THỨ
4 SAU CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN
NĂM LẺ
NĂM LẺ
BÀI ĐỌC: Gn 4, 1-11
1 Bấy giờ, ông
Giô-na bực mình, bực lắm, và ông nổi giận. 2 Ông cầu nguyện với Đức
Chúa và nói: "Ôi, lạy Đức Chúa, đó chẳng phải là điều con đã nói khi còn ở
quê nhà sao? Chính vì thế mà con đã vội vàng trốn đi Tác-sít. Thật vậy, con
biết rằng Ngài là Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, và
hối tiếc vì đã giáng hoạ. 3 Giờ đây, lạy Đức Chúa, xin Ngài lấy mạng
sống con đi, vì thà con chết còn hơn là sống! "4 Đức Chúa hỏi
ông: "Ngươi nổi giận như thế có lý không? "5 Ông Giô-na ra
ngoài thành và ngồi ở phía đông thành. Ở đó, ông làm một cái lều, rồi ngồi bên
dưới, trong bóng mát, để xem cái gì sẽ xảy ra trong thành. 6 Đức
Chúa là Thiên Chúa khiến một cây thầu dầu mọc lên ở phía trên ông Giô-na để có
bóng mát che đầu ông, hầu làm ông hết buồn bực. Ông Giô-na vui, vui lắm vì cây
thầu dầu. 7 Nhưng hôm sau, khi hừng đông ló rạng, Thiên Chúa khiến
một con sâu cắn cây thầu dầu và cây bị héo. 8 Khi mặt trời mọc, Thiên
Chúa cho có một cơn gió đông nóng bỏng, và mặt trời giội nắng xuống đầu ông
Giô-na; ông ngất xỉu và xin cho mình được chết, ông nói: "Thà tôi chết còn
hơn là sống. "9 Thiên Chúa hỏi ông Giô-na: "Ngươi nổi giận
vì cây thầu dầu, như thế có lý không? " Ông trả lời: "Con có lý để
nổi giận đến chết được! "10 Đức Chúa phán: "Ngươi, ngươi
thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn
lên; trong một đêm nó đã sinh ra, rồi trong một đêm lại chết đi. 11
Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ni-ni-vê, thành phố lớn, trong đó có
hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái, và
lại có rất nhiều thú vật hay sao? "
ĐÁP CA: Tv 85
Đ. Lạy Chúa, Ngài
chậm giận, lại giàu tình thương và lòng thành tín. (c 15b).
3 Chính Ngài là Thiên
Chúa của con, xin rủ lòng thương con, lạy Chúa: con kêu con gọi Chúa suốt ngày.
4 Lạy Chúa, xin làm cho con được vui thoả, vì con nâng tâm hồn lên
tới Chúa.
5
Lạy Chúa, Ngài nhân hậu khoan hồng, giàu tình thương với mọi kẻ kêu xin; 6
lạy Chúa, xin lắng nghe lời con cầu khẩn, tiếng con van nài, xin để ý lưu tâm.
9
Lạy Chúa, muôn dân chính tay Ngài tạo dựng sẽ về phủ phục trước Thánh Nhan, và
tôn vinh danh Ngài. 10 Vì Ngài thật cao cả, và làm nên những việc lạ
lùng; chỉ một mình Ngài là Thiên Chúa.
TUNG HÔ TIN MỪNG: x. Rm 8, 15bc
Hall-Hall: Anh em đã nhận được Thần Khí làm cho nên nghĩa
tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên rằng: “Áp-ba! Cha ơi!” . Hall.
TIN MỪNG: Lc 11, 1-4
1 Một
hôm, Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người
trong nhóm môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện,
cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông. "2 Người bảo các
ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói:
"Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều
Đại Cha mau đến, 3 xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày
ấy; 4 xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi
người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ. "
CẦU NGUYỆN LÀ CỘNG TÁC VỚI CHÚA GIÊSU
Nội dung Kinh Lạy
Cha là Đức Giêsu đúc kết chương trình cứu độ loài người. Hội Thánh đã dùng
chính thức trong Phụng Vụ đọc ngày ba lần: một lần trong Thánh Lễ, hai lần
trong Kinh Sáng và Kinh Chiều, để ta biết cách cộng tác với Thiên Chúa làm hoàn
tất chương trình cứu độ, nhờ Đức Giêsu đã khai mở từ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục
Sinh.
