Lời Chúa cnmv 4b _ các bài suy niệm

CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG B
2 Sm 7,1-5, 8b-12,14a,16; Rm 16,25-27; Lc 1,26-38





1. Khiêm nhường
Người đời thường nói: Một người làm quan cả họ được nhờ. Nếu như chúng ta có một người anh, một người chị hay một người chú làm lớn, hẳn các em sẽ lấy làm hãnh diện lắm lắm. Còn nếu như bản thân chúng ta, một mai khôn lớn và bước xuống cuộc đời, chúng ta gặt hái được những thành quả tốt đẹp, thì người vui mừng nhất, theo tôi nghĩ, đó chính là người mẹ của chúng ta. Bởi vì người mẹ đã tốn biết bao nhiêu công sức để nuôi dưỡng và giáo dục chúng ta. Cũng chính người mẹ thường mơ ước cho chúng ta một tương lai huy hoàng nhất.
Trong trường hợp của Mẹ Maria thì khác. Với lời xác quyết của sứ thần Gabriel: Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu, Người sẽ nên cao trọng và thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ tiên Người. Người sẽ cai trị nhà Giacob đến muôn đời. Hẳn Mẹ cũng đã biết rằng người con mình sinh ra là ai? Là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Mẹ không bao giờ vênh vang tự đắc về tước vị của mình, trái lại Mẹ luôn khiêm tốn nhận ra rằng: Mình chỉ là một dụng cụ trong lòng bàn tay của Thiên Chúa, vì thế Mẹ đã thưa lên cùng sứ thần Gabriel: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần Gabriel truyền.
Chính thái độ khiêm nhường của Mẹ đã làm cho Chúa được hài lòng và Ngài đã cắt đặt Mẹ lên một tước vị cao trọng, tước vị làm Mẹ Thiên Chúa, bởi vì Ngài hạ bệ những kẻ quyền thế và nâng cao những người phận nhỏ.
Lịch sử đã để lại cho chúng ta nhiều mẫu gương đáng suy nghĩ về vấn đề này. Một Lucifer kiêu ngạo, không muốn phục tùng Thiên Chúa, nên đã bị kết án hoả ngục đời đời. Một Adong Eva cũng chỉ vì kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa, nên đã bị kết án đau khổ và chết chóc.
Trong khi đó những người khiêm nhường luôn luôn được Chúa yêu thương và chúc phúc. Chẳng hạn Đavit, một cậu bé chăn chiên, đã được Chúa nâng đỡ phù trì, đánh thắng Goliah. Và khi Đavit khiêm nhường thú nhận tội lỗi của mình, thì đã được Chúa tha thứ, để rồi Đấng Cứu Thế sẽ xuất thân từ dòng dõi Đavit. Và Mẹ Maria ngày hôm nay là một mẫu gương đáng cho chúng ta suy nghĩ. Đang khi Mẹ hạ mình xuống làm người tôi tớ, thì Thiên Chúa đã nâng Mẹ lên làm Mẹ của Đấng Cứu Thế như lời Ngài đã phán: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
Cũng như Ngài đã truyền dạy chúng ta: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường để nhờ đó chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu, một hài nhi nhỏ bé và yết ớt nơi máng cỏ Bêlem.




2. Đức Trinh Nữ Maria
Nhân vật cuối cùng mà phụng vụ muốn trình bày với chúng ta trong mùa vọng đó là Đức Trinh Nữ Maria.
Thực vậy, điểm nổi bật của Mẹ Maria không phải là việc Mẹ được lôi kéo vào những sự kiện lạ lùng, nhưng chính là thái độ của Mẹ trước công trình cứu độ của Thiên Chúa đang diễn ra một cách khác thường. Không giống với một Giacaria ngờ vực, Mẹ Maria đã trả lời: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền. Một lời xin vâng có tính cách phó thác, dấn thân vào một công trình đầy những điều mới lạ, vượt trên mọi dự đoán. Một lời xin vâng đầy tin tưởng bởi vì Mẹ Maria đã đón nhận Con Thiên Chúa làm người trong lòng tin trước khi đón nhận Ngài nơi thân xác của mình.
Sau này khi người ta báo cho Chúa Giêsu biết có mẹ Ngài đang chờ Ngài ở ngoài, thì Ngài đã khẳng định: Những người nghe và thực hiện lời Ngài chính là mẹ và anh em của Ngài. Không phải Chúa Giêsu muốn phủ nhận địa vị người mẹ của Đức Maria mà trái lại, Ngài muốn khẳng định rằng Đức Maria đã là một người mẹ trọn vẹn của Ngài. Mối quan hệ giữa Đức Mẹ và Ngài không chỉ là quan hệ máu mủ ruột thịt mà còn là quan hệ tinh thần.
Với chúng ta cũng thế. Dọn đường Chúa, tiếp đón Chúa có nghĩa là lắng nghe và thực hiện lời của Chúa. Đó là con đường chắc chắn nhất để đi vào mối quan hệ mật thiết với Ngài. Lời của Ngài thực sự đã đưa chúng ta đi vào một con đường mới, một cuộc sống mới. Lời của Ngài đã lôi kéo chúng ta ra khỏi đền thờ, ra khỏi thành thánh để đến với những con người đang phải vật lộn giữa cuộc sống. Lời của Ngài dẫn chúng ta đến với những người nghèo khổ lao động, nhưng kẻ đau ốm, bệnh tật. Không phải chỉ để nói lên sự an ủi mà còn là để đem lại cơm áo và sự chạy chữa. Việc tiếp nhận Chúa không phải chỉ diễn ra trong mùa vọng và mùa giáng sinh, mà còn phải diễn ra trong toàn bộ cuộc sống chúng ta. Và như thế, chuẩn bị tiếp đón Chúa chính là học hỏi lời Chúa và thực thi lời Ngài trong cuộc sống của chúng ta vậy.



3. Thiên Chúa viếng thăm dân Người
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Vào một buổi tối trong một kỳ nghỉ đông lạnh lẽo, một đứa bé trai khoảng sáu bảy tuổi đang đứng phía ngoài cửa sổ của một cửa hàng. Cậu bé không có giày để mang, quần áo của cậu thì rách rưới.
Một phụ nữ trẻ đi ngang qua, cô nhìn thấy cậu bé và cô đọc được nỗi khao khát trong đôi mắt xanh của cậu bé. Cô nắm lấy tay cậu bé và dẫn cậu vào trong cửa hàng rồi cô mua cho cậu một đôi giầy mới và một bộ quần áo ấm.
Sau đó cô dắt cậu trở ra và nói với cậu: "Bây giờ cháu có thể trở về nhà và có một kỳ nghỉ đông thật hạnh phúc".
Cậu bé chăm chú nhìn cô rồi hỏi: "Cô có phải là Thượng đế không?".
Người phụ nữ nhìn cậu bé, mỉm cười và trả lời: "Không cháu à, cô chỉ là một trong số đứa con của Thượng đế".
Quả thực, "chúng ta đều là những người con của Thương Đế thôi". Mỗi người chúng ta đều là thụ tạo được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài. Hình ảnh Ngài là tha nhân, là bạn bè, là những người thân quen hay xa lạ mà chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống. Hình ảnh Ngài đang hiện diện qua những người yếu đuối, bất hạnh và nghèo khó đang cần chúng ta chăm sóc chở che. Có thể nói: Thiên Chúa cũng đang viếng thăm chúng ta qua những phận người đói rách lầm than, hay những phận đời bơ vơ túng quẫn trăm chiều. Thế nên, là con của Thiên Chúa chúng ta phải sống yêu thương nhau. Tình yêu sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi trở ngại để có thể làm điều gì đó tốt đẹp nhất cho tha nhân. Tình yêu sẽ giúp chúng ta liên đới với nhau thay vì vô cảm thiếu trách nhiệm với nhau.
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2,000 năm, một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh đón tiếp Thiên Chúa viêng thăm một cách rất âm thầm nhưng đầy thân tình. Người thiếu nữ ấy tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không để đánh mất cô hội ngàn năm có một là cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cô đã nhanh nhẹn đáp lời bằng hai tiếng xin vâng. Có thể nói: lời thưa xin vâng lúc này là lời đẹp nhất trong cuộc đời cô. Lời thưa xin vâng không những đã làm nên trang sử mới trong cuộc đời cô mà còn đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của lịch sử. Triều đại mới đã bắt đầu. Thời đại hồng ân đã khởi sự. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đang đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đang đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đang đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy quảng đại để chấp nhận Chúa. Hãy dấn thân và phục vụ Chúa qua những anh em đang cần sự trợ giúp của chúng ta.
Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là "sinh vô gia cư, chết vô địa táng". Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phường thu thuế và gái điếm.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.
Ước gì trong mùa Giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen.



4. Mừng Vui Lên
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Khi suy niệm mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta thường nghĩ tới biến cố Chúa sinh ra ở Bêlem. Thật ra mầu nhiệm này đã bắt đầu từ sau tiếng Xin Vâng của Đức Maria ở Nagiarét.
Sau tiếng Xin Vâng ấy, Ngôi Lời đã thành một thai nhi, lớn lên trong lòng mẹ như hàng tỉ con người khác, cần chín tháng mới có thể cất tiếng khóc chào đời.
Ngôi Lời không lẫm liệt từ trời bước xuống. Ngài muốn là người trăm phần trăm, nên Ngài cần một người mẹ. Ngài đi ra từ lòng mẹ: mong manh, yếu đuối. Ngôi Lời đã thành một người như chúng ta, chia sẻ trọn vẹn phận người như chúng ta, trừ phạm tội. Ngôi Lời đã là người, và mãi mãi là người. Ngài đã đi hết hành trình cuộc sống với tất cả nỗi buồn vui, âu lo và trăn trở. Chẳng ai hiểu chúng ta bằng Ngài. Ngài chẳng xa lạ với những gánh nặng của cuộc sống. Hôm nay Ngôi Lời vẫn là người, ngự bên Chúa Cha. Có một người được tôn vinh ở giữa lòng Thiên Chúa.
Mầu nhiệm Nhập Thể đâu phải chỉ ở Bêlem, vì Ngôi Lời mãi mãi là người, người Anh trưởng, dẫn đưa chúng ta vào cung lòng Thiên Chúa.
Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu trái đất. Trái đất chỉ là một trong số hàng tỉ tỉ vì sao, nhưng nó vẫn có thế đứng ưu việt vì là nơi Con Thiên Chúa đã đặt chân, đã sống. Bầu trời, rừng xanh, mạch nước, biển khơi... tất cả phải được gìn giữ cho thanh khiết. Trái đất là nhà của con người, nhưng cũng là ngôi nhà của Con Thiên Chúa.
Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu cuộc đời, yêu mảnh đời nhỏ bé của mình. Có lắm người dễ dàng tìm đến cái chết vì thấy bế tắc, tuyệt vọng, vì thấy đời vô nghĩa.
Mảnh đời của Đức Giêsu không phải chỉ màu hồng: long đong với phận nghèo, ê chề vì thất bại, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài đã sống mảnh đời ấy cho đến cùng, vững tin đến cùng vào tình Cha, ngay giữa vực sâu và tăm tối.
Con Thiên Chúa làm người dạy ta yêu mọi người. Từ khi Con Thiên Chúa mang khuôn mặt của con người thì mọi người đều mang khuôn mặt của Thiên Chúa. Tất cả nhân loại đều là anh em dù khác nhau về màu da, tôn giáo, ngôn ngữ, quan điểm... Xúc phạm con người là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Noel đem lại cho ta sự bình an sâu thẳm. Bình an cho trái đất đang bị tàn phá. Bình an cho những người đang sống trong ngõ cụt. Bình an cho chúng ta, cho mọi người. Bình an của Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhiều bạn trẻ tự phá hủy đời mình bằng ma túy, thuốc lá, rượu bia, đua xe, ăn chơi trụy lạc... Theo ý bạn, đâu là lý do chính dẫn đến thái độ đó?
Ai trong chúng ta cũng có những người bạn đang mất bình an, đang cần được nâng đỡ hay tha thứ. Mùa Noel này, bạn định làm gì cho họ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Chúa đã làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người. Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu, nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được. Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc. Xin đồng hành với con, để con không cô đơn. Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu. Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.



