Danh nhân _ Paul Claudel

CLAUDEL (PAUL)
(1868-1955)
Một nhà văn rất tên tuổi, vừa là một nhà ngoại giao xuất sắc của nước Pháp.  
TIỂU SỬ VÀ CÔNG NGHIỆP
Paul Claudel sinh ngày 6-8-1868 tại Villeneuve sur Fèrre (Pháp) và qua đời ngày 23-2-1955 tại Paris.
Thuở bé, tiên sinh học ở quê nhà. Đến năm 14 tuổi lên Paris. Gia đình tiên sinh thuộc hạng trung lưu và xưa nay đã hiến dâng nhiều linh mục cho Giáo hội và chú ruột của tiên sinh cũng là cha sở tại xã nhà. Đỗ tú tài xong, tiên sinh vào Đại học Luật khoa đồng thời theo dõi các lớp ở Đại học Chính trị.
Đến đây, tiên sinh vừa đúng 18. Có thể nói cuộc đời mới của tiên sinh cũng đã bắt đầu, nhất là về lĩnh vực tinh thần và tư tưởng, tiên sinh bắt gặp được một số tác phẩm của cố thi sĩ Arthur Rimbaud. Thi sĩ này tựa hồ đã khai quang bộ óc tiên sinh. Đây là vào khoảng tháng 6, nhân đọc Tạp chí Trào lưu (La Vogue) mở đầu với thi phẩm Thần cảm (Illumination) của Rimbaud, tiên sinh viết: ”Qủa thật nó (Illumination) đã gợi sáng tôi thoát khỏi thế giớ ghê tởm của Taine, Renan và các thần Moloch của thế kỷ XIX: “thoát khỏi thế giới của ngục hình…”
Rồi 6 tháng sau, nhân đêm lễ Giáng sinh, đứng dựa cột đá nhà thờ Đức Bà... nhân buổi lễ tưng bừng, tiên sinh bỗng thấy thần cảm huyền diệu xâm chiếm cõi lòng… Trong giây lát, lòng tiên sinh xúc cảm mạnh và Đức Tin đã về với tiên sinh.
Về đoạn này, tiên sinh đã viết: “và tôi tin có Chúa hiển hiện. Người ngự kia… Người thương tôi, gọi tôi… Nước mắt tôi chảy ra với những tiếng nức nở…”
Tuy nhiên phải 4 năm nữa, tiên sinh mới thắng được và thoát ly hẳn những dục vọng ăn rễ sâu xa trong người từ lâu, để từ đấy trở về với Đức Tin.
Trong lúc chuẩn bị vào ngành ngoại giao, tiên sinh cũng bắt đầu vào con đường Văn chương. Tiên sinh đã chịu ảnh hưởng của các nhà văn tên tuổi như Shakespeare, Eschyle, Dostoievky, Dante và cả Mallarmé, Marcel Schowb, Jules Renard nữa.
Vào khoảng này, tiên sinh khai sanh hai tác phẩm: Tête d’Or (đầu vàng), năm 1890; La Ville (Đô thị), năm 1893.
Năm 1890, tiên sinh đỗ nhất kỳ thi ở Ngoại giao và bắt đầu bước vào đường công danh.
Đầu tiên nhận chức Lãnh sự sau đó thăng lên chức Đại sứ, trong 40 năm, tiên sinh đã thay mặt nước Pháp ở Châu Mỹ tại nhiều nơi (Nữu ước, Boston, Rio de Janeiro, Washington), ở Châu Á tại Phúc châu, Thượng hải, Thiên tân, Nhật bản, có viếng thăm Sai gòn ta năm 1901, đã từng đi ngang Tây Bá Lợi Á bằng chiếc xe lửa dài nhất thế giới của Nga (1909), ở Châu Âu tại Tiệp Khắc, Bỉ, Đức, La mã…. Và đến năm 1933 thì chấm dứt con đường ngoại giao của tiên sinh, vì cũng đã già rồi (67 tuổi).
