Suy niệm hạnh thánh _ 19/12

Tôi Tớ Thiên Chúa
BERTHOLD ở RATISBON
 (c. 1272)
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lược sử
Sinh ở Đức vào khoảng năm 1220, ngay từ khi còn trẻ, Berthold người xứ Ratisbon đã gia nhập dòng Phanxicô khi mới được thành lập. Ngài đạo đức, chịu khó sống kham khổ, và được hướng dẫn bởi vị linh hướng nổi tiếng là cha David người xứ Augsburg. Nhận thấy Berthold có khoa ăn nói nên cha David đã khuyến khích và giúp vị linh mục trẻ tuổi này trau dồi thêm khả năng đó.
Không bao lâu khắp Đế Quốc Đức, ai ai cũng biết tiếng Cha Berthold là một người rao giảng đại tài.
Cha Berthold có ơn tiên tri và đã tiên đoán đúng nhiều thiên tai và biến cố trong thời ấy. Sau khi ngài từ trần ở Ratisbon năm 1272, ngôi mộ ngài trở nên trung tâm hành hương. Tinh thần của ngài vẫn sống động trong các bài giảng, mà nhiều bài ấy vẫn thích hợp trong thời đại chúng ta.
Suy niệm 1: Linh hướng
Berthold được hướng dẫn bởi vị linh hướng nổi tiếng là cha David người xứ Augsburg.
Theo Shalem: 'Linh hướng là mối liên hệ giữa hai cá nhân với nhau, trong đó vị linh hướng là người hướng dẫn người kia xét lại cuộc sống của họ dưới ánh sáng ơn gọi của mình để họ trở nên người trung thành và vâng lời bằng tận đáy con tim của mình. Người linh hướng là một dụng cụ dùng để mở rộng khả năng nhận thức rõ ràng tiếng nói bên trong của Chúa Thánh Thần và phát triển lòng can đảm, đức tin, cùng sự tự nguyện vâng theo tiếng nói của Chúa một cách thật tự do.'
Thiên Chúa đã dùng con người để thúc giục và hướng dẫn con người tìm ra đường lối của Chúa. Linh hướng đã có từ thời xa xưa trong Giáo Hội. Ta thấy Heli là một vị linh hướng cho Samuel nhận ra được tiếng Chúa muốn nói chuyện với Samuel (1Sm 3,1- 14) Đến thời Chúa Giêsu, ta thấy ngài cũng là một vị linh hướng thật tài giỏi cho riêng biệt từng người, điển hình như Nicôđêmô vào ban đêm (Ga 3, 1- 21), Nathanael (Ga 1, 47- 49), người thanh niên giầu có (Mt 19, 16- 22), người phụ nữ thành Samari (Ga 4,7- 30). Rải rác nhiều chỗ trong Tin Mừng, ta thấy Chúa Giêsu là linh hướng cho các môn đệ. Thời Giáo Hội tiên khởi ta cũng thấy các tông đồ là linh hướng, rồi đến thế kỷ thứ bốn có các thánh tu rừng, đến khoảng thế kỷ thứ sáu linh hướng được bành tướng thêm ở các đan viên.
Thế kỷ 21 này linh hướng không chỉ đơn thuần hướng dẫn đời sống tâm linh cho những người sống cách biệt với xã hội, nhưng nối liền đời sống tâm linh với những thực tại của thế giới với trách nhiệm của một công dân như bình an, công bằng trong gia đình, và công sở. Vậy, linh hướng cần thiết cho mọi Kitô hữu chứ không chỉ dành riêng cho giới tu sĩ (Sr. Nắng Hạ, OP).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có được một vị linh hướng hữu ích cho đời sống đạo của chúng con.
Suy niệm 2: Xứ Augsburg-phép lạ
Berthold được hướng dẫn bởi vị linh hướng nổi tiếng là cha David người xứ Augsburg.