5. Mẹ Maria, một kiệt tác của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng, Hội Thánh cho chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng quen thuộc: “Sứ Thần Gabriel đến truyền tin cho Đức Maria”.
Thiên Chúa muốn Con của Ngài xuống thế làm người, để cứu độ nhân loại. Ngài đã muốn người Con ấy là con người giữa nhân loại. Thiên Chúa đã chuần bị cho Con của Ngài một người mẹ trần thế. Người mẹ ấy là Đức Maria, người làng Nadarét, vùng Galilê, nước Paléttin.
Cô Maria là người được Thiên Chúa tuyển chọn giữa muôn vàn phụ nữ trên địa cầu. Ngài chọn Cô chẳng phải vì Cô thánh thiện hơn người khác. Ngài chọn Cô từ khi Cô còn trong lòng mẹ. Ngài tuôn đổ trên Cô tràn trề ân sủng: "Hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Cô" (Lc 1,28). Được tràn trề ân sủng là được Thiên Chúa mến thương, được đẹp lòng Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ cho Cô Maria. Ngài đã tạo dựng Cô như một thụ tạo tuyệt vời, độc nhất vô nhị, chỉ vì Ngài muốn Cô xứng đáng trở nên người mẹ cưu mang chính Con Một của Ngài. Maria là một kiệt tác của Thiên Chúa, dù bề ngoài Cô chỉ là một thôn nữ của một ngôi làng nhỏ bé vô danh.Thiên Chúa không ép buộc Cô Maria làm mẹ của Con Một Ngài, dù Ngài đã chuẩn bị cho Cô một cách đặc biệt để đón nhận trọng trách cao cả đó. Ngài tôn trọng tự do của Cô, tự do mà chính Ngài đã ban cho Cô trong tư cách là người. Ngài không đặt Cô trước một sự đã rồi. Ngài muốn hỏi ý Cô, và chờ Cô ngỏ lời ưng thuận.
Phúc Âm Chúa nhật hôm nay kể câu chuyện Truyền tin.
Truyền tin là một Tin mừng muôn thuở. Tin mừng này đã được thực hiện qua một cuộc hòa đàm chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
Cuộc hòa đàm diễn ra giữa hai nhân vật, đại diện Thiên Chúa và loài người. Đại diện Thiên Chúa là Sứ Thần Gabriel, đại diện loài người là trinh nữ Maria.
Khung cảnh cuộc hòa đàm, không phải trong cung điện vua chúa, lầu các sang trọng. Nơi đó, trong căn nhà thanh bạch nghèo nàn thuộc vùng sâu thôn dã vô danh Nadarét. Khung cảnh thật giản dị, quê mùa, thô sơ, nhưng Thiên Chúa đã chọn làm khởi điểm lịch sử cứu độ vĩ đại.
Maria dù là nữ tỳ nhưng Sứ Thần đến mở đầu cuộc hòa đàm, không phải với thái độ ông chủ truyền lệnh. Ở đây, Sứ Thần hết sức khiêm cung, kính cẩn, lễ phép với lời chào: “Kính mừng Đấng đầy ân phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Khác xa lời cậu thanh niên chào cô thanh nữ. Tử tế lắm, cậu chỉ nói: Chào cô, chào em.
Sứ thần rất trân trọng thôn nữ Maria: vừa chúc tụng kính phục con người thánh thiện khả ái, vừa tôn vinh chức vụ cao sang của Bà được Thiên Chúa ở cùng.
Thôn nữ Maria sợ sự tôn vinh bất thường ấy, và tự nhủ lời chào ấy có ý nghĩa gì? Quả là sự tỉnh thức thận trọng của một thục nữ trinh trong, sáng ngời, đầy khiêm nhu, thùy mị.
Sứ thần đã nhận ra ý từ đó và giải thích thật rõ ràng cặn kẽ, trong suốt: “Thưa Bà Maria, xin đừng sợ, Bà rất đẹp lòng Thiên Chúa, Thiên Chúa ban cho Bà sinh con, đặt tên là Giêsu, Người là Con Đấng tối cao, Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít …”.
Nhưng, đối với Maria, “chữ trinh đáng giá ngàn vàng” hơn cả ngai vàng vua Đavít, vì Maria đã tận hiến suốt đời đồng trinh cho Thiên Chúa, nên Maria từ tốn đáp lễ: Làm sao có chuyện ấy được, thưa Ngài, vì tôi đã khấn trọn đời đồng trinh.
Sứ thần liền minh giải: “Việc đó rất chí thánh, do Chúa Thánh Thần với quyền phép Đấng tối cao, sẽ soi bóng trên Bà, nên Hài nhi khi Bà sinh ra là Đấng thánh, là Con Thiên Chúa..”
Nhận ra đó là thánh ý Thiên Chúa, Maria đã sấp mình tôn thờ Thiên Chúa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin hết lòng vâng theo thánh ý Chúa như lời sứ thần truyền dạy”.
Sứ thần đã thành công trong sứ mạng vô cùng trọng đại. Maria đã hoàn toàn làm đẹp lòng Thiên Chúa, trọn vẹn hiến dâng đồng trinh với chức vụ thiên mẫu lạ lùng.
Đây thật là một cuộc hòa đàm gương mẫu cho muôn đời. Gương mẫu vì cuộc hòa đàm đã diễn ra đúng tinh thần đối thoại và hòa giải.
Đối thoại cần thiết phải có ba tính chất đặc biệt:
- Thứ nhất, hai bên rất khiêm tốn, tôn trọng lẫn nhau.
- Thứ hai, hai bên thưa đáp trình bày ý tứ của mình rất trong sáng, rất đơn sơ và chân thành, mình nghĩ thế nào, lập trường làm sao, cần những điều gì mới đưa đến thành công.
- Thứ ba, hai bên đã nhận ra những ân huệ rất ích chung, rất thánh thiện mà Thiên Chúa muốn thực hiện.
Đây cũng là một cuộc hòa giải hoàn hảo:
- Vì đã giải quyết được những nỗi khó khăn vô cùng phức tạp, loài người không thể gỡ mối tơ vò, chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới giải quyết được vấn đề: vừa đồng trinh, vừa sinh con, con Bà vừa là người, vừa là Thiên Chúa.
- Vì đã giải quyết được chương trình cứu độ nhân loại mà Thiên Chúa đã bao lần hòa giải thất bại với bao nhiêu nhân vật từ Ađam Evà cho đến nay. Nay Thiên Chúa mới thực hiện được chương trình thương yêu của Người nơi Đức Trinh nữ Maria.
Thiên Chúa đã giao ước với Ađam Evà, nhưng Nguyễn tổ đã trở mặt theo con rắn satan. Thiên Chúa đã giao ước với Noe, nhưng con cháu đã xây tháp Babel kiêu căng. Thiên Chúa đã giao ước chọn lựa Abraham làm tổ phụ dân Người, nhưng con cái Giacob hằn thù chia rẽ, bán Giuse làm nô lệ cho con buôn Ai cập. Thiên Chúa đã giao ước với Môisen đưa dân về quê cha đất tổ để thờ phượng Thiên Chúa, nhưng dân Israel đã chiều theo lối sống thờ thần Babylon. Giờ đây, Thiên Chúa chỉ còn cách duy nhất là ký kết với Đức Maria, một đầy tớ trung tín và khôn ngoan, luôn luôn làm theo ý chủ mình là Thiên Chúa, một tôi tớ dâng hiến trọn vẹn toàn diện đời mình từ trong bào thai cho Thiên Chúa. Thiên Chúa đã toàn quyền sử dụng Maria theo thánh ý Người. Và Con Thiên Chúa đã xuống cung lòng Maria để ở cùng loài người cho đến tận thế.
Bài Tin Mừng hôm nay thường gọi dưới tựa đề là " Sứ Thần truyền tin cho Đức Mẹ". Nhưng Sứ Thần và Đức Mẹ đều không phải là nhân vật chính. Nhân vật chính là Đức Giêsu. Trang Tin Mừng này giới thiệu căn tính của Đức Giêsu. Đó là nội dung chính của Truyền Tin. Qua lời của Sứ Thần mà chúng ta biết Giêsu là “Con Đấng Tối Cao", là “Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa”.
Đức Maria sẽ nhận được một sự can thiệp diệu kỳ của Thiên Chúa. Mẹ sẽ đón lấy quyền năng sáng tạo của Thánh Thần "Thánh Thần sẽ ngự trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà.". Vì thế Đấng Mẹ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Nếu việc thụ thai Gioan Tẩy Giả đòi hỏi một phép lạ, thì việc thụ thai Đức Giêsu đòi hỏi một phép lạ lớn hơn nhiều, đó là Ngài được thụ thai bởi một Trinh Nữ. Đức Giêsu không phải chỉ là Đấng Mêsia mà dân Do thái hằng mong đợi. Ngài còn là Đấng cao cả, thánh thiện hơn nhiều. Ngài là "Con Thiên Chúa" theo nghĩa viên mãn chưa từng có.
Sau tiếng Xin Vâng đầu tiên, Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Mầu nhiệm nhập thể đã bắt đầu ngay từ giây phút này.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta một người Mẹ cao cả, thánh thiện, đáng yêu, đáng mến. Mẹ cầu bàu cho chúng ta trước tôn nhan Chúa. Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa.
Xin Chúa cho chúng con được trở nên con ngoan thảo của Mẹ, để Mẹ dễ dàng tỏ cho chúng con thánh ý Chúa và hướng dẫn chúng con biết sống đẹp lòng Chúa hàng ngày. Amen.



