Thánh ELIZABETH ANN SETON
(1774-1821)
Lược sử
Mẹ Xêtông là một trong những rường cột của
Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Ngài sáng lập tu hội đầu tiên dành cho phụ nữ Hoa Kỳ,
Dòng Nữ Tu Bác Ái, mở trường học đầu tiên trong giáo xứ Hoa Kỳ và thiết lập cô
nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ. Tất cả những điều trên ngài thực hiện trong vòng 46
năm đồng thời vừa nuôi dưỡng năm người con.
Êlidabét An Bêlê Xêtông quả thực là
người của thế hệ Cách Mạng Hoa Kỳ, ngài sinh ngày 28 tháng Tám 1774, chỉ hai
năm trước khi có bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Bởi dòng dõi và hôn nhân, ngài có liên
hệ đến các thế hệ đầu tiên sống ở Nữu Ước và vui hưởng kết quả của một xã hội
tiến bộ. Được nuôi nấng trong một gia đình nề nếp Anh Giáo, ngài biết được giá trị
của sự cầu nguyện, Kinh Thánh và sự kiểm điểm lương tâm hàng đêm trước khi đi
ngủ. Cha của ngài, Bác Sĩ Risa Bêlê, không đóng góp nhiều cho nhà thờ nhưng ông
là người rất nhân đạo, đã dạy được cho cô con gái bài học yêu
thương và phục vụ tha nhân.
Sự chết sớm của người mẹ năm 1777 và
của bà vú nuôi năm 1778 đã đem lại cho ngài 1 cảm nhận về sự tạm bợ của trần gian và thúc giục ngài hướng về vĩnh cửu. Thay
vì ủ rũ chán chường, ngài đối diện với các biến cố mà ngài coi là sự "hủy
hoại khủng khiếp" với một hy vọng đầy phấn khởi.
Vào năm 19 tuổi, Êlidabét là hoa khôi
của Nữu Ước và kết hôn với một thương gia đẹp trai, giầu có là ông Viliam Magi
Xêtông. Họ được năm người con trước khi doanh nghiệp lụn bại và ông chết vì
bệnh lao. Vào năm 30 tuổi, bà Elidabét đã là một góa phụ, không một đồng xu và
phải nuôi nấng năm đứa con.
Trong khi sống ở Ý, bà được chứng
kiến phong trào Tông Đồ Giáo Dân qua gia đình của những người bạn. Ba điểm căn
bản sau đã đưa bà trở về đạo Công Giáo: tin tưởng sự hiện diện thực sự của Chúa
Giêsu trong bí tích Thánh Thể, sùng kính Đức Mẹ và tin rằng Giáo Hội Công Giáo
là một giáo hội tông truyền do Đức Kitô thành lập. Nhiều người trong chính gia
đình bà cũng như bạn hữu bà đã tẩy chay bà khi bà trở lại Công Giáo vào tháng
Ba 1805.
Để nuôi con, bà mở trường học ở
Bantimo. Ngay từ ban đầu, nhóm giáo chức của bà đã theo khuôn khổ của một tu
hội, mà sau đó được chính thức thành lập vào năm 1809.
Hàng ngàn lá thư của Mẹ Xêtông để lại
cho thấy sự phát triển đời sống tâm linh của ngài, từ những việc tốt lành bình
thường cho đến sự thánh thiện cách anh hùng. Ngài chịu đau khổ vì những thử
thách như đau ốm, hiểu lầm, cái chết của những người thân yêu (chồng và hai con
gái), cũng như sự lo lắng đến đứa con trai hoang đàng. Ngài từ trần ngày 4
tháng Giêng 1821, và vào ngày 17-3-1963, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tuyên xưng
ngài là vị chân phước đầu tiên người Hoa Kỳ. Ngài được phong thánh ngày
24-9-1975.
Suy niệm 1: Rường
cột
Thánh Êlidabét Xêtông quả là rường cột của Giáo Hội Hoa Kỳ, khi ngài xây
dựng ngôi nhà bản thân ngài bằng Thiên Ý như là rường cột, đúng như lời ngài
ngỏ với các nữ tu: "Tôi thiết nghĩ mục đích trước nhất trong công việc
hàng ngày của chúng ta là thi hành thánh ý Thiên Chúa; thứ đến, thi hành điều
ấy trong phương cách mà Ngài muốn; và thứ ba, thi hành điều ấy vì đó là ý
Chúa".
Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô cũng được Giáo Hội biểu dương là rường
cột, khi thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là
người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người
Ítraen, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân (Kinh Tiền Tụng của ngày lễ).
Còn Đức Giêsu thì được tôn vinh như Đá Tảng góc tường (1Cr 10,4) mà Kinh
Thánh đề cập tới (Mt 21,42) trong ngôi nhà của Thiên Chúa với nền móng là các
tông đồ và ngôn sứ (Ep 2,20), theo cách cấu trúc của người Ítraen xưa kia.
* Lạy
Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con được vinh dự làm một viên đá trong
tòa nhà Hội Thánh. Xin giúp chúng con đừng coi thường vai trò của mỗi chúng
con, để không bao giờ biến thành một con sâu có thể làm rầu cả nồi canh.
Suy niệm 2: Tiên
khởi
Thánh Êlidabét Xêtông dầu là giới nữ nhưng đã được Thiên Chúa kén chọn để
thực hiện những công trình đầu tiên cho Giáo Hội Hoa Kỳ: Ngài sáng lập tu hội
đầu tiên dành cho phụ nữ Hoa Kỳ, Dòng Nữ Tu Bác Ái, mở trường học đầu tiên
trong giáo xứ Hoa Kỳ và thiết lập cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ.
Đức Giêsu cũng đã sáng lập Hội Thánh, khi thành lập Nhóm Mười Hai (Mc 3,14)
và cải tên Simôn là Phêrô nghĩa là Tảng Đá, với lời công bố: “Trên tảng đá này,
Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt
16,18).
Trên bước đường rao giảng Tin Mừng, các tông đồ đặc biệt thánh Phaolô đã
thiết lập nhiều cộng đoàn tiên khởi. Thánh Têphanô là vị tử đạo tiên khởi (Cv
7,60). Bài giảng ngay sau Ngày lễ Ngũ Tuần của Phêrô đã giúp khoảng ba ngàn
người đầu tiên theo đạo (Cv 2,41). Gia đình Têphana là những người đầu tiên trở
lại đạo tại xứ Akhaia và đã dấn thân phục vụ dân thánh (1Cr 16,15).
* Lạy
Chúa Giêsu, đối với Chúa, đứng đầu hay đứng chót, đạo cũ hay đạo mới không quan
trọng bằng việc bền chí đến cùng (Mt 10,22). Xin Chúa giúp chúng con hiểu và
sống để được cứu thoát.
Suy niệm 3: Tín
ngưỡng
Được nuôi nấng trong một gia đình nề nếp Anh Giáo, thánh Êlidabét Xêtông
biết được giá trị của sự cầu nguyện, Kinh Thánh và sự kiểm điểm lương tâm hàng
đêm trước khi đi ngủ. Hành trang quý báu này được ngài mang theo và giúp ngài
rất nhiều trong chuỗi ngày làm một tín hữu và một nữ tu công giáo.
Đức Giêsu khai mở thời Tân Ước, nhưng Ngài vẫn quý trọng thời Cựu Ước. Ngài
vẫn đến hội đường Dothái để tham dự Phụng Vụ hằng tuần vào ngày Sabát (Lc
4,16). Ngài cũng sai các môn đệ đi dọn chỗ để cả cộng đoàn cùng ăn lễ Vượt Qua
(Mt 14,12-17). Ngài từng tuyên bố Ngài đến không để bãi bỏ Luật Môsê nhưng để
kiện toàn (Mt 5,17).
Tín ngưỡng của mỗi người cần được tôn trọng, cách riêng các điểm hay và tốt
cho dầu có dị biệt. Đó là một lý do để có phong trào đại kết giữa các Giáo Hội
Kitô và giữa Giáo Hội Kitô với các tôn giáo khác. Đó là một nét độc đáo trong
sắc lệnh về Hiệp Nhất của thánh công đồng chung Vaticanô II, sắc lệnh đã được
các nghị phụ biểu quyết ngày 21/11/1964 với 2137 phiếu thuận, 11 phiếu chống và
đã được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI phê chuẩn và công bố trong ngày.
* Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mặc lấy tâm tình của Giáo Hội, để biết sống tinh
thần đối thoại hơn là đối chọi, khi có cơ hội gặp gỡ các anh chị em không đồng
tín ngưỡng.