Lịch sử phép lạ này bắt đầu với một người đàn bà ở Augsburg, bà nảy ra ý nghĩ muốn giữ Thánh Thể trong nhà mình. Với mục đích này, vào một buổi sáng nọ, bà đã lên rước lễ và kín đáo lấy Thánh Thể ra khỏi miệng và đưa về nhà. Tại đây, bà đã tạo ra hai miếng sáp, đặt Bánh Thánh giữa rồi hàn kín các mép lại, tạo nên một chiếc hộp đựng thô kệch. Bà đã giữ Thánh Thể như thế suốt năm năm trời; nhưng trong quãng thời gian ấy, lương tâm cắn rứt đến độ bà đã buộc lòng phải đem câu chuyện ấy trình bày với cha sở vào năm 1199, và cha sở đã tức tốc đi đến nhà bà và đưa Bánh Thánh về nhà thờ Thánh Giá.
Trong số những vị linh mục của giáo xứ lúc bấy giờ có một vị tên là Berthold làm ca trưởng ca đoàn được coi là một vị thánh. Cha Berthold được ủy thác mở chiếc hộp sáp, và chính ngài là người đầu tiên nhìn thấy phần Bánh Thánh ấy đã biến nên như thịt, có những gân đỏ rõ ràng. Tất cả các linh mục tại cộng đồng chứng kiến việc mở chiếc hộp sáp đều kinh ngạc. Họ bàn luận vấn đề một lúc lâu, và sau đó quyết định rằng họ có thể xác định tốt hơn tính chất của hiện vật nếu như bẻ làm hai phần. Trước sự ngỡ ngàng của các ngài, Thánh Thể không thể bẻ làm đôi bởi vì đã được kết chặt với nhau bằng những gân máu giống như các sợi chỉ. Khi ấy, các ngài xác nhận hiện vật ấy chính là thịt của Chúa Giêsu Kitô.
Trước cảnh tượng ấy, một số linh mục không nói nên lời, một số kinh hãi, và một số khác đề nghị giữ kín sự kiện biến thể ấy. Tuy nhiên, vị coi phòng áo kiến nghị nên tường trình sự việc cho đức giám mục, và thế là vấn đề lập tức đã được thông tri cho đức giám mục.
Trước sự hiện diện của đức giám mục Udalskalk, người đã cẩn thận xem xét Bánh Thánh phép lạ, nhiều tín hữu trong giáo xứ và các linh mục từ các nơi cũng đến chứng kiến phép lạ. Lúc ấy, đức giám mục ra lệnh đặt Mình Thánh phép lạ vào chiếc hộp sáp và đưa về nhà thờ chính tòa (Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 4, Regina xb, USA, 2002).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhận ra phép lạ Thánh thể hằng tái diễn trên bàn thờ sau lời truyền phép của chủ tế.
Suy niệm 3: Xứ Augsburg-sùng kính
Berthold được hướng dẫn bởi vị linh hướng nổi tiếng là cha David người xứ Augsburg.
Tại nhà thờ chính tòa, Mình Thánh đã được bày kính trong suốt thời gian từ lễ Phục Sinh đến lễ thánh Gioan Tẩy Giả. Trong thời gian này, một phép lạ thứ hai đã xảy ra: người ta nhìn thấy Mình Thánh nở to ra và làm vỡ chiếc hộp sáp và tách ra ngoài. Mình Thánh màu đỏ máu tự động tách khỏi chiếc hộp sáp bên ngoài, không do can thiệp nào của con người.
Theo đề nghị của đức giám mục, Mình Thánh phép lạ và những mảnh sáp bấy giờ được đặt vào trong một chiếc hộp pha lê và được trả về nhà thờ Thánh Giá. Tại nhà thờ này, Mình Thánh phép lạ đã được lưu giữ trong chiếc hộp pha lê ấy một cách hoàn hảo trên 780 năm.
Đức giám mục Dekret, vào ngày 15 tháng 5 năm 1199, đã ấn định tổ chức những nghi lễ đặc biệt hằng năm để ghi nhớ phép lạ này. Ngày lễ kỷ niệm hằng năm được gọi là Fest des Wunderbarlichen Gutes, tức là ngày lễ Báu Tàng Phép Lạ Kỳ Diệu. Hằng năm, cứ vào ngày 11 tháng 5, lễ ngày được cử hành trọng thể, với những lễ phục đặc biệt.