6. Khiêm nhường đón nhận.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: Thằng bé này dạy được đây. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.
Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet. Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Đó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý Thiên chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.
Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa Xin vâng, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mãnh liệt đến thế nào.
Vì đã thưa Xin vâng, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.
Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vân mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn có nhận thấy sự khiêm nhường của Đức Mẹ không?
2) Từ bỏ ý riêng có dễ không?
3) Có khi nào bạn cảm thấy hoàn toàn bất lực để phó thác trọn vẹn trong tay Chúa chưa?
4) Khi đã hiểu rõ gương khiêm nhường của Đức Mẹ, bạn có muốn bắt chước Đức Mẹ không?



7. Thiên Chúa đến xây nhà Ngài – Guy Morin
Thiên Chúa xây dựng cách mạnh mẽ và tự do.
Nhà, cũng như thức ăn và áo mặc, là một nhu cầu sơ đẳng của con người. Nó mang đủ mọi hình thức: nhà ở, trường học, bệnh viện. Khi có xây cất, thì có sự sống. Ngay cả những làng ma, như là Val Tal Jalbert, cũng chứng tỏ là có sự sống trong quá khứ. Để bao đảm đời sống của mình, con người đưa ra những dự tính về nhà cửa.
Thiên Chúa, Đấng hằng sống, cũng vạch ra những dự án. Thánh Kinh thường trình bày Ngài như Đấng xây cất. Nhưng lối xây cất của Ngài khác với chúng ta, những dự án của Ngài cũng vậy. Những bài đọc hôm nay nêu cho chúng ta hai thí dụ.
Dự án của Đavít.
Khoảng 1000 trước Công nguyên, Đavít đang thống trị ở Israel. Ông đã thắng kẻ thù, thống nhất đất nước, biến Giêrusalem thành thủ đô và xây cất lâu đài của ông ở đó.
Là một vị vua đạo đức, ông cảm thấy áy náy lương tâm: “Tôi ở một ngôi nhà bằng gỗ bá hương còn hòm bia Thiên Chúa lại ở trong lều”. Ông quyết định xây một đền thờ cho Thiên Chúa. Ông muốn dâng cho Thiên Chúa một nơi ở ổn định. Đây là một dự án phát xuất từ một bản tính tốt nhưng lại quá giống cách người ngoại giáo cư xử với những thần minh của họ. Đavít muốn đặt Giavê vào trong thủ đô của mình, sở hữu Ngài, nắm Ngài trong tay mình. Nhưng Giavê khác hẳn. Ngài tự do và độc lập đối với con người. Ngài không chịu bị nhốt vào một chỗ vì Ngài di động và hoạt động. Chính Ngài đã đưa Israel từ xứ Ai Cập lên.
Ngôn sứ Nathan cho Đavít biết sự từ chối của Thiên Chúa. “Có phải ngươi sẽ xây cho Ta một nhà để Ta ở chăng?”… Thiên Chúa cho ông biết rằng chính Ngài sẽ tự làm nhà cho Ngài… “Dòng dõi ngươi và vương quốc của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta”.
Thiên Chúa từ chối dự tính của Đavít nhưng trái lại, Ngài hứa với ông một điều tuyệt vời: một dòng dõi, một hậu duệ vĩnh viễn. Thiên Chúa cam kết tương lai, tương lai của Ngài với dân Ngài. Ngài nắm sáng kiến vì Ngài là Thiên Chúa tự do. Ngài đặt dự tính của Ngài bên dự tính của con người.
Dự tính của Thiên Chúa.
Một ngàn năm sau, Thiên Chúa đã tự tay thực hiện lời hứa với Đavít. Con Một Ngài sẽ mặc lấy xác phàm và sẽ làm con của dòng họ Đavít, vì Maria, mẹ của Con Ngài, đã đính hôn “với một người thuộc dòng họ Đavít tên là Giuse”. Như vậy Thiên Chúa thể hiện cách tuyệt vời dự định của Ngài là ở với loài người. Thánh Luca kể lại cho chúng ta việc này đã được thực hiện như thế nào. Cũng như trong trường hợp với Đavít, Thiên Chúa nắm tất cả sáng kiến: Ngài điều khiển, nhưng trong sự tôn trọng tự do của Đức Maria.
Trong việc thực hiện dự tính của Ngài, Thiên Chúa gạt sang một bên các cơ cấu tôn giáo của Israel. Biến cố sẽ không xảy ra tại Giêrusalem, thành thánh và có danh tiếng, nhưng tại Nadaret, một ngôi làng không ai biết đến. Cũng không phải tại Đền Thờ nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa, nhưng trong một ngôi nhà tầm thường. Ngài không ngỏ lời với một vị tư tế như trong trường hợp Gioan Tẩy Giả, nhưng với một thiếu nữ đơn sơ không chức quyền.
Thiên Chúa hành động theo phong cách của một vị vua. Ngài sai thiên thần Gabriel đến loan báo cho Đức Maria bằng những lời lẽ chính xác: “Này bà sẽ thụ thai…”. Ngài đặt tên cho con trẻ: “Bà sẽ gọi tên Người là Giêsu”. Trước câu hỏi của Đức Maria Ngài đã có sẵn câu trả lời: “Thánh Thần sẽ rợp bóng trên bà”. Đức Maria không xin dấu chỉ nhưng cũng được ban cho một dấu chỉ: Isave mang thai. “Vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được”.
Thiên Chúa hành động cách tự do và mạnh mẽ. Tuy nhiên Ngài tôn trọng tự do của Đức Maria trong việc chấp nhận hay không dự tính của Ngài. Ngài không đòi điều gì hết ngoài sự ưng thuận. Một thứ giấy phép xây cất. Vì Thiên Chúa không xây cất một tòa nhà vật chất bằng đá hoặc bằng gỗ nhưng là con người sống động. Nhà của Thiên Chúa ở giữa loài người. Đền Thờ thật sự sẽ là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và con vua Đavít. Thiên Chúa làm điều mới mẻ nhờ sự công tác của Đức Maria.
Sứ điệp.
Thiên Chúa không ngừng thực hiện việc xây cất của ngài. Hôm nay nữa, Ngài vẫn đề ra những dự án để thực hiện mục tiêu của Ngài: Qui tụ toàn thể nhân loại dưới quyền Chúa Kitô. Nếu, như Đức Maria, chúng ta lắng nghe Thiên Chúa, nếu chúng ta đón nhận lời Ngài, Ngài sẽ làm cho chúng ta trở thành những cộng tác viên của Ngài. Tuy nhiên ta đừng chờ đợi Thiên Thần hiện ra! Ta hãy tìm hỏi nơi Tin Mừng và nơi những nhu cầu của Giáo Hội. Thiên Chúa có những dự tính của Ngài nơi mỗi người chúng ta. Ta phải tìm cho ra và dấn thân thực hiện.



