TIẾN
TRÌNH PHONG THÁNH
được tiến hành như thế nào đối với
ĐHY Nguyễn Văn Thuận
và Cha Trương Bửu Diệp
được tiến hành như thế nào đối với
ĐHY Nguyễn Văn Thuận
và Cha Trương Bửu Diệp
Từ ngữ: dùng từ tuyên thánh thì đúng hơn là
phong thánh: Từ phong thánh quen dùng trong tiếng Việt, nguyên ngữ từ tiếng Hy
Lạp “Kanon” có nghĩa là thước đo, tiêu chuẩn hay được nhìn nhận là có giá trị.
Ý nghĩa nầy được tìm thấy trong động từ canonizare của tiếng La tinh, rồi
canoniser trong tiếng Pháp và Canonize trong tiếng Anh.
Những tín hữu trong thế kỷ đầu đã phong thánh cho các Tông Đồ
khi gọi các Ngài là Thánh. Những vị tử đạo cũng được gọi là thánh. Rồi những thế
kỷ kế tiếp, những giáo dân có đời sống thánh thiện, nêu gương sáng và thành mực
thước cho người đời cũng được tuyên bố “đang ở trên thiên đàng” tức là thánh.
Như vậy theo từ Kanon và theo truyền thống, Giáo Hội không hề
phong thánh hay không hề làm cho ai thành thánh cả. Giáo Hội, qua thời gian cầu
nguyện lâu dài và qua những phép lạ được thực hiện nhờ lời chuyển cầu của những
giáo dân đã chết và đã từng có đời sống thánh thiện, đã tuyên bố là những vị nầy
đang ở trên trời với Chúa, tức họ là Thánh.
Vai trò của Giáo Hội là tuyên thánh, tức chính thức tuyên bố rằng:
Ông A, bà B, hay Đức Cha C, hay linh mục D hay tu sĩ G... đã có đời sống thánh
thiện khi còn sống và đang ở trên trời với Chúa. Từ nay họ được kanon, tức
thành mẫu mực đáng cho chúng ta kính trọng, bắt chước và được cho vào danh sách
phụng vụ chư thánh.
Tiến trình tuyên
thánh
Bài viết dựa theo:
1.
Những thông tin được Văn Phòng báo chí Vatican phổ biến ngày 12.9.1997 nhằm cắt
nghĩa những điều lệ liên quan đến vấn đề tuyên thánh được qui định trong Tông
huấn Divinus Perfectionis Magister, do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành
ngày 25.1.1983.
2.
“Special Problems in Canon Law III – Canonizations, do linh mục Roland Jacques,
omi. tức Cha Dương Hữu Nhân, Cha Giáo Sư và Khoa Trưởng Giáo Luật Đại Học St.
Paul ở Ottawa soạn và dạy trong niên khoá 2007-2008.
3.
Cha Giáo Dương Hữu Nhân đã có công rất lớn trong việc vận động tuyên phong Chân
Phước cho Thầy Giảng Anrê Phú Yên, sinh năm 1625, mà Cha Nhân gọi là người Anh
cả trong hàng các Thánh Tử Đại Việt Nam, chết ngày 26.7.1644. Đức Thánh cha Gioan
Phaolô II đã tuyên phong chân phước cho Anrê Phú Yên ngày 5.3.2000 tại quảng
trường Thánh Phêrô, Rôma.
Giai đoạn sơ khởi và
những yếu tố căn bản cần biết.
1.
Ứng viên tuyên thánh phải là một người Công Giáo hay dự tòng đã chết, tức đang ở
trên thiên đàng. Không có vấn đề tuyên thánh cho ai còn đang sống.
2.
Dư luận thuận lợi, kéo dài, công khai và mạnh mẽ về đời sống thánh thiện hay
gương anh hùng tử đạo của ứng viên. Nếu có trở ngại và chống đối không thể vượt
qua được, xin sớm huỷ bỏ tiến hành án tuyên thánh. Chỉ nên bắt đầu sau khi ứng
viên đã chết đủ năm năm.
Mẹ Chân Phước Têrêsa thành Calcutta chết ngày 5.9.1997 và được Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước ngày 19.10.2003, tức sau sáu
năm 1 tháng và 14 ngày.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chết ngày 2.4.2005 và sẽ được
tuyên phong chân phước ngày 1.5.2011, tức sau sáu năm một tháng.