VĂN NGHIỆP
Tiên sinh đã viết gần 40 tác phẩm: hầu hết đều viết trên các nẻo đường công du hay ở khắp nơi trên thế giới tại các nhiệm sở của tiên sinh, vào những lúc nhàn hạ hay khi cõi lòng rạo rực.
Tác phẩm Trao đổi (L’Êchange) viết ở Mỹ, Con tin (Otage) tại Trung hoa và Tiệp khắc, Chiếc giày satanh (Le soulier de satin) tại Nhật…
Đề tài tác phẩm của tiên sinh đều thoát khỏi nếp sống phù hoa rộn rịp của một công chức cao cấp mà lại bắt nguồn từ cái chân lý bất diệt, nhằm rao giảng cho Phúc âm. Nguồn cảm hứng của tiên sinh, trước hết là Thánh Kinh rồi đến Eschyle, nhà hiền triết kiêm thi sĩ cổ Hy lạp. Thêm vào đó, đời sống kham khổ của người dân Á đông còn giúp cho tiên sinh có một nhãn quan rộng rãi về kiếp sống con người, để rồi tìm nguồn an ủi nơi Đấng Thượng Đế. Hai tác phẩm Thông cảm Đông phương (Connaissance de l'Est), Chim đen trong mặt trời mới mọc (L’oiseau noir dans le Soleil levant) đã chứng minh quan điểm đó. Tiên sinh cũng có chịu ảnh hưởng của các nhà soạn kịch danh tiếng Tây ban nha như Lope de Vega, Caladeron.
Các kịch phẩm đầu tiên của Paul Claudel như L’Échange, Partage de Midi (1906), L’annonce faite à Marie (Truyền tin cho Đức Mẹ) đã thể hiện một đường lối khác biệt. Nhất là vở tuồng: L’annonce faite à Marie do Lugné Poe đưa lên sân khấu đã mở đầu giai đoạn kịch nghệ về tôn giáo phục hưng.
Sau đó là các tác phẩm: L’Otage, Le pain dur, 1918 (Chiếc bánh cứng), Le père humilié, 1920 (Người cha sỉ nhục) và Le soulier de satin (1919-1924). Vở tuồng này là thành công xuất sắc nhất của tiên sinh, mãi đến năm 1943 mới trình diễn và được khán giả nhiệt liệt hoan nghênh.
Từ 1930 trở đi, tiên sinh hướng tác phẩm mình vào việc giải thích, bình luận Thánh kinh. Vì nặng tư tưởng tôn giáo nên đã có lúc tiên sinh gọi Corneille là người “không đáng gì”, Goethe, Renan là những “kẻ báo hại”, Michelet, Hugo “đốn mạt”…
Văn nghiệp tiên sinh phong phú nhưng thời ấy ít ai thưởng thức. Năm 1935, tiên sinh lại không được thừa nhận vào Viện Hàn lâm.
Trong ngót 40 tác phẩm của tiên sinh, có thể kể những tác phẩm sau đây là chính:
Khúc nhạc 3 giọng (Cantate à 3 voix, 1931), Thánh lễ đằng kia (La messe là bas, 1919), Lập trường và đề nghị (Positions et propositions), Những chuyện phiêu lưu của Sophie (Les aventures de Sophie, 1936), Jeanne d’Arc trên dàn hỏa táng (Jeanne d’Arc au bûcher, 1938), Cái kiếm và cái kính (L’Epée et le Miroir, 1939)…
Năm 1946, tiên sinh mới đắc cử vào Hàn Lâm viện.
TÓM TẮT NHỮNG TÁC PHẨM CẦN BIẾT:
Tête d’Or (1889):
Sau khi mai táng người vợ yêu quý, Simon Angel, một anh chàng phiêu lưu, sau này mệnh danh là Tête d’or (cái đầu vàng), tình cờ gặp cậu bé tên là Cébès. Tuy thất thời và đau khổ, Simon vẫn còn ham danh lợi và tin tưởng ở tương lai, nên kết thân với Cébès, biết đâu nó sẽ giúp ích mình mai sau.
