CHÚA NHẬT XV QUANH NĂM, NĂM C
Đnl 30, 10-14; Cl 1,15-20; Lc 10, 25-37
I. Giáo Huấn Phúc Âm
Muốn được ơn cứu độ, muốn có sự sống
đời đời phải yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết sức lực và hết trí khôn; và yêu người
thân cận như chính mình.
Người thân cận không giới hạn ở bà
con thân thuộc, không chỉ người cùng chung tôn giáo hay truyền thống, nhưng tất
cả mọi người, đặc biệt những người cần sự giúp đỡ.
II. Vấn nạn Phúc Âm
Khái niệm địa dư giữa Giêrusalem và
Giêricô?
Giêricô, miền đất có độ thấp chừng
800 bộ tức khoảng 75 mét dưới mặt biển. Còn Giêrusalem ở độ cao tới 2500 bộ, tức
khoảng 750 mét trên mặt biển. Như vậy độ cao thấp chênh lệnh giữa Giêrusalem và
Giêricô khoảng 835 mét. Có lẽ vì vậy Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm Luca hôm nay
đã bắt đầu dụ ngôn bằng câu: Một người kia từ Giêrusalem XUỐNG Giêricô... Xuống
không có nghĩa là về phía Nam, vì vĩ độ Giêricô có phần cao hơn Giêrusalem nằm
về hướng Đông Bắc, nhưng “xuống” phản ánh thông thường cách diễn tả của người
dân thời bấy giờ: Về miền đất thấp hơn hay cũng gọi là xuôi Nam.
Khoảng cách từ Giêrusalem xuống
Giêricô chỉ dài chừng 27 cây số, và không được an ninh cho lắm, vì chung quanh
toàn núi đá, rất thuận lợi cho bọn cướp làm sào huyện ấn núp và cướp bóc khách
qua đường. Có một con đường ngắn hơn được gọi là “đường máu” được các băng đảng
cướp bóc chia nhau “làm ăn” khá trắng trợn. Trong Phúc Âm hôn nay, Chúa đã
không đề cập rõ ràng là con đường nào người bộ hành đã bị đường đồi núi, gập ghềnh
và nhiều hang động như hình bên cạnh mô tả.
Sử gia Josephus cho biết chi tiết nầy
là: Phần lớn những băng đảng cướp bóc nầy nằm trong số bốn chục ngàn nhân công
đã bị Vua Hêrôđê Cả cho “về vườn” sau khi hoàn tất công việc trùng tu đền thờ
Giêrusalem, năm 20 trước Công Nguyên. Chính Chúa Giêsu di chuyển trên lộ trình
nầy nhiều lần: Kinh Thánh ghi nhận có lần Chúa đã đến Giêrusalem qua Samaria
như trong Phúc Âm Gioan chương 4 và Phúc Âm Luca 9, 52-53 ghi lại. Qua Samaria
có nghĩa là qua vùng dân ngoại, trong đó có thành phố lớn Giêricô. Phúc Âm
Thánh Matthêô 20, 29; Thánh Marcô 10, 46; và Luca 19, 1-10 . tường thuật Chúa
chữa người mù bẩm sinh đang ngồi ăn xin bên vệ đường thành Giêricô; Chúa cũng
đã đến nhà Giakêu, trùm thuế vụ ở thành phố Giêricô để ăn tối trong Luca 19,
1-10.
Ngày nay du khách di chuyển trên đoạn
đường nầy không thể bỏ qua quán trọ người Samaritanô nhân hậu.
Thầy Tư Tế và Thầy Lêvi là những người
như thế nào trong đạo Do Thái?
Sao họ lại đành bỏ mặc nạn nhân bị cướp
đang chết dỡ bên đường?
