Truyện thánh Phanxicô _ Rivo-Torto vườn nhân đức


CHƯƠNG VIII
RIVÔ – TORTÔ- VƯỜN NHÂN ĐỨC
Chuyến này trở lại thành nhà, anh em không về Porziuncôla nữa. Một đàng, vì mười hai người không thể ở hết trong lều Phanxicô đã cất; đáng khác, rút kinh nghiệm cánh rừng cám dỗ ở Ortô, Phanxicô không dám ở hẳn một chỗ nào nhất định nữa. Anh em đành hạ trại ở Rivô - Tortô, từ cuối hè đến hết mùa đông.
Rivô - Tortô nghĩa là “Dòng suối quanh co”, cách Porziuncôla hai dặm. Địa hình bây giờ khó nhận định, vì dòng suối đã cạn từ bao giờ.
Trời đã trở về mùa thu.
Cảnh Ombria đã đẹp lại càng đẹp thêm. Gió hài hòa. Nắng dịu và ấm. Bầu trời trong suốt như thủy tinh. Những lúc mặt trời đã khuất sau rặng núi, ngước trông lên, như một tấm thảm muôn màu. Và đêm đến, ngàn sao lấp lánh, sáng ngời.
Trước vẻ đẹp phong phú thiên nhiên, lòng Phanxicô như lắng xuống, ngài say sưa thưởng thức như buổi thiếu thời đã từng say sưa cái vẻ huy hoàng rực rỡ của những tổ chúc đình đám ăn chơi. Ngài mở rộng tâm tư và những vẻ đẹp thiên nhiên kia bây giờ là những cái đà mới cho lời tán tụng.
Ngài thông cảm ấn tượng ấy cho anh em. Ngài bảo: Vũ trụ là một quyển sách khổng lồ, trong đó tên Chúa đã âm thầm ghi lên từng trang từng chữ. Tâm hồn muốn tìm Chúa, chỉ cần lưu ý một chút cỏn con, là thấy Chúa dễ dàng và có thể phụng thờ yêu mến Chúa qua bao nhiêu kỳ công sáng tác của Ngài.
Nhưng Rivô - Tortô chưa hẳn là một thắng cảnh chỉ gợi toàn tư tưởng đẹp. Rivô - Tortô còn là một mùa xuân nhân đức nở hoa. Những thứ hoa đặc biệt là: đức khôn ngoan đi đôi với lòng đơn giản, đức khó nghèo với lòng khiêm hạ, đức bác ái với đức vâng lời. Nhưng kể ra, đức nghèo vẫn là đức được đặt làm căn bản độc đáo cho cả dòng.
ĐỨC NGHÈO
Người khác có thể sống một cuộc đời nghèo vì lý do triết lý, đạo đức hay hy sinh, bác ái. Phanxicô và anh em muốn nghèo vì tình yêu Chúa Kitô. Thấy Chúa xưa nghèo thiếu, Phanxicô đem lòng thương mến và muốn được như ngài. Phanxicô coi đức nghèo như người bạn tâm giao đã không bao giờ rời xa Chúa từ hang đá Bethléem đến đỉnh núi Sọ. Nhưng từ ngày Chúa ngự về trời, đã hai mươi thế kỷ, bà Chúa nghèo ở lại, bị mọi người ruồng rẫy coi khinh, bơ vơ không nơi nương tựa.
Đọc sách “Giao ước linh thiêng của thánh Phanxicô và Bà Chúa Nghèo” kể lại cuộc gặp gỡ lần đầu tiên giữa đoàn Hiệp sĩ Chúa Kitô và Bà Chúa Nghèo, ta thấy tuy Đức Nghèo được đề cao nhưng lại có nhiều đòi hỏi khắc khe.
Hai đoạn chính của sách kể chuyện nhà thơ rong Thiên Chúa cùng mấy người bạn đồng hành, không bị không gậy, hai tay không, phiêu lưu mạo hiểm khắp bốn phương trời, cố tìm cho được Bà Chúa Nghèo xinh đẹp, đã bị phụ tình. Sau khi đã lên thác xuống ghềnh, vượt qua bao nhiêu gian hiểm, anh em gặp Bà trên đỉnh núi cao.