3.
Phải có thỉnh nguyện viên yêu cầu lập án tuyên thánh. Thỉnh nguyên viên có thể
là: cá nhân một giáo dân, một nhóm giáo dân, một tổ chức có tư cách pháp nhân
như giáo xứ, địa phận, Hội Đồng Giám Mục địa phương hay một bộ ở Giáo triều
Rôma được thiết lập bởi Giáo Luật hay bởi Giáo quyền có thẩm quyền.
4.
Giám Mục địa phận ex officio tức Giám Mục địa phương đương quyền. Tuy nhiên,
ngài nên tránh khởi án tuyên thánh vì Ngài sẽ phải là chánh án trong toà án địa
phận.
5.
Cáo thỉnh viên (postulator) thường là một linh mục, được yêu cầu và được uỷ
thác để chuẩn bị và trình bày thỉnh nguyện tuyên thánh: Phải được thỉnh nguyện
viên yêu cầu và Giám Mục thẩm quyền chấp thuận; Phải thu tập tất cả những gì có
liên quan đến ứng viên tuyên thánh: tiểu sử, văn từ, nhân chứng, chứng từ, hình
ảnh…. Phải chịu trách nhiệm tài chánh để chi trả cho tiến trình tuyên thánh.
Khi án tuyên thánh tiến sang giai đoạn ở Roma, cần một tân cáo thỉnh viên thường
trú ở Roma để ứng phó với mọi tình huống liên quan đến vụ án.
6.
Thường có hai loại nhân chứng: Nhân chứng de visu tức chứng kiến tận mắt và
nhân chứng de auditu, nhân chứng được nghe từ nhân chứng de visu. Không chấp nhận
nhân chứng de auditu ab audientibu tức nhân chứng nghe lại từ nhân chứng de
auditu. Không giới hạn số nhân chứng, tuy nhiên, có một số người không được làm
nhân chứng được như: Cáo thỉnh viên hay phó cáo thỉnh viên vụ án, viên chức
trong toà án tuyên thánh cấp địa phận, cha giải tội và cha linh hướng của ứng
viên.
7.
Cáo thỉnh viên chính thức đệ trình bằng văn bản với Giám Mục đương nhiệm những
gì có liên quan đến ứng viên: tiểu sử, nhân đức trổi vượt hay chứng từ tử đạo,
dư luận thuận lợi, văn từ đã xuất bản và chưa xuất bản, danh sách nhân chứng,
những “sự lạ” nghĩ là đã được Chúa nhậm lời qua lời chuyển cầu của ứng viên và
cả những bất lợi nếu có… và xin Ngài cho phép tiến hành án tuyên thánh.
Giai đoạn I: thiết lập
án tuyên thánh cấp địa phận
1.Giám
Mục địa phận đương quyền nên hỏi ý kiến của các Giám Mục địa phận phụ cận, các
Giám Mục trong Giáo tỉnh hay ngay cả Hội Đồng Giám Mục về việc thực hiện tiến
trình tuyên thánh. Phổ biến công khai thỉnh nguyện tuyên thánh cho ứng viên.
Sau đó, Ngài cho thiết lập uỷ ban giám sát (board of inquiry) gồm những linh mục
có kiến thức thần học, giáo luật và lịch sử để bảo đảm cho tiến trình hợp luật.
2.Sau
khi đã có nhận được những xét đoán khôn ngoan thuận lợi, Giám Mục địa phận cho
triệu tập giáo dân, tuyên bố chính thức thực hiện tiến trình tuyên thánh cho ứng
viên được thỉnh nguyện.
3.Những
thần học gia được chỉ định để nghiên cứu những văn từ của ứng viên tuyên thánh
liên hệ đến đức tin và luân lý. Những sử gia và văn khố viên có nhiệm vụ trình
bày về sự xác thực, giá trị của những văn từ và cả nhân cách của ứng viên qua
những văn từ nầy.