Khi cầu nguyện, trước nhất ta phải ý thức tương
quan giữa mình với Thiên Chúa tùy theo hai ông Mattheu và Luca nhấn mạnh:
- Theo ông Matthêu: Ta là Hiền Thê của Chúa Kitô:
Dựa vào cách ghi của ông Matthêu, Đức Giêsu dạy ta: “Lạy Cha chúng con”. Danh hiệu “chúng
con” ở đây, ta phải hiểu là Hội Thánh Chúa Kitô, mà Hội Thánh Chúa Kitô là
Hiền Thê của Ngài (x. Kh 19, 7). Do đó, khi đọc Kinh Lạy Cha của Matthêu trong
Phụng Vụ, ta phải hiểu đó là tiếng nói của Hiền Thê với Chúa Giêsu là Phu Quân
mình (x. HCPV số 84).
- Theo ông Luca: Trong
Chúa Giêsu, ta là đứa con thơ dại: Dựa vào cách ghi nhận của ông Luca, Đức
Giêsu dạy ta cầu nguyện: “Lạy Cha”
(Abba). “Abba” là tiếng nói đầu tiên của trẻ thơ mới chớm nở trí khôn, nó bập
bẹ kêu lên trước sự hiện diện của người sinh dưỡng dục nó.
Khi đã lãnh Bí tích Thánh Tẩy, ta là nghĩa tử
của Thiên Chúa, tức là người con được sinh ra bởi Lời Chúa (x. Gc 1, 18), cũng
như bởi Chúa Giêsu Phục Sinh (x. Cv 2, 38). Thánh Thần mở miệng ta biết gọi
Thiên Chúa là “CHA” (Abba). Thánh Phaolô nói: “Anh em đã nhận được Thần Khí làm cho nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được
kêu lên rằng “Abba! Cha ơi!” (Rm 8, 15bc: Tung Hô Tin Mừng). Và vì còn là
một đứa trẻ thơ không biết kêu xin “CHA”, thì Thánh Thần (Thần Khí) sẽ lựa ý
Thiên Chúa để chuyển cầu cho (x. Rm 8, 14-17), đặc biệt là lúc ta tham dự Phụng
Vụ, nhất là Thánh Lễ.
Chính Đức Giêsu, khi
cầu nguyện Ngài luôn thưa: “Lạy Cha”. Đan cử:
v
Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này (Ga 12, 27).
v Xin Cha làm vinh hiển Con (Ga 12, 28).
v Xin Cha cất chén đắng khỏi Con (Lc 22, 42).
v
Xin Cha tha cho chúng (Lc 23, 34).
v
Xin Cha đón nhận hồn Con (Lc 23, 46)….
Như thế, khi ta cầu nguyện “Lạy Cha chúng con” (theo Matthêu), thì
được Đức Giêsu lưu ý đến nhu cầu của ta như tân lang chăm sóc tân nương; còn
khi ta cầu nguyện “Lạy Cha” (theo
Luca), Thiên Chúa lưu ý đến nhu cầu của ta như cha mẹ chăm sóc cho đứa con thơ
dại.
Vậy “lạy
Cha chúng con” hay “lạy Cha”, thì
cả hai tương quan này đều dựa trên mãnh lực tình yêu.
Trong tình yêu của ta đối với Thiên Chúa khi
cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, ta còn phải ý thức tám điều sau đây:
1/ Ý thức khi dùng động từ “LẠY”:
Từ này chỉ dùng riêng việc thờ lạy Thiên
Chúa tối cao, đối với Đức Mẹ, chúng ta không thờ, nhưng là biệt kính; còn
với các thánh khác, chúng ta chỉ tôn kính mà thôi.
