Suy niệm lễ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội

LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
 (c. 350?)
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lược sử
Vào thế kỷ thứ bảy, trong Giáo Hội Đông Phương có một ngày lễ được gọi là Sự Thụ Thai Đức Maria. Lễ này được cử hành trong Giáo Hội Tây Phương vào thế kỷ thứ tám. Đến thế kỷ 11, ngày lễ này có tên như hiện nay, Vô Nhiễm Nguyên Tội. Và vào thế kỷ thứ 18, lễ này trở thành ngày lễ chính thức của Giáo Hội hoàn vũ.
Năm 1854, Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố điều bất khả ngộ: "Đức Trinh Nữ Maria rất thánh, trong giây phút đầu tiên khi thụ thai trong lòng mẹ, bởi một ơn huệ phi thường và đặc biệt do Thiên Chúa toàn năng ban cho, vì công nghiêp của Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc nhân loại, nên ngài được gìn giữ khỏi mọi tì ố của tội nguyên tổ."
Phải mất một thời gian khá lâu mới hình thành tín điều này. Trong khi nhiều Giáo Phụ và Tiến Sĩ Hội Thánh coi Đức Maria như vị thánh cao trọng và thánh thiện nhất trong các thánh, nhưng họ vẫn ngại ngùng để cho rằng Đức Maria là một người không có tội -- hoặc từ lúc thụ thai hoặc trong cuộc sống. Đây là một tín điều của Giáo Hội phát sinh từ lòng đạo đức của tín hữu hơn là sự hiểu biết của các thần học gia sáng giá. Ngay cả các vị lão luyện hiểu biết về Đức Maria như Thánh Bernard và Tôma Aquinas cũng không thấy được lý do về phương diện thần học của tín điều này.
Hai tu sĩ dòng Phanxicô là William ở Ware và John Duns Scotus, đã giúp chúng ta hiểu biết hơn về ý nghĩa thần học. Họ cho rằng sự Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria nâng cao giá trị công trình cứu chuộc của Đức Giêsu. Các phần tử khác của gia đình nhân loại chỉ được sạch tội nguyên tổ sau khi sinh. Với Đức Maria, tội nguyên tổ đã bị ngăn chặn ngay từ lúc ban đầu nhờ quyền lực mạnh mẽ của công trình cứu chuộc của Đức Giêsu.
Suy niệm 1: Phụng vụ ngày lễ
Vào thế kỷ thứ bảy, trong Giáo Hội Đông Phương có một ngày lễ được gọi là Sự Thụ Thai Đức Maria.
Đông phương đã mừng lễ Mẹ Vô nhiễm từ thế kỷ VII. Bên Tây phương, Osbertô Clare, một văn sĩ và thi sĩ người Anh, tiên phong vận động mừng lễ Mẹ Vô nhiễm tại Anh hồi thế kỷ XII. Từ Anh lễ này lan nhanh sang Normandie và toàn nước Pháp rồi sang Ý. Năm 1215 các giáo phận nước Pháp được Đức Innocentê III ban phép đầu tiên mừng lễ Mẹ đầu thai. Quãng năm 1241 hay 1242, vì lý do chính trị do Vua Philippe II nước Pháp, Đức Bonifaciô VIII dời giáo triều xuống thành Anagni là nguyên quán của ngài và mừng lễ Mẹ đầu thai tại nhà thờ chính tòa. Năm 1263, Đại Công hội Dòng Phanxicô tại Pise (Ý) ấn định mừng lễ này trong toàn dòng. Đến đời Đức Clêmentê V, vì ảnh hưởng của Vua Philippe II, ngài đặt giáo đô tại Avignon (Pháp). Cả giáo triều mừng lễ Mẹ đầu thai ngày mồng 8 tháng 12 tại nhà thờ Dòng Carmelô. Từ đây, hằng năm giáo triều mừng lễ Mẹ đầu thai và tiếp tục khi trở về Rôma, các Đức Giáo hoàng cũng đích thân tham dự. Năm 1385, sử gia Bellemer và mấy năm sau sử gia Francis Martin còn thấy Đức Giáo hoàng, các Hồng y, Giám mục mừng lễ Mẹ đầu thai tại nguyện đường trong điện Vaticanô.
