“Lời nói của các con phải là: có thì
nói có, không thì nói không .”
Kết thúc bài tin mừng Chúa phán:
“Lời nói của các con phải là: có thì nói có, không
thì nói không .”
Năm ngày sau khi bị bắt, cha Lê Bảo Tịnh (tử đạo ngày 6.4.1857, 64 tuổi) được đưa ra công đường. Quan thượng Đạt, muốn cứu Cha
khỏi chết, đã cho cha được viết lại bản lý lịch, cha vẫn xác nhận
mình là linh mục. Quan thượng Đạt khuyên cha không nên viết thế, chỉ
nên khai là giáo hữu chuyên dạy chữ nho và làm thuốc, để thoát án
tử hình. Cha cảm ơn hảo ý của quan muốn cứu sống mình nhưng vẫn giữ
y lời khai là linh mục vì lấy đó là một vinh dự lớn lao. Cha sẵn
sàng chịu tất cả, vì vinh dự ấy.
Lê Bảo Tịnh sinh năm 1793, tại xã Trịnh Hà, huyện Hoàng
Hóa, là con thứ ba trong một gia đình Công Giáo. Năm 12 tuổi, cậu được
ở với cha Duệ xứ Bạch Bát (Ninh Bình). Sau 3 năm, cậu được cha gởi đi
học chủng viện Vĩnh Trị (Nam Định). Trong chủng viện, cậu là một
chủng sinh gương mẫu. Trí năng bình thường, nhưng cậu hơn hẳn anh em về
sự chăm chỉ và tinh thần đạo đức, hãm mình. Cậu ăn chay các ngày
thứ sáu. Đánh tội và nằm đất. Khuynh hướng sống khổ hạnh đó là
bước đầu dẫn đến ý định ẩn tu của thầy Tịnh. Chính vì thế, thầy
tích trữ cơm khô, âm thầm rời bỏ chủng viện vào sâu trong rừng vắng
để có dịp cầu nguyện và kết hiệp mật thiết với Chúa .
Nhưng đức cha Longer Gia đã chỉ thị cho các cha trong địa
phận: “Nếu thầy Tịnh đến xưng tội,
không linh mục nào được quyền giải tội, phải bảo thầy đến gặp Đức
Cha ngay.”
Và thầy ẩn sĩ đạo đức ấy đã tìm ra ý Chúa qua đức
Giám mục. Sau một năm xung phong truyền giáo bên Ai Lao, tuy rất kết
quả, nhưng tình hình thay đổi, đoàn truyền giáo Lê Bảo Tịnh vâng lời
trở về nước.
Giờ đây thầy Bảo Tịnh sẽ đón nhận những hy sinh mới,
những công tác mà Giáo hội đợi chờ nơi thầy. Để chuẩn bị cho những
công tác lớn lao hơn, Đức cha cho thầy Tịnh tiếp tục học thần học,
lãnh các chức nhỏ. Đức cha Havard Du, kế vị đức cha Gia, cử thầy sang
Macao để nhận những khoản trợ cấp cho địa phận. Hai chuyến đi trong
hai năm, đồng thời cũng là hai lần thoát chết khỏi tay hải tặc và
giông tố. Đức cha Retord Liêu, người kế vị đức cha Havard Du và đức cha
Borie Cao cử thầy Tịnh đi dạy giáo lý tân lòng tại làng Thạnh Tổ,
xứ Bích Trì (Hà Nam). Cuối năm 1841, lý trưởng làng Thạnh Tổ đã
rình bắt được thầy Tịnh. Giáo hữu đem tiền nộp quan để chuộc thầy,
nhưng thầy tỏ ra khí khái nói với quan: “Nếu chỉ vì tiền mà tha, thì tôi không muốn.”
Thế là thầy Tịnh bị giải về Châu Cầu (Phủ Lý) thị xã
Hà Nam, rồi lên Hà Nội. Tại công đường, các quan nạt nộ mà vẫn không
thể khuất phục được thầy, nên các quan đệ án vè kinh xin trảm quyết.
Nhưng khi ấy vua Thiệu Trị mới lên ngôi, bầu khí ác cảm
với đạo đã giảm đi. Sáu lần quan đệ án vào kinh, cả 6 lần không
được chấp thuận, để đến lần thứ bảy chuyển thành án lưu đầy chung
thân vào Phú Yên. Trên đường lưu đày, người tù có thân hình mảnh mai
nhưng tâm hồn cương nghị ấy luôn trung thành với chân lý mình đang theo.