Tư tế được hiểu là những người được
tách ra khỏi quần chúng, được dành riêng ra để làm việc tế lễ Thiên Chúa. Trong
ý nghĩa này Tư tế được dịch từ tiếng latin SACERDOS, Sacer có nghĩa là được
thánh hoá. Cũng thường dùng từ linh mục, để diễn tả người có nhiệm vụ làm mục tử,
chăm sóc phần linh hồn của con chiên. Từ linh mục bắt nguồn trong tiếng Hy Lạp
Presbyteros có nghĩa bậc trưởng thượng, đáng kính. Presbyteros trong Hy Ngữ địch
sang tiếng La tinh là Presbyter. Có tôn giáo là có tế tự. Có tế tự thì phải có
tư tế. Có tôn giáo là có lãnh đạo, dạy dỗ và phượng tự. Linh mục là người lãnh
đạo tôn giáo, là người có trách nhiệm giáo dục đức tin, luân lý cho người mình
có bổn phận chăm sóc.
Sách Sáng thế Ký chương 14, 18-20 ghi
nhận thầy cả Melkisêđê, vua thành Salem đã mang bánh và rượu đến để dâng lễ tế
chúc mừng Abraham và dòng dõi Ông. Trong Thánh Vịnh 110 cũng để cập đến chức
linh mục thừa tác theo phẩm hàm Melkisêđê. Thánh Phaolô trong Thư gửi Do Thái
chương 5, câu 1 cũng định nghĩa “Tư tế là
những người được tách ra khỏi đám đông quần chúng, được thánh hiến để dâng lễ tế,
đền tội cho dân và cho chính mình”
Thời tiên tri Samuel và Vua Đavit, nền
tế tự trong Đạo Do Thái kể như lên đến tột đỉnh với số rất đông tư tế. Đavit
phân chia số tư tế đông đảo thành 24 phiên để phục vụ đền thờ trong suốt năm.
Trong quyển I Niên Sử 23, 20 cho biết có 38, 000 tư tế và Lêvi được phân công
như sau: 24,000 chăm sóc công việc của đền thờ; 6,000 được cử làm viên chức và
thẩm phán; 4,000 lo việc giữ cổng, an ninh trật tự và 4,000 chuyên sử dụng nhạc
cụ để chúc tụng Chúa trong các giờ tế tự.
Phúc Âm Thánh Luca 1, 12-22 kể lại
câu chuyện tổng lãnh thiên thần Gabriel đã hiện ra cho tư tế Giacaria, thuộc
dòng tư tế Abija, dưới thời vua Hêrôđê cả, đang thi hành việc tế lễ Thiên Chúa
trong đền thờ Giêrusalem theo phiên thứ đã được cắt đặt để báo tin về việc vợ
ông là bà Elisabeth đã già nhưng sẽ sinh con trai.
Thầy Lêvi là thành phần nào trong Cựu
Ước và nền phượng tự Do Thái Giáo?
Giacóp có 12 con trai, đứng đầu 12
chi tộc Do Thái: Benjamin, Ephraim, Manasseh, Naptali, Dan, Asher, Issachar,
Judah, Zebulon, Simeon, Reuben, and Gad. Lêvi là con trai thứ ba của Giacop với
Lia. Chi tộc Lêvi được Môsê đặc cử chuyên lo việc tế tự và chăm sóc hòm bia
thánh và đền thờ sau khi đã định cư trên đất hứa. Trong suốt hành trình về đất
hứa, chi tộc Lêvi không được phân chia đất đai như các chi tộc khác, nhưng họ
được cắm lều sinh sống chung quanh nhà tạm có hòm bia giao ước để kinh nguyện
thay cho dân và chăm sóc nhà Chúa.
Những thầy Lêvi phải là thành phần
phát xuất chi tộc Lêvi. Ông Môsê và Aaron đều thuộc dòng Lêvi. Như vậy, những
đàn ông thuộc chi tộc Lêvi có thể trở thành tư tế, chuyên lo tế tự trong đền
thánh Giêrusalem. Số đàn ông còn lại là những Lêvi. Nhiệm vụ chính của các Lêvi
là: Hát thánh vịnh trong suốt các buổi lễ ở đền thờ Giêrusalem, kiến thiết và bảo
trì đền thờ, cung cấp người canh gác đền thờ và giữ gìn an ninh trật tự. Ngoài
ra các thầy Lêvi cũng lãnh nhiệm vụ dạy Kinh Torah và làm quan xét cho dân.
