THỨ
BẢY SAU CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN
NĂM
CHẴN
BÀI
ĐỌC: Kh 11, 4-12
4
Tôi là Gioan, tôi nghe có tiếng nói với tôi rằng: “Hai nhân chứng của Ta đến
tuyên sấm, đó là hai cây ô-liu và hai cây đèn đứng trước nhan Chúa Tể cõi đất. 5
Nếu ai muốn làm hại các ngài, thì lửa sẽ từ miệng các ngài phát ra và thiêu huỷ
thù địch của các ngài. Ai muốn làm hại các ngài, sẽ bị giết như thế. 6
Các ngài có quyền đóng cửa trời lại, khiến mưa không rơi xuống trong những ngày
các ngài làm ngôn sứ. Các ngài cũng có quyền biến nước thành máu và gieo tai
giáng hoạ xuống mặt đất, bao nhiêu lần tuỳ ý. 7 Khi các ngài đã hoàn
thành nhiệm vụ làm chứng, thì Con Thú từ vực thẳm sẽ lên tấn công các ngài, nó
sẽ thắng và giết các ngài. 8 Thi hài của các ngài sẽ nằm ở quảng
trường của thành phố vĩ đại; thành phố ấy mang tên tượng trưng là Xơ-đôm và
Ai-cập, ở chính nơi Chúa của các ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá. 9
Từ các dân, các nước, các ngôn ngữ và các chi tộc, người ta sẽ đến nhìn xem thi
hài các ngài trong ba ngày rưỡi và không cho phép chôn các ngài trong mộ. 10
Những người sống trên mặt đất hân hoan vì các ngài đã chết, họ sẽ ăn mừng và
tặng quà nhau, vì hai ngôn sứ này đã làm khổ họ. 11 Sau ba ngày rưỡi,
sinh khí từ Thiên Chúa đến nhập vào các ngài, và các ngài đứng dậy được. Những
kẻ đang nhìn các ngài đều kinh hãi. 12 Rồi các ngài nghe một tiếng
lớn từ trời bảo: "Hãy lên đây! " Và các ngài lên trời trong đám mây, trước
mắt thù địch của các ngài.”
ĐÁP
CA: Tv 143
Đ. Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn.
(c 1a)
1 Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương
ẩn, là Đấng dạy tôi nên người thiện chiến, luyện thành tay võ nghệ cao cường.
2 Chúa là đồng minh, là đồn luỹ che chở, là
thành trì bảo vệ, là Đấng giải thoát tôi. Chúa là khiên mộc cho tôi ẩn núp, Người
bắt chư dân quy phục quyền tôi.
9 Lạy Chúa Trời, xin dâng Chúa một bài ca
mới, thập huyền cầm, con gảy đôi cung. 10 Chính Ngài cho các vua
thắng trận, cứu mạng Đa-vít, kẻ trung thần, khỏi lưỡi gươm ác nghiệt.
TUNG HÔ TIN MỪNG: x. 2Tm 1, 10
Hall-Hall: Đấng Cứu Độ
chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm
sáng tỏ phúc trường sinh. Hall.
TIN MỪNG: Lc 20, 27-40
27 Khi ấy, có mấy
người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự
sống lại. 28 Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: "Thưa Thầy, ông Mô-sê
có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có
vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh
hay em mình. 29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ,
nhưng chưa có con thì đã chết. 30 Người thứ hai, 31 rồi
người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà
không để lại đứa con nào. 32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. 33
Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng
làm vợ?"
34 Đức Giê-su đáp:
"Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, 35 chứ những ai được xét là
đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng
lấy chồng. 36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng
với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. 37
Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn
văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên
Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. 38 Mà
Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì
đối với Người, tất cả đều đang sống.”
39 Bấy giờ có mấy
người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: "Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm.”40
Thế là, họ không dám chất vấn Người điều gì nữa.