Thầy đã mãnh liệt phản kháng khi người ta gọi gia tô tả đạo, đồng
thời giải thích với mọi người về Tôn giáo của mình. Thời gian phát
lưu được vài ba năm, thì vua Triệu Trị băng hà ngày 4.11.1847. Vua Tự
Đức lên kế ngôi và ban ân xá, phóng thích tù nhân.
Trở về địa phận, thầy Tịnh vâng lời đức cha lãnh chức
linh mục, khi đã 56 tuổi. Khoảng một năm sau, vị tân linh mục nhận chức
Giám Đốc kiêm giáo sư chủng viện Vĩnh Trị. Nhờ trước đây đã chữa
bệnh đau mắt cho quan tổng đốc Nam Định Phan Bá Đạt, nên cha giám đốc
đã xin được giấy phép cho chủng viện được hoạt động một cách bán
công khai, dưới hình thức một trường dạy Hán Văn và Đông Y.
Ở cương vị một giám đốc chủng viện, cha Lê Bảo Tịnh tỏ
ra là một linh mục đầy lòng nhân ái, giản dị, khôn ngoan, và từng
trải. Những bước thăng trầm đây đó cùng với số tuổi khá cao khi đã
lãnh chức linh mục đã ảnh hưởng tới cuộc sống tông đồ của cha. Người
tận dụng thời giờ thật khít khao, cốt sao đạt được ích lợi tối đa. Trong
những năm tháng đảm nhiệm chủng viện Vĩnh Trị với bao công việc, cha
giám đốc vẫn thu xếp được thời giờ để viết sách. Chúng ta có thể
kể những tác phẩm của cha sau đây: “Phúc
Âm Dẫn Giải”, “Giáo Lý Đại
Cương”, “Lục vấn Lương Tâm”, “Những lời khuyên thực hành để giúp xa
lánh tội trọng và dọn mình chết lành.”
Trong khi hướng dẫn chủng sinh, cha thường khuyên họ tuân giữ
kỷ luật, vì chính cha đã từng có kinh nghiệm sâu sắc: Kỷ luật là
kim chỉ nam của đời tu, giúp thể hiện lòng Mến Chúa thương người. Đàng
khác cha còn chú tâm huấn luyện chủng sinh về đời sống cầu nguyện. Lúc
này, tuy không còn trực tiếp coi sóc giáo hữu, nhưng cha rất siêng năng
ngồi tòa Hòa Giải, giúp đỡ các tâm hồn trở về với Chúa. Một khía
cạnh khác trong đời cha Phaolô Tịnh là lòng tôn sùng Thánh Giá. Bất
cứ nơi nào cha đã từng sống, đều có bóng dáng của Cây Thập Giá. Sau
này khi bị bắt, các quan thấy cha có nhiều Thánh Giá quá đã kháo
láo với nhau: “Ông cụ này nghiện
Thập Tự.”
Đúng vậy, cha có lòng sùng kính cuộc Tử Nạn Chúa Kitô.
Đồng thời ao ước sống đời Thánh Giá. Lòng Tôn Sùng ấy đã bộc lộ qua
nếp sống thật nhiệm nhặt. Khi làm thầy ẩn tu, cũng như khi làm cha
giám đốc chủng viện. Bữa cơm thường nhật của cha là vài chén cơm
với chút nước mắm và đĩa rau luộc. Giường cha nằm ngủ nghỉ là manh
chiếu trải trên đất. Thân xác cha hao mòn, nhưng cha vẫn có một tâm
hồn mãnh liệt, một trí thông minh sắc sảo. Cha sống nghiệm ngặt đến
quên thân mình, nhưng lại luôn lo lắng cho người khác. Cha thường thăm
viếng, an ủi, ban phát Bí Tích, giúp đỡ người nghèo, nhất là các
bệnh nhân, kể cả những người bị bệnh nan y như phong cùi.
Năm 1857, cha Kỳ và cha Hảo về tổ chức lễ tại nhà thờ
Phát Diệm. Dịp này ngoài thánh lễ còn có những cuộc rước kiệu. Sự
kiện rầm rộ này bị kẻ xấu , báo cáo xuyên tạc với quan tuần phủ
Ninh Bình: “Cụ đạo mở cờ khao quân.”