Thời đó lễ Mẹ đầu thai chỉ có ý nghĩa suông là Đức Mẹ đầu thai thánh thiện trong lòng Bà Thánh Anna. Vấn đề Vô nhiễm chưa được đưa ra khảo sát, và Tòa thánh cũng chưa xét đến điểm tín lý (L.m. Phêrô, CMC).
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, xin cho chúng con hiểu được rằng Chúa đã yêu thương Mẹ, yêu thương mọi người chúng con và không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được.
Suy niệm 2: Phụng vụ ngày lễ-Yếu tố tín lý
Vào thế kỷ thứ bảy, trong Giáo Hội Đông Phương có một ngày lễ được gọi là Sự Thụ Thai Đức Maria.
Năm 1325 tại Avignon, Đức Gioan XXII chứng giám cuộc tranh luận sôi nổi giữa các linh mục Dòng Phanxicô và Dòng Đaminh về vấn đề Vô nhiễm. Chung cuộc, ngài tuyên bố luận cứ bên Phanxicô đáo lý hơn và có ưu thế hơn, nên ngài truyền dạy mừng lễ Mẹ đầu thai rất trọng thể tại nguyện đường của ngài, nhưng ngài không xác định vấn đề Vô nhiễm. Công đầu tiên thiết lập lễ Mẹ Vô nhiễm là Đức Sixtô IV, một tu sĩ Phanxicô. Năm 1476, ngài dạy Lêonardô Nogarolis soạn kinh lễ với tuần tám. Ngày 27-2-1477, ngài ban hành Trọng sắc "Cum prae-celsa" long trọng thiết lập lễ Đức Mẹ Vô nhiễm. Ngày 4-10-1480, Đức Thánh Cha ban hành Đoản sắc "Libenter" chuẩn nhận Giờ kinh và Bài lễ Mẹ Vô nhiễm do cha Bernadino de Bustis, OFM, soạn thảo.
Năm 1482 và 1483 nổi lên những phản ứng tại miền Lombardy, Bắc Ý, tuyên truyền rằng tin và chủ trương Đức Mẹ Vô nhiễm thai là rối đạo, Đức Sixtô IV ban hành thêm hai Tiền và Hậu đoản sắc "Grave nimis" để chặn đứng luồng tư tưởng lầm lạc đó.
Đức Lêô X tán thành và xác nhận những văn kiện của Đức Sixtô IV. Với Trọng sắc "Sacrosanctae", ngài truyền dạy nước Balan mừng lễ Mẹ đầu thai như ở Rôma, và ban phép Giáo hội Tây Ban Nha tổ chức lễ Mẹ Vô nhiễm nửa đêm ngày 8 tháng 12. Đức Thánh Piô V truyền dạy toàn thể Giáo hội mừng lễ Mẹ đầu thai. Giờ kinh ngày lễ thì lấy giờ kinh lễ Sinh nhật Mẹ, và đặt chữ "Đầu thai" thay chữ "Sinh nhật". Riêng Dòng Phanxicô được dùng giờ kinh Bài lễ của Nogarolis đời Đức Sixtô IV.
Các Đức Giáo hoàng Sixtô V, Grêgôriô XV, Clêmentê IX, Bênêđictô XIV, Clêmentê XIII, Clêmentê XIV, Piô VI, và Đức Piô VII ban phép mừng lễ Mẹ Vô nhiễm cho từng quốc gia, từng giáo phận, từng dòng tu. Riêng Đức Grêgôriô XVI trong vòng mười năm ban phép cho 211 giáo phận và dòng tu mừng lễ Mẹ Vô nhiễm, và thêm danh từ "Vô nhiễm" vào kinh Tiền tụng lễ Mẹ đầu thai. Đức Clêmentê XI, với trọng sắc "Commissioni nobis" năm 1708 truyền dạy lễ Mẹ Vô nhiễm là lễ buộc trong khắp Giáo hội.