PHỤC VỤ ĐỂ PHỤC SINH VINH HIỂN
Khát vọng được sống hạnh phúc muôn đời là khát vọng thuộc
bản năng của mọi người. Nhưng chỉ có Chúa Giêsu Phục Sinh mới có quyền làm cho
xác hồn mọi người được sống lại. Trong Do Thái giáo vốn đã có niềm tin Phục
Sinh, nhưng không thể minh chứng xác thực và cụ thể, do đó, nó đã trở thành một
đề tài tranh luận sôi nổi giữa hai nhóm Biệt phái và Sađốc. Chỉ một mình Đức
Giêsu mới là trọng tài xác quyết có sự sống lại, dựa vào Mạc Khải và đồng thời
Đức Giêsu cũng cho biết khái niệm chính xác về sự sống lại. Tuy nhiên, trong
thế giới Phục Sinh, vinh hiển hay tủi nhục cũng còn tùy thuộc vào cách sống
thiện hay ác của mỗi người:
1. TẠI SAO NIỀM TIN PHỤC SINH KHÔNG ĐỒNG
NHẤT TRONG DO THÁI GIÁO?
Nhóm Sađốc chỉ tin
Ngũ Thư của ông Môsê: Sáng thế, Xuất hành, Lêvi, Dân số, Đệ nhị Luật, mà trong
Ngũ Thư không mạc khải rõ về sự sống lại!
Trong khi nhóm Biệt phái yêu thích Lề
Luật, nên họ đã nhận toàn bộ Cựu Ước gồm 46 cuốn làm kinh điển chính thức cho
niềm tin. Niềm tin vào thế giới Phục Sinh chỉ được Mạc Khải rõ nét trong sách
Ngôn sứ (x. Os 6, 1t; Ez 37, 1-14; Is 51, 17 và Is 60, 1). Và đặc biệt trong
sách Macabê ghi: “Khi sắp tắt thở, người
con thứ tư nói như sau: "Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào Lời
Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại.” (2Mcb 7, 14a).
Có lẽ Mạc Khải nói rõ về sự Phục Sinh
trễ như thế vì lý do, trước đây khi dân Do Thái xây thánh điện Giêrusalem, tưởng
đó là đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng khi vua Nabukodonosor cho quân đến phá Đền
Thờ, dân bị lưu đày sang Babylon,
làm cho dân Do Thái phải hoảng sợ, họ bắt đầu suy nghĩ hạnh phúc viên mãn không
thể đóng khung ở đời này được mà, phải ở một thế giới khác. Vì bè Sađốc chỉ
chấp nhận Ngũ Thư của ông Môsê, nên khi Đức Giêsu trả lời cho họ về sự Phục
Sinh, Ngài đã trích một đoạn trong sách Xuất hành (nằm trong bộ Ngũ Thư) nói về
tiếng Chúa phán dạy cùng ông Môsê khi ông thấy bụi gai bốc cháy: “Ta là Chúa
của Abraham, Chúa của Ysaac, Chúa của Giacob” (Xh. 3, 2-6).
Và Đức
Giêsu đã giải thích: ngay đoạn sách này, Thiên Chúa đã mạc khải sự sống lại, vì
các tổ phụ Abraham, Giacob đã chết trước khi Chúa gọi ông Môsê. Thế mà Chúa vẫn
là Chúa các tổ phụ của ông Môsê thì, Ngài là Chúa của kẻ sống, chứ không phải
là Chúa của kẻ chết! Như thế Đức Giêsu đã xác định: Người ta còn có sự sống nữa
sau cuộc sống trần gian.
2. SỐNG LẠI LÀ HỢP LÝ VÀ KITÔ GIÁO ĐÃ
MINH CHỨNG ĐƯỢC ĐIỀU NÀY .
a- Sống
lại là hợp lý: Con người đúng
nghĩa không chỉ có xác hay chỉ có hồn, mà có cả xác hồn. Do đó điều lành hay
điều dữ con người làm là cả xác hồn đều làm, không lẽ kết qủa chỉ có hồn được
thưởng hay bị phạt? Vì thế xác phải sống lại kết hợp với hồn để cùng chung một
số phận mới là hợp lý!