8. Truyền tin cho Đức Maria
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Chúng ta đang ở Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng. Phụng vụ công bố bài Tin Mừng thuật lại biến cố truyền tin cho Đức Maria (Lc 1,26-38) để nói với chúng ta về căn tính và sứ mạng của Đấng sắp giáng sinh, đồng thời mời gọi chúng ta sống thái độ tâm linh thánh thiện đích thực như Đức Maria để đón Người.
“Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai thiên sứ Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (cc.26-27).
Thiên sứ Gabriel là sứ giả của biến cố cánh chung, mở ra thời kỳ của sự hoàn tất, thời viên mãn. Thiên sứ được Thiên Chúa sai đến (tác giả Tin Mừng không nói ngài “hiện ra”) với một trinh nữ. Tác giả Lc mô tả Đức Maria với ba chi tiết: trinh nữ, tên là Maria, và đã thành hôn (hay đính hôn, hay kết hôn, tùy cách dịch). Người ta tranh luận nhiều về việc nên dịch là đính hôn hay thành hôn hay kết hôn. Thực ra, cả ba cách dịch đều... chính xác hoàn toàn. Điều quan trọng nhất, vì thế, không phải là hạn từ tiếng Việt nào cần chọn, mà là điều tác giả sách Tin Mừng muốn trình bày.
Tiến trình lễ cưới của người Do Thái gồm hai bước. Bước thứ nhất là việc kết hôn về mặt pháp lý. Sau việc này, cô gái đã trở thành vợ về phương diện pháp luật, như vẫn còn ở nhà cha mẹ khoảng một năm nữa, và do đó, vẫn chưa có quan hệ tình dục với người chồng. Cuộc hôn nhân đã có giá trị về phương diện luật pháp. Ta tạm gọi là ‘đã kết hôn’. Bước thứ hai: việc đón cô dâu về gia đình người chồng, ở đó, lễ cưới được hoàn thành.
Khi thiên sứ đến, Đức Maria đang ở trong giai đoạn đã kết hôn với thánh Giuse về phương diện pháp luật, nhưng các ngài chưa về chung sống với nhau, và do đó, Đức Maria vẫn là một trinh nữ. Nơi sự già nua và son sẻ của bà Êlisabét, quyền năng của Thiên Chúa đã thực hiện một cuộc sinh hạ lạ lùng, như từng xảy ra trong Cựu Ước nhiều lần. Với sự đồng trinh của Đức Maria, Thiên Chúa thực hiện một sự can thiệp mang bản chất sáng tạo. Cuộc chào đời lạ lùng của Gioan Tẩy Giả thuộc về chuỗi những trường hợp đặc biệt của Cựu Ước, và như thế, với Dacaria và Êlisabét, Thiên Chúa đã làm một “tổng hợp” những sự can thiệp trong Cựu Ước. Nhưng với Đức Maria đồng trinh thì hoàn toàn khác: có một khởi điểm mới, một sự can thiệp hoàn toàn chưa có tiền lệ.
Vậy “thiên sứ vào nhà trinh nữ và nói: ‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (c.28). Thiên sứ Gabriel đã không gọi Mẹ bằng tên riêng “Maria”, mà gọi là “Đầy ân sủng” (theo văn phạm tiếng Việt, chúng ta phải dịch là “Đấng đầy ân sủng”). “Đầy ân sủng” là lối nói mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa đã thực hiện điều gì nơi Đức Maria và do đó, Đức Maria đã trở nên điều gì đối với chính Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm cho Mẹ được tràn đầy ân phúc; Người đã ban cho Mẹ tất cả vẻ duyên dáng nhờ những ân điển của Người; Người đã làm cho Mẹ trở thành vô cùng đáng yêu trong mắt Người; và vì vậy, ân huệ của Người và tình yêu của Người luôn hướng về Mẹ; Người bị hấp dẫn bởi vẻ duyên dáng của Mẹ, vẻ duyên dáng do chính Người tạo nên bằng các ân huệ thiêng liêng của Người. Đức Maria đã xứng đáng được Thiên Chúa lưu tâm và yêu mến. Thiên Chúa làm cho Mẹ được tràn đầy ân phúc, đến nỗi tình yêu và sự quan tâm của Người lại bị thu hút bởi chính vẻ duyên dáng của Mẹ, vẻ duyên dáng mà ân sủng của Người đã làm nên. Và đó thực sự là một mầu nhiệm của mối tương quan giữa Thiên Chúa với Đức Maria. Với tất cả sự ngạc nhiên, với tất cả sự thán phục, với tất cả lòng tri ân, chúng ta được mời gọi suy niệm: làm sao Thiên Chúa vĩ đại vô biên và toàn năng khôn lường, lại đã nghiêng mình một cách đặc biệt như thế trên cô thôn nữ Nadarét và đã làm cho cô thôn nữ ấy trở nên xứng đáng với tình yêu của Người như vậy? Đó vẫn thực là một mầu nhiệm vượt quá trí hiểu của con người.
“Nghe lời ấy, Đức Maria rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” (c.29). Sự bối rối ở đây là một yếu tố trong cấu trúc của các trình thuật truyền tin trong Kinh Thánh. Ông Dacaria cũng bối rối (1,12). Nhưng ông Dacaria bối rối vì nhìn thấy thiên sứ (liên quan đến cái nhìn) và ông trải qua một cơn sợ hãi điển hình của những cuộc giáp mặt với một thực tại cõi trời. Trường hợp Đức Maria thì hoàn toàn khác: Đức Mẹ không hề sợ hãi, và sự bối rối xảy ra do nghe lời thiên sứ nói (liên qan đến sự nghe). Điều này cho thấy cần phải hiểu câu 29 không phải như một chi tiết tiểu sử, và do đó, không cần phải tìm cách giải thích sự bối rối này theo quan điểm tâm lý học.
Thật ra, với c.29b: “[Đức Maria] tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì”, chúng ta có quyền và cần phải hiểu chi tiết Đức Maria bối rối chỉ là một chi tiết có chức năng chính yếu là văn chương, cho phép thiên sứ đào sâu diễn từ đang được trình bày. Nói cách khác, chi tiết này có vai trò chuyển tiếp từ lời tuyên bố thứ nhất sang lời tuyên bố thứ hai của thiên sứ Gabriel.
“Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu” (cc.30-31). Ơn sủng được nói ở c.28 bây giờ được diễn tả trong một cách nói khác: đẹp lòng Thiên Chúa. Và ơn sủng đó làm nên tứ cách làm mẹ của Đức Maria, hay nói cách khác, ơn sủng đó trước hết nằm ở người Con mà Mẹ sẽ sinh hạ từ cung lòng mình.
“Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (cc.32-33). Các câu này nhấn mạnh sự lớn lao của Đấng sẽ được sinh ra từ cung lòng Đức Maria.
“Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (c.34). Căn cứ vào phong cách văn chương được sử dụng để viết trình thuật truyền tin, và căn cứ vào câu trả lời của thiên sứ ở c.35 tiếp sau, có thể nói: câu 34 này là một kỹ thuật hành văn của thánh Luca, và đảm nhận một chức năng kép. Một đàng, nó có chức năng khẳng định sự thành thai đồng trinh của Đức Giêsu, và đàng khác, nó có chức năng chuẩn bị, về mặt văn chương, cho mạc khải tối hậu về Đức Giêsu ở câu 35.
“Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (c.35). Với câu này, tác giả sách Tin Mừng đặt trên miệng thiên sứ Gabriel lời trình bày một truyền thống Kitô giáo rất đậm đặc về nội dung. Ông sử dụng động từ “rợp bóng” để ám chỉ đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, dấu chỉ sự hiện diện của Đức YHWH giữa dân Người: “Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức YHWH đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40,35.38; Ds 9,18; 10,34...). Đàng khác, chúng ta gặp ở c.35 lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh tiên khởi, cho thấy sự chờ đợi Đấng Mêsia của dân Do Thánh đã bị vượt quá. Quyền năng Đấng Tối Cao và sự rợp bóng của Thánh Thần không xảy đến trên vị vua nhà Đavít, mà là trên thân mẫu Ngài. Và Đấng sẽ được sinh ra lại chính là Con Thiên Chúa.
“Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (cc.36-37). Những gì đang xảy ra cho bà Êlisabét chính là dấu chỉ của tính cách hữu hiệu của lời thiên sứ: quyền năng của Thiên Chúa sẽ thực hiện công trình kỳ diệu nơi Đức Maria. Thiên sứ kết thúc câu chuyện với Đức Maria bằng việc khẳng định tính cách hữu hiệu của lời Thiên Chúa nơi Đức Maria.
“Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (c.38). Đức Maria diễn tả sự vâng phục tuyệt vời của Mẹ với chương trình của Thiên Chúa. “Tôi tớ của Đức Chúa” là danh hiệu rất phong phú về ý nghĩa, thường được Kinh Thánh áp dụng cho các nhân vật như Abraham, Môsê, Đavít, các ngôn sứ, Vị Tôi Trung đau khổ... Đó là những con người được Thiên Chúa chọn vì dân Người.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta những khẳng định thần học quan trọng về căn tính và sứ mạng của Đấng sắp được sinh ra, đồng thời khắc họa dung mạo của Đức Maria trong tư thế người tin và người tôi tớ tuân phục. Đó cũng là hai thái độ tâm linh căn bản mà chúng ta phải có khi chuẩn bị đón Lễ Giáng Sinh.



9. Đức Chúa ở cùng chúng ta
(Suy niệm của Peter Feldmeier – Lm. Văn Hào SDB chuyển ngữ)
“Quyền năng Đấng tối cao sẽ phủ bóng trên Bà” (Lc 1,35).
Hai Chúa Nhật vừa qua, các bài đọc Kinh Thánh trong phụng vụ giới thiệu cho chúng ta sứ mạng của Gioan Tiền hô. Lời Chúa hôm nay trình thuật biến cố truyền tin cho Đức Maria, khi Gioan còn trong bụng mẹ. Xét về trình tự thời gian, có vẻ như không hợp lý, nhưng các bài đọc Kinh Thánh lại ẩn chứa một ý nghĩa thần học rất sâu xa. Gioan Tiền hô tổng tóm những gì cựu ước nói tới. Ngài là hình tượng của Isaia, khi công bố kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa. Isaia từng loan báo, ngày của Chúa sẽ đến, một ngày đầy khiếp hãi. Gioan Tẩy giả vang vọng lại lời hứa ấy, trong khi Đức Giêsu đến trần gian để làm cho lời Thiên Chúa hứa được thực hiện cách tròn đầy.
Lời Chúa hứa được nhắc tới trong bài đọc thứ nhất. Vua Đavid đã đến cư ngụ tại Giêsusalem và lúc bấy giờ ông mong muốn xây một ngôi đền cho Đức Chúa Giavê. Ngôn sứ Nathan, dưới triều vua Đavid, coi đó như một ý định tốt lành, nhưng Thiên Chúa lại có một kế hoạch khác. Thay vì Đavid xây nhà cho Thiên Chúa, thì chính Chúa lại xây nhà cho ông. Từ ngữ bayit, là một cách chơi chữ, vì nó vừa có nghĩa là nhà ở, đồng thời cũng mang nghĩa là triều đại. Đavid có ý định xây một đền thờ, xây một ngôi nhà, một bayit cho Chúa, nhưng Thiên Chúa lại củng cố bayit của Đavid, cũng là xây nhà cho Đavid, hay xây dựng triều đại của ông. Thiên Chúa hứa một điều rất khác thường. “Nhà của Ngươi và triều đại Ngươi sẽ đứng vững mãi mãi trước nhan Ta. Ngôi báu của Ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời”.
Lời Chúa hứa dành cho Đavid được dân Israel khắc ghi trong tâm khảm. Dân Do Thái coi đó như một giao ước rất rõ ràng và minh nhiên (Hc 45,25). Có phải Thiên Chúa đã hủy bỏ giao ước, khi vương quốc Đavid sụp đổ, và dân Chúa phải đi lưu đày? Thiên Chúa đã hứa, thế thì phải chăng Ngài đã hủy bỏ điều mà Ngài đã ký kết? Hay vì tội lỗi của dân quá lớn và quá nhiều, khiến Thiên Chúa bỏ rơi dân Ngài? Sau này Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Nếu ta không trung tín, Thiên Chúa vẫn luôn tín trung, vì Người không thể chối bỏ chính mình” (2 Tm 2,13). Nhưng dường như ở đây, xem ra có vẻ như Thiên Chúa đã không tín trung, đã thất hứa với lời thề thốt của mình. Có đúng như thế không? Chắc chắn không phải vậy.
Trong bài Tin Mừng, qua biến cố truyền tin cho Đức Maria, thần sứ đã nêu ra câu trả lời trước vấn nạn trên. Chuyện thất tín không bao giờ xảy ra. Thiên Chúa không bao giờ quên giao ước Ngài đã hứa. Trong phần đầu tiên, Gabriel đã chuyển tải sứ điệp để trả lời cho khúc mắc đó. “Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ trao cho Người ngai vàng vua Đavid tổ tiên Người, Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô tận”(Lc 1, 32-33). Tiếp theo, thần sứ nói với Đức Maria một điều vượt quá sức tưởng tượng: “Chúa Thánh Thần sẽ phủ bóng trên Bà, và hài nhi được sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.
Từ lời hứa trong cựu ước, đến việc thực hiện khi Đức Giêsu đến trần gian, đã được Tân ước diễn bày qua những cách nói biểu trưng. Các tác giả Tân ước, nhìn lại những biến cố của cựu ước như chìa khóa tiên báo và là những hình tượng tiên báo các thực tại sau này. Adam trong cựu ước là hình ảnh nói về Đức Giêsu (Rm 5,14). Elia là khuôn mẫu của Gioan Tẩy giả (Lc 1,17). Dân Israel là hình tượng biểu thị cho Giáo Hội (1 Ph 2,a). Chúng ta cũng có thể nói về Đức Maria với hình ảnh biểu trưng trong Cựu ước giống như thế. Đức Maria là hình mẫu tròn đầy nhất mà dân Israel đã phác vẽ. “Trinh nữ”, hoặc ý niệm về “Người Con Gái Trinh Nữ” là danh xưng ám thị Israel. Lời chào của Thần sứ “Chaire” trong tiếng Hy lạp có nghĩa là kính chào, hoặc “Hãy vui lên”, phác vẽ lại hai lời công bố trong cựu ước. Một, là loan báo quyền năng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện để mang lại sự cứu thoát, và hai, là lời hoan vui “Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ Sion”(Gio 9,9 ; Sop 3, 14-17).Qua một hình ảnh khác, Đức Maria được loan báo cho biết “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên Bà”. Đây là thuật ngữ mà bản Kinh Thánh 70 (septuagint) đã sử dụng để diễn tả sự kiện vinh quang của Thiên Chúa phủ ngập trên lều Chứng Ước. Trong căn lều đó, ánh sáng chói lọi và vinh quang của Thiên Chúa luôn luôn ngập tràn (Xh 40,35).
Maria là dung mạo hiển thị Israel trong Cựu ước. Sự trung tín của Đức Maria cũng tương hợp với sự trung thành của dân Chúa khi thực hiện giao ước. Đức Maria là đền thờ của Thiên Chúa. Tâm hồn Mẹ luôn tràn ngập vinh quang Ngài. Thiết tưởng, Đức Maria như một tấm gương, qua Ngài chúng ta có thể nhìn ngắm và phản chiếu niềm tin của chúng ta, từng cá nhân cũng như cả cộng đoàn. Tất cả mọi người chúng ta trong lòng tin, chúng ta sẽ là những giai nhân tuyệt mỹ, là con gái Israel không tỳ vết. Chúng ta là đền thờ của Đấng Tối Cao. Và như thế, chúng ta cũng như Đức Maria, là những người mang chở Thiên Chúa trong cung lòng mình. Có thể trong Giáo hội hiện nay, đa phần là những người nam nắm quyền lãnh đạo. Nhưng hình ảnh trên mang tính đặc thù để mời gọi chúng ta, nam cũng như nữ, chúng ta hãy mặc lấy căn tính cao quý này. Chúng ta có bao giờ nghĩ đến điều đó không? Đứng trước viễn cảnh mà thần sứ đã phác dẫn, Maria thực sự bối rối. Nhưng Ngài đã quy thuận Thánh ý Thiên Chúa và thể hiện căn tính cao trọng nơi mình, để trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng có thể thực hiện giống như thế được không?



