng vẫn không có kết
quả thì hãy áp dụng hình phạt.
Khoản
Giáo Luật 1316 và 1341 cũng nói rằng: Giám Mục địa phận là Đấng có thẩm quyền để
áp dụng hình phạt nhằm: Tái tạo công bình – Hàn gắn hiệu quả những tai hại và
hoán cải phạm nhân.
Trong
phương diện ra vạ cho những tội phạm hình sự trong giáo Hội, vị có trách nhiệm và thẩm quyền là Giám Mục địa phận mà
thôi, không bao gồm những tất cả những bản quyền
địa phương theo nghĩa thông thường như tổng đại diện hay đại diện Giám Mục.
Chính
Giám Mục địa phận là vị có thẩm quyền tuyên bố áp dụng hình phạt thì chính
Ngài cũng có quyền tuyên bố giải vạ. Thí dụ, Giám Mục địa phương sau khi được
biết một tội phạm xảy ra trong hàng giáo sĩ, Ngài cho điều tra, thu thập bằng
chứng, khuyên răn, cảnh cáo… không hiệu quả, Ngài ra hình phạt huyền chức hay
treo chén… Tội nhân tuân hành và sau đó thật lòng sám hối, từ bỏ hoàn toàn tội
lỗi như đánh bài hay lén lút gian dâm... Thì sẽ được Ngài tuyên bố giải vạ và
trao trả năng quyền. Tuy nhiên Giám Mục địa phận không được quyền giải 5 vạ tuyệt
thông tiền kết dành cho tòa thánh được nói trong Giáo Luật điều: 1367, 1370 §1,
1378 §1, 1382 và 1388 §1
Hàng
linh mục, dù là Cha xứ hay Cha sở nên tuyệt đối tránh
những tuyên bố bừa bãi như: ai làm thế nầy, thế
khác thì tôi dứt phép thông công… hay ra vạ tuyệt thông… Những tuyên bố nầy
không có hiệu lực gì cả! Vì Cha xứ hay Cha sở… không là Bản quyền địa phương
theo Giáo Luật khoản 1316 và 1341 về hình sự. Hơn nữa, nếu lạm dụng quyền hành,
xúc phạm đến giáo dân… thì coi chừng lại bị chính Giám Mục mình khiển trách hay
ra hình phạt.
VI. Một số người bị phạt vạ tuyệt thông trong lịch sử
Giáo Hội Công giáo Rôma (nguồn Wikipedia và tài
liệu của Đại Học Luật St. Paul, Ottawa)
Đếm
được 110 vụ phạt vạ tuyệt thông từ thế kỷ I cho đến
hiện tại. Có nhiều vua chúa, Giám Mục, linh mục và
nữ tu. Đó là chưa kể từ năm 864 cho đến 1773 có tất cả 24 Hồng Y bị vạ tuyệt
thông. Chỉ xin đan cử một ít trường hợp phạt vạ tuyệt thông gây nhiều bàn tán
trong Giáo Hội:
Hội
Công giáo Yêu nước Trung Quốc thành lập năm 1957. Ngày 29.7.1958 ĐGH. Piô XII
ra vạ tuyệt thông cho những ai gia nhập hội nầy và các Giám Mục được tấn phong
không có phép của Tóa Thánh. Giáo Hội Công Giáo Trung Quốc có chừng 12 triệu
giáo dân. Trong số nầy có chừng 5 triệu gọi là Giáo Hội hầm trú. Số còn lại thuộc
Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc, bất chấp những chỉ thị của Rôma.
Đức
GH Gioan XXIII ra vạ tuyệt thông Fidel Castro của Cuba năm 1962 vì áp chế Giáo
Hội Công Giáo và hàng giáo sĩ.
Bà
Jacqueline Kennedy Onassis, quả phụ phu nhân của cố tổng thống Kennedy, năm 1968, tái hôn với Aristotle Onassis mà
không theo phép đạo, bà bị vạ tuyệt thông không được rước lễ. .
Ngày
1 tháng 1 năm 1976 Tổng giám Mục Ngô đình Thục bị vạ tuyệt thông vì tấn phong cho
Dominguez Gomez và bốn người khác thuộc nhóm li giáo ở Palmar de Troya (Tây Ban
Nha) làm Giám mục mà không có chuẩn y của Giáo hoàng cũng như không có đầy đủ
các thủ tục cần thiết trước đó. Vào tháng 5 và tháng 10 năm 1981, Ngài tiếp tục
tự ý tấn phong Giám mục cho ba người nữa. Thực sự Đức Cha Ngô đình Thục bị khủng
hoảng trầm trọng vì biến cố tang thương của gia đình và bị xúi giục để làm chuyện
bất hợp luật nầy. Sau cùng Đức Cha đã xin lỗi, quay trở lại với giáo hội và qua
đời trong tình trạng hiệp thông với giáo hội.
Ngày
30.6.1988, Đức Tổng Giám Mục Marcel Lefebvre, cùng với Đức Cha Antônio de Castro Mayer of Campos người
Ba Tây đã về hưu phong cho 4 linh mục trong Hội Thánh Giáo Hoàng Piô X là Bernard Tissier de Mallerais, Richard Williamson, Alfonso de Galarreta and Bernard Fellay làm Giám Mục. Ngày 1.7.1988, Bộ Giám Mục ra tuyên cáo: Đó là ly giáo và ra
vạ tuyệt thông cho cả 6 người. Ngày 2.7.1988 Đức GH Gioan Paul II ra tông thư
Ecclesia Dei, Giáo Hội của Chúa và ra vạ tuyệt thông cho cả sáu. Năm 2009 Đức
GH Benedictô XVI cất vạ tuyệt thông và hợp thức hóa bốn Giám Mục trên. Tuy
nhiên Đức Cha Marcel Lefebvre và Antônio de Castro Mayer of Campos đã chết trước đó.
Tổng
Giám Mục Emmanual Milingo, cựu tổng Giám Mục Lusaka in Zambia, Phi Châu năm 2001 công khai gian díu với phụ nữ
và nhận chúc lành từ Sun Myung Moon, thuộc nhóm Giáo Hội hiệp nhất (Unification Church), cũng như chủ trương bỏ luật độc thân linh mục. Emmanual Milingo tự phong
chức Giám Mục cho 4 người. Tất cả bị vạ tuyệt thông ngày 26.9.2006 và ngày 17
tháng 12 năm 2009, Emmanual Milingo bị khai trừ khỏi hàng giáo sĩ Công Giáo và bị cho hoàn tục.
Cộng
đồng Đức Bà Muôn Dân hay Đạo binh Đức Mẹ tin rằng bà Marie Paule Giguère vị
sáng lập là chính Đức Mẹ Maria đầu thai. Bộ Đức Tin ra vạ tuyệt thông ngày 11
tháng 7. 2007 và 12.9.2007 Hội Đồng Giám Mục Canada tuyên bố áp dụng vạ tuyệt
thông cho cộng đồng nầy.
Cha
Roy Bourgeois, linh mục năm 1972 và là
thành viên của Hội Maryknoll, tức Hội truyền giáo của Mỹ Châu. Ngày 9.8.2008,
Cha tham dự thánh lễ truyền chức linh mục cho phụ nữ ở Lexington, Kentucky và bị
huyền chức và cho hoàn tục ngày 4.10.2012.
Cha
Greg Reynolds ở Melbourne, Úc đã bị vạ tuyệt thông năm 2013 vì ủng hộ việc phong chức linh
mục cho phụ nữ và hôn nhân đồng tính.
Lm.
Peter Trần thế Tuyên J.C.L.