Phần lớn những người Tây phương bắt đầu
tiếp cận một cách phiến diện với Phật Giáo đều ngạc nhiên trước sự kiện mục
tiêu tối thượng của dòng tâm linh này không phải là Thượng Đế mà là... “Niết
Bàn tịch diệt”, được họ hiểu là... Hư Vô!
Nhận
xét này làm tôi liên tưởng đến một câu chuyện khôi hài khá phổ biến:
Một
linh mục Công Giáo, một mục sư Tin lành và một thày giảng Do Thái lần đầu tiên
đến Nữu Ước. Rời phi trường, họ lấy cùng một chiếc taxi. Vị linh mục bảo:
-
Thành phố này quả là vĩ đại! Nhìn những công trình kiến trúc, những cao ốc
chọc trời, những đường xa lộ tầng này chồng lên tầng khác v.v... , tôi thật có
cảm tưởng mình quá nhỏ nhoi ...
Ông
mục sư đồng ý:
-
Vâng. Trước những gì con người có thể thực hiện, tôi cũng tự thấy mình vô
cùng kém cỏi
Thày
giảng Do Thái thêm:
-
Đúng thế. Chúng ta thật vô nghĩa trước những thành quả không thể tưởng tượng
được của trí tuệ ...
Bất
thần người tài xế Taxi xen vào câu chuyện:
-
Này, các ông đều là những người có kiến thức cao rộng, mỗi lời nói của quý
ông đều được bao nhiêu người kính trọng nghe theo, thế mà quý ông tự cho mình
là nhỏ nhoi, vô nghĩa. Vậy thì một tên thất học như tôi chắc phải là... hư vô?
Cả
ba vị giáo sĩ đều mạnh mẽ phản đối:
-
Ơ hay! Anh là cái thớ gì mà lại dám tự cao tự đại đến thế?
Quan điểm của Thần Học:
Câu
hỏi nền tảng là: có phải Hiện Hữu đến từ Hư Vô? Thật ra, con đường đi từ hiện hữu
đến hư vô khá dài. Người ta khởi đầu bằng quan niệm sự hiện hữu nào cũng phải đến
từ một cái gì đó, tức từ một hiện hữu khác. Sự hiện hữu ấy cũng đến từ một cái
gì khác, cái ấy lại đến từ một cái khác nữa... Cứ thế, người ta lần mò lên đến
nguyên thủy của mọi sự vật. Trước nó, không có gì cả, tức là Hư Vô. Hư Vô, như
vậy, là Mẹ của Vạn Vật.
Quan
điểm này buộc phải thông qua khái niệm Sáng Tạo. Tuy nhiên, cái gì ở trong Hư
Vô đã sáng tạo ra sự vật? Người ta gọi đó là Thiên Chúa. Tuy nhiên, nếu Thiên
Chúa ở trong Hư Vô, thì Hư Vô có còn là Hư Vô được nữa hay không? Vì khi ấy Hư
Vô có một đặc tính. Nó trở thành “cái chứa đựng Thiên Chúa", nên không còn
là Hư Vô được nữa. Giải pháp của vấn đề phải chăng là quan niệm: “Thiên Chúa
chính là Hư Vô”?
Cần
nói là Vũ Trụ Học gần đây quan niệm thế giới trong đó chúng ta đang sống không
bắt buộc phải khởi đầu từ Big Bang, tức từ một trạng thái vật chất và năng lượng
vô cùng cô đọng với nhiệt độ cực cao, trước khi phát nổ để cho ra vũ trụ như
chúng ta hiện quan sát. Trước Big Bang, có thể đã có vũ trụ, nhưng thay vì dãn
nở như hiện nay, thì nó lại càng lúc càng thu hẹp, để cho ra một khối vật chất
và năng lượng dần dần cô đọng đến một mức nào đó trước khi nổ tung ra một lần nữa.
Hình dung một vũ trụ trải qua những chu kỳ co dãn như thế khiến người ta có thể
đẩy lùi giả thuyết sáng tạo về một quá khứ vô định. Tuy nhiên điều ấy không có
nghĩa là người ta phủ định nó một cách tuyệt đối. Vào một lúc nào đó, có thể đã
có một chu kỳ đầu tiên, xuất phát từ một nguyên nhân đầu tiên, và hình ảnh của
Sáng Tạo, với bàn tay Thiên Chúa, trong Hư Vô, lại mờ mờ ẩn hiện đàng sau.
