Do sự bành trướng của chủ nghĩa tương
đối và chủ nghĩa duy thế tục, thế giới chúng ta đang sống cùng là một thế giới
bất đồng quan điểm với Giáo Hội trong những xác tín về Thiên Chúa, về chân lý, về
đời sống luân lý…
(Bài
chia sẻ trong ngày tĩnh tâm tháng 7/2013
của Linh mục đoàn Giáo phận Bà Rịa)
của Linh mục đoàn Giáo phận Bà Rịa)
Kính
thưa Cha Tổng Đại diện,
Kính
thưa quý Cha Quản hạt, quý Cha cố cùng quý Cha,
Chủ
đề Cha Đặc trách Huấn giáo trao cho con là: “Đức Tin Và Những Thách Đố Hôm Nay.”
Con xin được trình bày.
Dẫn nhập
Đọc
Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu nhiều lần đã phải ngạc nhiên trước sự cứng
tin của con người. Ngài đã từng thốt lên lời cảm thán: “khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa
chăng?”(Lc 18, 8). Quả thật, hành trình Đức tin thời nào cũng đầy thách đố
gian nan. Không thiếu những người đã từ chối đón nhận hồng ân đức tin, nhiều
người đánh mất hoặc không sống những đòi hỏi của đức tin. Thời đại chúng ta
không phải là một ngoại lệ. Thậm chí còn nghiêm trọng hơn, như lời Đức nguyên
Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói: “hiện
nay tại nhiều nơi, đức tin có nguy cơ bị dập tắt, như một ngọn lửa đang tàn”vì
“những khủng hoảng đức tin, nhất là mất dần
ý thức tôn giáo”trong đời sống (bài nói chuyện cùng các thành viên Thánh Bộ
Tín Lý ngày 27.01.2012).
Trong
rất nhiều huấn từ của mình, Đức nguyên Giáo Hoàng đã cho thấy: do sự bành trướng
của chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa duy thế tục, thế giới chúng ta đang sống
cùng là một thế giới bất đồng quan điểm với Giáo Hội trong những xác tín về
Thiên Chúa, về chân lý, về đời sống luân lý… Ngài không ngần ngại cho rằng cặp
đôi chủ nghĩa trên là những thách đố chính cho Đức tin của chúng ta hôm nay.
Tác động của chúng đang bao trùm mọi lãnh vực đời sống nhân loại và gây phương
hại nghiêm trọng cho đức tin của nhiều thành phần Dân Chúa.
Chắc
chắn con sẽ không thể trình bày được dẫu chỉ là một phần nhỏ, về những chủ thuyết
đa dạng và phức tạp này, cũng như không dám cho rằng mình sẽ nói hết được những
thách đố mà chúng đặt ra cho Đức tin của chúng ta. Con chỉ xin dựa vào một số
chứng từ để nhắc lại ít khái niệm về chúng, cũng như nương vào những huấn ngôn
của Giáo Hội để kể ra một vài thách đố, khơi gợi suy tư của chúng ta trong giờ
này.
I.
MỘT
SỐ Ý NIỆM VỀ CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỐI VÀ CHỦ NGHĨA DUY THẾ TỤC.
1. Chủ nghĩa Duy Tương Đối
Chủ
nghĩa tương đối chủ trương rằng mọi thứ đều tương đối. Cũng có nghĩa là chẳng
có gì tuyệt đối. Chủ trương này được những người theo chủ thuyết duy tương đối
đem áp đặt trên mọi lãnh vực tư duy và hoạt động của con người, của xã hội, và
xem ra họ rất thành công.