Suy niệm 4: Bài học
yêu thương
Một di sản quý giá mà thánh Êlidabét Xêtông thừa hưởng từ bác sĩ Risa Bêlê,
thân phụ của ngài, không phải là của cải vật chất, nhưng đó là bài học yêu
thương và phục vụ tha nhân. Số vốn tinh thần này đã được ngài làm sinh lời gấp
bội, qua các công việc dành cho giới phụ nữ, giới giáo chức và học sinh cũng
như giới cô nhi.
Bài học yêu thương và phục vụ tha nhân của Đức Giêsu đã in đậm vào tâm trí
các tông đồ qua việc chính Ngài rửa chân cho họ trong bữa Tiệc Ly (Ga 13,14).
Bài học thoạt đầu thật khó nuốt trôi, khiến Phêrô phải ngỡ ngàng lên tiếng phản
ứng, để rồi sau đó lại hăm hở đón nhận (Ga 13,8-9).
Yêu thương những người yêu thương mình. Phục vụ cho các ân nhân của mình,
để càng phục vụ càng nhận được nhiều lợi ích tối đa. Điều này không đáng nói,
vì quá dễ thực hiện, vì ai cũng làm được. Nhưng yêu thương và phục vụ kẻ thù ở
bất cứ tình huống và dạng thức nào, đó mới là điều đáng kể.
* Lạy
Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con quả tim bằng thịt, để chúng con có thể yêu
thương phục vụ như chính Chúa đã nêu gương yêu thương phục vụ và đã dạy.
Suy niệm 5: Thế sự
phù vân
Sự chết sớm của người mẹ năm 1777 và của bà vú nuôi năm 1778 lúc ngài còn
tuổi ấu thơ, cũng như cái chết của những người thân yêu (chồng vào năm 1804 và
hai con gái), đã đem lại cho Êlidabét một cảm nhận về sự tạm bợ của trần gian
và thúc giục ngài hướng về vĩnh cửu.
Ngay từ thế kỷ III, ông Côhelét đã khắc khoải về ý nghĩa cuộc sống ở trần
gian. Ông đã nhận định: “Sau khi nhìn thấy mọi công việc thực hiện dưới ánh mặt
trời, tôi nhận ra: tất cả chỉ là phù vân, chỉ là công dã tràng xe cát” (Gv
1,14), và cuối cùng đi đến kết luận: "Phù vân, quả là phù vân, mọi sự đều
là phù vân cả!" (Gv 12,8).
Nỗi khắc khoải này đã được Đức Giêsu trả lời dứt khoát với lời răn dạy:
"Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì
dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu" (Lc 12,15), vì
“Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa,
thì là đồ ngốc!" (Lc 12,20-21). Vậy "Hãy bán tài sản của mình đi mà
bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao
hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá” (Lc 12,33).
* Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào
Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng con hưởng dùng, để rồi phải
làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn
sàng chia sẻ. Như vậy chúng con đã tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc
cho tương lai, để được sự sống thật (1Tm 6,17-19).
Suy niệm 6: Cái nhìn
lạc quan
Thánh Êlidabét Xêtông chịu đau khổ vì những thử thách như đau ốm, hiểu lầm,
cũng như sự lo lắng đến đứa con trai hoang đàng. Thay vì ủ rũ và chán chường,
ngài đối diện với các biến cố mà ngài coi là sự "hủy hoại khủng
khiếp" với một hy vọng đầy phấn khởi.
Với cái nhìn lạc quan, Đức Giêsu không xử sự với người tội lỗi như nhóm
người Biệt Phái. Ngài không xa lánh nhưng gần gũi (Lc 15,1), thậm chí còn đồng
bàn (Mt 9,10) và đến trọ (Lc 19,5), hầu biến các tội nhân thành thánh nhân. Một
người ngoại tình đáng tội bị ném đá chết vẫn được Chúa cứu sống cả phần xác lẫn
phần hồn (Ga 8,1-11).
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Như thế, mỗi sự kiện, mỗi biến cố, mỗi
môi trường sống đều được mỗi người đọc, hiểu, nhìn theo những cách và ý nghĩa
khác nhau. Thế tại sao chúng ta không biết lạc quan nhìn đời, nhìn người và
nhìn mình để vui sống và vươn lên.
* Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết nhìn mọi sự dưới khía cạnh tốt, để cuộc đời
chúng con không bao giờ bị bóng đêm bi quan phủ lấy, nhưng luôn tươi nở như đóa
hoa trong ánh hừng đông lạc quan, để rồi dần dần biến khuyết điểm thành ưu điểm
và thất bại thành thành công.