10. Ngôi Đền Vàng của Đấng Tối Cao
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Thiên Chúa nhập thể đã được sinh hạ trong chuồng chiên cừu tại Bêlem hơn 2000 năm trước. Hôm nay, Thiên Chúa muốn mỗi người trở thành nơi Thiên Chúa được cưu mang và sinh hạ. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy trở thành nơi Thiên Chúa ngự như cung lòng Đức Maria, trở thành nơi Thiên Chúa sinh hạ như máng cỏ ở Bêlem, trở thành đền thờ để Thiên Chúa ngự trị và hiển lộ.
1. Ngôi nhà Thiên Chúa ngự
Vua Đavít muốn xây dựng một ngôi đền thờ cho Chúa ngự, vì vua nghĩ rằng thật không phải khi vua sống trong ngôi nhà bằng gỗ bá hương, còn Chúa ngự nơi “lều tạm.” Vua Đavít đã đem ý định này nói cho tiên tri Nathan, và tiên tri với lý trí con người, nghĩ rằng vua cứ làm theo điều vua thấy đúng.
Lời Chúa đã nói với tiên tri Nathan, để nói với Đavít: “ngươi là con người, mà muốn xây nhà cho Thiên Chúa ở sao?” Chính Thiên Chúa mới là Đấng “xây nhà” cho Đavít. Chính Thiên Chúa là Đấng tuyển chọn Đavít khi vua còn là cậu bé chăn chiên, đã làm cho Đavít nổi tiếng, đã cho Đavít chăn dắt nhà Israel. Chính Thiên Chúa sẽ xây nhà cho Đavít, sẽ cho triều đại vua tồn tại qua một người con cháu. Đáp lại ý định quảng đại của Đavít, Thiên Chúa mặc khải cho vua biết ý định của Ngài: một người từ dòng dõi của vua sẽ được yêu thương đặc biệt, và triều đại của vị vua đó sẽ trường tồn vạn đại. Chương trình yêu thương của Thiên Chúa cho con người vượt xa vô cùng điều con người định làm cho Thiên Chúa.
Con người không thể xây nhà để Thiên Chúa ngự, nhà Thiên Chúa ngự luôn là “lều tạm” vì đó là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho con người. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, nơi nào cũng là nhà Ngài cũng thuộc về Ngài, Ngài không cần ai xây nhà cho Ngài. Ở đây Thiên Chúa nhắc nhở con người hãy nhớ “Ngài là ai.” Ngài không giống con người, Ngài vượt xa con người, Ngài siêu việt, Ngài ở “trên trời” nhưng cũng ở ngay trong tâm hồn mỗi người. Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa.
2. Đền thờ sống động cho Thiên Chúa
Mỗi người là đền thờ sống động của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là Đấng xây dựng ngôi đền thờ này qua cha mẹ mỗi người khi cho mỗi người được sinh ra qua cha mẹ mình; cũng chính Thiên Chúa tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn ngôi đền thờ này qua những lời giảng dạy của những thày cô dạy giáo lý, qua các người thuộc về Ngài như các tu sĩ, qua chính Giáo Hội qua các linh mục và toàn thể dân Chúa.
Chính Thiên Chúa đang xây dựng đền thờ sống động là mỗi người chúng ta cho Ngài. Không ai xây dựng ngôi đền thờ này ngoại trừ chính Ngài, những người khác chỉ là công cụ Thiên Chúa dùng. “Lều tạm” nơi dân Do Thái ngày xưa, là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho dân Do Thái. Mỗi người là đền thờ Thiên Chúa, không chỉ như lều tạm nữa, mà là nơi Thiên Chúa vui thích ngự vì Thiên Chúa yêu thương mỗi người. Không ai yêu thương mình bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng yêu thương tôi nhất.
Đền thờ Thiên Chúa là nơi con người có thể tới để gặp gỡ, nói chuyện, tâm sự với Ngài. Thiên Chúa mời gọi mỗi người trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho người khác, trở thành biểu hiện Thiên Chúa yêu thương người khác, trở thành dụng cụ sống động để Thiên Chúa hiện diện và diễn tả tình yêu của Ngài cho tha nhân. Mùa vọng và mùa Giáng Sinh, là dịp rất tốt để mỗi người trở về với Thiên Chúa, để mình sẵn sàng cho Thiên Chúa ngự trị và làm những gì Ngài muốn qua chính con người của mình.
3. Đức Maria- Đền Thờ Sống Động Tuyệt Vời của Thiên Chúa
Đức Maria đã đính hôn với Giuse (Lc.1, 27). Như vậy phải chăng cô gái tên Maria này đã quen Giuse, đã yêu Giuse; và họ đã quyết định lập gia đình với nhau; hơn nữa họ đã đi một bước dài: đã đính hôn. Có lẽ chỉ chờ thời gian để thành vợ thành chồng, chờ khi Giuse đón Maria về nhà mình.
Thiên Chúa đã can thiệp vào cuộc đời của Maria và Giuse, và qua đó ảnh hưởng tất cả nhân loại. Thiên Chúa đề nghị Maria có thai và sinh một con người đặc biệt, không phải do Giuse: “việc đó xảy ra thế nào, vì cho tới bây giờ tôi chưa có liên hệ vợ chồng (với Giuse)” (Lc.1, 34). Sứ thần cho biết, đây là con người đặc biệt, Thiên Chúa là Cha của Người, Người này sẽ trị vì trên nhà Đavít, nước Người rộng vô biên.
Để có thể thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, đức Maria đã phải đặt
· tình yêu Thiên Chúa trên tình yêu riêng (đối với thánh Giuse);
· ý định Thiên Chúa trên danh dự gia đình;
· niềm tin vào Thiên Chúa hơn là chính con người của mình.
Nếu Giuse không hiểu và không thông cảm, thì đức Maria mất người mình yêu thương. Khi thưa tiếng xin vâng, Maria sẵn sàng chấp nhận trường hợp này; vì ý Thiên Chúa được coi là trên hết đối với đức Maria. Nếu Giuse không chịu hiểu, và nếu chuyện tai tiếng xảy tới cho gia đình, làm sao thánh Gioan-Kim và thánh Anna có thể chịu đựng được điều như vậy? Đức Maria chấp nhận tất cả điều tệ hại nhất có thể xảy ra cho gia đình cha mẹ và họ hàng, ý định của Thiên Chúa phải được coi là trên hết. Nếu Giuse không hiểu và không thông cảm, nếu Giuse tố cáo công khai thì sao, Maria có thể bị ném đá chết như một phụ nữ phạm tội ngoại tình! Nếu chuyện xảy ra như vậy, thì việc nhận lời thụ thai nào có ích lợi gì? Không, đức Maria vẫn hoàn toàn tin tưởng và phó thác tất cả cho Thiên Chúa. Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm tất cả những gì, và Ngài có thể làm cho thành sự những gì Ngài đã khởi đầu. Chỉ khi phó thác như vậy, đức Maria mới có thể thưa tiếng xin vâng đối với Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, dù Mẹ chưa thấy rõ hoàn toàn tương lai của mình. Chưa thấy rõ, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng phó thác tất cả cho Thiên Chúa: “Phúc cho em là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện” (Lc.1,45). Lúc này, những gì Thiên Chúa nói với Mẹ chưa được thực hiện, nhưng Mẹ tin chúng sẽ được thực hiện. Những điều này Đức Maria chỉ thấy được thực hiện khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết. Đức tin của Mẹ thật tuyệt vời.
Với tiếng Xin Vâng của Đức Maria, Thiên Chúa có thể thực hiện chương trình cứu độ con người của Ngài. Thiên Chúa cần tiếng Xin Vâng của Đức Maria. Thiên Chúa cũng cần tiếng “xin vâng” của mỗi người chúng ta, để thực hiện công trình cứu độ mỗi người chúng ta. Tiếng xin vâng của Đức Maria làm biến đổi lịch sử hoàn vũ, làm Mẹ trở thành người tuyệt vời, người được chúc phúc giữa mọi người nữ. Nếu chúng ta thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa, có thể Thiên Chúa đang dùng chúng ta để biến đổi môi trường sống của chúng ta: làm những người ở đó bình an hơn, vui hơn, hạnh phúc hơn. Lúc đó, chúng ta trở nên đền thờ sống động của Thiên Chúa, là nơi hiển lộ Thiên Chúa cho những người sống xung quanh chúng ta.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, người mà Đức Maria cưu mang và sinh hạ là ai vậy?
2. Khi nào và làm sao người ta biết người con Đức Maria cưu mang là Thiên Chúa nhập thể?
3. Tại sao lại phải loan báo về Đức Giêsu? Ích lợi gì?
4. Bạn đã và đang làm gì để trở nên máng cỏ sống động cho Thiên Chúa được sinh ra?