4.Giám
Mục thẩm quyền để cử Công tố Viên (promotor iustitiae) để xem xét về kết quả những
nghiên cứu trên những văn từ của ứng viên. Công tố Viên có thể nêu những thắc mắc
với Uỷ Ban Giám Sát. Sau khi không thấy có gì trở ngại, Đức Giám Mục địa phận
cho phép phổ biến hình ảnh cũng như tiểu sử của Ứng Viên tuyên thánh trong Giáo
phận mình.
5.Giám
Mục địa phận gửi tất cả những tài liệu, án từ đến Bộ Tuyên Thánh Roma
(Congregation for the Causes of Saints). Tài liệu phải được uỷ viên thư ký địa
phận ký tên và đóng dấu trên từng trang. Bộ Tuyên Thánh của Rôma sẽ liên hệ với
Bộ Giáo Lý Đức Tin (Congregation for the Doctrine of the Faith) và những văn
phòng ở Toà Thánh có liên quan. Sau khi không nhận được một phản kháng nào, bộ
tuyên thánh sẽ ra văn thư gọi là Nihil obstat, tức không có gì trở ngại, gửi
cho Đức Giám Mục địa phận và cho phép tiếp tục tiến hành vụ án tuyên thánh.
Giai đoạn II: Danh hiệu “Đầy Tớ Chúa” và
tiến hành giám sát về nhân đức hay việc tử đạo.
1.
Sau khi nhận được Nihil Obstat từ bộ Tuyên Thánh, Giám Mục đương quyền ra quyết
định chính thức:
a)
Nhìn nhận và tuyên bố ứng viên là Đấy Tớ Chúa.
b)
Thiết lập toà án cấp địa phận gồm có: chánh án (được hiểu là Giám Mục địa phận,
tuy nhiên Ngài nên bổ nhiệm một linh mục có khả năng thần học, giáo luật và lịch
sử đảm trách thay thế ngài); Công tố viên và vài Lục sự.
c)
Thẩm phán có nhiệm vụ thăm viếng mộ phần của Đầy tớ Chúa và không nên chấp nhận
những sùng bái nếu có. Thẩm phán phải theo những nguyên tắc Giáo Luật qui định
về việc phỏng vấn nhân chứng ở những điều khoản 1548, 1553, 1558 và 1559.
d)
Công tố viên: Phải là một linh mục thông thạo thần học, giáo luật và lịch sử và
được Đức Giám Mục địa phận bổ nhiệm, GL. 1435. Nhiệm vụ: hiện diện trong tất cả
mọi phiên toà, tra xét mọi chứng từ, ký nhận và bảo đảm tiến hành hợp luật.
e)
Lục sự: có thể là một giáo dân có tiếng tốt được chỉnh định bởi Giám Mục hay
chưởng ấn địa phận. Nhiệm vụ: ghi chép đúng nguyên văn lời khai, hành động và
chứng từ.
f)
Thiết lập bản câu hỏi: Có chuyên viên thiết lập bản câu hỏi và thông qua với uỷ
ban Giám Sát địa phận. Không được trao bản câu hỏi cho nhân chứng trước. Nên
cho nhân chứng thấy tiến trình thời gian cuộc đời của Đầy Tớ Chúa để theo dõi
và cung cấp chứng từ cụ thể.
2.
Phiên họp mở màn (Không nên diễn ra long trọng tại nhà thờ chánh toà nhằm tránh
mọi ngộ nhận rằng: Đầy tờ Chúa đã được tuyên thánh): Giám Mục địa phận xác định
việc bổ nhiệm: Chánh án, công tố viên, lục sự và uỷ viên giám sát. Giám Mục nhận
lời thế của các viên chức toà án. Chưởng ấn ký nhận. Giới thiệu nhân chứng. Xác
định chỗ lấy chứng từ. Có thể mời gia đình của Đầy tớ Chúa tham dự phiên họp mở
màn nầy.
3.
Thể thức sát hạch nhân chứng: Tất cả đều phải thề nói sự thật và chỉ sự thật.
Chỉ có chánh án, công tố viên, lục sự và nhân chứng hiện diện. Giám Mục (nếu
không là chánh án) và cáo thỉnh viên không được hiện diện. Giữ Giáo Luật các điều
khoản 1539, 1547 và 1574 để có những chứng từ xác thực. Nhân chứng và công tố
viên phải ký nhận trên từng trang chứng từ. Nếu có sửa chữa, công chứng viên và
nhân chứng phải ký nhận. Sau cùng, lục sự đọc lại chứng từ và ký nhận.