Không thể nghĩ bàn
Nói
thế, nhưng thật khó hình dung được một Thiên Chúa ở trong hư vô, là thành phần
của hư vô... Nếu Thiên Chúa không “là” hư vô, mà là một sự hiện hữu, một thực
thể, thì khi ấy lại phải tự hỏi sự hiện hữu ấy, thực thể ấy từ đâu ra, ai làm
nên nó, trước nó có gì, tại sao có nó? Vì thế, người ta không có cách nào hay
hơn là tuyên bố: Thiên Chúa là cái “không thể nghĩ bàn”! Nói cách khác, người
ta đặt óc suy luận sang một bên, vì suy luận không thể giúp gì trong việc tìm
biết Thiên Chúa. Đó là “Thần Học phủ định”. Thiên Chúa là cái không thể nghĩ,
không thể nói, không thể giải thích. Chỉ có thể “cảm thấy”. Lý trí nhường chỗ
cho kinh nghiệm trực tiếp, trong khi suy luận tan biến trước trực giác.
Thật
ra trong đời sống hàng ngày chúng ta cũng áp dụng “tri thức phủ định” này một
cách rất thông thường. Thí dụ, khi tôi uống một ly rượu “Gewurtztraminer hái muộn”
(một dịp để ý thức rằng thực hành triết lý cũng là một lạc thú ...) thì tôi biết
ngay là mình đang thưởng thức loại rượu ngon ấy, nhưng không thể dùng lý luận để
truyền đạt cái biết này. Cũng như thế, khi hỏi: “mùi hoa lài thế nào?” thì
không ai trả lời được. Bất quá có thể mô tả nó, nhưng dù mô tả tài tình cách mấy
cũng không bao giờ diễn đạt được cái “nó là”. Mùi hoa lài, hay rượu
Gewurtztraminer hái muộn là những hiện hữu đặc thù Trong mỗi trường hợp, “nó chỉ
là nó”, không thể lẫn lộn với hiện hữu nào khác. Chỉ có thể nắm bắt nó bằng trực
giác. Tương tự như... Thiên Chúa!
Hiện Hữu giả định
Bên
cạnh những hiện hữu như hoa lài và rượu ngon, còn có những thứ không có thật,
những “phi hữu” được tâm trí con người hình dung như hiện hữu. Thí dụ, con rồng,
con kỳ lân, hiện hữu trong rất nhiều lãnh vực của đời sống chúng ta, nhưng hoàn
toàn không có thật. Thần thánh, ma quỷ, là những thí dụ khác, tuy tính chất “có
thật hay không” có thể đưa đến nhiều tranh cãi . Hồn vía cũng thế. Khi chúng ta
khấn vái tổ tiên, anh hùng dân tộc... chúng ta hình dung sự hiện hữu của họ gần
đó, đang nghe lời chúng ta cầu nguyện. Khi hình dung mặt đất như một mặt phẳng,
hay ở một giai đoạn khác, hình dung vũ trụ như mặt trời mặt trăng với các vì
tinh tú quay quanh địa cầu, con người cũng tạo ra những sự hiện hữu “phi hữu”.
Người
ta nghĩ rằng những hiện hữu giả định là những yếu tố cần thiết cho sự quân bình
của môi trường tâm lý và xã hội của con người ở một thời điểm nào đó. Bên cạnh
thần thánh, ma quỷ, hồn vía, v.v..., chúng ta cũng thường mô tả thiên đường, địa
ngục... một cách tương đối chính xác (bao nhiêu tầng, có gì trong đó ...). Những
thứ này đều là những sự hiện hữu giả định, nhưng mang những vai trò chính xác.
Có thể nói là các huyền thoại, truyện cổ tích, truyền thuyết dân gian, đều là
những “phi hữu” cần thiết, tuy thuộc về hư vô, nhưng lại hiện hữu trong những cấu
trúc tâm lý xã hội nhất định, có khả năng quy định các cấu trúc ấy. Thiếu
chúng, thì môi trường tâm lý xã hội kia sẽ không hiện hữu! Thêm một lý do để nhấn
mạnh đến sự quan trọng của hư vô ...