Gặp bà, nhà thơ rong cất lời ca tụng duyên dáng cao quý của bà và tha thiết xin bà đưa đường chỉ lối tìm đến Chúa Kitô.
Gặp anh em, Bà Chúa Nghèo cũng vui mừng hớn hở. Bà kể lại cho nghe cuộc đời lưu lạc bơ vơ, bị trần gian bạc đãi của bà, giọng đượm buồn và ngụ ý trách móc. Anh em cảm động ứa nước mắt, thề quyết thủy chung với bà. Rồi thỉnh bà về thăm tu viện anh em ở.
Sau đây là đoạn trích trong Giao Ứơc Linh Thiêng, kể lại bữa tiệc anh em tổ chức mừng Bà Chúa Nghèo đến thăm tu viện.
“Thức ăn đã dọn, anh em mời Bà Chúa Nghèo dùng bữa. Bà Chúa truyền:
Trước bữa ăn, yêu cầu anh em hướng dẫn tôi tham quan nhà nguyện, phòng tu nghị, nội viện, phòng ăn, phòng ngủ, chuồng nuôi gia súc gia cầm, bàn ghế chạm trổ bóng nhoáng và tòa ngang dãy dọc của anh em. Các cơ sở ấy ở đâu, tôi chỉ thấy anh em bình thản vui vẻ, như đã được thỏa mãn, nên tôi được an ủi và tràn đầy vui mừng.
Anh em thưa lên: “Tâu lệnh Bà, tâu Hoàng hậu, các tôi tớ của bà đi đoạn đường xa, đã thấm mệt, và hẳn lệnh Bà đi với chúng tôi cũng mệt. Xin lệnh Bà vui lòng, chúng tôi cùng ăn uống lấy lại sức, sau đó chúng tôi xin thi hành theo ý lệnh Bà.
Bà Chúa nói: “Ý kiến hay ! Vậy anh em hãy đi lấy nước để chúng ta rửa tay, nhớ lấy thêm cái khăn để lau tay”. Anh em vội đi tìm một cái bình đựng được nhiều nước, nhưng tìm không có, đành đưa ra một cái chậu sành nhỏ, đựng được ít nước. Anh em dội nước lên tay bà, vừa nhìn chung quanh như tìm cái khăn. Nhà không có khăn, một anh em đành đưa vạt áo để Bà Chúa lau tay. Bà Chúa nói lời cảm ơn, nhưng lòng bà ngợi khen Chúa đã ban cho Bà những người bạn đồng hành như thế.
Anh em mời Bà Chúa đến chỗ đặt bàn ăn, trên bàn thức ăn đã dọn sẵn. Bà Chúa đưa mắt thoáng nhìn, chẳng thấy gì ngoài bốn năm ổ bánh lúa mạch thứ thường, đặt trên mấy nắm cỏ. Bà rất ngạc nhiên và tự nghĩ: “Ai đã từng thấy như vậy chưa, từ xưa tới nay. Ngợi khen chúc tụng Chúa, là Thiên Chúa, Chúa đã quan tâm đến hết mọi người! Chúa có thể những gì Chúa muốn. Chúa dạy dân Chúa biết làm những gì đẹp lòng Chúa. Và Bà Chúa cùng anh em ngồi xuống, đồng thời dâng lời cảm tạ Chúa, vì Chúa đã ban mọi ơn lành.
Bà Chúa truyền bưng các đĩa đựng món ăn ra. Anh em đem đặt giữa bàn một cái tô sành đựng nước lã, để mọi người chấm bánh khô cho mềm, dễ ăn, nhà không có các món nấu nướng chiên xào.