4.
Kết thúc giai đoạn giám sát nhân chứng cấp địa phận:
a)
Gom góp tất cả những dữ kiện, chứng từ, sửa đổi, ghi chú, duyệt xét, đọc lại và
tất cả thành viên toà án và nhân chứng thề rằng: đã cung cấp chứng từ thật.
b)
Chánh án, công tố viên, lục sự đi viếng phần mộ cũng như những nơi được nhân chứng
đề cập có liên quan đến Đầy tớ Chúa.
c)
Hồ sơ, tài liệu được lập thành ba bản: Nguyên bản (archetypum) được niêm phong
và lưu giữ ở văn khố Toà Giám Mục địa phận. Hai phó bản được lục sự đóng dấu,
ký tên và gửi sang sang Roma. Một bản gọi là transumptum gởi đến bộ tuyên Thánh
và giữ ở văn khố. Bản còn lại cũng gửi đến bộ tuyên thánh nhưng được trao cho
cáo thỉnh viên hay những ai đang nghiên cứu về án tuyên thánh khảo sát.
d)
Cáo thỉnh viên có nhiệm vụ mang sang Roma và trao cho bộ tuyên thánh: Lá thư gửi
cho bộ trưởng bộ tuyên thánh. Hai phó bản do toà án địa phận thiết lập đã nói.
Sách viết, thủ bản, văn thư, chứng từ của đầy tớ Chúa.. Tất cả được gọi là
instrumentum được chứa trong một hộp, niêm phong gọi là clausurae. Án từ đã gửi
đi, kết thúc giai đoạn tiến trình tuyên thánh cấp địa phận.
Giai đoạn III: Tiến
trình án tuyên thánh ở Roma
Không qua đường
bưu điện, nhưng Cáo thỉnh viên phải mang hộp niêm phong tài liệu từ địa phận
sang Roma. Yêu cầu Bộ tuyên thánh nhận và ra quyết định cho tiếp tục án tuyên
thánh ở Roma.
Tân cáo thỉnh
viên được thỉnh nguyện viên chỉ định và được bộ tuyên thánh nhìn nhận. Tân cáo
thỉnh viên phải ở Roma.
Cáo thỉnh viên
yêu cầu Bộ tuyên thánh ra quyết định nhìn nhận tiến trình đã thực hiện ở cấp địa
phận là hợp luật và thành sự. Nếu tiến trình sơ khởi ở địa phận hợp luật và
thành sự, tân cáo thỉnh viên yêu cầu bộ tuyên thánh cho nghiên cứu để xúc tiến
việc tuyên thánh.
Sau khi đã ra
quyết định nhìn nhận tiến trình sơ khởi của cấp địa phận, bộ tuyên thánh sẽ bổ
nhiệm những viên chức như: Công tố viên, những nhà nghiên cứu sử học, báo cáo
viên (Relator). Về phía thỉnh nguyện viên, được yêu cầu chọn một người cộng sự
gọi là collaborator. Relator và Collaborator sẽ viết một positio, tức tiểu sử của
đầy tớ Chúa, liên quan đến nhân đức trổi vượt hoặc việc tử đạo. Đại khái một
positio như sau:
Thông tin về bốn
điểm: lịch sử tiến trình sơ khởi - phương pháp thực hiện – tiểu sử đầy tớ Chúa
và dư luận về đời sống nhân đức thánh thiện hay chứng từ tử đạo.
Trưng dẫn dữ
kiện cụ thể, chứng từ và nhân chứng.
Tài liệu: Giấy
rửa tội, chứng từ của gia đình, địa phận hay dòng tu.
Relato et
Vota: Báo cáo và biểu quyết. Nếu đồng ý, bộ tuyên thánh sẽ để cử sáu nhà nghiên
cứu sử học, mười tư vấn thần học để nghiên cứu trên positio. Nếu hai phần ba
trong số nầy biểu quyết thuận, án tuyên thánh sẽ được báo cáo với bộ Giáo Lý Đức
Tin. Nếu không, yêu cầu làm lại.