2/ Ý thức lời cầu: “XIN LÀM CHO DANH THÁNH CHA VINH HIỂN”:
Danh Cha là Thánh:
Có nghĩa là Ngài khác biệt và trổi vượt hơn mọi loài thụ tạo. Bởi vì:
a-
Ngài là ĐẤNG HẰNG CÓ (Giavê): Ngài không có khởi sự (không có ngày sinh) và không có tận
cùng (bất tử), ngoài Thiên Chúa không có gì hiện hữu tốt đẹp và không có gì
trường tồn.
b-
Ngài là Đấng TOÀN NĂNG: muốn thế nào có như vậy cách dễ dàng, đặc biệt biến dữ ra lành, chết
ra sống, tội ra ơn.
c-
Ngài là CHÂN, THIỆN, MỸ: ngoài Chúa không có gì đúng, không có gì thánh thiện, không có gì tốt đẹp.
d-
Ngài là TÌNH YÊU: Thiên Chúa chỉ có thương xót, tha thứ và ban ơn.
e-
Ngài là SỰ SỐNG: ngoài Thiên Chúa không có sự sống: sự sống nơi muôn loài thụ tạo đều
bởi Thiên Chúa ban.
Như vậy những gì
Thiên Chúa có đều tuyệt hảo. Ai được kết hợp với Chúa Giêsu, Ngài cho họ được
tham dự vào điều “CÓ” của Thiên Chúa, và như thế là danh Chúa được lộ ra sự
vinh hiển nơi Hiền Thê của Đức Kitô (Mt), hay nơi các con cái Thiên Chúa (Lc).
3/ Ý thức
lời cầu: “TRIỀU ĐẠI CHA MAU ĐẾN”: Mọi sinh hoạt của loài người đều do chính
Chúa làm Chủ, hướng dẫn, chăm sóc, như thuở xưa dân Do Thái không có vua, chỉ
có Lời Chúa hướng dẫn, bảo vệ, chăm sóc họ, nên họ vẫn cầu nguyện: “Chúa là đồng minh, là thành lũy che chở, là Đấng giải thoát tôi
khỏi tử thần. Phúc cho dân nào được may mắn có Chúa làm Vua” (Tv 144/143/, 2. 15). Như
thế một quốc gia thăng tiến hay tụt hậu đều lệ thuộc vào cách lãnh đạo của một
triều đại, mà không có triều đại nào sánh được với Triều Đại Nước Thiên Chúa.
4/ Ý thức
lời cầu: “XIN CHA CHO CHÚNG CON NGÀY NÀO CÓ LƯƠNG THỰC NGÀY ẤY”: Bởi vì mỗi người cần có 5
lương thực sau đây để được sống hạnh phúc:
a- Sống bởi Đức Tin, Đức Cậy và
Đức Mến (x. Rm 1, 17; 1Cr 13, 13).
b- Sống bởi có trái tim biết
nghe Lời Chúa (x. 1V 3, 9-13; Mt 4, 4).
c- Sống bởi Chúa Giêsu Thánh
Thể (x. Ga 6, 35).
d- Sống bởi có khả năng thực
hành Lời Chúa (x. Ga 4, 34).
e- Sống bởi của cải vật chất
không thừa không thiếu (x. Cn 30, 8-9).
Năm lương thực trên người ta chỉ tìm thấy nhờ tham dự Thánh
Lễ cách ý thức và trọn vẹn. Thực vậy: Muốn có ĐỨC TIN, ĐỨC CẬY, ĐỨC MẾN, ta phải năng dự Lễ; muốn có
LỜI CHÚA, phải khao khát nghe giảng; muốn Chúa cho sống lại, phải RƯỚC LỄ; muốn
THỰC HÀNH LỜI CHÚA phải có Chúa ở cùng, và muốn có ĐỦ CỦA CẢI VẬT CHẤT, phải
tìm kiếm Nước Thiên Chúa (dự Lễ) trước đã (x. Mt 6, 33). Và
như thế linh hồn ta cần tới bốn nguồn sống, trong khi đó thân xác chỉ có một là
của cải vật chất.
Năm bánh hằng sống trên đây đã được Chúa tiên báo khi Ngài
dùng năm bánh để nuôi một đoàn dân đông không đếm được, họ đang đói mệt lả mà
được ăn no, lại còn dư 12 thúng! (x. Ga 6).