11. Truyền tin cho Đức Maria - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Maria có gì đặc biệt mà được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế và theo niềm tin Công giáo, còn là Đấng đồng công cứu chuộc nhân loại? Dưới mắt người đời, Maria đâu có tài năng gì đặc biệt, làm sao Maria thành công trong công việc vĩ đại ấy?
2. Khi được Thiên Chúa chọn, ta cần có tinh thần nào để hoàn thành tốt đẹp sứ mạng mà Ngài giao cho ta? Có ai được Thiên Chúa chọn mà làm hỏng việc Ngài không? Tại sao vậy?
Suy tư gợi ý:
1. Maria nhỏ bé yếu đuối nhưng được Chúa chọn...
Dưới nhãn quan Kitô giáo, chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, khởi đầu một công trình hết sức lớn lao của Thiên Chúa: cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời. Công cuộc vĩ đại này bắt đầu một cách rất âm thầm, nhỏ bé tại một làng quê, với một thôn nữ yếu đuối chẳng mấy người biết. Điều này làm ta nhớ tới dụ ngôn hạt cải của Đức Giêsu: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4,31-32). Qua kinh nghiệm tâm linh của nhiều vị thánh, ta thấy Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Có như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1Cr 1,27).
Thật vậy, theo tiêu chuẩn thông thường của người đời, nghĩa là xét về tài năng, thông minh, học vấn, sức khỏe, sắc đẹp, v.v... chắc hẳn Maria không có gì đặc biệt hơn những thiếu nữ khác cùng trang lứa với mình. Trên đời chắc chắn còn những thiếu nữ đặc biệt hơn Maria rất nhiều. Nhưng Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình vĩ đại này. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”. Và Ngài đã thành công trong việc chọn Maria, đang khi có những người khác được Ngài chọn đã làm “hỏng việc” của Ngài, hay đã làm Ngài không hài lòng, chẳng hạn trường hợp vua Sa-un (x. 1Sm 9,17; 13,13-14); tông đồ Giu-đa (Mt 26,47-50)...
Vấn đề đặt ra cho chúng ta là: nhiều người được Thiên Chúa chọn cho công việc của Ngài, tại sao có những người làm nên việc, khiến Ngài thành công và hài lòng như trường hợp của Maria, và cũng có những người làm “hỏng việc”, khiến Ngài “thất bại” (từ gượng dùng) hoặc không hài lòng? Ta có thể rút ra bài học nào cho ta khi ta được Thiên Chúa chọn làm công việc của Ngài?
2. Maria xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa
Một trong những yếu tố quan trọng nhất để Thiên Chúa có thể thành công nơi ta, đó là ta biết xóa bỏ bản ngã mình trước Thiên Chúa, xóa bỏ ý riêng mình trước thánh ý Ngài, xóa bỏ dự định hay kế hoạch của mình trước dự định hay kế hoạch của Ngài. Đó chính là tinh thần tự hủy mà Đức Giêsu là gương mẫu hoàn hảo nhất, và kế đó là Đức Maria.
Theo tư tưởng lưu truyền trong giới Công giáo, khi được thiên sứ báo tin, Maria đang dự định sống trọn đời đồng trinh để phụng sự Thiên Chúa. Việc đính hôn với Giu-se chỉ là để che mắt thị phi của thiên hạ, vì người đương thời quan niệm sai lầm rằng một phụ nữ sống độc thân là một hình thức bị chúc dữ. Nhưng khi biết thánh ý Thiên Chúa muốn chọn mình làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu Thế, thì lập tức nàng từ bỏ tất cả mọi ý muốn hay dự định riêng của mình để vâng theo ý muốn của Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
3. Được Ngài chọn, hãy toàn tâm toàn ý cho việc của Ngài
Nếu Thiên Chúa chọn ta thì là để ta thực hiện công việc của Ngài chứ không phải việc của ta, để ta làm theo ý Ngài chứ không phải ý ta. Nên nếu ta được chọn, ta hãy để Ngài hoàn toàn làm chủ công việc của Ngài mà trong đó ta chỉ là một công cụ Ngài dùng mà thôi. Công cụ thì không hiện hữu cho mình mà cho công việc hay ý muốn của người sử dụng công cụ. Công cụ tốt là công cụ hoàn toàn làm đúng ý người sử dụng. Vậy, ta hãy toàn tâm toàn ý cho công việc và mục đích của Ngài, đừng nghĩ gì đến công việc hay mục đích của ta. Nếu công việc hay mục đích của Ngài thành tựu, thì công việc hay mục đích của ta cũng sẽ tự động thành tựu tốt đẹp, có thể gấp trăm lần ta tự lo cho công việc hay mục đích của ta. Đức Giêsu có nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Vì thế, việc của ta, hãy hoàn toàn phó thác cho Ngài. Chắc chắn một Thiên Chúa quan phòng tài tình như Ngài sẽ không để việc của ta bị thất bại chỉ vì ta đã toàn tâm toàn ý lo cho việc của Ngài. Hãy tin tưởng chắc chắn như thế!
4. “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã”
Những người được chọn mà làm “hỏng việc” Ngài - như vua Sa-un, Giu-đa - có thể là những người ban đầu rất nhiệt thành, quên mình, hoạt động vì Thiên Chúa và tha nhân chứ không vì mình. Nhưng tới một lúc nào đó người ấy bị tha hóa, đã đặt mục đích hay công việc của mình lên trên mục đích hay công việc của Ngài, đặt ý mình lên trên ý Ngài, hoặc muốn lèo lái công việc của Ngài theo ý mình, v.v... Những người này lúc ban đầu nhờ nhiệt thành và quên mình nên đạt được danh vọng, quyền lực, tiền bạc... nhưng về sau họ đã bị chính những thứ đạt được ấy làm biến chất, tha hóa, khiến họ bị mất ơn Chúa và trở thành những kẻ phá hoại hay cản trở việc Chúa. Do đó, mọi Kitô hữu đang có chức vị cao, đang nắm quyền lực hay có nhiều tiền bạc trong tay cần phải lưu ý lời của thánh Phaolô: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). Coi chừng kẻo mình trở thành như cây chổi cùn, sau khi đã tận tâm tận lực quét đi mọi thứ rác rưởi, thì cuối cùng mình lại trở thành một thứ rác lớn nhất, khó quét đi nhất. Vậy, tinh thần tỉnh thức, luôn luôn phản tỉnh, tự xét bản thân là điều rất cần thiết. Hãy coi chừng danh vọng, địa vị, quyền lực, tiền bạc là những yếu tố có khả năng tha hóa và làm biến chất rất mạnh! Vì thế, đời sống thanh đạm, tinh thần từ bỏ, siêu thoát vẫn luôn luôn cần thiết cho đến hết cuộc đời.
5. Người được chọn sẽ bị thử thách
Ai được Thiên Chúa chọn để làm những công việc lớn lao cho Thiên Chúa, thường gặp nhiều thử thách, đau khổ. Đó là cách mà Thiên Chúa vẫn đối xử với những ai Ngài đặc biệt yêu thương và tuyển chọn để tinh luyện người ấy xứng đáng với ơn gọi. Hãy coi những thử thách mà Đức Giêsu và Đức Maria - là những người được Thiên Chúa đặc biệt ưu đãi - phải chịu trong cuộc đời các Ngài thì rõ. Đây là kế hoạch của Ngài dành cho những người được Ngài chọn: “Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang” (Rm 8,30). Cách thức “làm cho nên công chính” của Ngài chính là thử thách, cho trải qua đau khổ: “Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn” (Dt 2,10); “Họ phải được thử thách trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ” (1Tm 3,10); “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội” (1Pr 1,7). Bù lại, vinh quang của những người được Thiên Chúa yêu mến và tuyển chọn cũng rất lớn lao: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18).
Chính nhờ những đau khổ và thử thách ấy nên không ai có thể ganh tị được với vinh quang vô cùng lớn lao mà Thiên Chúa ban cho những ai bền đỗ với những thử thách ấy. Họ rất xứng đáng với vinh quang và hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho họ. Vì thế, khi được Thiên Chúa tuyển chọn, ta hãy sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ và thử thách Thiên Chúa gửi tới. Hãy tin tưởng: “Ai bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22; 24,13).
Cầu nguyện
Lạy Cha, để yêu thương và cứu rỗi nhân loại, Cha cần rất nhiều người cộng tác. Cha chọn người cộng tác theo sự tự do của Cha. Con sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của Cha, nếu Cha cần đến con. Một khi được kêu gọi, con quyết sẽ toàn tâm toàn ý sống và làm tất cả mọi sự theo sự hướng dẫn của Cha, bất chấp những đau khổ thử thách mà Cha dùng để rèn luyện con. Xin cho con trung thành với quyết tâm ấy.



12. Hãy là nhịp cầu đưa Chúa đến với anh em
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)
Những cây cầu rất đắc dụng trong giao thông, giúp những người bị ngăn cách bởi khe suối, bởi sông sâu, biển rộng dễ dàng vượt qua trở ngại để gặp gỡ tiếp xúc với nhau.
Đơn giản nhất là những cây cầu khỉ chênh vênh vắt qua những con suối nhỏ giúp cư dân đôi bờ cách biệt có thể qua lại với nhau. Kiên cố hơn thì có những cây cầu bê tông nối liền các tuyến giao thông quan trọng, giúp người lữ hành vượt qua những con sông rộng đi đến được những phương trời xa. Đáng kể hơn phải nói đến những chiếc cầu dây văng hùng vĩ, băng qua những con sông và vùng vịnh rộng lớn, như cây cầu Golden Gate nổi tiếng, giúp cư dân hai bên bờ vịnh San Francisco có thể đến được với nhau thật nhanh chóng, dễ dàng.
Nhưng làm cách nào để xây dựng được cây cầu đặc biệt nối trời với đất, đưa Thiên Chúa đến với loài người và đưa loài người lại gần Thiên Chúa?
* * *
Từ ngày nguyên tổ phạm tội, quan hệ nồng thắm giữa Thiên Chúa và loài người bị cắt đứt. Tội lỗi khiến con người bị tách lìa và xa cách Thiên Chúa bằng một khoảng cách gần như bất tận.
Vì tự cách ly với Thiên Chúa là nguồn mạch hạnh phúc và ân sủng, con người phải héo hon và tàn lụi dần như thân phận của những chiếc lá lìa cành.
Nhưng Thiên Chúa là Cha giàu lòng yêu thương không nỡ để cho loài người phải vĩnh viễn xa lìa Ngài là cội nguồn sự sống. Ngài lên kế hoạch xây dựng một nhịp cầu vĩ đại, nối liền trời với đất, giao hoà Thiên Chúa với con người.
Để thực hiện kế hoạch nầy, Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến gặp Đức Maria, mời Mẹ cộng tác vào công trình hệ trọng nầy.
Sau khi biết ý định Thiên Chúa, với tinh thần sẵn sàng vâng phục của người tôi tớ, Đức Maria thưa với thiên thần rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền."
Từ lúc đó, Đức Maria trở thành nhịp cầu nối liền trời với đất, nhịp cầu kỳ diệu nhất trong lịch sử nhân loại. Thế là qua Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống với loài người, mặc lấy xác phàm và sống giữa nhân loại, để tỏ bày cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha của mình và dẫn đưa họ về với Chúa Cha.
Một kỷ nguyên mới được khởi sự nhờ sự vâng phục và hợp tác của Mẹ Maria. Muôn người trên khắp thế giới ngót hai ngàn năm qua đã nhờ Mẹ mà được giao hoà với Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ do Đức Giêsu mang đến.
* * *
Tuy nhiên, cho tới hôm nay vẫn còn rất nhiều người chung quanh chúng ta chưa nhận biết Đấng Cứu Độ nên Thiên Chúa rất cần những nhịp cầu khác để đến với họ và đưa họ về với Ngài.
Thiên Chúa thiết tha mời gọi mỗi chúng ta hãy nối tiếp vai trò của Mẹ Maria, bắc thêm những nhịp cầu mới để đưa Chúa đến với những con người chưa biết Chúa đang sống chung quanh.
Mẹ Maria nhận thức phận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn nên đã mau mắn đáp lời Chúa mời gọi. Còn chúng ta là ai mà cứ mãi nấn ná chần chừ, chẳng muốn thi hành ý Chúa, chẳng muốn tuân lệnh Ngài truyền để trở thành nhịp cầu đưa Chúa đến với tha nhân?
* * *
Nguyện xin Chúa giúp chúng con noi gương bắt chước Mẹ Maria, nhận ra mình chỉ là tôi tớ hèn mọn, mà phận làm tôi thì không được làm trái mệnh lệnh Chúa truyền.
Nguyện xin Mẹ dạy chúng con mau mắn đáp lời Chúa mời gọi và thưa cùng Ngài: "Nầy tôi là tôi tớ Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền."