Đọc
lại những huấn từ của các vị mục tử Giáo Hội, chúng ta sẽ nhận ra bản chất của
chủ thuyết này. Chẳng hạn, trước chủ trương không có chân lý tuyệt đối, Đức
Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong thông điệp Đức tin và Lý trí đã viết:
“trong mọi hình thức của thuyết bất khả
tri và thuyết tương đối hiện có trong tư tưởng thời đại, sự đa dạng chính đáng
của các lập trường đã nhường bước cho một sự đa dạng bất phân biệt, xây dựng
trên sự khẳng định rằng tất cả các lập trường đều có giá trị ngang nhau: đó
chính là một trong những triệu chứng phổ biến nhất của sự nghi ngờ đối với chân
lý mà người ta có thể nhận thấy trong bối cảnh hiện nay”(số 5). Hoặc như Đức
nguyên Giáo Hoàng Bênêdictô XVI, khi lên án chủ trương không có luân lý tuyệt đối
và sự thực luân lý tùy thuộc nhận thức của mỗi người, đã nói: “thuyết tương đối này không công nhận bất cứ
điều gì là vĩnh hằng, chỉ giữ lại như biện pháp cuối cùng là cái tôi với những
ham muốn của nó, và với bề ngoài là tự do, sẽ trở nên nhà tù cho mỗi người”(Diễn
văn tại Giáo phận Rôma ngày 06.6.2005).
Chủ
trương không có gì tuyệt đối cũng chính là chủ trương không có Thiên Chúa. Và
như thế Mạc Khải hay Tin Mừng của Chúa chỉ là vô nghĩa, hoặc cùng lắm cũng chỉ
ngang hàng với những giáo thuyết, triết thuyết khác trưng trong các “siêu thị tôn giáo”, ai mua cái nào thì
mua.
2. Tục hóa và chủ nghĩa duy thế tục
Để
nhận diện chủ nghĩa duy thế tục ta lại cần nói tới tục hóa. Tuy nhiên, Tục hóa
vốn đa nghĩa và phức tạp. Ở đây con chỉ nhắm tới một hiện tượng được gọi là
trào lưu tục hóa khởi phát từ đầu thế kỷ VIII, để rồi không ngừng phát triển
cho tới ngày nay. Trào lưu tục hóa là một nỗ lực nhằm tách rời các lãnh vực trần
thế như văn hóa, kinh tế, khoa học, chính trị, giáo dục, nghệ thuật… ra khỏi ảnh
hưởng và sự chi phối của tôn giáo; một nỗ lực xác định sự độc lập cho các sinh
hoạt trần thế của con người và đặt chúng trên nền tảng lý trí tự nhiên chứ
không phải đức tin siêu nhiên, nhất là một lý trí ngày càng chứng tỏ được sức mạnh
qua những thành quả của khoa học và kỹ thuật được cho là những hoạt động thuần
lý trí. Gọi cách tượng hình: tục hóa là sự tách biệt giữa Vương quốc Thiên Chúa
và Vương quốc César.
Hiện
tượng tục hóa hiểu theo nghĩa là sự tách biệt giữa Vương quốc Thiên Chúa và
Vương quốc césar được Giáo Hội nhìn nhận là một điều tốt, hữu lý và phù hợp với
ý muốn của Thiên Chúa, như lời Công Đồng Vat. II đã dạy trong Hiến Chế Mục Vụ, số
36: “… Nếu sự độc lập của các thực tại trần
thế có nghĩa là các tạo vật và các cộng đồng xã hội đều có những định luật và
những giá trị riêng mà con người phải dần dần nhận thức, sử dụng và điều hợp, thì
đòi hỏi một sự độc lập như thế là một việc hoàn toàn chính đáng: Đó không chỉ
là đòi hỏi của người đương thời , nhưng còn là điều phù hợp với ý muốn của Đấng
Tạo Hóa. … Bởi vậy, việc khảo sát có phương pháp trong mọi ngành, nếu tiến hành
một cách khoa học thực sự và theo các tiêu chuẩn luân lý, sẽ không bao giờ trái
nghịch với đức tin vì các thực tại trần thế và các thực tại đức tin đều bởi một
Thiên Chúa mà ra.”
Tuy
nhiên, người ta nhiều khi đã không dừng lại ở chỗ tách biệt hữu lý ấy. Trái lại,
từ chỗ xác lập quyền tự chủ cho trần thế, con người đã không ngần ngại đi tới
chỗ coi tôn giáo là phản tiến bộ, mê tín, phương hại cho hạnh phúc của con người,
để cuối cùng phủ nhận tất cả những thực tại siêu nhiên và chỉ nhìn nhận một thực
tại duy nhất là trần thế. Khi tục hóa đạt tới mức độ đó, nó sẽ được mệnh danh
là Chủ nghĩa Duy Thế tục, mang bản chất vô thần, duy vật và bài tôn giáo nữa.