Hư vô và biện chứng pháp
Nói
chung, ngay cả trong lãnh vực khoa học, con người luôn phải lập ra những giả định,
để giải thích các hiện tượng mà mình quan sát được. Nguyên tử chẳng hạn là một
sự hình dung có khả năng cắt nghĩa được một số quan sát. Tuy nhiên, quan niệm về
nó không ngừng thay đổi. Những thành phần của nguyên tử cũng là những sự hình
dung rất cần thiết cho một số mô hình lý luận, nhưng cũng không tránh khỏi bị
những khám phá mới liên tục làm thay đổi bộ mặt. Quang tử và ánh sáng cũng thế.
Những lý thuyết về các thiên hà, lỗ đen, và nói chung, về vũ trụ, cũng là những
giả thuyết tạm thời thích ứng với một số quan sát, nhưng luôn đặt ra những câu
hỏi cần giải đáp. Thí dụ như để giải thích sự kiện tốc độ giãn nở của vũ trụ
không ngừng gia tăng, người ta hình dung ra “năng lượng tối”... Các lãnh vực
nhân văn như sử học, khảo cổ, y khoa, xã hội, kinh tế, tâm lý học, v.v... cũng
là những sự vận động khái niệm, với những giả thuyết luôn phải sáng tạo, cập nhật,
và phủ định, để cho phù hợp với quan sát thực nghiệm.
Tức
là con người luôn tìm cách nắm bắt thực tế qua trung gian những giả thuyết cần
được kiểm chứng bởi thực nghiệm. Trong những điều kiện tốt đẹp, các giả thuyết ấy
càng ngày càng tiến gần đến thực tại, nhưng không bao giờ thực sự trở thành thực
tại. Tiến trình tiếp cận với thực tại là một chuỗi phủ định: giả thuyết sau phủ
định giả thuyết trước, để đến gần với thực tại hơn, rồi lại bị giả thuyết kế tiếp
phủ định. Con đường “phủ định của phủ định” chính là biện chứng pháp. Không cần
phải đợi đến Marx hay Hegel, mà từ thời Cổ Hy Lạp, tiến trình ấy đã được Platon
đề ra, với quan niệm rằng phi hữu, hay hư vô, chính là điều kiện của biện chứng.
Chuỗi “không là” ấy cho phép càng lúc càng đến gần thực tại, và đạt đến sự hiểu
biết thực tại ngày càng chính xác hơn.
Hư Vô và Tự Do
Một
thực tại quan trọng là sự hiện hữu của chính chúng ta, và những sự hiện hữu đã
đưa đến sự hiện hữu của chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta là một sự hiện hữu đến
từ những sự hiện hữu khác thì chúng ta không khác gì một con vật hay một sự vật.
Chúng ta không thể là cái gì khác hơn là kết quả của những sự hiện hữu đã cho
ra chúng ta. Như tảng đá chỉ có thể là tảng đá. Gốc cây, con chó, chỉ có thể là
gốc cây, là con chó. Chúng ta sẽ không có tự do, vì mọi hành vi của chúng ta sẽ
hoàn toàn bị quy định, như con chó không thể làm gì khác hơn là... làm con chó!
Con người không như thế. Con người có thể “là” nhiều thứ khác hơn là “cái tôi
thường hữu”, tức một sự hiện hữu đã bị quy định. Những cái “là” khác, có thể gọi
là “cái tôi tự hữu”, đến từ ý thức. Con người biết ý thức “cái mình là” ở một
trình độ cao hơn con vật. Loài vật chỉ đơn thuần ý thức sự hiện hữu của mình.
Khi tự hỏi về “cái mình là”, con người đứng trước Hư Vô, phóng mình vào Hư Vô,
đi tìm “cái mình là” trong sự trống không ấy. Thật vậy, “cái mình là” ấy buộc
phải là một sự trống không, trước khi có thể là bất cứ gì. Cái “mình là” bắt buộc
phải thuộc về hư vô, vì nếu nó thuộc về hiện hữu, thì nó đã bị quy định bởi một
chuỗi hiện hữu cho ra nó, và chỉ có thể “là” một cái gì nhất định, không có Tự
Do trở thành bất cứ gì khác. Nói cách đơn giản: bản chất của ý thức chính là ..
hư vô! Và hư vô chính là điều kiện của Tự Do.