Vậy mỗi ngày ta cần đi dự Lễ để có Lương Thực hằng ngày (x.
Lc 11, 3: Tin Mừng), Lương Thực này còn cần hơn xưa mỗi ngày dân Do Thái phải
đi lượm để ăn mới có sức tiến vào đất Chúa hứa (x. Xh 16, 4-5).
5/ Ý thức lời cầu: “CHO CHÚNG
CON”: Ngài
không dạy ta “xin cho con” mà là “xin cho chúng con”. Vì mỗi người chỉ thực sự
được hạnh phúc khi họ sống giữa những người đầy tràn hạnh phúc. Như thế, quan
tâm chăm sóc cho mọi người mới chính là chăm lo cho bản thân. Thánh Phanxicô
nói: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại
bản thân” (Kinh Hòa Bình). Cụ thể ông Gióp suốt thời gian bị ma quỷ quấy
phá, làm ông quá khổ, những ngày đầu ông còn chịu đựng, vẫn dâng lời tạ ơn: “Chúa đã ban cho Ngài lại lấy đi, xin tạ ơn
Chúa” (G 1, 21b). Nhưng vì sự chịu đựng con người có giới hạn, ông lại cất
tiếng than: “Tại sao tôi không chết đi
vừa lúc chào đời, không tắt thở ngay khi lọt lòng mẹ” (G 3, 11). Sau những
ngày dài Chúa huấn luyện ông qua gian khổ, ông đã mở rộng tầm con mắt: biết cầu nguyện cho các bạn hữu của mình, thì
Chúa ban gia tăng gấp đôi những gì ông đã mất về tài sản, và Chúa cho ông sinh
thêm bảy trai ba gái xinh đẹp, khỏe mạnh thông minh hơn trước (x. G 42, 10t).
Vậy
ta hãy xin cho mọi người được ơn nhận biết Thiên Chúa là Cha chung, Ngài là Cha
vô cùng giàu có, đầy tình thương, chậm giận, hay tha thứ và ban phát ơn cho tất
cả mọi người là anh em con một nhà, thì đã làm cho thế giới này trở thành Thiên
Đàng.
6/ Ý thức
lời cầu: “XIN THA TỘI CHO CHÚNG CON, VÌ CHÍNH CHÚNG CON CŨNG THA CHO MỌI NGƯỜI
MẮC LỖI VỚI CHÚNG CON” (Lc 11, 4): Chúa tha tội cho ta như vua tha nợ cho bầy tôi một
món nợ vượt sức hắn trả. Nhưng nếu ta không tha lỗi cho đồng loại, thì
Chúa cũng không tha tội cho ta, như
vua ra lệnh tống ngục tên đầy tớ vừa được vua tha bổng món nợ 10. 000 nén vàng, tương đương với 200. 000 năm công lao động, mà hắn lại không cho bạn khất 100$,
số tiền tương đương hơn 3 tháng lương
công nhật (x. theo Chú Giải của Nhóm Đại Kết trong Bible de
Jérusalem; Mt 18, 23t).
Do đó nếu ta xin Chúa tha nợ cho ta, như
ta tha cho kẻ có nợ với ta, thì té ra hai món nợ bằng nhau? Trong khi đó ta xúc
phạm đến Thiên Chúa rất nặng nề, còn đồng loại xúc phạm đến ta chẳng đáng là gì!
7/ Ý thức lời cầu: “XIN ĐỪNG ĐỂ CHÚNG CON SA
CHƯỚC CÁM DỖ”
(Lc 11, 4b): Ai cũng thấy mình có nhiều cám dỗ: tiền của, ăn ngon mặc đẹp, vì
đó là động lực làm cho mọi người tiến thân. Nhưng nếu sa chước cám dỗ: mê ăn
uống, mê tiền của, thì giống như nguyên tổ Adam, Eva đã nghe Satan xúi giục gạt
Lời Chúa ra khỏi cuộc sống, tự mình định đoạt tốt xấu để hành động, hậu quả là
thần chết xuất hiện, truyền đến cả giống nòi (x. St 3).