Bà Chúa truyền thôi thì đem món rau sống ra cũng được. Nhưng anh em không có vườn để trồng rau. Anh em vội chạy vào ven rừng hái một ít rau dại đem về dâng lên cho bà. Bà bào: “Xin cho ít muối, vì rau đắng khó ăn”. Anh em thưa: “Xin lệnh bà chờ cho một lát, để anh em có đủ thời giờ về xin ở thành phố, và cũng còn tùy nếu có người cho”- “Vậy xin cho con dao, để cắt bỏ các lá rau đã vàng và cắt bánh đã khô và cứng”.
“Thưa trong anh em không ai làm nghề thợ rèn. Sau này chúng tôi sẽ tìm cho bà một con dao, tạm thời xin bà dùng răng để cắn bánh”- “ Nhà có rượu không ?” Anh em thưa: “Tâu lệnh bà, chúng tôi không có rượu, vì nguyên sơ con người chỉ sống bằng bánh và nước. Hơn nữa bà là bạn trăm năm của Đức Kitô, uống rượu không tốt, rượu là chất độc hại. Sau khi đã dùng bữa, anh em cảm thấy vui hơn, vì đã được sống trong cảnh nghèo vinh quang, còn hơn cảnh giàu có sung túc gấp bội. Anh em dâng lời chúc tụng Chúa đã ban cho ơn trọng đại như thế và anh em mời Bà Chúa Nghèo đi nghỉ. Bà cũng cảm thấy mệt. Bà phải nằm giữa đất, không chăn không chiếu. Bà truyền lấy gối để kê đầu. Anh em bê hòn đá đặt dưới đầu bà.
Sau giấc ngủ ngắn và ngon, bà yêu cầu anh em hướng dẫn bà đi tham quan tu viện. Anh em đưa bà lên một ngọn đồi cao, rồi vun tay chỉ bốn phương trời. – “Tâu lệnh bà đó là tu viện của chúng tôi”.
Bà cảm động. Bà còn nói thêm ít lời huấn dụ khuyến khích nữa rồi từ giã anh em.
Đức Nghèo có những đời hỏi khắt khe, nên đời sống của anh em ở Rivô - Tortô quả thật là khắc khổ.
Túp lều anh em tạm trú cũng chẳng rộng đủ dung nạp con số mười hai người. Túp lều ấy bỏ hoang làm nơi ẩn cho khách lỡ đường tránh mưa gió. Bé và thấp, không đủ chỗ, nhưng Phanxicô vẫn từng nhắc lại: Đường lên trời bắt đầu từ lều tranh hẳn ngắn hơn từ cung điện. Ngài lấy phấn trắng ghi lên xà tên mỗi anh em để khi tới giờ cầu nguyện hay nằm ngủ, ai nấy đều có chỗ riêng, khỏi mất trật tự và làm ồn ào.
Khổ về chỗ ở, anh em lại thiếu thốn cả cái ăn. Các nhà dưỡng phong hay các thôn xóm anh em tới làm công, có lẽ cũng nghèo, cũng ít việc làm, nên thường thường anh em phải nuôi thân với cũng của thừa, ăn mày từng cửa. Bữa ăn sơ sài kham khổ, bụng đã quen rồi, mà lắm khi vẫn không có. Anh em đành lượm củ cải rơi rớt ngoài đồng hay trên các ngã đường, đem về luộc.
Sự thiếu thốn làm khổ tâm anh em hơn hết là không có lấy một ngôi nhà nguyện nhỏ, cho dẫu bằng tranh. Nhà nguyện của anh em chỉ là một cây Thánh giá to bằng gỗ, cắm giữa trời, có lẽ dưới bóng một cây cổ thụ. Sách đọc là đó. Sách kinh là đó.
Bàn thờ cũng là đó nữa. Có khi lẻ tẻ từng người, có khi tất cả mười hai anh em, quỳ gối chung quanh, lặng lẽ suy về cuộc tử nạn của Chúa Cứu Thế, suy cho đến độ lòng thổn thức và nước mắt chảy ròng ròng mới thôi.

MỤC LỤC