13. Quyền năng Chúa
Trong cuốn Linh Thao, thánh Ignatio đã gợi ý cho chúng ta suy gẫm về đoạn Tin mừng hôm nay gồm ba bước.
Bước thứ nhất là hãy tưởng tượng xem thế giới thời trước Chúa Giêsu ra sao. Chẳng hạn như dân chúng thì khô khan, hờ hững với Thiên Chúa. Sự xấu thì tràn lan như một ung bướu khổng lồ. Con người thì rơi vào một tình trạng tuyệt vọng.
Bước thứ hai là hãy tưởng tượng ra cách sứ thần Gabriel đến báo tin cho Mẹ Maria được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng cứu thế. Từ trời cao nhìn xuống, chúng ta thấy trái đất này chỉ là một đốm sáng nhỏ bé giữa muôn ngàn vì sao. Xuống gần hơn, chúng ta thấy một điểm trên địa cầu được gọi là Đất thánh. Và xuống gần hơn nữa, chúng ta thấy một ngôi làng mang tên là Nagiarét. Và sau cùng, chúng ta gặp được Mẹ Maria trong căn nhà ấy. Mẹ đang quì cầu nguyện.
Bước thứ ba là hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa sứ thần Gabriel và Mẹ Maria. Chúng ta đặc biệt chú ý tới câu:
- Quyền năng của Đấng Tối cao sẽ bao trùm lên Mẹ.
Ba chữ “bao trùm lên” ít được Kinh thánh xử dụng, ngoại trừ trong sách Xuất Hành:
- “Bấy giờ có một đám mây bao trùm lên lều tạm, nơi dân Do Thái đặt hòm bia giao ước”.
Bao lâu đám mây ấy còn bao trùm lên lều tạm, thì lều tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Luca dùng ba chữ bao trùm lên không phải là không có dụng ý, vì nó gồm tóm một ý nghĩa sâu xa. Thánh Luca so sánh thân thể Đức Maria với lều tạm, nơi đặt hòm bia giao ước của Thiên Chúa, cũng như so sánh cung lòng Đức Maria, nơi Chúa Giêsu sẽ tới cư ngụ với hòm giao ước, nơi đặt hai phiến đá khắc ghi mười giới răn của Thiên Chúa.
Như thế, nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì chính Thiên Chúa thực sự hiện diện nơi Mẹ. Thế nhưng, sự hiện diện ấy lại vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài nơi lều tạm, bởi vì đó là sự hiện diện của một Thiên Chúa bằng xương bằng thịt.
Thực vậy, Thiên Chúa có thể hiện diện giữa chúng ta bằng nhiều cách, chẳng hạn như qua các tạo vật, bởi vì Ngài đặt để một cái gì đó thuộc bản thân Ngài nơi tạo vật, giống như một nhạc sĩ đã đặt để một cái gì đó thuộc bản thân ông trong dòng nhạc mà ông đã sáng tác.
Tiếp đến Ngài có thể hiện diện qua lời Ngài trong Kinh thánh giống như người nhạc sĩ hiện diện trong tiếng nhạc của ông.
Sau cùng, Thiên Chúa có thể hiện diện giữa chúng ta trong Đức Kitô, như người nhạc sĩ hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta trong một buổi trình diễn.
Và như thế, qua Đức Maria, chúng ta có quyền thắp lên một ánh lửa hy vọng, cho dù thế giới có hỗn độn, gia đình có xáo trộn, nhưng chúng ta vẫn vui mừng và hy vọng, bởi vì quyền năng của Thiên Chúa đã xâm nhập thế giới này qua con người Đức Kitô.
Còn chúng ta thì sao? Bước vào Chúa nhật thứ tư mùa vọng, chúng ta hãy tự hỏi xem, chúng ta đã làm được những gì để Ngài thực sự ngự vào tâm hồn chúng ta, như xưa Ngài đã ngự xuống nơi cung lòng Đức Trinh nữ Maria?



14. Xin vâng
Gần kề với lễ Giáng sinh, Giáo hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng khuôn mặt Mẹ Maria. Mẹ đã thưa lên lời xin vâng và đã trung thành với lời xin vâng ấy.
Chắc hẳn ngay từ những ngày tháng còn thơ ấu, bà thánh Anna và ông thánh Gioakim đã dạy cho Mẹ biết Thiên Chúa là một người cha nhân từ luôn yêu thương chăm sóc chúng ta, cho nên hãy tin tưởng phó thác nơi Ngài, đồng thời hãy khao khát trông đợi Đấng Cứu Thế. Mẹ sẵn sàng để Chúa hướng dẫn, cho dù không biết được con đường của Chúa sẽ dẫn tới đâu.
Thực vậy, bấy giờ Mẹ đã đính hôn cùng thánh Giuse và có lẽ hai người đã quyết tâm sống tận hiến cho Thiên Chúa. Nhưng rồi Thiên Chúa đã chọn Mẹ. Sứ thần Gabriel đã tới thăm viếng và tỏ lộ cho Mẹ biết vai trò Thiên Chúa đã dành cho Mẹ, đó là trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế. Sau những giây phút ngạc nhiên và lo lắng, Mẹ đã thưa lên:
- Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Một lời xin vâng quyết liệt đã xoay chuyển toàn bộ cuộc đời của Mẹ. Chỉ ít lâu sau lời xin vâng này, Mẹ đã đau khổ rất nhiều trước thái độ nghi ngờ của thánh Giuse khi thấy Mẹ mang thai. Thế nhưng vì đã tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, nên Mẹ đã giữ sự im lặng, bởi vì chính Thiên Chúa sẽ làm sáng tỏ vấn đề và sẽ giúp cho thánh Giuse được hiểu.
Trong lúc Mẹ và thánh Giuse chuẩn bị ngày Chúa chào đời tại Nagiarét, thì Thiên Chúa lại nhìn sự việc một cách khác. Với lệnh truyền của hoàng đế, Mẹ phải xuống Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu và rồi Chúa Giêsu đã phải sinh ra trong cảnh nghèo túng của máng cỏ đêm đông.
Mỗi biến cố là một dấu chỉ nói lên thánh ý của Thiên Chúa. Trong từng giây từng phút và trong từng sự kiện suốt cả cuộc đời, Mẹ không ngừng xin vâng trước ý định muôn thuở của Thiên Chúa và thực hiện một cách trọn vẹn ý định thánh thiện ấy. Và đỉnh cao của lời xin vâng phải là đau khổ thập giá.
Đúng thế, Mẹ luôn kết hiệp với Chúa và chia sẻ những khổ đau Chúa phải chịu. Cũng như các Tông đồ, hẳn Mẹ đã được Chúa báo trước về cuộc tử nạn. Mẹ đã lắng nghe và ghi nhớ trong lòng.
Rồi khi cuộc tử nạn bắt đầu. Chúa hấp hối trong vườn cây dầu và Ngài đã phải kêu lên:
- Lạy Cha xin cất chén đắng này xa con, nhưng không theo ý con, một vâng ý Cha mà thôi.
Chúa cảm thấy như gánh tội lỗi đè nặng trên mình. Còn Mẹ mặc dù lúc ấy không có mặt trong vườn cây dầu, nhưng chắc chắn Mẹ cũng đã chia sẻ gánh nặng và những khổ đau của Chúa.
Rồi đêm hôm đó Chúa đã phải chịu biết bao nhiêu cực hình, nào là bị đánh đòn, bị đội mạo gai. Mẹ luôn kết hiệp với Chúa. Thân xác Chúa rách nát thì thân xác Mẹ cũng đớn đau Chúa đã kêu lên:
- Một vâng theo ý Cha mà thôi.
Mẹ cũng thưa:
- Này tôi là tôi tá Chúa.
Mẹ luôn xin vâng, dù gặp phải những hoàn cảnh đen tối và đau đớn nhất.
Và sau cùng là cây thập giá trên đỉnh đồi Canvê. Mẹ đã theo Chúa trên đường lên núi Sọ. Mẹ đã chứng kiến cảnh tượng quân lính đóng đanh Chúa. Và rồi Mẹ đã đứng lặng dưới chân cậy thập giá để chứng tỏ rằng Mẹ luôn kết hiệp và chia sẻ với Chúa. Và như vậy Mẹ đã đi cho tới tận cùng lời xin vâng của mình.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã có thái độ nào trong những giờ phút đau khổ và cay đắng, chúng ta đã phản ứng ra làm sao trước thánh ý của Thiên Chúa.