Giai đoạn hai ở
Roma: Nâng Đấy tớ Chúa lên Venerable, Bậc đáng kính.
Các hồng Y và
Giám Mục trong và ngoài Rôma được triệu tập và được cáo thỉnh viên yêu cầu chấp
nhận án tuyên thánh. Một Ponens, tứ báo cáo viên được chọn từ các hồng y hay
giám mục, thành viên của bộ tuyên thánh được bổ nhiệm để chấp nhận án tuyên
thánh và báo cáo với Đức Giáo Hoàng. Một khi Đức Thánh Cha đã nhìn nhận những
nhân đức siêu vượt hay cái chết anh hùng của dầy tớ Chúa là xác thực, Ngài ra
quyết định cho nâng Đầy tớ Chúa lên Bậc đáng kính. Giờ đây, người ta được quyền
làm Holy Card, tức thiệp thánh, có hình của Bậc Đáng Kính và kinh nguyện xin
Chúa thực hiện dấu lạ qua sự chuyển cầu của Bậc đáng kính.
Đến đây, tiến
trình tuyên thánh đã trải qua hai giai đoạn rất khó khăn:
Thiết lập toà
án cấp địa phận để thu thập tài liệu, chứng từ và sát hạch chứng nhân và đề xuất
sang Rôma để nhận Nihil obstat và ứng viên được gọi là: Đầy tớ Chúa.
Mang án tuyên
thánh sang Roma và chịu sự làm việc rất tỉ mỉ và tốn kém của bộ tuyên thánh để
đầy tớ Chúa được nhìn nhận là bậc đáng kính.
Giai đoạn IV: Phép lạ
và tuyên phong chân phước
Phép lạ: Được
coi như sự chuẩn nhận của Chúa trên ứng viên tuyên thánh đang ở trên Trời. Ngay
từ thế kỷ thứ 13, dưới thời Đức Giáo Hoàng Innocent III, Giáo Hội đòi buộc phải
có phép lạ thực hiện nhờ lời chuyển cầu của những Bậc Đáng Kính, những ứng viên
tuyên thánh về đời sống đạo đức. Tuy nhiên, phép lạ được miễn trừ nơi những ứng
viên tuyên thánh tử đạo.
Phép lạ phải
là phép lạ thể lý, chứ không phải luân lý, tức kết quả những việc lạ phải được
cảm nhận, được nhìn thấy, được minh chứng và giảo nghiệm y khoa. Và phải đã xảy
ra một năm rồi.
Khi có việc lạ
xảy ra, cáo thỉnh viên phải viết đơn xin Giám Mục thẩm quyền thiết lập ban giám
sát. Sau khi xét đoán khôn ngoan có thể là phép lạ, Giám Mục địa phận để cử hai
bác sĩ xét nghiệm, chuyên viên thu thập tài liệu, chứng từ và yêu cầu toà án địa
phận thiết lập việc sát hạch nhân chứng.
Hồ sơ kết quả
thẩm định, có thể là phép lạ, sẽ lập thành ba bản. Bản gốc giữ ở Toà Giám Mục địa
phương. Hai bản còn lại gửi sang bộ tuyên Thánh Rôma để duyện xét và thẩm định.
Bộ tuyên thánh
duyệt xét phép lạ trên ba tiêu chuẩn:
Y khoa: Đây là
một chửa trị xác thực và lạ lùng mà y khoa bình thường không làm được.
Thần học: Nhân
chứng đã khẩn cầu với Bậc Đáng Kính và nhận được phép lạ.
Lòng đạo: Hồng
Y và các Giám Mục quyết định là rất hữu ích cho lòng sốt sắng của Giáo Hội hoàn
vũ nếu ứng viên được tôn phong chân phước.
Tất cả được đệ
trình lên Đức Thánh cha và để Ngài có quyết định sau cùng là có tiến tới tuyên
thánh hay không. Nếu có, cũng chính Đức Thánh Cha sẽ công bố ngày giờ, nơi chốn
cử hành việc tuyên phong Chân Phước.
