Giáo
Lý Phúc Âm
Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Năm A
Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Năm A
I. Giáo Huấn Phúc Âm
Đức Mẹ Maria mang thai
Chúa Giêsu là do quyền phép của Chúa Thánh Thần.
Ông Giuse thuộc dòng dõi
Davit. Chúa Giêsu được sinh ra trong dòng tộc vương giả. Trước mắt mọi người,
Chúa Giêsu là con Ông Giuse thợ mộc. Nhưng kỳ thực, Ông Giuse không là Cha đẻ
của Chúa Giêsu.
Tất cả, dòng dõi vua Chúa
hay con người Giuse, được xử dụng dể thực thi chương trình cứu độ của Thiên
Chúa đã được loan báo từ ngàn xưa: Đấng Cứu thế thuộc dòng vua Đa Vit và sinh
ra bởi một trinh nữ.
II. Vấn nạn Phúc Âm
“Ông Giuse, chồng bà, là
người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo”
Có cái gì mâu thuẩn trong chuyện nầy: Đã là người công chính sao lại định tâm
bỏ vợ mình đang có chữa? Không muốn tố giác người đàn bà có chữa mà lại định
tâm bỏ trốn thì khác nào tố giác?
Ông Giuse khi đính hôn với Maria đã phải biết
rằng: Maria khấn giữ mình đồng trinh! Chắc chắn rằng: Giuse không thể hay không
hề nghi ngờ chuyện có thai của Maria là hành động ngoại tình và phản bội với
ông và với Chúa là “tôi hứa giữ mình đồng trinh và không biết đến người nam!”
Giuse rất có thể đã được vợ mình tâm sự cho biết là đang mang Đấng Cứu Thế, Con
Thiên Chúa sắp sinh làm con người, như Kinh Thánh đã loan báo từ ngàn xưa.
Như vậy sao Giuse không vui mừng đón Maria về
làm vợ mà lại định tâm bỏ trốn?
Bỏ trốn vì sợ. Đây không là sợ hãi hay kinh sợ
khi gặp những gì đe dọa mạng sống hay bản thân mình, nhưng là kính sợ và tự
quyết định rút lui vì thấy mình bất xứng. Phải, Giuse là người công chính, tức
người biết kính sợ Chúa. Ông nhận ra một kỳ diệu, một choáng ngộp mà ông không
sao hiểu nỗi hay kham nỗi. Sự kính sợ nầy làm cho người ta ý thức mình hèn kém
bất xứng và muốn xa rời Đấng tối cao thánh thiện.
Trong Cựu Ước, Ông Môisen khi được Chúa hiện
ra trong bụi gai bốc cháy, kêu gọi ông làn thủ lãnh đưa Dân Thiên Chúa khỏi ách
nô lệ Ai Cập, Môsê đã sợ thất kinh hồn vía, tuột cả dép ra, mọp lạy trối chết
và từ chối rằng mình không biết ăn nói. Môisen đã kính sợ Chúa và muốn thối
thác công việc Chúa giao như được tường thuật trong Sách Xuất Hành 3:4.
Trong Tân Ước khi Phêrô được Chúa cho mẻ lưới
cá đầy giữa ban ngày thì đã sấp mình dưới chân chúa và “Xin Thầy xa con, vì con
là kẻ tội lỗi!” như được tường thuật trong Phúc Âm Matthêô 11:4-6, Phúc Âm
Thánh Luca 6:38, và Phúc Âm Thánh Gioan 10:10.
Khi Chúa biến hình trên núi Tabor, mặt Ngài
chiếu ánh sánh vinh quang của Thiên Chúa, các tông đồ Chúa đã úp mặt xuống đất
không dám nhìn như được tường thuật trong Phúc Âm Matthêô 17:1-6; Phúc Âm Matcô
9:1-8; và Phúc Âm Luca 9:28-36.
Giuse không có ác tâm bỏ chạy, tuy nhiên cách
giải quyết bỏ trốn là cách khiêm tốn nhìn nhận sự việc quá lớn lao so với bản
thân mình. Kính sợ đến độ phải quyết định rút lui. Vì thế thiên thần Chúa đã
hiện ra với Giuse trong giấc mơ và bảo ông “can đảm nhận Maria làm vợ, vì Bà
thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con và đặt tên con trẻ là Giêsu,
Chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội!” Chúa can thiệp và nói rõ trách nhiệm
Giuse phải đảm nhận là làm dưỡng phụ của Đấng Cứu Thế. Câu nói “Bà thụ thai bởi
phép Chúa Thánh Thần” không là chuyện biện bạch ai là tác giả của bào thai,
nhưng xác định vai trò của Giuse: Không là Cha đẻ mà chỉ là dưỡng phụ thôi.