Hư Vô và Ham Muốn
Chúng
ta đều đang muốn một cái gì đó, tức một sự “hiện hữu” nào đó... Sự hiện hữu,
trong tri thức thông thường, là một cái gì lấp đầy hư không, như tách trà là một
khoảng trống trong đó người ta đã rót đầy trà. Mặt khác, khi chúng ta mong muốn
một sự hiện hữu nào đó, thì chúng ta sẽ có khuynh hướng “hư vô hóa” những sự hiện
hữu khác. Khi chúng ta muốn uống trà, thì những tách trà cạn đều thuộc về “hư
vô”... Khi chúng ta vào một quán nước tìm một nhóm bạn, và nếu họ không có
trong ấy, thì chúng ta sẽ quay trở ra và nói “không có ai trong ấy cả”. Tương tự
như thế, chúng ta chọn lọc những hiện hữu có ý nghĩa đối với mình, và đẩy vào
hư vô những hiện hữu khác. Thí dụ Tổng Thống Obama là một người nửa da trắng nửa
da đen, được giáo dục như một người hoàn toàn da trắng. Tuy vậy, người ta vẫn
coi ông như một “Tổng Thống da đen”. Khía cạnh “da trắng” của ông bị “hư vô
hóa”. Một thí dụ khác: con người thường tin là thế giới, hay đời sống, có một ý
nghĩa, nên tất cả những gì không phù hợp với ý nghĩa ấy đều bị đẩy vào “hư vô”,
bị coi như những “tai nạn”, những thứ “đáng lẽ không xảy ra”, những chuyện
“không đâu”. Tương tự như thế, nói: “cái ấy không là gì cả”, chỉ biểu lộ ý tưởng
“cái ấy không phù hợp với mong muốn của tôi”, hay “không mang một ý nghĩa nào đối
với tôi”. Và khi chúng ta xỉ vả: “tên ấy không là gì cả”, thì chúng ta hàm ý
“người ấy không mang những giá trị mà tôi thừa nhận”. Những giá trị khác đã bị
chúng ta vứt vào hư vô. Một trường hợp khôi hài là quan điểm Vô Thần thường bị
coi là “Hư Vô Chủ Nghĩa”, trong khi Hư Vô không phải là mục đích của đa số các
triết lý vô thần. Ngược lại, những người Hồi Giáo quá khích chủ trương “thánh
chiến”, hoàn toàn xa lạ với vô thần, nhưng cũng bị lên án là “Hư Vô chủ nghĩa”!
Hư vô có thể được coi như một loại thùng rác trong đó chúng ta vứt bỏ những gì
không phù hợp với mong muốn của mình, hay không mang ý nghĩa gì đối với mình.
Hoặc giả Hư Vô là một vị Thần có khả năng hóa giải, làm tan biến tất cả những sự
hiện hữu ấy, để vẽ lên một “cảnh giới” lý tưởng, phù hợp với mong muốn của mỗi
người chúng ta?
Một
điều quan trọng cần nhấn mạnh là con người không chỉ ham muốn những sự hiện hữu
vật chất. Đó là một khác biệt nền tảng với loài vật. Thật vậy, động cơ tâm lý của
loài vật là ham muốn được hấp thụ (ăn) hoặc chiếm đoạt (biến thành của nó) cái
nó ham muốn. Dần dần nó trở thành những gì nó ham muốn. Cảm giác "hiện hữu"
trong trường hợp ấy là một sự trống vắng phải được lấp đầy bằng những cái mà
con vật, hay con người ở trình độ súc vật, ham muốn. Cảm giác ấy là cảm giác của
sự vật lồng trong sự vật, tức của một sự vật.
Con
người, qua ngôn ngữ, biết khái niệm hóa, nên sự ham muốn (ái dục) vượt lên
trình độ khái niệm. Con người không chỉ ham muốn một sự vật (nếu ngừng ở đó thì
gống như con thú) mà ham muốn một khái niệm, một cái gì hoàn toàn trừu tượng, một
“hư không” đầy thu hút. Con người ham muốn chính sự ham muốn. Tôi muốn được cái
huy chương này hay cái giải thưởng kia không phải vì tự thân cái huy chương hay
cái giải thưởng ấy, mà vì chúng được mọi người ham muốn. Tôi không chỉ ham muốn
một phụ nữ để chiếm đoạt thân xác cô ta (nếu không thì tôi ở trình độ con thú),
nhưng tôi muốn cô ta ham muốn tôi, yêu tôi. Trong mọi trường hợp tôi muốn sự
ham muốn.
Ham
muốn sự ham muốn vượt trên cảm giác ham muốn, và vượt trên sự vật được ham muốn.
