THÁNH PHÊRÔ CANISIUS
Lược sử
Cuộc đời đầy năng lực của Thánh Phêrô Canisius phải đánh đổ bất cứ ấn tượng
nào cho rằng cuộc đời của các thánh thì nhàm chán.
Ngài là một trong những khuôn mặt
quan trọng trong giai đoạn cải cách của Giáo Hội Công Giáo ở nước Đức.
Mặc dù thánh nhân thường cho mình
là lười biếng khi còn trẻ, nhưng sự biếng nhác đó không được lâu, vì khi 19
tuổi ngài đã lấy bằng cử nhân của một đại học ở Cologne. Sau đó không lâu, ngài
gặp Cha Peter Faber, người môn đệ đầu tiên của Thánh Ignatius Loyola (Y Nhã),
và cha đã ảnh hưởng ngài nhiều đến nỗi ngài đã gia nhập Dòng Tên khi vừa mới
được thành lập.
Trong giai đoạn này ngài đã tập
luyện được một thói quen mà sau này trở thành nếp sống của cuộc đời ngài --
không ngừng học hỏi, suy niệm, cầu nguyện và sáng tác. Ngoài khuynh hướng suy tư về văn chương, thánh nhân
còn hăng say trong việc tông đồ.
Nổi tiếng là vị rao giảng, thánh nhân thường lôi cuốn giáo dân đến chật cả nhà
thờ qua tài hùng biện của ngài về Phúc Âm.
Năm 70 tuổi, thánh nhân bị liệt,
nhưng ngài vẫn tiếp tục rao giảng và viết lách với sự trợ giúp của một thư ký
cho đến khi ngài từ trần vào sáu năm sau đó, ngày 21-12-1597.
Suy niệm 1: Năng lực
Cuộc đời đầy năng lực của Thánh
Phêrô Canisius phải đánh đổ bất cứ ấn tượng nào cho rằng cuộc đời của các thánh
thì nhàm chán.
Thánh nhân đã sống 76 năm với một
nhịp độ không thể nói gì khác hơn là phi thường, ngay cả trong thời đại thay
đổi mau chóng của chúng ta. Là một người được Thiên Chúa ban cho nhiều tài
năng, thánh nhân là gương mẫu tuyệt hảo của một người sống cho phúc âm đã phát
triển tài năng vì Thiên Chúa. Khi được hỏi là ngài có làm việc quá sức hay
không, Thánh Phêrô Canisius trả lời, "Nếu bạn có nhiều việc phải làm thì
với sự trợ giúp của Thiên Chúa bạn sẽ có thì giờ để thi hành tất cả những điều
ấy.
Nỗ lực không mệt mỏi của Thánh
Phêrô Canisius là một gương mẫu thích hợp cho những ai muốn góp phần canh tân
Giáo Hội hay cho sự thăng tiến ý thức luân lý trong chính phủ hay trong thương
trường. Ngài được coi là một trong các vị sáng lập ngành báo chí Công Giáo, và
rất có thể là gương mẫu cho các ký giả hay thông tín viên Công Giáo. Các người
trong lãnh vực sư phạm có thể nhìn thấy ngài như một đam mê muốn truyền lại
chân lý cho thế hệ mai sau. Dù chúng ta có nhiều khả năng để cho đi, như Thánh
Phêrô Canisius đã từng làm, hoặc không có tài cán gì để đóng góp, như bà góa
trong Phúc Âm (x. Lc 21,1-4), điều quan trọng là cho đi tất cả những gì chúng
ta có. Chính trong phương cách ấy mà thánh nhân đã trở nên gương mẫu cho mọi
Kitô Hữu trong thời đại thay đổi nhanh chóng này mà chúng ta được kêu gọi đến
trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian.
* Lạy Chúa
Giêsu, xin giúp chúng con biết cho đi tất cả những gì chúng con có.
Suy niệm 2: Cải cách
Ngài là một trong những khuôn mặt
quan trọng trong giai đoạn cải cách của Giáo Hội Công Giáo ở nước Đức.