Đức Piô IX, ngày 30-9-1847, ngài ký sắc lệnh của Thánh bộ Lễ nghi ban phép đọc Giờ kinh và Bài lễ Mẹ Vô nhiễm cho chính ngày lễ và cả tuần tám, bắt đầu cho giáo phận Rôma và hai năm sau cho toàn thể Giáo hội. Năm 1863 là sau chín năm định tín Mẹ Vô nhiễm, ngài qui định Giờ kinh và Bài lễ Mẹ Vô nhiễm "Gaudens Gaudebo - Tôi sẽ hớn hở vui mừng" như ta thấy ngày nay (L.m. Phêrô, CMC).
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, xin xin giúp chúng con luôn biết ngước nhìn lên Mẹ dù cuộc đời chúng con có muôn ngàn vấp ngã, để chúng con luôn chỗi dậy và được Mẹ dắt tay chỗi dậy.
Suy niệm 3: Hình thành tín điều-Giai đoạn trầm lặng từ thế kỷ I đến XI
Phải mất một thời gian khá lâu mới hình thành tín điều này.
Thánh kinh chỉ có kiểu nói mặc nhiên ẩn tàng về vấn đề Vô nhiễm, nên trong những thế kỷ đầu, Giáo hội chưa khám phá ra. Tuy nhiên, từ thời các Thánh Tông đồ qua thời các Thánh Giáo phụ trong những thế kỷ đầu, một ít tia sáng "Vô nhiễm" đã loé lên, nhưng chỉ trong phạm vi cá nhân. Năm 416 Công đồng Carthage và Công đồng Mileviô ở Bắc Phi lên án Pelagiô và Coelestiô chối tội nguyên tổ, mà không đề cập gì đến trường hợp của Đức Mẹ. Năm 431 Công đồng Êphêsô ở Tiểu Á cùng với Thánh Cyrillô Alexanđria luận phi bè rối Nestoriô, để tuyên tín Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Từ đó, lòng sùng kính Đức Mẹ dâng lên cao và tràn lan ra xa rộng. Giáo hội cũng chỉ xác nhận sự trinh trong tuyệt đối của Mẹ. Khi người ta bàn luận về vấn đề tội lỗi, Thánh Augustinô không muốn liên tưởng đến Đức Mẹ. Tư tưởng tiêu cực này đã nên như qui luật cho các Giáo phụ thời đó. Bên Đông phương, người ta nồng nhiệt sùng kính phúc vinh quang Mẹ Thiên Chúa, mà không xác định rõ. Đến thế kỷ VII, bốn vị Giáo hoàng: Đức Honoriô I, Đức Thánh Martinô I, Đức Thánh Agathô, và Đức Thánh Lêô II làm loé lên một vài tia sáng nhưng vẫn ở trong phạm vi hạn hẹp (L.m. Phêrô, CMC).
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, xin giúp chúng con và nhân loại biết bước đi trong vâng phục,tin tưởng và cậy trông như Mẹ đã luôn tuân phục ý Chúa, làm theo ý Chúa và thực thi.
Suy niệm 4: Hình thành tín điều-Giai đoạn tranh luận từ t.k XI đến XIV
Phải mất một thời gian khá lâu mới hình thành tín điều này.
Thế kỷ XII, nhà thần học Eadmer sử gia của Thánh Anselmô tại Canturbury (Anh) viết cuốn "Yếu luận về sự đầu thai thánh thiện của Đức Maria" để minh xác ý nghĩa đặc ân làm nền tảng cho Tín lý Vô nhiễm. Eadmer lý luận sâu sắc về việc Mẹ được đặc ân Vô nhiễm với ba lời có tính cách Cách ngôn: Potuit, Decuit, Fecit, nghĩa là Thiên Chúa có thể làm; nếu Người muốn thì Người đã làm. Cũng thời đó, văn sĩ Osbertô Clare đầu tiên vận động truyền bá giáo thuyết này. Đông phương đã mừng lễ Mẹ đầu thai từ thế kỷ VII, nhưng Tây phương mừng lễ này thế kỷ XII. Dẫu thế, một bức màn đen vẫn trùm phủ vấn đề Vô nhiễm, đến nỗi bốn vị Thánh tiến sĩ Bênađô, Albertô, Bônaventura, Tôma, và hai nhà thần học nổi danh Rupertô và Alexanđrô Halès cho rằng Đức Mẹ cũng mắc luật lưu truyền nguyên tội như mọi người dòng dõi Ađam. Thánh Tôma chỉ nói Đức Maria được thánh hóa trong lòng mẹ. Về sau, các ngài mới bỏ tư kiến để thuận theo sự phán quyết của các Đức Giáo hoàng và niềm tin của Giáo hội.