Giáo
Hội không thể chấp nhận chủ nghĩa duy thế tục: “nếu “sự độc lập của các thực tại trần thế”được hiểu là các tạo vật
không lệ thuộc vào Thiên Chúa và con người có thể sử dụng chúng mà không cần
quy hướng về Đấng Tạo Hóa, thì bất cứ ai đã nhận biết Thiên Chúa cũng đều thấy
rằng lập trường đó hết sức sai lầm”(HCMV, 36).
II.
TÁC
HẠI CỦA CHỦ THUYẾT DUY TƯƠNG ĐỐI VÀ DUY THẾ TỤC
Chỉ
cần nhắc lại đây một vài huấn ngôn của Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI
trong vô số những lời ngài lên án hai chủ thuyết trên, cũng đủ cho chúng ta
hình dung được những tác hại mà chúng gây nên cho không chỉ niềm tin kitô giáo,
mà còn trên đời sống của toàn nhân loại.
Trước
hết, trong bài chia sẻ với Hồng Y đoàn trước khi được bầu làm Giáo Hoàng, ngài
đã nhận định về Chủ nghĩa duy tương đối: “Biết
bao nhiêu là chiều gió chủ nghĩa chúng ta từng biết đến trong mấy thập niên
qua! biết bao nhiêu là trào lưu ý thức hệ! biết bao nhiêu là trường phái tư tưởng!
con tàu tư tưởng nhỏ bé của nhiều kitô hữu thường bị xô lấn bởi những cơn sóng
dữ này, tung họ từ cực đoan này sang cực đoan kia… ngày nào cũng có những thứ
giáo phái mới, khiến cho những lời của Thánh Phaolô nói trở thành sự thật về việc
con người bị lừa đảo, về cái tinh quái làm cho con người bị lầm lạc”(x. Ep
4, 14). Và khi đề cập đến ngọn nguồn tội ác luân lý nặng nề, ngài đã kết luận rằng:
“Một khi để cho mình bị xô đẩy theo chiều
gió chủ nghĩa thì lúc đó chủ nghĩa tương đối độc đoán được xây dựng, một chủ
nghĩa vốn cho rằng không có gì là tuyệt đối mà chỉ tập chú vào cái tôi và những
khát vọng của nó.” Để rồi, như ngài viết trong Sứ điệp Truyền giáo năm
2011: “Ngày nay đang có một sự thay đổi
văn hóa, được trào lưu toàn cầu hóa nuôi dưỡng, cùng với những phong trào tư tưởng
và chủ thuyết duy tương đối, một sự thay đổi đưa tới một não trạng và một lối sống
xa rời Sứ điệp Tin Mừng, sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, và đề cao việc
tìm kiếm sự sung túc, kiếm tiền dễ dàng, công danh sự nghiệp và thành công như
mục đích của cuộc sống, và gây thiệt hại cho các giá trị luân lý.”
Đồng
hành với thuyết duy tương đối, chủ nghĩa duy thế tục, trong chính lý thuyết
cũng như thực hành, luôn tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống để xây
dựng một nền luân lý hay luật lệ quốc gia tùy tiện, không căn cứ vào một tiêu
chí khách quan nào. Khi cổ vũ cho một nền luân lý duy thế tục, con người rơi
vào “Thảm họa của nền văn hóa sự chết”như
Đức Chân Phước Gioan Phaolô II đã cảnh báo. Biết bao nhiêu vụ thanh toán, giết
người, bạo hành đẫm máu…vv… đang lan tràn. Sự đối kháng với Đức tin của chủ
thuyết duy thế tục đạt đến đỉnh điểm khi người ta nhân danh một nền luân lý duy
nhân bản để hợp thức hóa các tội ác và tệ nạn: phá thai, ly dị, hôn nhân đồng
phái, tự do luyến ái, trợ tử … những điều cũng không thiếu trong xã hội Việt Nam
chúng ta hôm nay.