Mặt
khác, phải có thế giới Phục Sinh, một thế giới hoàn toàn không còn sự ác chế
ngự con người, quyền lực sự ác phải bị tiêu diệt, để những ai sống chiến đấu vì
công lý thì được sống trong thế giới chỉ có công lý. Bởi thế, thánh Phaolô nói:
“Nếu ta đặt mối hy vọng vào Đức Kitô vỏn vẹn cho lúc sinh thời này thôi thì,
quả ta là kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ!” (Icr 15, 19). Vì nếu người
chết không sống lại, thì ta cứ sống ác để đè bẹp bất cứ ai, chứ dại gì mà phải
chịu đựng, phải tha thứ cho kẻ hại mình, kết quả mình chịu thiệt là kẻ khốn nạn
nhất trên đời.
b- Chỉ
có Chúa Giêsu mới cho loài người được Phục Sinh, như Lời Ngài đã nói:“Phục sinh và sự sống chính là Ta,
ai tin vào Ta,
thì dầu có chết
cũng sẽ sống” (Ga 11,
25).
Chân lý này đã được minh
chứng bằng việc Chúa Giêsu cho nhiều người chết sống lại.
Đan cử: Ngài đã làm cho con gái ông Giairô,
con trai bà goá thành Naim,
cậu Ladarô,
được sống lại (x.
Mc 5,
21t; Lc 7, 11t; Ga 11). Dĩ nhiên, đấy mới chỉ là dấu chỉ sự Phục Sinh vào thời
cánh chung và minh chứng chỉ có Chúa Giêsu Phục Sinh mới làm cho người ta được
sống muôn đời. Vì “Ngài là Trưởng Tử
trong số những người từ cõi chết chỗi dậy” (Kh 1,
5),
“Ngài đã tiêu diệt thần chết và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc
trường sinh” (2Tx. 1, 10: Tung Hô Tin Mừng).
Chính
Chúa Giêsu Phục Sinh mà các Tông Đồ đã được phúc sờ nắn và, cùng ăn uống với
Ngài, mới thực là minh chứng giá trị sự sống thời cánh chung, vì thân xác Ngài
đã được Thần hóa, nên cùng một lúc Ngài có mặt ở khắp nơi để phục vụ những khát
vọng của những người đã từng theo Ngài (x. Lc 24; Ga 20, 21).
3. KIẾP SỐNG THỜI CÁNH CHUNG THẾ NÀO?
Thánh Phaolô được Chúa cho
lên đến “tầng trời thứ ba” tham quan, khi trở lại trần gian, ông nói: “Tôi được nghe những Lời khôn tả, người phàm
không được phép nói lại” (x. 2Cr 12, 2. 4).
Trong
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu, Đấng từ “tầng trời thứ chín” đến nói với chúng ta
Lời khôn tả: Người sống trên Thiên Đàng khác với người sống dưới trần gian:
+ Họ không cưới vợ lấy chồng.
+ Họ giống như các Thiên thần. (Lc. 20, 34-35).
a- Sống
thời cánh chung không cưới vợ lấy chồng:
*
Sống ở đời này không ai thoát khỏi nỗi khổ vì tình cảm nam nữ: hoặc là khổ vì
chính mình bị tình dục nổi loạn hay là, khổ vì bị người ta hiểu lầm, dị nghị
đàm tiếu về mình lén lút tình cảm xác thịt với ai đó! … Đến như thánh Phaolô
cũng phải lên tiếng thanh minh cho mình: “Tôi không có quyền đem theo mình
một tín nữ sao?” (ICr 9, 5). Thậm chí còn có những tiểu thuyết gán ghép cho
cả Chúa Giêsu có người tình!