Hai luồng tư tưởng nghịch và thuận vấn đề Vô nhiễm lan tràn sâu rộng gây nên một cuộc tranh luận sôi nổi giữa hai trường phái Tôma và Scôtô tại Avignon (Pháp) năm 1325. Phe thuận là trường phái Scôtô có luận cứ vững mạnh, nên được Đức Gioan XXII tán thành, và được Đại học Paris yểm trợ. Năm 1346 tại phân khoa Thần học Đại học này, không ai được đậu cử nhân, tiến sĩ, nếu không tuyên thệ phải ủng hộ giáo thuyết Vô nhiễm. Sau này hai Đại học Cologne và Mayence noi gương Đại học Paris cũng có qui chế như thế. Còn một cuộc tranh luận khác không kém gay go về vấn đề Vô nhiễm. Phe chống gây ảnh hưởng sâu rộng nhất là miền Bắc Ý, nhưng sau cũng thuận theo, nhờ thái độ cương quyết của Đức Sixtô IV (L.m. Phêrô, CMC).
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, xin hãy luôn ở cùng chúng con, và giúp chúng con trong bất cứ cuộc chiến nào chống lại Satan, Ma quỉ và tội lỗi.
Suy niệm 5: Hình thành tín điều-Giai đoạn xác nhận từ tk XIV-XIX
Phải mất một thời gian khá lâu mới hình thành tín điều này.
Năm 1377 cuộc Đức Mẹ mạc khải với Thánh Brigitta được Đức Grêgôriô XI thẩm tra và xác nhận là chân thật. Đức Mẹ nói với Thánh Brigitta: "Đúng sự thật là Mẹ đầu thai vô nhiễm. Hỡi ái nữ của Mẹ. Con hãy tin và thấy rằng những ai tin và tuyên xưng Mẹ đã được gìn giữ khỏi vết nhơ tội tổ là họ nghĩ đúng. Ai nghĩ ngược lại là sai, nhất là họ nghĩ càn giỡ". Năm 1431, Công đồng Basel (Thụy sĩ), công bố một sắc lệnh như sau: "Chúng tôi xác định và tuyên ngôn rằng Đức Trinh Nữ Maria, do đặc ân Thiên Chúa giữ gìn, không bao giờ nhiễm lây vết nhơ nguyên tội, nhưng luôn luôn thánh thiện và vô nhiễm".
Đức Sixtô IV là vị Giáo hoàng đầu tiên minh nhiên xác định vấn đề Vô nhiễm bằng cách ban hành mười sáu Hiến chế về Mẹ Maria Vô nhiễm. Trong số đó, mười hai Hiến chế ban ân xá, bốn Hiến chế thiết lập và củng cố lễ Mẹ Vô nhiễm trong khắp Giáo hội.
Năm 1545, Công đồng Trentô do Đức Phaolô III triệu tập, công bố sắc lệnh có ba khoản nói về Mẹ Vô nhiễm:
1. Đức Maria được miễn trừ khỏi luật chung của Nguyên tội.
2. Đức Maria được gọi là Vô nhiễm. Ý nghĩa danh từ này phải được xác định là khỏi mọi vết nhơ, mà vết nhơ là Nguyên tội. Do đó, gọi Mẹ là Vô nhiễm vì Mẹ đầu thai vô nhiễm nguyên tội.
3. Các Hiến chế của Đức Sixtô IV phải được tôn trọng.
Năm 1567 Đức Thánh Cha Piô V ban hành ba văn kiện về Mẹ Vô nhiễm. Văn kiện thứ nhất luận phi những lầm lạc của Baius cho rằng tin Đức Mẹ vô nhiễm thai là rối đạo.