Đức Hồng Y Phanxicô
Xaviê Nguyễn văn Thuận
Đức Hồng Y
Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận từ trần ngày 16.9.2002. Rất may mắn, Đức Thánh
Cha Bênêđictô XVI cho phép Hội Đồng Công Lý và Hoà Bình của Ngài khởi án tuyên
thánh ngày 16.9.2007. Ngài đã có Holy Card và Kinh Xin Ơn được Đức Giám Mục
Giampietro Crepaldi, tổng thư ký Hội Đồng Công Lý và Hoà Bình lúc ấy chuẩn nhận
và cho phép phổ biến ngày 16.9.2007.
Theo tiến
trình tuyên thánh của Giáo hội Công giáo Rôma, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn
Văn Thuận đang ở bậc Tôi tớ Chúa (một trong bốn bậc phong thánh: Tôi tớ Chúa, Đấng
Đáng kính, Chân phước và Thánh). Ngày 16 tháng 1 năm 2009, Hồng Y Agostino
Valini, Giám Quản Toà Rôma ban Án lệnh chính thức vận động thu thập những chứng
cứ, tài liệu, tác phẩm của/về Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận để phục
vụ cho án phong chân phước. Ngày 22 tháng 10 năm 2010, án phong chân phước cho
Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã được chính thức khởi sự.
Ngày 15 tháng
11 năm 2010, VietCatholic đưa tin về một chủng sinh người Việt Nam sinh ra ở Mỹ
bị hôn mê 32 ngày và hai lần Bác sĩ đã tuyên bố là chết. Nhưng ba mẹ chủng sinh
nầy và chính Thầy Giuse đã kêu cầu Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận.
Thầy Giuse đã thấy Đức Hồng Y trong thị kiến hai lần đến tận giường bệnh thăm
viếng Thầy. Hiện tại thầy đã bình phục hẵn. Văn phòng cáo thỉnh ở Rôma đang đòi
những chứng từ minh chứng cho phép lạ chữa bệnh nầy. Nếu Thầy Giuse có đủ bằng
chứng về sự bình phục lạ lùng của Thầy. Chắc chắn Đức Hồng Y sẽ được tuyên
phong chân phước sớm.
Cha Phanxicô Xaviê
Trương Bửu Diệp
Cha Phanxicô
Xaviê Trương Bửu Diệp sinh ngày 01-01-1897, được Cha Giuse Sớm rửa tội ngày
2-2-1897 tại họ đạo Cồn Phước, làng Tấn Ðức, nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông,
quận Chợ Mới, Tỉnh An-Giang. Ngày 12-3-1946, ngài bị bắt cùng với trên 70 người
giáo dân tại họ Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt chung với bổn đạo tại lẫm lúa của
ông giáo Sự ở Cây Dừa. Do sự tranh chấp giữa các giáo phái, vì bênh vực quyền lợi
của giáo dân, ngài đã chết thay thế cho những người bị bắt chung.
Ở Việt Nam và
hải ngoại, cả lương giáo, không ai không biết Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.
Vô số những phép lạ được truyền khẩu và được ghi chép thành văn bản. Việc lập
án tuyên thánh cho Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp có nhiều thuận lợi: Ngài
bị giết chết trong khi thi hành nhiệm vụ mục tử, Ngài chết vì đạo. Chúa đã thực
hiện nhiều phép lạ qua sự chuyển cầu của Ngài. Nhiều và rất nhiều nhân chứng
“de visu”, là người thọ ơn Cha. Những người đã từng tiếp xúc với Cha thời sinh
tiền vẫn còn sống như Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm minh Mẫn.
Thời gian chuẩn
bị đã lâu, nhiều người đang nức lòng và sẵn sàng làm chứng cũng như rộng rãi ủng
hộ chương trình tuyên thánh cho Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Chương
trình vinh danh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, vị mục tử dũng cảm đã dám
chết vì đàn chiên, giống như Chúa Kitô, thầy chí Thánh, vị mục tử nhân hậu, tốt
lành và mẫu mực đã đến lúc chín mùi. Xin trao vào tay Chúa nguyện ước thánh thiện
nầy. Vì không điều gì là không có thể với Thiên Chúa! Xin cầu nguyện và ủng hộ!
LM Phêrô Trần
thế Tuyên 1/3/2013
(Nguồn: Kiến
thức Công Giáo, 2/2011, Liên Tu sĩ Canada)