Dần dần, những nhà thờ khác cũng bắt đầu mừng ngày lễ ấy, trong số đó có nhà thờ thánh Moritz; sau đó, năm 1485 là nhà thờ thánh George; năm 1496 là nhà thờ Domkirche; và vào khoảng năm 1639, lễ này đã được cử hành thường niên trong toàn thể giáo phận Augsburg, và các nhà thờ mới cũng sử dụng các nghi thức truyền thống ấy. Nhiều sự kiện được chữa lành bệnh xảy ra trong thời gian cử hành các nghi thức tôn vinh các phép lạ thánh(Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 4, Regina xb, USA, 2002).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con bày tỏ lòng kính phép lạ Thánh Thể bằng việc siêng năng hiệp dâng Thánh lễ và nhất là dọn mình xứng đáng rước lấy cũng như viếng thăm vào những lúc thuận tiện.
Suy niệm 4: Rao giảng-danh tiếng
Ai ai cũng biết tiếng Cha Berthold là một người rao giảng đại tài.
Các thi sĩ và các sử gia thời ngài thường tham khảo và gọi ngài bằng nhiều danh hiệu: Người anh em ngọt ngào, người dấu ái của Thiên Chúa, vị tiên tri Êlia thứ hai, thầy của mọi đất nước. Chìa khóa của mọi thành công trong lãnh vực này một phần nhờ vào đời sống thánh thiện của ngài và một phần nhờ vào uy lực của thứ ngôn ngữ xuất phát từ lối sống khiêm hạ của ngài. Một trong các bài diễn thuyết trình bày về Cuộc Phán Xét cuối Cùng được quần chúng hâm mộ để trở thành một cuốn sách với nhan đề “The Valleys of Josaphat” (Thung Lũng Giôsaphát).
Các bài giảng của ngài đã được các học giả lưu giữ lâu dài cho hậu thế, như một đóng góp quan trọng cho lịch sử phát triển của nền văn học về giảng thuyết thuộc thế kỷ 13. Các bài giảng ấy được xuất bản vào năm 1824, và ngài được gọi là một nhà học giả Đức quốc và một sử gia của việc phát triển nền văn minh Đức quốc. Ngài cũng được đánh giá như một mẫu gương cho giới giảng dạy trên bục giảng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống khiêm hạ và thánh thiện như là chìa khóa của mọi thành quả.
Suy niệm 5: Rao giảng-hiệu quả
Ai ai cũng biết tiếng Cha Berthold là một người rao giảng đại tài.
Qua sự rao giảng của cha, lời Chúa đánh động những tâm hồn chai đá. Hàng ngàn người đổ về để nghe ngài giảng. Có khi, số người lên đến hơn 100.000, và ngài phải leo lên tòa giảng được dựng trên một cái cây cao để mọi người có thể nghe được. Ngày nay, một cánh đồng thật lớn ở Bohemia vẫn còn được gọi là Cánh Đồng Cha Berthold, vì ngài đã giảng thuyết ở đây. Nhiều người được ơn trở lại, thay đổi đời sống, sám hối tội lỗi. Và họ xây một tu viện và một nguyện đường ở Ratisbon để dâng kính Thánh Maria Mađalêna. Ngày nay tu viện và nhà thờ này vẫn còn đó và do các Nữ Tu Dòng Thánh Clara Nghèo Hèn trông coi.
Công cuộc rao giảng của ngài trải dài 4 năm ở các vùng Rhine, Alsace và Switzerland. Và suốt 10 năm tiếp theo ở Austria, Moravia, Bohemia và Silesia. Vào năm 1263, Đức Giáo Hoàng Urban IV chỉ định ngài giảng thuyết cho Thập Tự Chinh. Vào năm 1270, ngài trở về Ratisbon và lưu lại đây cho đến khi chết vào ngày 14.12.1272.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng khả năng Chúa ban để giúp tha nhân trở về với Chúa.
Suy niệm 6: Ơn tiên tri
Cha Berthold có ơn tiên tri và đã tiên đoán đúng nhiều thiên tai và biến cố trong thời ấy.