Đức Clêmentê VIII ca ngợi, khích lệ và cho phát hành cuốn giáo lý do Thánh Bellarminô soạn, trong đó có câu:
H. Đầy ơn phúc nghĩa là gì?
T. Đức Mẹ đầy ơn phúc, vì Người không hề mang vết nhơ tội lỗi, dù là Nguyên tội hay hiện tội, tội trọng hay tội hèn.
Đức Grêgôriô XV ban hành sắc lệnh có một điều đáng chú ý: Những ai phủ nhận Đức Mẹ Vô nhiễm phải tuyệt đối im lặng, vì sinh gương mù và chia rẽ giữa Giáo hội. Mẹ Maria đầu thai mà mắc tội là điều xúc phạm đến niềm tin của tín hữu. Tuy nhiên, được giữ tư kiến cho mình, vì vấn đề chưa được chính thức xác định.
Đức Alexanđrô VII là vị Giáo hoàng quan trọng thứ nhì sau Đức Piô IX trong việc định tín Mẹ Vô nhiễm. Trọng sắc "Sollicitudo Omnium Ecclesianum" của ngài có ba điều quan trọng:
1. Niềm tin Mẹ Maria Vô nhiễm là quan điểm đạo đức (Pia sententia).
2. Sự đầu thai nói về Mẹ Maria có nghĩa là Vô nhiễm.
3. Ngài giải thích các sắc lệnh của các vị tiền nhiệm xác nhận Mẹ Vô nhiễm.
Năm 1830, Đức Mẹ hiện ra ban cho Thánh Catarina Labouré tại Paris lời nguyện vắn tắt: "Lạy Mẹ Maria Vô nhiễm nguyên tội, xin cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi chạy đến cùng Mẹ".
Đức Grêgôriô XVI, vị tiền nhiệm của Đức Piô IX, đã dọn đường rất gần để tiến tới việc định tín. Ngài ban phép cho 133 giáo phận và hội dòng thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: "Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông, cầu cho chúng con". Sau này Đức Piô IX mới ấn định câu này trong kinh cầu Đức Bà cho khắp Giáo hội. Lòng sùng kính Mẹ Vô nhiễm đặc biệt của ngài ảnh hưởng sâu rộng trong Giáo hội. Từ năm 1840 đến 1844 có 86 đơn thỉnh nguyện xin định tín của các Hồng y, Giám mục nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Đức, và Trung Hoa, và năm 1849 thêm các đơn thỉnh nguyện của Công đồng Baltimore, Hoa kỳ.
Đức Piô IX đã được Thiên Chúa tuyển chọn để định tín Mẹ Vô nhiễm thai, nên lịch sử gọi ngài là Giáo hoàng của Mẹ Vô nhiễm. Từ năm 1846 đến 1849 có thêm 130 đơn thỉnh nguyện, nên ngài quyết tâm tiến hành:
Ngày 1-6-1848 ngài triệu tập Hội đồng Tư vấn gồm các nhà thần học nổi danh, với sứ mệnh thẩm xét vấn đề. Hội đồng Tư vấn biểu quyết tâu xin định tín.
Ngày 22-12-1848 một Hội đồng Tiền chuẩn bị gồm tám Hồng y và năm cố vấn họp tại Naples dưới quyền chủ toạ của Đức Hồng y Lambruschini. Hội đồng tâu xin Đức Thánh Cha gửi một thông điệp cho các Giám mục xin cầu nguyện và hỏi ý kiến.
Ngày 2-2-1849 Đức Thánh Cha liền ban hành Thông điệp "Ubi Primum". Ngài nhận được 603 thư hồi âm tâu xin định tín hoặc xin tùy sự quyết định của Đức Thánh Cha. Với đủ yếu tố trong tay, Đức Piô IX họp Cơ mật viện gồm các Hồng y để quyết định lần cuối cùng và ngài viết Thông điệp "Ineffabilis Deus" (L.m. Phêrô, CMC).
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, xin giúp chúng con luôn gìn giữ tâm hồn trinh trong.
Suy niệm 6: Hình thành tín điều-Tuyên tín
Phải mất một thời gian khá lâu mới hình thành tín điều này.