Bởi
thế, nếu trong thế giới Phục Sinh mà người ta còn giăng mắc chuyện đòi vợ tranh
chồng thì, thà không có thế giới ấy còn tốt hơn! Đó là luận cứ của bè Sađốc khi
họ đặt câu hỏi với Chúa Giêsu về chuyện một bà đã có bảy đời chồng thì, trong
thế giới Phục Sinh, bà ấy là vợ của ai? (x. Lc 20, 29-33: Tin Mừng).
Truyện kể:
Có vợ chồng kia mới
cưới được một năm, đã vào cha Sở xin gỡ Hôn phối. Cha Sở ngạc nhiên hỏi:
-
Ủa,
chúng con mới cưới một năm, sao đã bỏ nhau? Học Giáo Lý quên mục đích Hôn nhân
rồi sao?
Cô vợ bình tĩnh:
-
Thưa
cha, con nhớ ngày đó cha dạy con: người chồng là Đức Kitô. Con cứ nghĩ chồng
con đúng như vậy, ai dè từ ngày con lấy nó, con chẳng thấy nó giống Đức Kitô, chỉ
thấy nó như thằng quỷ! Con lấy Đức Kitô chứ con đâu có lấy quỷ?!
Anh chồng cũng không
vừa:
-
Thưa
cha, con thấy vợ người ta mà thèm.
Cha Sở ngạc nhiên:
-
Con
thèm vợ người ta ư? Như thế là con đã lỗi Điều Răn thứ chín, con đã ngoại tình
trong tư tưởng, thảo nào vợ chồng con bất hòa.
-
Thưa
cha, con thèm vì thấy vợ người ta ốm ngày hôm trước hôm sau nó chết liền; còn
con vợ của con, nó đau mãi mà chẳng chết! Con nuôi con gì nó cũng chết, trừ
nuôi con vợ nó không chết!
Vì vậy, thánh Phaolô
lên tiếng khuyên: “Bạn đã kết hôn với một
người đàn bà ư? Đừng tìm cách gỡ ra. Bạn chưa kết hôn với một người đàn bà ư?
Đừng lo kiếm vợ. Nhưng nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng có tội gì. Và nếu người
con gái lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì. Tuy nhiên, những người ấy sẽ tự
chuốc lấy những nỗi gian truân khốn khổ. Mà tôi, tôi muốn cho anh em thoát khỏi
điều đó. Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao
lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có” (1Cr 7, 25-29). Vì
Đức Giêsu đã dạy: “Con cái đời này cưới
vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ
cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết
nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con
cái sự sống lại” (Lc 20, 34-36: Tin Mừng).
b-
Sống trong thế giới Phục Sinh thì phải
giống như Thiên thần (x. Lc 20, 36b:Tin
Mừng), mà Chúa dựng nên Thiên thần chỉ nhằm mục đích “sai đi giúp đáp vì
phần ích những kẻ sẽ thừa hưởng ơn cứu độ” (Dt 1, 14). Vì phục vụ là nét sáng chói diễn tả vinh quang Phục Sinh,
nên khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, Ngài đã mặc lấy hình ảnh người làm vườn để tỏ mình ra cho bà
Maria Madala (x. Ga 20, 15). Và mỗi lần Chúa Giêsu Phục Sinh đến với các Tông
Đồ thì Ngài cắt nghĩa Kinh Thánh cho
họ (x. Lc 24), chỉ dẫn họ cách đánh cá,
rồi nướng bánh và cá phục vụ họ (x. Ga.
21), thông chia cho họ quyền bính và
trao việc cho họ để cộng tác với Ngài đi
cứu đời! (x. Ga 20, 19t; Mt 28, 18t).