Hiểu chuyện và nhận ra chương trình Chúa, Giuse đã làm đúng như lời sứ thần
truyền.
“Người ta sẽ gọi tên con
trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-chúa-ở-cùng-chúng-ta” Thiên Chúa ở cùng
chúng ta có nghĩa gì?
Người Do Thái có quan niệm về một Thiên Chúa
quyền uy cao cả và ngự trên trời cao xa thăm thẳm. Thiên chúa của người Do Thái
không bao giờ ở cùng chúng ta.
Trong tường thuật về sáng tạo trời đất, Thiên
chúa từ đâu đó, tận cõi cao xa phán một lời liền có mọi sự.
Sau khi con người sa ngã phạm tội, Thiên chúa
hứa ban Đấng Cứu Thế sinh hạ bởi một người phụ nữ. Trong thực tế người Do Thái
không bao giờ chờ đón một em bé Giêsu trong hang lừa máng cỏ.
Trong tường thuật về việc
thành lập dân riêng Chúa. Thiên Chúa dùng cánh tay hùng mạnh để bênh vực dân
chúa chọn. Thiên Chúa nhiều khi được trình bày như một hung thần, dòm ngó và
trừng trị người bất kính.
Trong cuộc sống hàng ngày: Phải coi là phạm
thượng và đáng tội chết nếu ai đó dám tự nhận mình là Con Thiên chúa.
Quan niệm về một Thiên chúa xa xôi nầy cần
phải được sửa đổi như Thánh Phaolô nói: Đã đến lúc Thiên Chúa nói với con người
qua chính con của Ngài. Thật vậy Thiên Chúa sinh làm con người và ở giữa chúng
ta. Không có gì tuyệt diệu cho bằng tên diễn tả ý nghĩa muốn trình bày. Tên
Emmanuel, nói lên rằng: Thiên Chúa không ở xa, Thiên Chúa gần gũi như người Cha
nhân từ và Thiên Chúa mặc lấy chính thân phận con người như chúng ta. Đó là
nhập thể.
Thiên Chúa ở cùng chúng ta trong khi sáng tạo
trời đất. Trời đất hiện diện một cách tài tình khéo léo để nói lên sự hiện diện
của Chúa giữa con người. Chúng ta có thể so sánh rằng: Vũ trụ trời đất là một
bức chân dung của Thiên chúa vô hình. Thấy trời đất tài tình xếp đặt là thấy
Chúa hiện diện.
Tiếp đến, Ngài còn hiện diện
giữa chúng ta qua lời Ngài trong Kinh Thánh. Chúng ta có thể sánh ví Kinh Thánh
như là một bức thư của người cha gởi cho con cái mình. Người cha biểu lộ ý nghĩ
của mình cho con cái trong bức thư như thế nào thì Thiên Chúa cũng mạc khải ý
nghĩ của Ngài cho chúng ta trong Kinh Thánh như vậy.
Cuối cùng Ngài hiện diện
giữa chúng ta một cách đặc biệt qua Đức Kitô, Con Một của Ngài. Cùng với việc
giáng sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa đã bước thêm một bước khổng lồ để đến và cư
ngụ giữa chúng ta. Đồng thời nhờ đó chúng ta có thể nhìn ngắm, lắng nghe chính
Thiên Chúa. Hay nói một cách khác với mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa hiện
diện giữa chúng ta qua một cách cụ thể và sống động qua một con người bằng máu
thịt của Đức Kitô.
Nên Thiên Chúa ở cùng chúng ta là tên của Ngài.
Không phải bây giờ, nhưng ngày từ buổi đầu sáng tạo. Vì từ trước đã có Ngôi
Lời, Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa và nhờ Lời mà muôn vật được tạo thành như được
trình bày trong chương đầu tiên của Phúc Âm Gioan.