Nó không còn ở trình độ cảm giác mà trở thành ý thức bản ngã. Ý thức này khác với
cảm giác hiện hữu của con vật vì nó bao gồm một tập hợp hiểu biết phức tạp về
cái mà tôi tự nhận là "tôi". Chữ conscience, cousciousness, đến từ La
Tinh "Cum Scire" là "có biết" - biết, chứ không phải chỉ
đơn thuần "cảm thấy" - với trực giác. "Biết" cái tôi (ngã)
là "biết" một thực thể trừu tượng, bao gồm nhiều yếu tố trừu tượng,
nhưng trong bản chất vẫn là trống rỗng, là... hư vô (trừu tượng mà!). Vì thế,
phải luôn tìm cách bù đắp sự trống rỗng của bản ngã, luôn ước vọng trở thành
cái mình “không là”, tức là: luôn... tham dục!
Dục
vọng thúc đẩy con người hành động, nhưng không chỉ hướng vào những sự vật, để
chính mình trở thành một sự vật (như con thú), lúc nào cũng vẫn chỉ "như
thế" (chó luôn là chó ...) mà hướng vào một sự trở thành liên tục, luôn
thoát khỏi cái "mình là". Như một tên bác sĩ quèn nhưng muốn làm chủ
tịch nước Đại Nam (!), như Einstein, từ một công chức hạng bét muốn trở thành
cha đẻ của vật lý hiện đại, hay như Mihael Jackson, từ một cậu bé da đen nghèo
nàn, trở thành ca sĩ thượng thặng, với bao lần thay da đổi mặt, v.v...
Dục
vọng đến từ ham muốn sự ham muốn không chỉ nhằm mục đích tiếp tục tồn tại, như
trong bản năng sinh tồn của con thú tìm mồi, hay tìm con vật khác phái để di
truyền nòi giống. Ngược lại, nó chủ yếu nhằm vào những thứ hoàn toàn "vô
ích" nếu nhìn theo logique sinh tồn. Tích lũy tài sản, danh vọng, quần áo
sang trọng, nữ trang đắt tiền, nhà, xe, lộng lẫy, v.v... là những thứ vô ích.
Nhưng đó lại là căn bản của hành vi của con người. Thật ra điều này cũng có những
khía cạnh tích cực, như đeo đuổi những khám phá khoa học, triết học, những
thành quả nghệ thuật, chính trị, tâm linh, tôn giáo, thể thao v.v... như đã gợi
ý ở trên.
Tuy
nhiên, sự ham muốn của một con người sẽ va chạm với ham muốn của con người
khác. Khi ấy, mâu thuẫn và bạo lực nảy sinh. Con người có thể bắt người khác muốn
cái muốn của mình (phản ứng áp đặt), hoặc tự mình chọn muốn cái muốn của người
khác (phản ứng thần phục). Điều ấy bắt đầu từ đứa bé, khi nó muốn cái muốn của
mẹ nó hay ngược lại.
Vì
thế, xã hội con người trong bản chất là một xã hội mâu thuẫn và bạo lực, được
quản chế một cách ít nhiều "văn minh" mà thôi. Và Hư Vô chính là năng
lượng của mâu thuẫn và bạo lực ấy!
Hư Vô như điều kiện của hiện hữu
Ngay
cả khi không bị cuốn hút bởi năng lực của nó, người ta vẫn có thể nhận xét là mọi
sự hiện hữu đều bị điều kiện hóa bởi hư vô. Khi ta đứng, ta đưa sự khẳng định
“tôi đang ngồi” vào hư vô. Khi bạn cất tiếng nói, thì sự im lặng của bạn không
còn hiện hữu nữa, nó đã lùi vào hư vô. Ngược lại, khoảng trống (hư vô) của sự
im lặng kéo dài tạo nên một thôi thúc khiến người ta phải cất lên tiếng nói, tiếng
hát, hay tấu lên một khúc nhạc... Sự trống trơn của tờ giấy trắng cho phép người
ta viết hay vẽ lên đó. Khoảng trống của bát cơm cần thiết để cơm được xới đầy
trong đó... Cần nói là những lúc im lặng cũng là thành phần của ngôn ngữ, và của
âm nhac. Chúng có giá trị không kém gì những nốt nhạc hay những ngôn từ, cũng
như khoảng trống là thành tố quan trọng nhất của cái chén.