Cái gai lớn nhất đối với cả Anh
giáo lẫn Luthêrô-giáo và Calvinô-giáo là hai thánh: Rôbertô Bellarminô và Phêrô
Canisius, cả hai đều được phong thánh sư (doctor ecclesiae). Thánh Canisius có
mặt khắp nơi trong các quốc gia nói tiếng Đức đang chao đảo trước cơn bão
Luther và Calvin. Ngài lập 20 học viện để huấn luyện giới trẻ và tung ra những
cuốn giáo lý (sách bổn, catéchismes): giáo lý nhỏ bằng tiếng Đức cho trẻ nhỏ và
giới bình dân, giáo lý lớn, rất dài và chi tiết bằng La-ngữ cho thầy dạy và
những người có học. Nhờ các sách giáo lý bán chạy như tôm tươi này, cũng như
nhờ mấy chục học viện và biết bao hoạt động khác, thánh Canisius đã giữ vững
các vùng Công giáo còn lại của Đức, và kéo rất nhiều vùng Tin lành hóa (ở Đức,
Áo, Rhénanie, Ba lan…) trở về với đức tin truyền thống. Do đó mà, cùng với
thánh Bôniphaxiô, ngài được coi là tông đồ Đức quốc dù chính ngài là người Hà
lan.
Nếu sách giáo lý của Canisius
nhắm bình dân, thì bộ Tranh luận (Controverses) của Rôbertô Bellarminô lại nhắm
giới học giả Tin lành. Bộ sách này, gồm nhiều tập rất đồ sộ, ghi lại giáo trình
mấy mươi năm của giáo sư Bellarminô tại Học viện La mã (Collegio Romano, sau
này sẽ trở thành Università Gregoriana, đại học viện giáo hoàng duy nhất suốt
cho đến gần Vatican II). Sách in nhanh đến đâu cũng không kịp để bán. Chẳng
những bán chạy trong vùng Công giáo, mà trong vùng Tin lành cũng vậy. Đến nỗi
sách vừa in xong, đã có mặt ngay bên Anh, và vừa tới Anh đã hết sạch rồi. Chính
Bách khoa từ điển của Anh (Encyclopaedia Britannica) cũng phải nhìn nhận:
“(Bellarmin) được những người bênh vực Tin lành coi là nhà vô địch của phe Giáo
hoàng, và báo thù cho Tin lành luôn đồng nghĩa với việc trả đũa ông ta”. Quả
thế, sự thành công vang dội của bộ Controverses khiến Tin lành người thì sửng
sốt, không tin nổi đó là công trình của một người; kẻ lại mím môi tức tối muốn
văng tục. Trong đám người trước, khá nhiều tên tuổi đã hạ vũ khí, như Antony
Carier kinh sỹ Canterbery và tuyên úy chính thức của vua Anh Jacques I: ông đã
trốn sang Đức để trở lại Công giáo, bất chấp sự dọa nạt của đức vua (Hoành sơn
SJ).
* Lạy Chúa
Giêsu, xin giúp chúng con biết dùng khả năng của mình để nếu không bút chiến
thì chứng nhân để giúp người người trở về với Chúa.
Suy niệm 3: Văn hóa
Thánh nhân thường cho mình là
lười biếng khi còn trẻ
Nhưng sự biếng nhác đó không được
lâu, vì khi 19 tuổi ngài đã lấy bằng cử nhân của một đại học ở Cologne. Ngài có
óc thông minh, tài phán đoán, nhờ học hành giỏi giang, thánh nhân mau nổi tiếng
là người uyên bác. Năm 1543, ngài xin vào dòng Tên tại Cologne và mau chóng trở
nên uyên bác trong nhiều lãnh vực. Ngài rất nổi tiếng về đàng học vấn và được
nhiều người kính phục, nể vì. Ngài đã nắm giữ rất nhiều trọng trách quan trọng
như làm giáo sư, thuyết giảng, dạy giáo lý, sứ gỉả của Ðức Giáo hoàng, Bề trên
nhà dòng, Giám tỉnh tại Ðức và Áo. Năm 1547, thánh nhân được tham dự vài khóa
họp của Công Đồng Triđentinô, mà sau này các sắc lênh của công đồng ấy được
giao cho ngài hiện thực hóa. Sau một thời gian được bài sai việc giảng dạy ở
trường Messina của Dòng Tên, ngài được giao cho sứ vụ truyền giáo ở Đức -- cho
đến mãn đời. Ngài dạy tại một vài trường đại học và góp phần chính yếu trong
việc thiết lập nhiều trường học, chủng viện và học viện.
Thánh nhân dù thuyết giảng, viết
hay trò chuyện, tiếp xúc, hoặc qua những hoạt động chỉ nhắm một mục đích duy
nhất là "Phục vụ Giáo Hội, làm vinh danh Chúa và chống lại học thuyết của
Luthêrô lúc đó đang hoành hành, phát triển mạnh tại nước Ðức. Thánh Phêrô có
công rất lớn vào thế kỷ XVI tại Ðức vì Ngài đã dùng tư tưởng đạo đức, chân
chính theo Giáo lý của các tông đồ làm cho một số đông tại nước Ðức còn trung
thành với Hội Thánh Chúa Kitô.