Nếu tin rằng Thiên chúa ở cùng chúng ta thì
cũng phải tin rằng: chúng ta lúc nào cũng có Chúa cả. Nhiều khi chúng ta hay có
quan niệm tiêu cực về Thiên chúa, thí dụ: Chúa bỏ tôi, Chúa xa lánh tôi, vì tôi
tội lỗi hay những suy luận thiếu thần học như: Phạm tội là đuổi Chúa ra khỏi
con người mình và đời sống mình. Chúng ta là con Chúa, không lẽ Cha Mẹ lại đi
từ bỏ những đứa con yếu đuối hay xấu xa? Trước mắt Cha Mẹ, không đứa con nào là
xấu, là đáng bỏ cả. Do đó, khi sa ngã phạm tội, chúng ta vẫn cầu nguyện có hiệu
quả, khi sa ngã phạm tội, chúng ta vẫn có Chúa ở cùng chúng ta.
Kinh Thánh không ghi lại một lời nói nào của Giuse. Giuse không nói
hay rất ít nói. Vậy làm sao chuyện Giuse chiêm bao được tường thật lại trong
các Phúc Âm? Mơ thường là chuyện không thật. Làm sao biết được giấc mơ thiên
thần hiện ra cho Giuse là thật?
Các Phúc Âm đều thành hình
rất muộn sau khi Chúa Giêsu về trời, lúc các tông đồ đi truyền đạo và nghĩ đến
chuyện viết Phúc Âm để dạy giáo lý. Trong bốn thánh sử Phúc Âm, chỉ có hai
người, thánh Gioan và Thánh Matthêô là tông đồ, gần gũi với Chúa Giêsu, còn
Luca và Marcô là môn đệ của các tông đồ Chúa, của Phêrô và của Phaolô. Nên
những gỉ được ghi lại trong Phúc Âm là những điều được kể lại. Sau đó các thánh
sử xếp đặt lại để làm thành bài giáo lý. Thí dụ Phúc Âm Matthêô Chúa Nhật IV
Mùa Vọng là bài giáo lý về: thực hiện chương trình cứu độ của Thiên chúa đã có
từ ngàn đời. Tiên Tri Isaia trong Cựu đã nói về một trinh nữ mang thai, sinh
con và đặt tên là Emmanuel, Giuse thuộc dòng dõi Davit và được xếp đặt để làm
dưỡng phụ của Chúa Giêsu.
Sườn của bài giáo lý là như
thế. Còn chuyện làm sao thực hiện chương trình cứu chuộc có từ ngàn đời nầy là
việc giấc mơ. Nếu Giuse không nói thì ai biết ông có ý định bỏ trốn. Nếu Giuse
không nói thì ai biết được là thiên thần Chúa hiện ra với ông như thế nào và
bảo ông “đừng sợ, hãy lấy Maria làm vợ, vì…” . Chúa còn tiếp tục dùng giấc mơ
để truyền bảo Giuse làm hết chuyện nầy sang chuyện klhác. Thí dụ trong Phúc Âm
Matthêô 2:13-19 nói về giấc mơ của Giuse nhận lệnh truyền mang con trẻ và mẹ
người trốn sang Ai Cập. Chúng ta không biết tại sao các thánh sử lại biết về
những giấc mơ nầy? Thánh Giuse lại chết sớm. Có thể nghe Đức Mẹ thuật lại
chăng? Dù không chi tiết như thế, nhưng qua linh ứng của Chúa Thánh thần họ đã
làm thành một câu chuyện nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa.
Mơ thường không thật. Tuy
nhiên Kinh Thánh từng có những chiêm bao, những giấc mơ được nhìn nhận như là
cách để Thiên chúa truyền đạt sứ điệp của mình. Kinh Thánh Cựu Ước trình thuật
lại giấc mơ của Tổ Phụ Giacóp tại thành Lút, sau khi đã được người mẹ là bà
Rêbêca giúp đón nhận lời chúc phúc của ông Ixaác. Trong giấc mơ ông đã thấy:
“Gia-cóp ra khỏi Bơe Seva và đi về Kharan. Cậu đến một nơi kia và nghỉ đêm tại
đó vì mặt trời đã lặn. Cậu lấy một hòn đá ở nơi đó để gối đầu và nằm ngủ ở đó.
Cậu chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên
đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống. Và kìa Đức Chúa đứng bên
trên thang mà phán: "Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của Ápraham, tổ phụ ngươi,
và là Thiên Chúa của Ixaác Đất ngươi đang nằm, Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi
ngươi. Dòng dõi ngươi sẽ nhiều như bụi trên đất; ngươi sẽ lan tràn ra khắp đông
tây nam bắc. Nhờ ngươi và dòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc
phúc ” ( St. 28,10-14).