Sở dĩ việc phục vụ
của thánh Phaolô không thua các Tông Đồ thượng đẳng (x. 2Cr 11, 5) là vì, ngoài
trí thông minh và văn hóa của ông trổi vượt hơn các Tông Đồ Chúa chọn trước
Phục Sinh, mà ông còn hơn các Tông Đồ khác vì sống độc thân. nên ông có nhiều điều kiện phục vụ
thuận lợi hơn, không bị phân tâm về chuyện gia đình như ông Phêrô đã có vợ.
Vậy mỗi người hãy cầu
nguyện và tự chọn nếp sống nào hy vọng sẽ sống đẹp lòng Chúa nhất:
·
Hoặc là chọn bậc tu trì để chuyên lo cầu
nguyện và giảng Lời cho mọi người (x. Cv 6, 1-7).
·
Hoặc là sống bậc gia đình để chuyên lo
diễn tả tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh (x. Ep 5, 11t).
·
Hoặc là sống độc thân vì Nước Trời để
được tự do làm việc của Thiên Chúa, phục vụ nhu cầu của đồng loại, diễn tả nếp
sống Nước Trời thời cánh chung (x. Lc 20, 35-36).
Để có nghị lực lướt
thắng được những nghịch cảnh khi thi thành sứ mệnh theo ơn gọi riêng của mỗi
người đã chọn, chỉ có cách là ta tin Chúa sẽ cho sống lại, lúc đó Ngài thưởng
cho mỗi người bội hậu. Thực vậy, Chúa cho ông Gioan nhìn thấy viễn tượng ai
thuộc về Ngài sẽ chiến thắng trong thế giới Phục Sinh: “Hai nhân chứng của Ta đến tuyên sấm, đó là hai cây ô-liu và hai cây đèn
đứng trước nhan Chúa Tể cõi đất. Nếu ai muốn làm hại các ngài, thì lửa sẽ từ
miệng các ngài phát ra và thiêu huỷ thù địch của các ngài. Các ngài có quyền
đóng cửa trời lại, khiến mưa không rơi xuống trong những ngày các ngài làm ngôn
sứ. . Khi các ngài đã hoàn thành nhiệm vụ làm chứng, thì Con Thú từ vực thẳm sẽ
lên tấn công các ngài, nó sẽ thắng và giết các ngài. , ở chính nơi Chúa của các
ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá. Sau ba ngày rưỡi, sinh khí từ Thiên Chúa
đến nhập vào các ngài, và các ngài đứng dậy được. Những kẻ đang nhìn các ngài
đều kinh hãi. Và các ngài lên trời trong đám mây, trước mắt thù địch của các
ngài”. (Kh 11, 4-12: BĐ năm chẵn). Đó là chiến thắng của hai thánh Phêrô và
Phaolô sau khi đã hoàn tất ơn gọi của mình.
Bởi các ngài vẫn tin “Chúa là núi đá
cho ta nương ẩn” (Tv 144/143, 1a: ĐC năm chẵn). Vì thế vào ngày cánh chung,
tất cả dòng giống Ađam – Evà, gồm người lành và kẻ dữ, đều được Chúa cho sống
lại:
·
Xác hồn người lành sống lại, để muôn đời được
vinh hiển như Chúa (x. 1Ga 2, 6).
·
Xác hồn kẻ dữ sống lại, để chuốc lấy khổ nhục
đời đời (x. Mt 25, 41-46).