Như vậy, thầy tư tế hay thầy Lêvi đều
thuộc chi tộc Lêvi. Tư tế lo việc phụng tự, hương khói, tế lễ, còn thầy Lêvi có
thể gọi là những người lo việc bảo vệ nhà Chúa. Dưới thời Chúa Giêsu, người ta
ghi nhận có đến 12,000 tư tế và Lêvi. Họ được ưu tiên định cư trong thành phố
không xa trung tâm tôn giáo Giêrusalem và chia phiên để thi hành nhiệm vụ tế tự
và chăm sóc đền thờ.
Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu:
Trong văn hoá nhiều dân tộc, việc kể
dụ ngôn hay một câu chuyện có ẩn ý nhằm truyền đạt bài học luân lý hay đức tin
là chuyện thường tình. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người
Samaritanô nhân hậu để dạy: tứ hải giai huynh đệ, tất cả mọi người là anh em,
là cận thân với nhau. Mọi người phải thương yêu và giúp đỡ nhau nhất là trong
lúc hoạn nạn.
Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu phá
vỡ quan niệm hẹp hòi của người Do Thái, đặc biệt của giới tư tế và Lêvi về vấn
đề: Ai là anh em, là cận thân, là người cần phải giúp đỡ? Đối với người Do
Thái: anh em của họ tức những người bà con ruột thịt trong gia đình. Cận thân
là những người Do Thái khác, những người cùng giữ truyền thống Đạo Do Thái với
họ. Họ sống theo lối ân oán sòng phẵng với ai là bà con, thân bằng quyến thuộc
và với ai là thù nghịch hay ngoại giáo. Nên bài Phúc Âm thánh Luca trong Chúa
Nhật trước cho thấy là hai tông đồ của Chúa đã muốn xin lửa từ trời đốt làng
người Samaria vì “bọn ngoại đạo” nầy không tiếp đón họ. Họ được quyền trả thù
theo luật mắt thế mắt và răng đền răng như được qui định trong sách Lêvi 24.
19-21, trong Xuất Hành 21:22–25, và trong Đệ Nhị Luật 19:21.
Trong bài phúc âm hôm nay, khi đề cập
đến thái độ bất nhân của tư tế và lê vi thì đều nói là: Thầy Tư Tế và Thầy Lê
vi đều “tránh sang bên kia đường mà đi…” Họ phải tránh nạn nhân bị cướp vì họ
là “tư tế” và “Lêvi”, những người được dành riêng lo việc tế lễ Thiên Chúa và
lo việc nhà Chúa. Họ được dành cho việc thánh. Chạm đến nạn nhân đang nằm chờ
chết là ô uế, là xúc phạm đến con người thánh của họ và nhiệm vụ thánh của họ.
Họ tránh sang bên kia đường mà đi vì nạn nhân đâu có bà con quen biết gì với họ.
Hơn nữa đó không là nhiệm vụ của họ. Nhiệm vụ của họ là thờ phượng Chúa. Nơi
thi hành nhiệm vụ là đền thờ Giêrusalem.
Cái trớ trêu và đầy ẩn ý của dụ ngôn
người Samaritanô nhân hậu là:
Tư Tế và Lêvi đúng lý ra phải nhân hậu
thì lại tỏ ra bất nhân, ngoảnh mặt làm ngơ trước thảm cảnh người bị cướp nằm bất
tĩnh bên vệ đường. Họ cho rằng: tế lễ Thiên chúa và chăm sóc đền thờ là chuyện
không những ưu tiên mà còn có thể bỏ qua mọi bổn phận khác như giúp người lâm nạn.
Hơn nữa: Họ phải giữ mình trong sạch để xứng đáng dâng lễ tế cho Thiên Chúa. Nếu
đụng chạm hay tiếp xúc với một người gần chết hay là ngoại giáo sẽ làm cho con
người lành thánh của họ ra ô uế.