Vận may vừa đến: Simon trở thành một viên tướng kỳ tài, cứu nước, đuổi quân xâm lăng. Sẵn uy quyền, cái đầu vàng nổi lên giết vua, đoạt ngai vàng, đuổi Công chúa, đàn áp hết quần thần trung thành với vua cũ… Nhưng Cébès bỗng ngã bệnh chết, báo hiệu cho Simon biết kiếp mong manh của mọi việc trên đời. Sau đó, Simon đánh đâu thua đó, quan quân đào ngũ. Trong lúc bị thương nặng, gần chết, Simon nghe tiếng rên thảm thiết. Chàng nhận ra Công chúa đang bị đóng đinh trên một cây thông. Cái đầu vàng cố hết sức bình sinh, lấy răng nhổ đinh, cứu chết Công chúa nhưng chàng lại ngã gục… Cái chết đã đến để kết thúc mọi việc trên đường đời, Simon đã mất người vợ yêu quý, mất người bạn thân tín Cébès và luôn cả bản thân cũng mất. Đời có gì vĩnh cửu đâu ? Công danh phú quý mà chi ? Tham tàn gian ác mà chi ? Cái Trật tự tối cao mà ai kia đã đặt ra rồi, dễ gì chúng ta xáo trộn nó được ?
Đô thị (La ville, 1890).
Một bi kịch ba màn tả một thành phố, được tổ chức theo một lề lối sống hoàn toàn vật chất và chính trị. Mọi sinh hoạt về tôn giáo đều vắng bóng và không đâu tìm ra được một bức tranh của Chúa hay một Thánh giá. Tuy vậy, dân chúng của thành phố này có thể chia ra làm 3 nhóm và tư tưởng cũng như chủ trương sống của họ có thể tìm thấy trong 3 đại diện:
Isodore de Besme chủ trương sống hoàn toàn vật chất, bằng máy móc. Tất cả nhơn vật tài lực, phải được tập trung vào công việc khai thác thiên nhiên. Thực dụng chủ nghĩa phải được triệt để áp dụng. Vấn đề vụ lợi phải là động cơ của mọi công việc.
Hậu quả của lề lối sống này đã đưa đến chỗ là ai cũng chán sống, thấy đời sống nông cạn tầm thường quá…
Avare thì không tán thành lối sống nói trên, tìm mọi cách để chống đối, để phá hoại mọi tổ chức của Isodore de Besme. Avare chỉ hành động theo ý kiến của đa số dân chúng, làm sao cho đời sống bớt ngột ngạt dễ thở hơn, chớ riêng Avare cũng không có giải pháp gì hay hơn.
Coeuvre, một thi nhân, một tín đồ nhiệt thành của Chúa. Ông đã có vợ là Lola, có con là Ivors. Ivors sau này lên nhậm chức Đô trưởng cho Thành phố. Coeuvre có khuyên con rằng:
-          Không việc nào thành tựu lâu dài nếu không có Chúa.
-          Không có Chúa, việc tốt trở nên xấu,…
Rồi ở màn thứ 3, người ta thấy Coeuvre khoác áo đi tu. Nói tóm, tác giả nêu lên một vấn đề mà ai cũng đã từng băn khoăn: vấn đề con Người trước Thượng đế.
Le Soulier de Satin (chiếc giày bằng Satin):
Một bi kịch xuất sắc nhất của tiên sinh viết trong 5 năm mới xong (1919-1924) và đến năm 1945 mới đưa lên sân khấu.
Chuyện xảy ra vào thời kỳ Phục hưng tại Tây Ban Nha. Chuyện gồm có 2 nhân vật chính: Prouhèze và Rodrigue de Manacor.
Prouhèze, gái đã có chồng nhưng vẫn yêu Rodrigue de Manacor. Vì một công việc, nàng phải đến gặp Rodrigue tại nhà riêng. Trước khi ra đi, nàng đem để dưới chân Đức Mẹ một chiếc giày bằng satin và nguyện trước Đức Mẹ “nếu con đi tới tội lỗi thì con sẽ đi bằng một chân què, nếu con bay đến tội lỗi thì con sẽ bay đến bằng một cánh gẫy”.
Rodrigue de Manacor, một kẻ ham danh lợi, nuôi mộng tóm thâu thiên hạ và cũng đa tình, yêu Prouhèze, bất chấp sự dạy bảo của tôn giáo… hai người này đã phải sống qua một cuộc đời đầy sóng gió, nhưng nhờ tôn giáo vẫn trở lại được với con người đạo đức, con người của Chúa.
Prouhèze, nhờ những câu thề nguyện trên, nên luôn luôn có thể trung thành với chồng, mặc dầu sau đó có nhiều lần gặp gỡ Rodrigue.
Rodrigue tuy với nhiều sự yếu đuối nói trên, gần gũi Prouhèze nhiều lần rồi cũng được cảm hóa theo. Chàng thoát ly dần dần những dục vọng về danh lợi, những cám dỗ về nhục dục và chỉ mơ màng đến một đời sống trong trắng và vĩnh cửu.
Bằng tác phẩm này, tiên sinh muốn nói lên một vấn đề: con người phải cố gắng, bằng nhiều cố gắng đau đớn và lâm ly làm sao thoát được cảnh trần gian này mà tiến dần dần đến Thượng đế.
Tác phẩm rất khó hiểu. Các hành động của nhân vật trong bi kịch đều tượng trưng và có ý nghĩa xa xôi.
VÀI DÒNG KẾT LUẬN:
-          P.Claudel là nhà văn của Thiên Chúa giáo.
-          Ngòi bút của tiên sinh nhắm mục đích làm sáng tỏ uy danh của Chúa, khuyên người đời nhận thấy cảnh tạm bợ, mong manh của thế giới hữu hình này, và nên trở về với Chúa. Vì vậy, tiên sinh mạt sát kịch liệt những văn sĩ, thi nhân nào hoài nghi hoặc bài xích ít nhiều Giáo hội như Voltaire, Victor Hugo, Renan…
-          Tiên sinh phản đối phái lãng mạn, cho rằng văn chương của phái này không được xây dựng trên một căn bản nào vững chãi.
-          Thơ của tiên sinh nhẹ nhàng uyển chuyển như văn xuôi, nhờ vậy ý tứ dồi dào.
-          Quan niệm xây dựng kịch của tiên sinh cũng khác những kịch gia xưa nay: câu chuyện không xảy ra tại một miền nào nhất định và trong thời gian 24 giờ nhất định mà lại xảy ra tại nhiều nơi (Châu Âu, Châu Phi, Châu Á, Cadix, Sicile, Rome, Panama, Prague,…) như trong tác phẩm “Chiếc giày satin” chẳng hạn và trong thời gian 10 năm và hơn nữa.
Độc giả, khán giả xem tuồng của tiên sinh dài hơn nhiều những tuồng xưa nay với nhiều nhân vật, nhiều đối thoại và còn có cảm giác như đi du lịch xưa nay.
Nói tóm, kịch của tiên sinh phong phú hơn nhiều, mới, lạ hơn nhiều những kịch xưa nay.
Tiên sinh được nhiều nhà văn danh tiếng ca ngợi: Léon Dauder gọi tiên sinh là thi nhân độc đáo nhất của thế giới hiện đại. Thibaudet cho rằng chỉ có tiên sinh mới xứng đáng so sánh với Victor Hugo mà thôi. Nữ sĩ Anna de Noailles, Georges Duhamel đều rất mến phục tiên sinh…
Trích tác phẩm DANH NHÂN THẾ GIỚI
của Trịnh Chuyết