Mặt
khác, trong dòng thời gian, mọi sự hiện hữu đều đến từ một quá khứ đã trở thành
hư vô, vì không còn hiện hữu nữa, và đang biến đi trong một tương lai cũng thuộc
về hư vô, vì chưa hiện hữu. Vậy, khi nào thì cái “quá khứ - hư vô” trở thành hiện
hữu trước khi lại tan biến vào hư vô của tương lai? Hiện hữu phải chăng rất
mong manh, rất nhỏ nhoi, bên cạnh sự mênh mông vĩ đại của hư vô chung quanh nó?
Trong điều kiện ấy, có còn quả quyết được là sự hiện hữu “có thật” hay không?
Hay hiện hữu chỉ là ảo ảnh giữa sa mạc Hư Vô?
Không
cần phủ nhận nó, người ta có thể giả sử có nhiều trình độ hiện hữu. Có những sự
hiện hữu “thật” hơn những sự hiện hữu khác. Ở phần trước, chúng ta đã bàn đến
các sự hiện hữu giả định và các sự hiện hữu chỉ có trong sự tưởng tượng của con
người. Trình độ “thật” của những hiện hữu ấy thấp hơn ly nước trước mặt tôi
(tôi không chỉ uống Gewurtztraminer hái muộn!). Tuy nhiên, các nhà đạo đức cho
rằng sự yêu thích một tô phở ngon có trình độ hiện hữu thấp hơn lòng yêu nước
chẳng hạn. Các nhà tôn giáo cũng cho rằng xác thịt và sự vui thú xác thịt có một
sự hiện hữu rất mong manh, rất phù du, đối với sự hiện hữu của “đời sống vĩnh cửu”
sau khi chết, hay đối với niềm vui khi làm việc thiện, khi cầu nguyện, khi đạt
đến cảm thông với Chúa ...
Theo
dòng tư tưởng này, thì bản chất của Hiện Hữu chính là sự Thiện. Vì con người và
thiên nhiên, như những hiện hữu, buộc phải từ chối hư vô như sự phủ định của
chính mình, và chọn Hiện Hữu như cứu cánh tuyệt đối. Cứu cánh ấy được đặt tên
là “Thiện”. Chúng ta đã nhận ra rằng cứu cánh này được điều kiện hóa bởi... hư
vô!
Nếu Hư Vô không có thật?
Hư
vô quả thực vô cùng quan trọng trên mọi khía cạnh của sự hiện hữu. Thế nhưng, nếu
nó chỉ là một khái niệm trừu tượng, không có thật, thì sao? Parmenide vào thế kỷ
thứ 6 trước công nguyên, đã khẳng định như thế. Theo ông, chỉ Hiện Hữu là có thật,
Hư Vô là giả tưởng, không thể thực nghiệm.
Để
bảo vệ lập luận này, người ta buộc phải quan niệm sự Hiện Hữu như không có bắt
đầu và không có kết thúc. Vì nếu có bắt đầu và kết thúc, thì cái gì có trước
lúc bắt đầu và sau sự kết thúc ấy, nếu không phải là cái hư vô không thực có?
Hiện Hữu cũng không được có giới hạn, tức không tăng không giảm, vì ngoài giới
hạn của nó ta sẽ tìm thấy cái gì nếu không phải là hư vô?
Như
thế, Hiện Hữu không có khởi đầu, vì nó luôn hiện hữu. Hiện Hữu không hề được
sáng tạo, vì nó không thể sáng tạo ra chính nó. Hiện Hữu không có kết thúc, vì
sự kết thúc của nó vẫn lại là nó. Nó không có trở thành, mà chỉ thể hiện thành
mọi hiện hữu, như mỗi người chúng ta, như thiên nhiên, vạn vật. Nó không thể
nghĩ bàn, vì không một hiện hữu nào có thể quan niệm được tổng thể của nó.
Hiện
Hữu như vừa được định nghĩa, đưa chúng ta trở về một khái niệm đã phần nào bị bỏ
quên ở đầu bài viết. Đó là Thiên Chúa, là Thượng Đế ...
Vậy,
nếu Hư Vô là một tên gọi khác của Thượng Đế, thì Hư Vô ấy chỉ diễn đạt sự vô hạn,
vô thủy, vô chung, của một Hiện Hữu hoàn toàn không thể hiện hữu trong trí tuệ
của bất cứ hiện hữu nào ...
Phải
chăng đó có thể là câu trả lời của anh tài xế tắc xi với ba vị giáo sĩ đã nặng
lời chỉ trích anh ta?