Ðức
thánh cha Bênêdictô XVI không bỏ qua bất cứ cơ hội nào để lên tiếng cảnh báo về
những tác hại của chủ thuyết này. Như khi ngài phát biểu trong cuộc viếng thăm
vương quốc Anh ngày 16.9.2010: “Ngày nay,
vương quốc Anh đang cố gắng trở thành một xã hội tân tiến và đa văn hóa. Trong
thách đố cao quý ấy, ước gì nước này luôn biết tôn trọng những giá trị truyền
thống và những biểu hiện văn hóa mà những hình thức tục hóa hung hãn nhất không
những không trân quý mà còn chẳng khoan nhượng với.” Trước mặt nữ hoàng Anh,
thủ lãnh Anh Giáo, Ðức Thánh Cha mạnh mẽ tuyên bố: “Chúng ta đừng bao giờ quên rằng: loại trừ Thiên Chúa , tôn giáo và
nhân đức ra khỏi cuộc sống công cộng cuối cùng sẽ dẫn đến một cái nhìn thui chột
về con người và xã hội.”
Hoặc
trong buổi tiếp kiến chung dành cho 37 Giám mục Colombia sáng ngày 10.9.2012 tại
Castel Gandolfo, nhân dịp các vị kết thúc cuộc hành hương Roma viếng mộ hai
thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh. Ngài nói: “Anh
em cũng nhận thấy những hậu quả tàn hại của trào lưu trục hóa ngày càng gia
tăng, ảnh hưởng mạnh mẽ tới cuộc sống và đảo lộn những nấc thang các giá trị của
con người, khuynh đảo chính nền tảng của đức tin Công Giáo, của hôn nhân, gia
đình và luân lý Kitô”
Cuối
cùng, bằng tầm nhìn bao quát, ngài đã cho chúng ta một nhận định thật chính xác
về thời đại hôm nay: “Những thập niên vừa
qua đã biết đến một “sự sa mạc hóa”thiêng liêng. Một cuộc sống, một thế giới
không có Thiên Chúa, vào thời Công Đồng người ta chỉ nhìn thấy xuyên qua một số
trang bi kịch của lịch sử, nhưng ngày nay bất hạnh thay, chúng ta nhìn thấy nó
mọi ngày chung quanh chúng ta. Chính sự trống rỗng đã được lan truyền.” Và
ngài gọi hành trình của Giáo Hội là “cuộc
lữ hành trong sa mạc của thế giới hôm nay.” (bài giảng Thánh Lễ khai mạc
Năm Đức Tin)
III.
VÀI
THÁCH ĐỐ CHO HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN TRONG SA MẠC CỦA THẾ GIỚI HÔM NAY.
Chủ
trương duy tương đối và duy thế tục là gốc phát sinh, cũng là môi trường thuận
lợi cho muôn vàn những chủ thuyết đối nghịch Đức tin: chủ nghĩa hưởng lạc, chủ
nghĩa duy cá nhân, duy vật… vì vậy cũng không thể kể xiết những thách đố cho đời
sống của người Kitô hữu. Con chỉ mong nói lên được phần nào những khó khăn chúng
ta phải đương đầu khi nỗ lực thực hiện những tiêu chí mục vụ của Năm Đức Tin: củng
cố, cử hành, sống và làm chứng cho Niềm tin Kitô.
1. Loan báo Tin Mừng trong một thế giới
phủ nhận Lời Chúa.
Chúng
ta đang sống trong một thế giới trống rỗng về cảm thức thiêng liêng và siêu việt
tính đích thực; phải rao giảng Lời Chúa trong một bối cảnh mà các học thuyết mới,
đạo đức mới, giá trị mới hầu như xuất hiện mỗi ngày. Trào lưu toàn cầu hóa làm
cho những học thuyết ấy được truyền đạt cách mạnh mẽ qua những phương tiện truyền
thông hiện đại có mặt khắp hang cùng ngõ hẻm: phim ảnh, báo chí, internet, điện
thoại di động… chúng dễ dàng chiếm hữu tâm thức của con người, điều khiển cách ứng
xử và sự chọn lựa của con người. Thêm vào đó, quá trình giải thiêng cho mọi
lãnh vực đời sống của những chủ thuyết vô thần đã làm cho con người đương đại cảm
thấy xa lạ với những ngôn từ, hình ảnh, nội dung và niềm hy vọng Tin Mừng muốn
đem lại.