Ngày 8-12-1854, tại đại đền Thánh Phêrô, trước mặt 54 Hồng y, 42 Tổng Giám mục, 92 Giám mục, 300 các viên chức sắc gồm cả ngoại giao đoàn, cùng với chừng 50.000 linh mục, tu sĩ, và giáo dân từ nhiều quốc gia, Đức Piô IX trịnh trọng tuyên bố thông điệp bất hủ "Ineffabilis Deus", và với một giọng cương quyết oai nghiêm, ngài tuyên tín: "Do uy quyền của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và của riêng Ta, Ta xác nhận, tuyên ngôn và định tín rằng: Rất Thánh Trinh Nữ Maria từ phút đầu thai đã được gìn giữ Vô nhiễm khỏi mọi vết nhơ nguyên tội, do đặc ân của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu chuộc nhân thế. Tín lý này đã được Thiên Chúa mạc khải. Do vậy, tất cả mọi tín hữu phải tin kiên vững".
Đức Thánh Cha vừa dứt lời, tức thì bài thánh ca "Te Deum" cùng với âm nhạc và tiếng chuông đại đền thánh Phêrô vang lên trầm hùng, biểu lộ niềm phấn khởi hân hoan từ ngàn vạn con tim dào dạt sung sướng trước bước vinh quang của Mẹ Vô nhiễm. Đồng thời, bên ngoài, từng loạt đại bác tại lâu đài Thiên thần nổ vang trời, nhịp với chuông tất cả các đền thờ thành Rôma đổ hồi ngân vang reo mừng Mẹ. Các lâu đài, dinh thự và tất cả các tư gia đều kéo cờ tưng bừng, và đêm đến thì trưng đèn rực sáng để ghi dấu một biến cố vinh quang cho Mẹ Vô nhiễm và vẻ vang cho toàn thể Giáo hội.
Sau bốn năm, năm 1858, Đức Mẹ hiện ra với Thánh Bernađetta tại Lộ Đức nước Pháp. Mẹ xưng mình "Ta là Đấng Vô nhiễm thai" để xác nhận điều tuyên tín của Đức Piô IX.
Năm 1846 công đồng giáo tỉnh Baltimore cung hiến Giáo hội Hoa Kỳ cho Đức Mẹ Vô nhiễm. Và đền thánh Mẹ Vô nhiễm bổn mạng toàn quốc đã được xây cất tại Washington, D.C. Tại Việt Nam, từ năm 1855 đến năm 1862 dưới triều vua Tự Đức, việc cấm đạo khủng khiếp ác liệt hơn hết. Riêng giáo phận Bùi Chu và Hải Phòng đã có trên 2.000 người chết vì đạo. Bởi vậy, các thừa sai Tây Ban Nha tại Giáo phận Bùi Chu khấn dâng giáo phận cho Đức Mẹ Vô nhiễm và khấn hứa Đức Mẹ ban ơn bình an, giáo phận sẽ dâng kính Đức Mẹ một đền thờ rộng lớn. Quả thật đến năm 1888, phong trào cấm đạo chấm dứt. Nhưng mãi đến năm 1916 Giáo phận Bùi Chu mới khởi công kiến thiết đền thờ Đức Mẹ Vô nhiễm đồ sộ nguy nga kiểu Gothic bậc nhất Đông Dương tại Phú Nhai gần Bùi Chu, tới năm 1923 mới khánh thành, năm 1929 bị bão đổ, và năm 1933 được trùng tu uy hùng cho tới ngày nay.
Trải qua nhiều khó khăn sau bao thế kỷ, và nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Linh qua Thánh kinh và Thánh truyền, Giáo hội đã đính thêm viên bích ngọc "Vô nhiễm" sáng chói trên vương miện Thiên Mẫu của Mẹ Maria. Chúng ta hãy vui mừng cảm tạ Chúa và Giáo hội, cách riêng Đức Sixtô IV và Đức Piô IX. Với hết tình ngoan thảo, chúng ta hãy hoan hỉ ca mừng chúc tụng Mẹ Vô nhiễm, đặc biệt trong dịp lễ tôn vinh Người (L.m. Phêrô, CMC).
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, xin thanh luyện miệng lưỡi và tâm hồn chúng con để xứng dâng lên Chúa và Mẹ những lời ngợi ca hoan hỉ.