Người Samaritanô được coi là dân ngoại,
kẻ không biết gì về đạo và luật đạo thì lại có lòng từ tâm, dừng lại giúp người
lâm nạn. Anh chàng Samaritanô vô đạo thì lại sống đạo. Anh chàng Samaritanô được
coi là vô nhân thì lại có lòng nhân. Anh được Chúa chọn làm Kitô hữu mẫu mực
trong đạo Chúa lập, vì Chúa bảo Ông luật sĩ: Ông hãy đi và làm như vậy!
III. Thực hành Phúc Âm:
1. Thầy tư tế và Thầy Lêvi trông thấy nạn nhân, liền
tránh sang bên kia đường mà đi.
Nghe dụ ngôn nầy, những tư tế, những
linh mục và những người chuyên tâm lo việc thờ phượng Chúa chắc phải tức lắm.
Chúa đánh giá họ thấp kém hơn người Samaritanô, anh chàng ngoại giáo. Chúng ta
cứ thử nghĩ quí Linh Mục Công Giáo sẽ nghĩ như thế nào nếu có ai đó đánh giá
các Ngài “thua tên vô đạo!”
Nhưng trong thực tế, tư tế và Lêvi
trong đạo cũ, linh mục và tu sĩ trong đạo Công Giáo, kể cả tôi, phải đấm ngực
thú nhận là nhiều lần “trông thấy nạn
nhân, đã tránh sang bên kia đường mà đi!” Lý do: Chúng tôi là Tư tế hay
linh mục là người được tách biệt ra khỏi đám đông quân chúng, được dành riêng
cho việc phụng vụ, việc tôn thờ Thiên Chúa. Chúng ta thấy rõ điều nầy qua cách
thức đào tạo hay cách sống của những người đang đi tu, nhất là ở Việt Nam: Cha
Mẹ, anh chị em trong gia đình đều hảnh diện, khâm phục và nể trọng Thầy Đại chủng
sinh hay thầy tu, hay nữ tu xuất thân từ trong gia đình mình. Thầy Hai mới vào
chủng viện có một khoá thôi mà đã học giỏi đến độ phải đeo kiếng trắng dày như
đít chai. Thầy Hai bây giờ ăn nói toàn những từ thật khó hiểu, pha trộn tiếng
Anh, tiếng Pháp và cả tiếng La Tinh nữa. Trong những giáo xứ người Bắc, nhiều
người đã gọi Bố Mẹ Thầy là Ông bà Cố, anh chị em Thầy là quan Chú quan Bác… Thầy
mỗi ngày xa dần cõi tục và tập tành cách đi đứng ăn nói cho ra “tư tế”! Xa dần
cõi tục có nghĩa là xa con người thực tế, xa những đụng chạm thường ngày trong
cuộc sống. Càng xa con người, càng ít đi lòng nhân hậu. Thầy tư tế hay linh mục
thường kỳ vọng lòng nhân hậu từ người khác mà thôi.
Sau khi đã thành tư tế, đã đỗ Cha thì
“vừa trông thấy nạn nhân, tư tế hay linh
mục liền tránh sang bên kia đường mà đi!” Tránh sang đường khác vì việc ưu
tiên hàng đầu của tư tế hay linh mục là việc thánh thiện, việc thờ phượng Chúa.
Phải tránh sang đường khác vì sợ rằng phải dây dưa vào chuyện phàm tục. Phải
tránh sang đường khác vì tư tế, linh mục sợ phải “chi và cho!” đang khi họ được giáo dục trong truyền thống là “nhận và hưởng!”
‘Tránh sang đường khác’ nói lên sự hẹp
hòi, sự thiếu thông cảm, sự vô tâm và đôi khi thành ác nhân. Thỉnh thoảng tôi vẫn
có dịp gặp bà vợ và những người con của một gia đình mà người cha đã bị linh mục
“chánh xứ” tránh né ban bí tích xức dầu và cho rước lễ như của ăn đàng khi gần
chết. Vị tư tế, vị linh mục nầy, vì hẹp hòi, vì bất đồng với bệnh nhân, đã “tránh sang bên kia đường mà đi!” dù người
nhà đến đập cửa, kêu gào xin Cha đến ban bí tích xức dầu. Cha in lặng tránh né!