Soren
Kierkegard có câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng mà Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô
XVI đã mượn làm khởi điểm cho những suy tư thật sâu sắc của ngài trong cuốn
sách “Đức Tin Kitô Giáo Hôm Qua Và Hôm
Nay”, được viết khi ngài còn là Hồng Y. (Muốn hiểu được hết tư tưởng của
ngài phải nghiền ngẫm lâu ngày. Con chỉ có thể dừng lại ở khía cạnh biểu ảnh mà
Đức Thánh Cha dùng để điễn tả tình cảnh cay đắng của những sứ giả Tin Mừng dưới
con mắt của những người đã thấm nhuần chủ nghĩa duy thế tục cũng như hít thở bầu
khí của “làn gió chủ nghĩa”). Chuyện kể rằng, “một rạp xiếc rong ở Đan Mạch bất ngờ bị bốc cháy. Lập tức ông chủ rạp
sai anh hề, bấy giờ đã hóa trang xong, chạy sang làng bên để cầu cứu. Hơn nữa, vì
cánh đồng khô mới gặt xong nên lửa lan di rất nhanh, có thể thiêu hủy cả làng.
Anh hề vội vàng chạy đi, xin dân làng sang ngay để giúp dập tắt ngọn lửa. Thế
nhưng, khi dân làng thấy anh hề la hét, họ ngỡ đó là một thứ mánh khóe để câu
khách, nên tất cả ôm bụng cười lăn. Anh hề rơi vào thế dở khóc dở cười, thề thốt
đủ lời để cho người ta hiểu đây là chuyện hết sức nghiêm trọng, cháy thực sự chứ
không phải trò đùa, không phải mánh khóe gì cả, nhưng chẳng ai tin. Anh càng
kêu gào thì người ta càng cho là anh diễn xuất hay. Kết cục ngọn lửa cháy tới
làng, vô phương cứu vãn, cả làng và cả gánh xiếc đều bị cháy tiêu tan.”
Chúng
ta xác tín và loan báo về sứ điệp tối hậu liên quan đến vận mạng con người, nhưng
mấy ai tin?! Có khi còn bị cho là nhảm nhí. Khi ấy dưới con mắt của họ, chúng
ta khác gì tình cảnh của anh hề kia! Phải làm sao đây?
2. Khơi lại mạch sống Đức tin
thay cho trào lưu “Vô thần thực dụng” được xem là một lối sống an toàn, khôn
khéo, tốt đạo đẹp đời.
Vô
thần thực dụng là tên gọi Đức nguyên Giáo Hoàng cũng thường sử dụng khi nói về
những kitô hữu có lối sống rẽ đôi giữa niềm tin và cuộc sống; những kitô hữu
không có được một đức tin cá vị, giữ đạo duy hình thức và vụ luật, đánh mất đi
rồi cảm thức thiêng liêng hoặc chiều kích siêu việt của ơn gọi làm con Chúa.
Nơi những người này, ân sủng bí tích không cần chú ý cho bằng làm cho xong một
luật buộc; phẩm giá kitô hữu không bằng chất lượng đời sống… và cũng từ đó phát
sinh biết bao điều lệch lạc. Con xin kể lại một vài mẫu chuyện:
Lần
kia, trong ngày sinh hoạt cùng các sinh viên. Sau giờ giải tội, một sinh viên
lương dân đến gặp con và đặt vấn nạn về bí tích hòa giải. Theo nhận định của
anh lúc đó, bí tích này làm cho các sinh viên công giáo, bạn anh, mạnh dạn phạm
bất cứ tội gì. Anh nói anh là lương dân, xác tín: gieo nhân nào gặt quả ấy, nên
rất ngần ngại khi làm điều xấu. Các bạn công giáo thì không như vậy, bởi họ nói
cứ đi xưng tội là sẽ được tha hết, Chúa nhân từ vô cùng. Anh quả quyết có khá
nhiều bạn khi được hỏi, nói với anh như thế. Con đã phải dành khá nhiều thời
gian để trình bày giáo lý bí tích hòa giải cho anh. Nhưng sau khi đã hiểu ra, anh
còn đặt một câu hỏi làm con phải băn khoăn mãi. Anh nói: vậy thì do đâu mà các
bạn của con lại có cách hiểu và thực hành sai quấy như thế? Trong khi giáo lý lại
rất đẹp.