Quan quân liền kéo về Phát Diệm vây bắt, nhưng hai cha Kỳ và Hảo đã
về Vĩnh Trị rồi, nên họ gởi giấy yêu cầu quan Nam Định đi bắt hai
linh mục đó. Quan tổng đốc Nam Định Phan Bá Đạt vẫn nhớ ân tình với
cha Phaolô Tịnh (Vị ân nhân đã chữa mắt cho mình), nên đã cố gắng ngăn
cản nhưng không xong. Kế hoạch vây bắt được ấn định vào ngày 27.2.1857
do quan phủ Nghĩa Hưng chỉ huy.
Trong khi đó, quan tổng đốc đã nhờ người báo cha Tịnh ở
Vĩnh Trị, nhưng vì bất ngờ lâm bệnh nặng người đó không đi báo được
nên chủng viện vẫn sinh hoạt bình thường cho đến khi quan quân vây kín
làng. Sau mấy phút hội ý, đức cha Retord Liêu và các cha đồng ý chạy
trốn, chỉ để một mình cha Tịnh ở lại đối phó, với hi vọng tránh
được những tàn phá. Cha Tịnh bình tĩnh mời quan phủ Nghĩa Hưng và
ông phán Trứ vào phòng dùng trà, rồi trình bày giấy phép của quan
tổng đốc. Nhưng không xong, vì trong nhà trường có nhiều đồ quốc cấm
như sách Latinh, đồ lễ và nhiều vật dụng từ khác từ nước ngoài gởi
về, nên quan phủ cho lập biên bản và yêu cầu cha Tịnh theo họ để điều
tra thêm.
Trước khi đi, cha Tịnh vào nhà thờ cầu nguyện và từ
giã các chủng sinh, những người con yêu quý nhất của cha. Đức Cha Liêu
tìm cách chuộc lại cha Tịnh trước khi quan phủ giải cha lên tỉnh nhưng
không thành công. Đức cha liền cho người báo trước với quan tổng đốc
để nhờ quan xử trí. Hôm sau, ông phán Trứ giải cha ra Tỉnh. Các quan
khác nghi cha Tịnh đã phải mất một số tiền khá lớn, để được tờ
giấy phép đó. Tờ giấy phép đã đưa quan thượng Đạt lâm vào thế kẹt,
khó xử. Ông biết rõ cuộc đời thân thế và sự nghiệp của cha Tịnh,
thế mà lúc này chính ông lại là người đứng ra hỏi cung, Tại phiên
tòa, quan không hỏi han gì cả, chỉ xin cha khóa quá rồi sẽ tha về. Nhưng
cha Tịnh từ chối lời yêu cầu ấy.
Quan tổng đốc tìm cách cứu gỡ vị ân nhân của mình. Chính
tay ông viết bản án và điền thêm ở dưới: “Xét rằng Lê Bảo Tịnh đã ngoài 60 tuổi, chiếu theo luật nước
không nên xử tử những người già nua tuổi tác như thế, xin cứ giam ở
Nam Định và cứ giữ ở đó là tiện nhất.”
Trong khi chờ đợi vua Tự Đức Phúc đáp nghị án, cha Tịnh
bị giam ở trại Vệ 37 ngày, nơi có nhiều tín hữu bị cầm giữ. Cha
không thể quên được đoàn con thân yêu ở chủng viện Vĩnh Trị. 12 ngày
trước khi bị án xử, cha viết cho họ một tấm thư rất cảm động, cha
chứa những tư tưởng đạo đức.
Ngày 5.4.1857 bản án ra tới tỉnh, Vua Tự Đức cải án
giam thành án trảm quyết. Ngày hôm sau, cha Phaolô Tịnh bị xử tại
pháp trường Bảy Mẫu.
Lúc chém người lát thứ nhất, gươm của lý hình gẫy,
phải lấy một cái khác. Thấy vậy quan xét rằng đó là dấu linh mục
này vô tội phải chết oan, tối đến ông thắp hương nến cầu khẩn vong
linh người chết xá tội cho ông.
Thi hài đấng tử đạo được đưa về Vĩnh Trị ngay đêm ấy.
Lm. Giuse Đỗ Đình Tiệm
Đề tựa của Lm. HK