Người nhà viết giấy để lại, cha chánh xứ nhẫn tâm không đáp lời!
Người bệnh đã chết. Nhưng vị tư tế, vị
linh mục chánh xứ nầy đã không sao tránh khỏi sự bực tức, lòng oán hận của gia
đình. Thật buồn! Nhưng không sao bàu chữa cho thái độ vô nhân của vị linh mục
chánh xứ trên. Tính ra vị tư tế nầy thật kém xa lòng nhân so với những người
không có đạo. Lời nói trách hờn và ánh mắt buồn giận của gia đình nầy đã là một
nhắc nhở sống động cho tôi về việc tỏ lòng nhân hậu với mọi người. Nhiều khi chỉ
một lần “tránh sang bên kia đường mà đi”
thôi đã khắc sâu ân oán nơi ngườk khác.
2. Ai là người thân cận của tôi?
Chính là kẻ đã thực thi lòng thương
xót với tôi! Ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy!
Cô bé Danielle 12 tuổi đã thừa hưởng
trọn vẹn gia tài kếch xù của một người hành khất mang tên Donald. Chuyện kể rằng:
cách nay hơn 10 năm, Donald và cả gia đình gồm một người vợ và hai con gái đã bị
một người say rượu lái xe tải cán chết trên một khúc quẹo ở Xa Lộ. Donald may mắn
sống sót nhưng xe bị cháy và gây thương tích toàn thân. Ngoại hình của anh hoàn
toàn bị biến dạng: xấu xí và ghê tỡm. Không một ai thích gần gũi hay muốn trò
chuyện hay cho anh một cái nhìn thân thiện.
Anh nhận được số tiền lớn từ việc bồi
thường tai nạn giao thông do người khác gây ra. Nhưng anh muốn làm thân hành khất
để có một trắc nghiệm về lòng nhân ái thật sự của người khác. Anh kiếm được khá
nhiều tiền, nhưng là tiền “bố thí” chứ không là lòng nhân. Tiền bố thí là tiền
cho vì thương hại hay cho để khỏi bị quấy rầy. Vì dị dạng, không ai cho tiền mà
dám dừng lại hỏi thăm anh và tiếp chuyện với anh, dù chỉ một câu. Người ta bố
thí nhưng thiếu lòng nhân.
Tình cờ Donald đến khi phố nhà
Danielle. Cô bé gái 12 tuổi vừa xin Mẹ tiền để cho Donald, vừa đến gần để trò
chuyện, làm quen và tỏ ra thân tình với Donald. Danielle không chút ngần ngại nắm
bắt tay và nhìn vào gương mặt dị hợm của Donald. Donald đã khóc vì cảm động, vì
sung sướng, vì còn có người dám thân cận với mình. Thế là mỗi ngày, Donald đều
đến khu phố nhà Danielle để hưởng nụ cười, ánh mắt và lời hỏi thăm thân tình của
Danielle. Không lâu sau đó, người hành khất Donald chết và đã di chúc toàn bộ
gia sản cho Danielle, cô bé giàu lòng nhân ái và đã sẵn sàng thân cận với
Donald, người ăn xin không ai thích thân cận.
Người thân cận của tôi không chỉ là
người cho tôi tiền hay giúp đỡ tôi cho xong bổn phận, nhưng là người “chạnh lòng thương, đến gần, lấy dầu, lấy rượu
đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại…” Thân cận là gần gũi giúp đỡ!
Thân cận là thông cảm và chia sẻ! Thân cận là cận thân. Ước gì những người có
ngoại hình khó coi, dị dạng, có tật, có bệnh bất thường thật sự hưởng được “lòng thương xót” của chúng ta! Họ rất cần
người thân cận!