* Lạy Chúa
Giêsu, xin giúp chúng con chớ làm biếng nhưng luôn hăng say làm vinh danh Chúa.
Suy niệm 4: Sáng tác
Thánh nhân không ngừng học hỏi,
suy niệm, cầu nguyện và sáng tác.
Sau khi thụ phong linh mục năm
1546, ngài nổi tiếng qua công trình soạn thảo các văn bản của Thánh Cyril
Alexandria và Thánh Leo Cả. Thánh nhân có tài viết văn, Ngài đã viết rất nhiều,
các bài của Ngài được phổ biến khắp nơi trong số đó cuốn " Tổng luận về
Giáo lý Công giáo" viết năm 1555 và cuốn " Giáo lý " viết năm
1556 được hoan nghênh khắp nơi và rất nổi tiếng.
Ngài viết sách giáo lý giải thích
đức tin Công Giáo cho những người bình dân để họ dễ hiểu -- một công việc rất
cần thiết trong thời ấy. Trong thời gian ấy, ngài cũng viết các lá thư bất
thường chỉ trích các vị lãnh đạo trong Giáo Hội -- tuy nhiên luôn luôn với một
tâm tình đầy yêu thương, và thông cảm.
* Lạy Chúa
Giêsu, xin giúp chúng con biết nói với Chúa thật nhiều để có thể viết chút gì
về Chúa.
Suy niệm 5: Tông đồ
Ngoài khuynh hướng suy tư về văn
chương, thánh nhân còn hăng say trong việc tông đồ.
Người ta thường thấy ngài đi thăm
bệnh nhân và người bị tù đầy, ngay cả khi ngài được giao cho các trách nhiệm
khác mà đối với nhiều người để chu toàn công việc ấy cũng đã hết thì giờ. Vai
trò của ngài thật quan trọng đến nỗi ngài thường được gọi là "vị tông đồ
thứ hai của nước Đức" mà cuộc đời của ngài thường được sánh với cuộc đời
của Thánh Boniface trước đây.
Cũng thế, thánh Phanxicô Xaviê
đánh giá rất cao công cuộc thăm viếng như một thành quả cho việc tông đồ. Ngày
07/07/1543, ngài lần đầu tiên đặt chân lên thành phố Goa, miền tây nam Ấn Độ –
một vùng đất hoàn toàn xa lạ đối với ngài, nhưng ngài đã ngày đêm thăm viếng và
nâng đỡ đức tin cho những người nghèo, giúp đỡ những người thuộc đẳng cấp thấp
nhất trong xã hội Ấn thời bấy giờ. Ngài dành nhiều thời gian để di đến các làng
mạc thăm viếng, khích lệ những người ốm đau bệnh tật, rửa tội cho trẻ em, dạy
giáo lý cho người lớn và tổ chức các giờ kinh lễ. Trong một lá thư viết từ Ấn
Độ gửi cho thánh Inhaxio ở Rôma, ngài viết rằng: “Tại các miền ấy, có nhiều
người không được làm Kitô hữu chỉ vì không có ai làm cho họ trở thành Kitô hữu.
Nhiều lần tôi đã có ý định đi tới các đại học Châu Âu, trước hết là đại học
Paris, mà kêu gào khắp nơi như một kẻ mất trí và thúc đẩy những người chỉ
nghiên cứu học thuyết hơn là thực hành bác ái rằng: tiếc thay, chỉ vì lỗi của
các ông mà biết bao linh hồn không được cứu rỗi!”.
* Lạy Chúa
Giêsu, xin giúp chúng con biết làm việc tông đồ nhiều hơn là nói về sứ mạng
tông đồ.
Suy niệm 6: Rao giảng
Nổi tiếng là vị rao giảng, thánh
nhân thường lôi cuốn giáo dân đến chật cả nhà thờ qua tài hùng biện của ngài về
Phúc Âm. Ngài còn có tài ngoại giao, và thường làm người hòa giải giữa các bè
phái tranh chấp. Trong các thư từ ngài để lại (tất cả đến tám bộ) người ta thấy
các lời lẽ khôn ngoan của ngài khi khuyên nhủ người dân thuộc đủ mọi thành phần
trong xã hội.
Năm 70 tuổi, thánh nhân bị liệt,
nhưng ngài vẫn tiếp tục rao giảng với nhiệt huyết cao độ như thánh Phaolô: Khốn
thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! (1Cr 9,16), và với ý thức về một
thực tế: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm
sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm
sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được
sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo tin mừng! (Rm
10,13-15).
* Lạy Chúa
Giêsu, xin hãy sai chúng con đi.