Vả lại, tội ta phạm cũng còn do ý Chúa cho phép Satan để ta
không tự cao tự đại về những ơn cao siêu Chúa ban (x. 2Cr 12, 7-9). Nhưng nếu
nhận biết mình có tội, sinh lòng sám hối và chạy đến lòng thương xót Chúa, như
anh trộm lành, thì lại được Chúa cho vào Thiên Đàng trước nhất (x. Lc 23, 43), và
nếu còn sống, thì Chúa lại biến tội ra ơn, đúng như lời thánh Phaolô nói: “Ở đâu tội lỗi đã
lan tràn, ở đó ân sủng càng chan chứa” (Rm 5, 20).
8/ Ý thức
cầu xin CHU TOÀN BỔN PHẬN LO CHO MỌI NGƯỜI NÊN THÁNH: Nhất là làm cho mọi người phải hiệp thông với chủ chăn của Hội Thánh trong
một Đức Tin, và phải tin tưởng giảng Lời Chúa cho mọi người để Lời Chúa diệt
tội họ.
a- Phải hiệp thông với
chủ chăn của Hội Thánh trong một Đức Tin:
Ta biết Hội
Thánh là một gia đình: Thiên Chúa là Cha, mọi người là anh em với nhau. Dù ông
Phaolô, là Tông Đồ xuất sắc trổi vượt hơn các Tông Đồ khác, nhưng ông vẫn tỏ ra
tùng phục “những người anh trong Nhà Cha” mà ông gọi là “các Tông Đồ thượng
đẳng”, như các ông Phêrô, Giacôbê. Ông Phaolô sau ba năm đã được học giáo lý
riêng với Chúa ở Ả Rập, ông về đoàn tụ với gia đình Hội Thánh tại Giêrusalem, để
nhận quyền “những người anh” sai đi rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại (x. Gl 1, 18).
Rồi 14 năm sau, ông Phaolô cùng với ông Banaba và ông Titô lại lên Giêrusalem
để được Thiên Chúa mạc khải, rồi trình bày cho các Tông Đồ có thế giá về Tin
Mừng các ông đã rao giảng cho dân ngoại, nếu không hiệp thông với Tông Đồ Đoàn,
thì việc phục vụ của ông trở nên vô ích. Tuy nhiên, ông vẫn phải có trách nhiệm
với các anh em trong gia đình Nhà Cha. Đan cử: Khi ông biết vị thủ lãnh Hội
Thánh là Phêrô đã có lối sống giả hình: dùng bữa với người chưa cắt bì, nhưng
khi gặp “các người của ông Giacôbê đến, ông lại tránh né tự tách ra, vì sợ những
người đã được cắt bì. Ông đã làm cho những người Do Thái khác cũng theo ông mà
giả hình giả bộ, khiến cả ông Banaba cũng bị lôi cuốn mà giả hình như họ”
Ông Phêrô sống như thế nghịch với quyết định
của Công Đồng Giêrusalem, chính ông được Chúa nhờ mạc khải riêng cho đã tuyên
bố phải bỏ cắt bì cho dân ngoại, chỉ cần họ tin là ban Bí tích Thánh Tẩy. Bởi
thế ông Phaolô “đã trách ông Phêrô trước mặt mọi người: “Nếu ông là người Do Thái mà còn sống
như dân ngoại, chứ không như người Do Thái, thì làm sao ông lại ép người dân
ngoại phải xử sự như người Do Thái” (x. Gl 2, 1-2. 7-17: Bài đọc năm chẵn). Vì
Thầy Giêsu đã truyền: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng” (Mc 16, 15: ĐC năm chẵn). Đi
khắp thế gian giảng Tin Mừng thì phải hiểu là giảng cho cả dân ngoại nữa, để ai
tin mà lãnh Bí tích Thánh Tẩy, họ cũng là anh em với chúng ta, cùng có một Cha
chung trên trời, thì phải bỏ lối sống giả hình như ông Phêrô, lúc ông chung bàn
tiệc với dân ngoại mới trở lại Đạo.