Chuyện
khác. Trong một buổi thuyết trình về việc tôn trọng và bảo vệ sự sống, một gia
trưởng phát biểu rằng: “đạo có luật đạo, đời
có luật đời. Kế hoạch hóa hoặc gì gì đó là làm cho xã hội tốt đẹp hơn, nên đó
là một bổn phận, một điều tốt…” Một phụ nữ thì cho rằng: “ai ai cũng làm như thế…có sao đâu?.”
Không thiếu những ánh mắt chăm chú nhìn vào thuyết trình viên đợi chờ sự đồng
thuận, và họ thất vọng khi nghe thuyết trình viên phản bác hai ý kiến trên…
Một
lối sống khá phổ biến hôm nay: khi người ta vi phạm hoặc muốn vi phạm điều luật
của Chúa, người ta tìm ngay cho mình một luận cứ để biện minh, hoặc bằng cách
giải thích méo mó Lời Chúa, hoặc bằng một lẽ sống được ai đó đồng thuận. Người
ta cho cách sống ấy là hợp thời, khéo léo, là tốt đạo đẹp đời. Chủ nghĩa duy
tương đối, duy thế tục cùng với vô số những chủ nghĩa tân thời sẵn sàng đón nhận
và nuôi dưỡng cách ứng xử ấy. Chúng ta thì không. Nhưng làm sao đây?
Trong
cương vị lãnh đạo Giáo Hội, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI hẳn đã phải trăn trở nhiều
khi thốt lên lời cảm thán: “có quá nhiều
loại sa mạc… sa mạc của đói khát, … sa mạc của tình yêu bị huỷ diệt. Có những
sa mạc của đêm đen Thiên Chúa, sự trống rỗng của các linh hồn không còn nhận thức
được phẩm giá và mục đích đời người. Những sa mạc bên ngoài thế giới đang lớn dần
vì những sa mạc bên trong đã trở thành quá mênh mông.” (Bài giảng khai mạc
sứ vụ mục tử ngày 24.04.2005)
IV.
MỆNH
LỆNH THOÁT LY HOANG ĐỊA TÂM LINH VÀ HY VỌNG CỦA CHÚNG TA.
Cũng
như Đức Kitô đã vượt qua sa mạc niềm tin của con người bằng cuộc Tử nạn, và dựng
lại Đức tin cho con người bằng mầu nhiệm Phục sinh của Ngài, Đức Bênêđictô XVI
đã truyền ra cho chúng ta mệnh lệnh: “Hội
Thánh nói chung và tất cả các Mục Tử trong Hội Thánh, như Đức Kitô, phải lên đường
để dẫn đưa con người ra khỏi hoang địa, đi về nơi có sự sống, về phía tình bằng
hữu với Con Thiên Chúa, về Đấng ban cho chúng ta sự sống, sự sống sung mãn”
(Porta Fidei, 2). Chính Ngài trong ngày khai mạc Sứ vụ Phêrô của mình, đã mở
cho chúng ta thấy thực trạng của thế giới đương đại, thì sau hơn 7 năm trên
cương vị lãnh đạo Giáo Hội, hôm nay ngài lại nói với chúng ta: “chính từ kinh nghiệm về sa mạc, từ sự trống
rỗng ấy, chúng ta có thể tái khám phá niềm vui đức tin, tầm quan trọng sinh tử
của đức tin đối với chúng ta… Trong sa mạc người ta tái khám phá giá trị của những
gì là thiết yếu để sống… Đó cũng là cách thức chúng ta có thể áp dụng cho Năm Đức
Tin: đó là một cuộc lữ hành trong sa mạc của thế giới ngày nay, trong đó ta chỉ
mang theo mình những gì là thiết yếu: không gậy, không bao bị, không bánh và
không tiền bạc, không mang theo hai áo dài, như Chúa nói với các Tông Đồ khi
sai họ đi giảng đạo (Lc 9, 3)”, đó là “Tin
Mừng và đức tin của Giáo Hội, mà các Văn kiện Công Đồng Vatican II diễn tả một
cách rạng ngời, cũng như Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo công bố cách đây
20 năm diễn tả.” Ngài quả quyết: “Và
trong sa mạc này, đặc biệt cần phải có những con người có đức tin mà, bằng mẫu
gương đời sống của họ, cho thấy con đường tiến về Đất Hứa và như thế nắm giữ, thức
tỉnh niềm hy vọng. Đức tin được sống mở tâm hồn ra cho Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng
giải thoát khỏi sự bi quan.” (Bài giảng khai mạc Năm đức tin ngày
11.10.2012).