Những ngày đầu, sau khi Gioan được sinh ra, thầy cả Dacaria, thân phụ của Gioan, đã nói về Gioan: “Từ nay, con ơi, con sẽ là tiên tri của Đấng Tối Cao” (Lc 1,76). Lời nói trên đây của thầy cả Dacaria là do ơn Chúa Thánh Thần. Vì thế, chúng ta sẽ suy gẫm lời đó. Hiểu về tiên tri Gioan thời đó, cũng sẽ là cách hiểu về sự được chia sẻ ơn tiên tri thời nay. Thời đó, Gioan đã thực thi ơn tiên tri thế nào?
a) Thưa, trước hết Ngài thực thi ơn tiên tri bằng cách loan truyền cái nhìn của Chúa và ý định của Chúa về tình hình lúc đó. Tình hình lúc đó bề ngoài coi như ổn định. Nhưng Gioan được ơn Chúa, đã loan báo rằng: Chúa nhìn tình hình đó một cách khác. Đó là một tình hình có nhiều tội lỗi. Tội lỗi phát triển đều khắp, bề rộng và bề sâu. Đó là một tình hình nguy hiểm. Ý định của Chúa là người ta phải nhận thức về tội lỗi mình, phải sám hối ăn năn về tội lỗi mình. Hơn nữa, người ta phải sẵn sàng đón nhận Đức Kitô. Người là Đấng Cứu Thế. Gioan giới thiệu Chúa Giêsu thế này: “Đây là Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1,29). Nếu không sám hối, người ta sẽ không tránh được hình phạt nặng nề. Thánh Gioan cho thấy hình phạt nặng nề đó đang tới. Như cái rìu đã kề sát cây không sinh trái (x. Mt 3,10).
b) Loan báo những sự thực trên là điều cần. Nhưng chưa đủ. Thánh Gioan đã thực thi ơn tiên tri bằng một bước nữa. Đó là đi trước mặt Chúa (x. Lc 1,76). Đi trước mặt Chúa là phải rất mực khiêm nhường. Thánh Gioan nói: “Tôi không đáng cởi quai giày của Người” (Lc 3,36). Đi trước mặt Chúa còn là tập trung đề cao Chúa Cứu Thế: “Người phải nổi bật, còn tôi thì phải lu mờ” (Ga 3,30). Đi trước mặt Chúa là biết tỉnh thức nhận ra Chúa và giới thiệu Chúa, cho dù Chúa đến dưới hình thức nào, kể cả dưới hình thức kẻ tội lỗi. Như xưa Chúa Giêsu đã đến với Gioan dưới hình thức một người sám hối, xin Gioan làm phép rửa (x. Mt 3,13).
c) Đi trước mặt Chúa và loan truyền ý Chúa đã là những nét đẹp của tiên tri Gioan. Tuy nhiên, Gioan còn thực thi ơn tiên tri bằng một việc nữa, đó là giới thiệu cái hồn tiên tri của Ngài được đào tạo trong sa mạc. “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc”(Ga 1,23). Trong Cựu Ước và Tân Ước, sa mạc thường được hiểu là nơi thanh vắng. Tại đó, người ta cầu nguyện, suy niệm, lắng nghe lời Chúa và thờ phượng Chúa. Thánh Gioan đã được đào tạo nhiều năm trong sa mạc mang những ý nghĩa thiêng liêng đó. Từ sa mạc như vậy, Gioan nhận được ơn Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần ở trong Ngài, giúp cho Ngài có những lời nói đúng ý Chúa, và giúp cho Ngài có những tâm tư và thái độ của người đi trước mặt Chúa.
Đến đây, chúng ta dễ thấy nơi thánh Gioan, tiên tri của Đấng Tối Cao:
-   Có một sự sâu sắc trong loan báo,
-   Có một sự khiêm nhường và tỉnh thức trong việc đi trước mặt Chúa,
-   Có một sự trầm lắng của nội tâm được đào tạo trong sa mạc.
Thánh Gioan đã thực hiện ơn tiên tri cho thời đó. Thiết tưởng ơn tiên tri vẫn được Chúa tiếp tục ban cho Hội Thánh, hoặc qua cá nhân, hoặc qua tập thể, hoặc qua cơ chế. Kẻ nhiều người ít. Hoặc cách này hoặc cách khác. Tình hình hiện nay là rất đáng ngại. Bởi vì đạo đức xuống cấp. Rất nhiều người mất ý thức về tội. Hoặc biết là có tội, mà không sám hối. Tội lỗi kéo theo hình phạt, đó là điều không tránh được (Gm. Gioan B. Bùi Tuần).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con được biết đón nhận và được thực thi ơn tiên tri.