Như vậy, không
phải ông Phaolô thiếu kính trọng thủ lãnh Phêrô, mà vì ông yêu Hội Thánh, yêu
người anh em Phêrô, muốn người anh em phải sống gương mẫu, đừng giả hình! Chúa
dạy: “Ngươi không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người
quyền cao chức cả, nhưng phải biết xét xử công minh” (Lv 19, 15). Bởi vì “yêu hoa không có
nghĩa là yêu cả con sâu nằm trong bông hoa, nhưng phải tìm cách diệt con sâu đó,
dù có phải làm rụng phấn hoa!” (phaolomoi. net). Cũng không phải chỉ diệt con sâu nằm trong đóa hoa
mình ưa chuộng, mà còn phải diệt cả con sâu nằm trong hoa mình không thích.
b- Phải tin tưởng Lời Chúa giảng cho
dân ngoại, thì tội họ được diệt.
Thực vậy, ông
Giona không muốn Chúa tha tội cho dân Ninivê, chúng là dân ngoại, ông không ưa
thích, ông chỉ muốn Chúa diệt chúng, vì những “con sâu lớn” (tội lỗi) nằm trong
dân ngoại, thế nên “Giona bực mình lắm và ông nổi giận. Ông cầu nguyện với Chúa: “Ôi lạy Chúa, đó
chẳng phải là điều con đã nói khi còn ở quê nhà hay sao? Chính vì thế mà con đã
vội vàng trốn đi Tác-xít. Con biết rằng Ngài là Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chậm
giận và giàu tình thương, và hối tiếc vì đã giáng họa. Giờ đây, lạy Chúa, xin
Ngài lấy mạng sống con đi, vì thà con chết còn hơn là sống!” Chúa hỏi ông:
“Ngươi nổi giận như thế có lý không?” Ông Giona ra ngoài thành làm một cái lều
rồi ngồi bên dưới trong bóng mát, để xem cái gì sẽ xảy ra trong thành Ninivê. Chúa
khiến cây thầu dầu mọc lên ở phía trên ông Giona để có bóng mát che đầu, hầu
làm ông hết buồn bực. Ông Giona vui mừng lắm vì cây thầu dầu, nhưng hôm sau khi
hừng đông ló rạng, Thiên Chúa khiến một con sâu cắn cây thầu dầu và cây bị héo,
và mặt trời dội nắng xuống đầu ông Giona; ông ngất xỉu và xin cho mình được
chết, ông nói: “Thà tôi chết còn hơn sống” (x. Gn 4, 1-8: Bài đọc năm lẻ).
Như vậy, giết
con sâu nằm trong bông hoa, thì không quan trọng bằng dùng Lời Chúa mà thanh
tẩy tội đồng loại. Thế mà con sâu cắn chết cây thầu dầu đã làm ông Giona buồn
bực. Nếu Chúa giết con sâu ấy, để cây cho ông hưởng bóng mát, chắc chắn ông
vui! Thế thì tại sao ông Giona lại không vui mừng hơn khi ông lên tiếng giảng
cho dân Ninivê, nhờ vậy mà Chúa đã diệt con sâu tội lỗi nơi dân này, và không
giáng họa trên họ, nhất là ông đã nhận ra Chúa là Đấng “chậm giận lại giầu
tình thương và lòng thành tín” (x. Gn 4, 2 = Tv 86/85, 15b: ĐC năm lẻ).
THUỘC
LÒNG.
Năm lương thực cần dùng mỗi ngày ta phải
xin Chúa là:
1-
Thiếu
TIN, CẬY, MẾN, là chết (x. Rm 1, 17; 1Cr 13, 13).
2-
Chết
nhờ THÁNH THỂ, vẫn sống (x. Ga 6, 35).
3-
Sống
nhờ THỰC HÀNH LỜI CHÚA (x. Ga 4, 34).
4-
Chúa
cho TRÁI TIM NGHE LỜI (x. 1V 3, 9-13; Am 8, 11).
5-
Lời
Chúa ban CỦA ĐỦ DÙNG (x. Cn 30, 8-9).
Lm
GIUSE ĐINH QUANG THỊNH