Vậy muốn sống lành, tránh
dữ để được Phục Sinh vinh hiển, ta phải hiểu và sống điều Đức Giêsu giải thích
về sự Phục Sinh trong sách Xuất hành mà Tin Mừng hôm nay có nhắc đến (x. Lc 20,
37-38). Sự Phục Sinh được Mạc Khải trong đoạn nói về bụi gai:“Lửa bốc cháy
giữa bụi gai mà gai không bị thiêu rụi” (Xh 3, 2). Lửa ấy là dấu chỉ về
Thiên Chúa tình yêu (x. Dt 12, 29), đặc biệt lúc Đức Giêsu bị treo trên thập
gía, “lửa yêu” ấy không thiêu rụi mạo gai đội đầu Ngài. đó là dấu tình yêu của Đức Giêsu bốc lên như lửa, nên Ngài
xin với Chúa Cha tha tội cho kẻ hại mình (x. Lc 23, 34). Bởi thế, ai biết sám
hối tội mình, xin Chúa thương xót như anh trộm lành, đều được Chúa đưa vào
Thiên Đàng ngay (x. Lc 23, 43). Nên ngay trong Thánh Lễ này “bụi gai vẫn bốc cháy”: Đó là lửa tình
yêu Chúa Giêsu thiêu rụi tội lỗi và ban sự sống Phục Sinh cho ta. Bởi đó , ta
cũng phải tha thứ cho kẻ làm hại mình và làm lành cho họ như lời thánh Phaolô
dạy: “Nếu kẻ thù đói, hãy cho nó ăn, nó
khát hãy cho nó uống, làm thế như ngươi đã chất than hồng trên đầu nó, chớ để
dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ!” (Rm 12, 20-21). Ai
sống được thế mới được đồng danh với Chúa Giêsu là “Con Đấng Tối Cao” (x. Lc 1,
32; Lc 6, 35). Đúng như lòng tin vào Lời Kinh Thánh: “Con hoan hỷ được Ngài cứu thoát” (Tv 9/9A, 15c: ĐC năm lẻ). Nhưng
chúng ta đừng quên rằng “Thiên Chúa chúng ta cũng là lửa thiêu”
(Dt 12, 29); “Ngài là Đấng không vị nể ai,
nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử” (1Pr 1, 17a). Kẻ nào sống ác, dùng
quyền vơ vét, chiếm đoạt tài sản của người khác, như “vua An-ti-ô-khô, (ông đã chiếm đoạt vàng bạc nơi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem),
rồi ông rảo khắp các miền thượng du. Vua nghe tin ở Ba Tư có thành Ê-ly-mai, một
thành nổi tiếng vì nhiều của cải vàng bạc, vua đã tới đó tìm cách chiếm và cướp
phá thành, nhưng thất bại, ông phải chạy về Babylon lòng buồn não ruột. Bấy giờ
vua đang ở Ba-Tư, có người đến báo cho vua biết là các đoàn quân của vua sang
đất Giu-đa đã bị đánh bại. Nghe tin ấy, vua lâm bệnh liệt giường phiền não, vua
cho vời bạn hữu đến và nói: “Tôi
không thể chợp mắt, vì nỗi âu lo canh cánh bên lòng. Tôi tự nhủ: Tại sao giờ
đây tôi phải điêu đứng khổ sở thế này. Trước kia đang khi cầm quyền, tôi được
hạnh phúc và được yêu mến biết bao! Nhưng bây giờ nhớ lại thời ở Giê-ru-sa-lem,
tôi đã lấy mọi vật dụng bằng bạc, bằng vàng, đã sai người đi tiêu diệt dân cư ở
miền Giu-đa mà không có lý do chính đáng. Hồi tưởng lại những hành vị tàn bạo
đó. Tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và giờ
đây tôi sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn” (1Mcb 6,
1-13: BĐ năm lẻ).
tai
họa vua Antiôkhô gặp phải như thế, đã minh chứng cho mọi người biết: ai sống
bất lương, sẽ bị khổ đời này và, trở thành dấu chỉ sẽ phải khổ muôn kiếp sau
khi nhắm mắt lìa đời! Lúc ấy mới nhận biết Thiên Chúa là lửa thiêu. Ngài thanh
tẩy sự ác, chỉ người sống công chính mới được sống hạnh phúc muôn đời trong
nước Thiên Chúa.
THUỘC
LÒNG.
Con
cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau
và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ
không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên
Chúa, vì là con cái sự sống lại. (Lc 20, 34-36).
Lm
GIUSE ĐINH QUANG THỊNH