Lời
hưởng ứng cũng đã vang lên qua Sứ Điệp của Thượng Hội Đồng Giám Mục: “Công việc của chúng ta, như Đức Thánh Cha
Bênêđictô nói, có vẻ như một đường mòn qua hoang địa; chúng ta biết rằng mình
phải lên đường, mang theo mình những gì là cần thiết: sự đồng hành của Chúa
Giêsu, chân lý của Lời Người, Bánh Thánh Thể là lương thực nuôi dưỡng chúng ta,
tình hiệp thông Hội Thánh, động lực của Đức Ái. Đó là nước của giếng làm cho
hoang địa nở hoa.” (Sứ Điệp Kết Thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục về Tân Phúc
Âm Hóa, số 14)
Và
đây nữa, một dấu chỉ thời đại mà Thiên Chúa đã ban tặng cho Giáo Hội: Đức Thánh
Cha Phanxicô.
Đáp
ứng nguyện vọng của “Người tôi tớ Chúa “được bộc lộ như một lời cầu nguyện trong
tuyên bố từ nhiệm của ngài, Thiên Chúa đã trao cho Giáo Hội một mục tử mới, để:
“trước một thế giới với quá nhiều những
thay đổi nhanh chóng và đang rúng động bởi những vấn nạn liên quan sâu sắc đến
đời sống đức tin; có thể lèo lái con thuyền của Thánh Phêrô và rao giảng Tin Mừng
với cả năng lực của trí óc lẫn thể xác” (tuyên bố từ nhiệm của ĐTC
Bênêđictô XVI).
Thật
vậy, từ hơn ba tháng nay, một phần lớn thế giới, với tất cả sự ngưỡng mộ, đang
đưa mắt dõi theo bóng dáng vị Tân Giáo Hoàng, con người mà từ lối sống, cung
cách ứng xử toát lên, như người ta nói, bản chất Tin Mừng tinh ròng đích thực.
Dường như vẫn còn đó trong tâm khảm con người, nỗi khát vọng sâu xa về một Tin
Mừng nào đó mà thế giới duy thế tục không thể đáp ứng được, nên người ta đã
không ngừng tuôn đến với vị Phêrô mới. Những phát ngôn mà não trạng duy thế tục
không thể dung hợp thì lại được người ta chăm chú lắng nghe và đón nhận: “muốn xây dựng một Giáo Hội giàu có và thiếu
vắng sự cho đi nhưng không, thì Giáo Hội trở nên già nua, Giáo Hội trở thành một
tổ chức phi chính phủ, Giáo Hội trở nên thiếu sức sống” (Bài giảng lễ sáng
thứ Ba 11.6.2013 tại Casa Santa Marta)… “Tất
cả chúng ta cần nỗ lực trở nên nghèo hơn một chút. Làm sao tôi có thể làm cho
mình trở nên nghèo hơn một chút để tôi có thể giống như Chúa Giêsu, một vị thầy
nghèo khó?” (Buổi tiếp kiến sinh viên trường Albanian và học sinh Italia
sáng 12.6.2013 tại Vatican)….
Nhiều người thú nhận đã tìm lại được niềm tin nhờ chiêm ngắm vẻ đẹp Nghèo khó
Phúc Âm sáng ngời nơi Đức Tân Giáo Hoàng.
Xét
như thế, không chừng lời của Đức nguyên Giáo Hoàng nói với chúng ta mới là một
thách đố đích thực: “Những sa mạc bên
ngoài thế giới đang lớn dần vì những sa mạc bên trong đã trở thành quá mênh
mông.” (Bài giảng khai mạc sứ vụ mục tử ngày 24.04.2005)./.
Lm.
Giuse Võ Công Tiến