Ông Giuse,
con Ông Giacóp cũng nhờ giải mộng cho Vua Ai Cập mà được phong làm tể tướng.
Nên Kinh Thánh cả Cựu Ước và Tân Ước được thành hình trong văn minh vùng Cận
Đông, nơi mà những giấc mơ vẫn được nhìn nhận là những linh ứng của thần thánh.
III. Thực hành Phúc Âm
Emmanuel – Thiên chúa ở cùng chúng ta
Ngày xưa, có một chú bé tên
là Emmanuel. Chú ta luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ, chú hỏi thầy giáo:
"Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?". Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và
nói: "Nói thực là thầy không biết". Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà
trí thức trong làng cũng như các vùng lân cận: "Thiên Chúa nói bằng thứ
tiếng nào?". Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi.
Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin
chắc có người biết được điều ấy. Vì thế chú lên đường đến các quốc gia và cả
những lục địa khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả
lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi. Chú cố tìm một chỗ
nghỉ đêm trong các nhà trọ, nhưng tất cả các nơi đều không còn chỗ. Vì thế chú
quyết định tìm một cái hang ngoài trời để trú đêm. Cuối cùng quá nửa đêm chú
mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra đã có một đôi
vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ.
Emmanuel tới gần bên em bé và hỏi
bà mẹ: Em bé tên gì vậy thưa bà?
Bà mẹ trả lời: Emmanuel.
Như vậy là trùng tên với cháu. Nhưng tại sao
bà lại đặt tên em bé là Emmanuel?
Tôi không có đặt tên cho cháu, nhưng Thiên
chúa đã cho bé trai của tôi phải được gọi là Emmanuel. Emmanuel có nghĩa là
Thiên chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa là tình yêu và tình yêu luôn ở với chúng
ta. Tiếng nói mà Chúa nói và chúng ta phải nói là Emmanuel, là Thiên chúa ở
cùng chúng ta, là Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi ban chính Con Một
mình để cứu độ nhân loại. Thiên Chúa chỉ có nghĩa ở cùng chúng ta khi chúng ta
yêu thương người khác.
Chúa của những người nầy sao khó khăn và rắc
rối quá.
Tôi thân quen với một cô gái người Miền Nam ngoại
đạo và theo đạo khi lấy chồng, một thanh niên miền Bắc. Gia đình bên
chồng bề ngoài thật sốt sắng và đạo đức: Ông bà đi lễ mỗi ngày, con cái phải đi
lễ Chúa Nhật và phải giữ kinh hôm kinh mai thật chu đáo. Khi đọc kinh tối xong,
bà còn kèm theo hàng chục kinh khác và bắt buộc con dâu gốc ngoại giáo phải đọc
thuộc lòng. Phần vì từ ngữ trong đạo rất khó hiểu và khó thuộc, phần thì kinh
dài và xem chừng không sao thuộc nỗi. Chậm thuộc kinh, nên cô bị Mẹ chồng trách
là làm biếng và phàn nàn rằng: có dâu người gốc ngoại giáo thật là khổ.
Cô dâu ngoại đạo gốc Miền Nam nầy đã phát biểu
rất chân thật với tôi: Chúa của những người nầy sao khó khăn mà rắc rối quá.
Thú thật tôi nhớ 100% những từ mà cô dùng.
Như vậy có nhiều Chúa khác nhau. Chúa của gia
đình chồng, loại Chúa khó khăn và rắc rối vì phải thuộc kinh và phải đọc kinh
dài dòng. Câu nói mộc mạc của cô làm tôi suy nghĩ. Thiên chúa đang ở cùng chúng
ta là Thiên chúa nào? Có phải Thiên chúa mang tên Emmanuel? Có phải Thiên chúa
sinh làm người để mang thân phận yếu hèn như chúng ta. Hay trong nhiều gia
đình, Thiên Chúa thật khó khăn và rắc rối vì bị diễn tả qua hình ảnh một bà mẹ
chồng khó tánh hay cằn nhằn và thích áp đặt những chuyện không cần thiết trên
người khác.
Yêu Chúa thật là làm cho Chúa thành dễ thương
với mọi người.
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên