THỨ 7 SAU CHÚA NHẬT
33 THƯỜNG NIÊN
NĂM LẺ
BÀI ĐỌC: 1Mcb 6,1-13
1 Hồi đó, vua
An-ti-ô-khô rảo khắp các miền thượng du. Vua nghe tin ở Ba-tư có thành
Ê-ly-mai, một thành nổi tiếng vì nhiều của cải vàng bạc. 2 Đền thờ
trong thành cũng có nhiều báu vật, có cả những mảnh giáp trụ bằng vàng, có áo
giáp và vũ khí mà con vua Phi-líp-phê là A-lê-xan-đê đã để lại; ông này là vua
miền Ma-kê-đô-ni-a và là người đầu tiên cai trị nước Hy-lạp. 3 Vậy
vua An-ti-ô-khô đã tới đó, tìm cách đánh chiếm và cướp phá thành, nhưng không
thành công, vì dân trong thành đã hay tin trước. 4 Họ đứng lên giao
chiến chống lại vua khiến vua phải bỏ chạy về Ba-by-lon, lòng buồn não ruột. 5
Bấy giờ vua đang ở Ba-tư. Có người đến báo cho vua biết là các đoàn quân sang đất
Giu-đa đã bị thảm bại:6 Tướng Ly-xi-a chỉ huy đoàn quân tinh nhuệ
nhất đã bị người Do-thái đẩy lui. Những người này càng thêm mạnh nhờ vũ khí,
quân nhu và và nhiều chiến lợi phẩm thu được của những đoàn quân đã bị họ đánh
tan tành. 7 Họ đã triệt hạ Đồ ghê tởm do vua xây ở trên bàn thờ dâng
lễ toàn thiêu tại Giê-ru-sa-lem, rồi xây tường luỹ cao chung quanh Thánh Điện
giống như ngày xưa. Cả thành Bết Xua của vua, họ cũng xây như vậy. 8
Nghe tin ấy, vua rất đỗi kinh hoàng. Vua lâm bệnh liệt giường vì phiền não, lại
cũng vì sự việc không diễn ra như lòng mong ước. 9 Vua nằm liệt như
thế đã lâu, nỗi buồn cứ ngày đêm ray rứt. Tưởng như ngày chết đã gần kề,10
vua cho vời bạn hữu đến và nói: "Tôi không thể chợp mắt, vì nỗi âu lo canh
cánh bên lòng. 11 Tôi tự nhủ: Tại sao giờ đây tôi phải điêu đứng khổ
sở như thế này? Trước kia, khi đang cầm quyền, tôi hạnh phúc và được yêu mến
biết bao!12 Nhưng bây giờ, nhớ lại thời ở Giê-ru-sa-lem, tôi đã lấy
mọi vật dụng bằng bạc bằng vàng, đã sai người đi tiêu diệt dân cư ở miền Giu-đa
mà không có lý do chính đáng. Hồi tưởng lại những hành vi tàn bạo đó,13
tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và giờ đây
sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn. ”
ĐÁP CA: Tv 9/9A
Đ. Lạy Chúa, con hỷ hoan vì được Ngài cứu thoát.
(c 15c)
2 Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, kể ra đây
muôn việc lạ Chúa làm. 3 Mừng Ngài, con hân hoan nhảy múa, đàn hát
kính danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao.
4 Ngài xuất hiện, địch thù con tháo lui,
chúng té nhào mà chết. 6 Ngài hăm doạ chư dân, tiêu diệt lũ gian
tà,tên tuổi chúng, cũng xoá đi vĩnh viễn.
16 Kìa chư dân sa vào hố chúng đào, chân mắc
lưới chính mình giăng sẵn. 19 Nhưng người túng thiếu không mãi bị bỏ
quên,kẻ nghèo khổ chẳng tuyệt vọng bao giờ.
TUNG HÔ TIN MỪNG:
x 2Tm 1,10
Hall-Hall: Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã tiêu diệt thần chết,
và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh. Hall.
TIN MỪNG: Lc 20,27-40
27 Khi ấy, có mấy người
thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại.
28 Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: "Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết
cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà
không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em
mình. 29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng
chưa có con thì đã chết. 30 Người thứ hai,31 rồi người
thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để
lại đứa con nào. 32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. 33
Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng
làm vợ?"
34 Đức Giê-su đáp:
"Con cái đời này cưới vợ lấy chồng,35 chứ những ai được xét là
đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng
lấy chồng. 36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng
với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. 37
Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn
văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ
Áp-ra-ham,Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. 38
Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống,
vì đối với Người, tất cả đều đang sống. "
39 Bấy giờ có mấy người
thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: "Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm. "40
Thế là, họ không dám chất vấn Người điều gì nữa.
PHỤC VỤ ĐỂ PHỤC SINH
VINH HIỂN
Khát vọng được sống hạnh phúc muôn đời là khát vọng thuộc bản
năng của mọi người. Nhưng chỉ có Chúa Giêsu Phục Sinh mới có quyền làm cho xác
hồn mọi người được sống lại. Trong Do Thái giáo vốn đã có niềm tin Phục Sinh,
nhưng không thể minh chứng xác thực và cụ thể, do đó, nó đã trở thành một đề
tài tranh luận sôi nổi giữa hai nhóm Biệt phái và Sađốc. Chỉ một mình Đức Giêsu
mới là trọng tài xác quyết có sự sống lại, dựa vào Mạc Khải và đồng thời Đức
Giêsu cũng cho biết khái niệm chính xác về sự sống lại. Tuy nhiên, trong thế
giới Phục Sinh, vinh hiển hay tủi nhục cũng còn tùy thuộc vào cách sống thiện
hay ác của mỗi người:
1. TẠI
SAO NIỀM TIN PHỤC SINH KHÔNG ĐỒNG NHẤT TRONG DO THÁI GIÁO?
Nhóm Sađốc chỉ tin Ngũ Thư của ông Môsê: Sáng thế, Xuất hành, Lêvi,
Dân số, Đệ nhị luật, mà trong Ngũ Thư không mạc khải rõ về sự sống lại!
Trong khi
nhóm Biệt phái yêu thích Lề Luật, nên họ đã nhận toàn bộ Cựu Ước gồm 46 cuốn
làm kinh điển chính thức cho niềm tin. Niềm tin vào thế giới Phục Sinh chỉ được
Mạc Khải rõ nét trong sách Ngôn sứ (x Os 6,1t; Ez 37,1-14; Is 51,17 và Is 60,1).
Và đặc biệt trong sách Macabê ghi: “Khi
sắp tắt thở, người con thứ tư nói như sau: "Thà chết vì tay người đời đang
khi dựa vào Lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại"
(2Mcb 7,14a).
Có lẽ Mạc
Khải nói rõ về sự Phục Sinh trễ như thế vì lý do, trước đây khi dân Do Thái xây
thánh điện Giêrusalem, tưởng đó là đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng khi vua
Nabukodonosor cho quân đến phá Đền Thờ, dân bị lưu đày sang Babylon, làm cho dân Do Thái phải hoảng sợ,
họ bắt đầu suy nghĩ hạnh phúc viên mãn không thể đóng khung ở đời này được, mà
phải ở một thế giới khác. Vì bè Sađốc chỉ chấp nhận Ngũ Thư của ông Môsê, nên
khi Đức Giêsu trả lời cho họ về sự Phục Sinh, Ngài đã trích một đoạn trong sách
Xuất hành (nằm trong bộ Ngũ Thư) nói về tiếng Chúa phán dạy cùng ông Môsê khi
ông thấy bụi gai bốc cháy: “Ta là Chúa của Abraham, Chúa của Ysaac, Chúa của
Giacob” (Xh. 3, 2-6).
Và Đức
Giêsu đã giải thích: ngay đoạn sách này, Thiên Chúa đã mạc khải sự sống lại, vì
các tổ phụ Abraham, Giacob đã chết trước khi Chúa gọi ông Môsê. Thế mà Chúa vẫn
là Chúa các tổ phụ của ông Môsê, thì Ngài là Chúa của kẻ sống, chứ không phải
là Chúa của kẻ chết! Như thế Đức Giêsu đã xác định: Người ta còn có sự sống nữa
sau cuộc sống trần gian.
SỐNG
LẠI LÀ HỢP LÝ VÀ KITÔ GIÁO ĐÃ MINH CHỨNG ĐƯỢC ĐIỀU NÀY .
a- Sống lại là hợp lý: Con người đúng nghĩa không chỉ có xác hay chỉ có hồn, mà có cả
xác hồn. Do đó điều lành hay điều dữ con người làm là cả xác hồn đều làm, không
lẽ kết qủa chỉ có hồn được thưởng hay bị phạt? Vì thế, xác phải sống lại kết
hợp với hồn để cùng chung một số phận mới là hợp lý!
Mặt khác, phải có thế giới Phục Sinh, một thế giới hoàn toàn
không còn sự ác chế ngự con người, quyền lực sự ác phải bị tiêu diệt, để những ai
sống chiến đấu vì công lý sẽ được sống trong thế giới chỉ có công lý. Bởi thế,
thánh Phaolô nói: “Nếu ta đặt mối hy vọng vào Đức Kitô vỏn vẹn cho lúc sinh
thời này thôi, thì quả ta là kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ!” (Icr 15,19).
Vì nếu người chết không sống lại, thì ta cứ sống ác để đè bẹp bất cứ ai, chứ
dại gì mà phải chịu đựng, phải tha thứ cho kẻ hại mình, kết quả mình chịu thiệt
là kẻ khốn nạn nhất trên đời.
b- Chỉ có Chúa Giêsu mới
cho loài người được Phục Sinh, như Lời
Ngài đã nói:“Phục sinh và sự sống chính là Ta, ai tin vào
Ta,thì dầu có chết cũng sẽ sống” (Ga 11,25). Chân lý này đã được
minh chứng bằng việc Chúa Giêsu cho nhiều người chết sống lại. Đan cử: Ngài đã làm cho con gái
ông Giairô, con trai bà goá thành Naim, cậu Ladarô, được sống lại (x Mc 5,21t;
Lc 7, 11t; Ga 11). Dĩ nhiên, đấy mới chỉ là dấu chỉ sự Phục Sinh vào thời cánh
chung và minh chứng chỉ có Chúa Giêsu Phục Sinh mới làm cho người ta được sống
muôn đời. Vì “Ngài là Trưởng Tử trong số
những người từ cõi chết chỗi dậy” (Kh 1,5), “Ngài đã tiêu diệt thần chết và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc
trường sinh” (2Tx 1,10: Tung Hô Tin Mừng).
Chính Chúa Giêsu Phục Sinh mà các Tông Đồ đã được phúc sờ nắn và,
cùng ăn uống với Ngài, mới thực là minh chứng giá trị sự sống thời cánh chung,
vì thân xác Ngài đã được Thần hóa, nên cùng một lúc Ngài có mặt ở khắp nơi để
phục vụ những khát vọng của những người đã từng theo Ngài (x Lc 24; Ga 20, 21).
KIẾP
SỐNG THỜI CÁNH CHUNG THẾ NÀO?
Thánh Phaolô được Chúa cho lên đến “tầng trời
thứ ba” tham quan, khi trở lại trần gian, ông nói: “Tôi được nghe những Lời khôn tả, người phàm không được phép nói lại”
(x 2Cr 12,2. 4).
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu, Đấng từ “tầng trời thứ chín”
đến nói với chúng ta Lời khôn tả: Người sống trên Thiên Đàng khác với người
sống dưới trần gian:
+ Họ không cưới vợ
lấy chồng.
+ Họ giống như các Thiên
thần. (Lc 20,34-35).
&&&
a.
Sống thời cánh chung không cưới vợ lấy chồng:
* Sống ở đời này
không ai thoát khỏi nỗi khổ vì tình cảm nam nữ: hoặc là khổ vì chính mình bị
tình dục nổi loạn hay là, khổ vì bị người ta hiểu lầm, dị nghị đàm tiếu về mình
lén lút tình cảm xác thịt với ai đó! … Đến như thánh Phaolô cũng phải lên tiếng
thanh minh cho mình: “Tôi không có quyền đem theo mình một tín nữ sao?”
(ICr 9,5). Thậm chí còn có những tiểu thuyết gán ghép cho cả Chúa Giêsu có
người tình!
Bởi thế, nếu trong thế giới Phục Sinh mà người ta còn giăng mắc
chuyện đòi vợ tranh chồng thì, thà không có thế giới ấy còn tốt hơn! Đó là luận
cứ của bè Sađốc khi họ đặt câu hỏi với Chúa Giêsu về chuyện một bà đã có bảy
đời chồng, thì trong thế giới Phục Sinh, bà ấy là vợ của ai? (x Lc 20, 29-33:
Tin Mừng).
Truyện kể:
Có vợ chồng kia mới cưới được một năm, đã vào cha Sở xin gỡ Hôn
phối. Cha Sở ngạc nhiên hỏi:
-
Ủa,chúng con mới cưới một năm, sao đã bỏ nhau? Học Giáo Lý quên
mục đích Hôn nhân rồi sao?
Cô vợ bình tĩnh:
-
Thưa cha, con nhớ ngày đó cha dạy con: người chồng là Đức Kitô. Con
cứ nghĩ chồng con đúng như vậy, ai dè từ ngày con lấy nó, con chẳng thấy nó
giống Đức Kitô, chỉ thấy nó như thằng quỷ! Con lấy Đức Kitô chứ con đâu có lấy
quỷ?!
Anh chồng cũng không vừa:
-
Thưa cha, con thấy vợ người ta mà thèm.
Cha Sở ngạc nhiên:
-
Con thèm vợ người ta ư? Như thế là con đã lỗi Điều Răn thứ chín,
con đã ngoại tình trong tư tưởng, thảo nào vợ chồng con bất hòa.
-
Thưa cha, con thèm vì thấy vợ người ta ốm ngày hôm trước hôm sau
nó chết liền; còn con vợ của con, nó đau mãi mà chẳng chết! Con nuôi con gì nó
cũng chết, trừ nuôi con vợ nó không chết!
Vì vậy, thánh Phaolô lên tiếng khuyên: “Bạn đã kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng tìm cách gỡ ra. Bạn chưa
kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng lo kiếm vợ. Nhưng nếu bạn cưới vợ, thì
cũng chẳng có tội gì. Và nếu người con gái lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì.
Tuy nhiên, những người ấy sẽ tự chuốc lấy những nỗi gian truân khốn khổ. Mà
tôi, tôi muốn cho anh em thoát khỏi điều đó. Thưa anh em, tôi xin nói với anh
em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống
như không có” (1Cr 7, 25-29). Vì Đức Giêsu đã dạy: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng
phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả
thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các Thiên thần. Họ là con
cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20,34-36: Tin Mừng).
b.
Sống trong thế giới Phục Sinh thì phải giống như Thiên thần (x Lc 20,36b:Tin Mừng), mà Chúa dựng nên Thiên thần chỉ nhằm mục
đích “sai đi giúp đáp vì phần ích những kẻ sẽ thừa hưởng ơn cứu độ” (Dt 1,14).
Vì phục vụ là nét sáng chói diễn tả vinh
quang Phục Sinh, nên khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, Ngài đã mặc lấy
hình ảnh người làm vườn để tỏ mình
ra cho bà Maria Madala (x Ga 20,15). Và mỗi lần Chúa Giêsu Phục Sinh đến với
các Tông Đồ thì Ngài cắt nghĩa Kinh
Thánh cho họ (x Lc 24), chỉ dẫn họ
cách đánh cá, rồi nướng bánh và cá
phục vụ họ (x Ga 21), thông chia cho họ
quyền bính và trao việc cho họ để
cộng tác với Ngài đi cứu đời! (x Ga 20,19t; Mt 28,18t).
Sở dĩ việc phục vụ của thánh Phaolô không thua các Tông Đồ
thượng đẳng (x 2Cr 11,5) là vì, ngoài trí thông minh và văn hóa của ông trổi
vượt hơn các Tông Đồ Chúa chọn trước Phục Sinh, mà ông còn hơn các Tông Đồ khác
vì sống độc thân. nên ông có
nhiều điều kiện phục vụ thuận lợi hơn, không bị phân tâm về chuyện gia đình như
ông Phêrô đã có vợ.
Vậy mỗi người hãy cầu nguyện và tự chọn nếp sống nào hy vọng sẽ
sống đẹp lòng Chúa nhất:
·
Hoặc là chọn bậc tu trì để chuyên lo cầu nguyện và giảng Lời cho
mọi người (x Cv 6,1-7).
·
Hoặc là sống bậc gia đình để chuyên lo diễn tả tình yêu giữa
Chúa Kitô và Hội Thánh (x Ep 5,11t).
·
Hoặc là sống độc thân vì Nước Trời để được tự do làm việc của
Thiên Chúa, phục vụ nhu cầu của đồng loại, diễn tả nếp sống Nước Trời thời cánh
chung (x Lc 20,35-36).
Để có nghị lực lướt thắng được những nghịch cảnh khi thi thành
sứ mệnh theo ơn gọi riêng của mỗi người đã chọn, chỉ có cách là ta tin Chúa sẽ
cho sống lại, lúc đó Ngài thưởng cho mỗi người bội hậu. Thực vậy, Chúa cho ông
Gioan nhìn thấy viễn tượng ai thuộc về Ngài sẽ chiến thắng trong thế giới Phục
Sinh: “Hai nhân chứng của Ta đến tuyên
sấm, đó là hai cây ô-liu và hai cây đèn đứng trước nhan Chúa Tể cõi đất. Nếu ai
muốn làm hại các ngài, thì lửa sẽ từ miệng các ngài phát ra và thiêu huỷ thù
địch của các ngài. Các ngài có quyền đóng cửa trời lại, khiến mưa không rơi
xuống trong những ngày các ngài làm ngôn sứ. . Khi các ngài đã hoàn thành nhiệm
vụ làm chứng, thì Con Thú từ vực thẳm sẽ lên tấn công các ngài, nó sẽ thắng và
giết các ngài. , ở chính nơi Chúa của các ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá. Sau
ba ngày rưỡi, sinh khí từ Thiên Chúa đến nhập vào các ngài, và các ngài đứng
dậy được. Những kẻ đang nhìn các ngài đều kinh hãi. Và các ngài lên trời trong
đám mây, trước mắt thù địch của các ngài” (Kh 11,4-12: BĐ năm chẵn). Đó là
chiến thắng của hai thánh Phêrô và Phaolô sau khi đã hoàn tất ơn gọi của mình. Bởi các ngài vẫn tin “Chúa là núi đá cho ta nương ẩn” (Tv
144/143,1a: ĐC năm chẵn). Vì thế vào ngày cánh chung, tất cả dòng giống Ađam –
Evà, gồm người lành và kẻ dữ, đều được Chúa cho sống lại:
·
Xác hồn người lành sống lại, để muôn đời được
vinh hiển như Chúa (x 1Ga 2,6).
·
Xác hồn kẻ dữ sống lại, để chuốc lấy khổ nhục
đời đời (x Mt 25, 41-46).
Vậy muốn sống lành, tránh dữ để được Phục Sinh vinh hiển, ta
phải hiểu và sống điều Đức Giêsu giải thích về sự Phục Sinh trong sách Xuất
hành mà Tin Mừng hôm nay có nhắc đến (x Lc 20, 37-38). Sự Phục Sinh được Mạc
Khải trong đoạn nói về bụi gai:“Lửa bốc cháy giữa bụi gai mà gai không bị
thiêu rụi” (Xh 3, 2). Lửa ấy là dấu chỉ về Thiên Chúa tình yêu (x Dt 12,29),
đặc biệt lúc Đức Giêsu bị treo trên thập gía, “lửa yêu” ấy không thiêu rụi mạo
gai đội đầu Ngài. đó là dấu tình
yêu của Đức Giêsu bốc lên như lửa, nên Ngài xin với Chúa Cha tha tội cho kẻ hại
mình (x Lc 23,34). Bởi thế, ai biết sám hối tội mình, xin Chúa thương xót như
anh trộm lành, đều được Chúa đưa vào Thiên Đàng ngay (x Lc 23,43). Nên ngay
trong Thánh Lễ này “bụi gai vẫn bốc cháy”:
Đó là lửa tình yêu Chúa Giêsu thiêu rụi tội lỗi và ban sự sống Phục Sinh cho ta.
Bởi đó ,ta cũng phải tha thứ cho kẻ làm hại mình và làm lành cho họ như lời
thánh Phaolô dạy: “Nếu kẻ thù đói, hãy
cho nó ăn, nó khát hãy cho nó uống, làm thế như ngươi đã chất than hồng trên
đầu nó, chớ để dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” (Rm
12,20-21). Ai sống được thế mới được đồng danh với Chúa Giêsu là “Con Đấng Tối
Cao” (x Lc 1,32; Lc 6,35). Đúng như lòng tin vào Lời Kinh Thánh: “Con hoan hỷ được Ngài cứu thoát” (Tv
9/9A,15c: ĐC năm lẻ). Nhưng chúng ta đừng quên rằng “Thiên Chúa chúng ta cũng là lửa
thiêu” (Dt 12,29); “Ngài là Đấng
không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử” (1Pr 1,17a). Kẻ
nào sống ác, dùng quyền vơ vét, chiếm đoạt tài sản của người khác, như “vua Antiôkhô, (ông đã chiếm đoạt vàng bạc
nơi Đền Thờ Giêrusalem), rồi ông rảo khắp các miền thượng du. Vua nghe tin ở Ba
Tư có thành Êlymai, một thành nổi tiếng vì nhiều của cải vàng bạc, vua đã tới
đó tìm cách chiếm và cướp phá thành, nhưng thất bại, ông phải chạy về Babylon
lòng buồn não ruột. Bấy giờ vua đang ở Ba Tư, có người đến báo cho vua biết là
các đoàn quân của vua sang đất Giuđa đã bị đánh bại. Nghe tin ấy, vua lâm bệnh
liệt giường phiền não, vua cho vời bạn hữu đến và nói: “Tôi không thể chợp mắt, vì nỗi âu lo canh
cánh bên lòng. Tôi tự nhủ: Tại sao giờ đây tôi phải điêu đứng khổ sở thế này. Trước
kia đang khi cầm quyền, tôi được hạnh phúc và được yêu mến biết bao! Nhưng bây
giờ nhớ lại thời ở Giêrusalem, tôi đã lấy mọi vật dụng bằng bạc, bằng vàng,đã
sai người đi tiêu diệt dân cư ở miền Giuđa mà không có lý do chính đáng. Hồi
tưởng lại những hành vị tàn bạo đó. Tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp
phải bao nhiêu tai biến, và giờ đây tôi sắp phải chết nơi đất khách quê người
vì buồn phiền vô hạn” (1Mcb 6,1-13: BĐ năm lẻ).
tai họa vua Antiôkhô gặp phải như thế,
đã minh chứng cho mọi người biết: ai sống bất lương, sẽ bị khổ đời này, và trở
thành dấu chỉ sẽ phải khổ muôn kiếp sau khi nhắm mắt lìa đời! Lúc ấy mới nhận
biết Thiên Chúa là lửa thiêu. Ngài thanh tẩy sự ác,chỉ người sống công chính
mới được sống hạnh phúc muôn đời trong nước Thiên Chúa.
THUỘC LÒNG.
Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng
hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy
chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ
là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại (Lc 20,34-36).
Lm GIUSE ĐINH QUANG
THỊNH