15. Xin vâng
Có một người kia đã nói: “Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người hết sức xinh đẹp và thánh đức. Xinh đẹp đến nỗi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuông sửng sốt. Thánh đức đến nỗi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen”.
Loài người muốn chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng không bao giờ được. Chúng ta phải chịu nhận lấy người mẹ mình như một số mệnh bắt buộc, như một cái may cái rủi, tốt ai nấy được, xấu ai nấy chịu. Không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài đã sinh ra bởi một người được lựa chọn. Ngài đã chọn người mẹ sinh ra mình. Một người con chọn một người mẹ. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không chọn một cách độc đoán. Ngài không yêu cầu người phụ nữ được chọn phải làm theo ý Ngài vô điều kiện. Nhưng Ngài rất tôn trọng tự do của người phụ nữ ấy, và muốn người phụ nữ ấy hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của mình. Nói cách khác, Thiên Chúa đã nhất định chọn một người phụ nữ để làm mẹ mình. Nhưng Ngài cũng muốn để cho người phụ nữ ấy chọn mình làm con nữa. Vì thế, sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người phụ nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phúc, Ngài đã sai một sứ thần cao cấp đến báo tin và thỉnh ý người phụ nữ ấy. Đó chính là câu chuyện truyền tin trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sứ thần cao cấp đó là tổng thần Gabrien; và người phụ nữ được truyền tin đó là trinh nữ Maria. Qua cuộc đối thoại giữa tổng thần Gabrien và Đức Maria, chúng ta biết, cuối cùng Đức Maria đã trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”.
Tiếng “Xin vâng” vừa thoát khỏi môi miệng Đức Maria, thì Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, ngự xuống mặc lấy xác phàm trong cung lòng Đức Mẹ. Sự hiệp nhất bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người được thực hiện. Và ngay lúc đó. Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ được đầy đủ mọi ơn phúc cần thiết nối kết với chức vụ Mẹ Thiên Chúa, để chu toàn vai trò quan trọng này. Đồng thời Đức Mẹ trở nên Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.
Chúng ta thấy Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của Đức Mẹ và Đức Mẹ cũng đã tự do đáp lại lời Chúa. Đức Mẹ đã chấp nhận cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, vì sự ưng thuận của Đức Mẹ đã mở đường cho việc Con Thiên Chúa nhập thể để cứu chuộc chúng ta: Con Thiên Chúa đã xuống thế trong cung lòng Đức Mẹ. Ngôi Lời đã hóa thành con người. Con Thiên Chúa đã trở nên con Đức mẹ.
Nếu chúng ta muốn hiểu thêm về vai trò của Đức Mẹ trong công cuộc cứu chuộc, chúng ta có thể đặt song đôi hai mẫu đối thoại: từ một mẫu đối thoại thì phát xuất ra sự diệt vong của chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa con rắn và bà Eva trong cuộc cám dỗ đầu tiên ở vườn địa đàng; và từ mẫu đối thoại kia thì phát xuất ra ơn cứu chuộc cho chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa sứ thần Gabrien và Đức Maria trong cuộc truyền tin. So sánh cách thức con rắn tiếp xúc với bà Eva và cách thức sứ thần tiếp xúc với Đức Mẹ, chúng ta thấy một bên là sự ngạo mạn và bên kia là sự kính trọng. Con rắn đề nghị những gì? Một nỗi ngờ vực, một sự dối trá, một cuộc nổi loạn. Còn sứ thần Gabrien đề nghị: một sự ưng thuận và ơn cứu chuộc. Bà Eva ưng thuận và thế là có các hậu quả tai hại; Đức Maria thưa “Xin vâng” và Ngôi Lời đã làm người. Nhờ Đức Maria, nhờ thái độ tin tưởng và vâng phục của Đức Mẹ, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.
Qua mầu nhiệm này, chúng ta thấy có nhiều bài học: mầu nhiệm nhập thể, con Đức mẹ chính là Con Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa, đức tin của Đức Mẹ, lòng khiêm nhường của Đức Mẹ, sự đồng trinh của Đức Mẹ, sự “Xin vâng” của Đức Mẹ. Hôm nay chúng ta ghi nhớ bài học sau cùng thôi. Đó là theo gương Đức Mẹ, vâng theo thánh ý Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể nói: nếu có một chân lý nào được gọi là quan trọng nhất của đời Đức Mẹ, thì chân lý quan trọng đó là câu “Xin vâng thánh ý Chúa”. Cũng vậy, nếu có một chân lý nào được coi là quan trọng nhất của cuộc đời Đức Kitô, thì chân lý quan trọng ấy cũng là “Con đến để làm theo ý Cha”. Vậy nếu Chúa Giêsu, nếu Đức Mẹ đã chọn chân lý cho đời sống mình là “Vâng theo thánh ý Chúa”, thì chân lý ấy cũng phải là chân lý quan trọng nhất của đời sống tất cả chúng ta.
Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ giúp chúng ta. Mẹ là người đã chuẩn bị một lễ Giáng sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng cả chín tháng cưu mang trong tình yêu. Xin Mẹ cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh với tâm tình như Mẹ.



16. Xin vâng
Hôm nay, nhiều người tìm kiếm hạnh phúc và sự sung túc thông qua cách “làm theo nhu cầu riêng của mình”. Họ tin tưởng rằng hạnh phúc hệ tại ở sự không phải cam kết gì, không phải trả lời với ai, không người nào có nhu cầu hoặc vấn đề gì ràng buộc với mình.
Tất nhiên, thật tốt đẹp và cần thiết trong việc tìm kiếm và thực hiện điều gì sâu xa mà chúng ta cảm thấy rằng mình được mời gọi thực hiện. Tuy nhiên, bất chấp bản chất con người là gì, chúng ta phải luôn bảo vệ bản thân mình. Trong phương pháp “làm theo nhu cầu riêng của mình”, có thể có nhiều sự ích kỷ. Điều này thường có nghĩa là đi con đường dễ dãi nhất, trong niềm tin tưởng rằng ở đó có tự do và hạnh phúc. Nhưng chắc hẳn phương pháp này càng dẫn đến tình trạng nô lệ và mất hạnh phúc.
Ở đây có một sự thật quan trọng: chắc chắn sẽ tìm thấy tự do, hạnh phúc, và sự sung túc trong việc chấp nhận trách nhiệm. Tuy nhiên, để được như vậy, một sự dứt khoát chấp nhận trách nhiệm mà thôi thì vẫn chưa đủ, mà còn phải là biết chấp nhận trách nhiệm trong lòng yêu mến nữa. Khi chúng ta hết lòng tận tụy gánh vác trách nhiệm càng khó khăn bao nhiêu, thì chúng ta càng được vui mừng bấy nhiêu.
Về việc này, Đức Maria đã nêu gương mẫu cho chúng ta. Mẹ đã không nói với sứ thần “Xin lỗi, nhưng tôi có kế hoạch của riêng tôi. Tôi muốn làm theo nhu cầu riêng của tôi”. Nhưng Mẹ đã nói “Không phải ý riêng của tôi, nhưng ý muốn của Thiên Chúa mới là quan trọng. Xin cứ làm cho tôi theo như lời sứ thần truyền”.
Đức Maria đã làm cho mình trở thành một món quà đối với Thiên Chúa, và chấp nhận trách nhiệm mà Người giao phó cho Mẹ. Mặc dù Mẹ không hiểu được tất cả những điều hàm ý trong công việc của Thiên Chúa, Mẹ vẫn tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho Mẹ tất cả ơn trợ giúp mà Mẹ cần đến.
Thật vậy, Mẹ nói “Tôi không hiểu được tất cả ý nghĩa của việc này, nhưng tôi tin tưởng rằng những điều tốt đẹp sẽ xảy ra”. Mẹ quá tin tưởng một cách sâu xa vào Thiên Chúa, đến nỗi Mẹ đã mở tất cả mọi khả năng của mình ra. Mẹ đã từ bỏ quyền kiểm soát tương lai, và để mặc cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời của mình.
Những người nào biết chấp nhận trách nhiệm giống như cách thế mà Đức Maria đã thực hiện, thì có thể không tìm thấy hạnh phúc và sự sung túc dưới con mắt của thế gian, nhưng dưới con mắt Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ tìm thấy và nhận biết điều đó một cách sâu xa.
Ân sủng lớn lao nhất trong cuộc đời là khi chúng ta mong muốn làm điều mà chúng ta phải làm.



17. Sự tin tưởng
Bối cảnh: Một tỉnh ở phía nam nước Mỹ. Một người cha sống với đứa con trai và con gái nhỏ. Vợ của anh đã qua đời. Anh nghiêm khắc đối với các con, nhưng cư xử rất tốt và yêu thương chúng. Anh là một luật sư liêm khiết và xuất sắc. Tuy nhiên, anh đã tự làm cho mình trở nên rất xa cách đối với mọi người trong tỉnh, khi chọn một người đàn ông da đen đã từng bị tố cáo là một tên ám sát – tỉnh này đầy rẫy sự phân biệt đối xử đối với những người da đen.
Tại cuối con đường, có một người phụ nữ lớn tuổi sống ở đó, bà hay ngồi ở trước vườn của mình suốt các buổi chiều. Bà cứ gọi hai đứa con của vị luật sư, khi chúng đi ngang qua đó trên đường đi học và trở về nhà. Bọn trẻ cảm thấy rất bực mình, khi bà réo tên của cha chúng.
Vào một buổi tối, cậu con trai quyết định nhảy vào khu vườn của bà, và phá vài cây hoa, rồi chạy về nhà. Sau đó, người cha nói “Con không nên làm như vậy”.
Cậu con trai phản đối “Nhưng con làm điều đó là vì bố mà”.
Người cha bảo “Bà ấy là một người phụ nữ rất đau yếu. Bây giờ, con hãy đến xin lỗi bà ấy đi”.
Cậu bé miễn cưỡng ra đi. Người phụ nữ yêu cầu cậu bé mỗi tối đến đọc sách cho bà trong vòng một giờ. Cậu bé e sợ khi nghĩ đến công việc đó, nhưng cha cậu lại bảo rằng cậu nên đồng ý giúp bà cụ già đó trong công việc này. Thế là cứ mỗi tối, cùng với em gái mình, cậu bé đến đọc sách cho bà cụ. Khoảng một giờ sau, bà cụ bị run lên bần bật. Hai đứa trẻ ra về và một người y tá đến săn sóc bà cụ. Vài tuần sau, những cơn run đó trở nên bớt xảy ra thường xuyên hơn.
Thế rồi vào một buổi chiều, người cha nói với hai đứa trẻ là bà cụ vừa mới qua đời. Chúng nghĩ thầm “Cám ơn Chúa”, nhưng không nói ra điều đó. Sau đó, khi người cha nói với chúng rằng trước đây vài tuần, một bác sĩ ghi toa cho bà cụ uống mấy viên thuốc giảm đau, và bà cụ đã bị nghiện những thứ thuốc này. Nhưng khi bác sĩ nói rằng bà cụ không còn sống được lâu nữa, thì bà cụ quyết định là trước khi chết, bà sẽ thử bỏ thói quen uống thuốc. Những cơn run mà chúng nhìn thấy là triệu chứng do cai nghiện.
Bọn trẻ hỏi một cách sốt sắng “Thế bà cụ cai nghiện có thành công không?”.
Người cha trả lời “Có. Ngay trước khi qua đời, bà cụ nói với bố rằng bà cụ sẽ không bao giờ có thể cai nghiện thành công được, nếu chúng con không đến đọc sách cho bà. Bà cụ muốn gửi lời cảm ơn chúng con”.
Người cha bảo “Điều đó không quan trọng. Điểm chính yếu là chúng con đã làm theo lời dạy bảo của Bố. Chúng con là những đứa trẻ ngoan. Bố tự hào về chúng con”.
Hai đứa trẻ chưa nhận ra được đầy đủ ý nghĩa của công việc mà người cha yêu cầu chúng làm. Tuy nhiên, chúng vẫn làm điều đó trong tinh thần yêu mến và vâng phục.
Trong cuộc sống, chúng ta thường không nhìn thấy toàn bộ ý nghĩa của những việc mình làm. Đôi khi, ý nghĩa này còn bị che khuất đối với chúng ta, giống như hai đứa trẻ trên. Trong trường hợp đó, công việc trở nên rất khó thực hiện, đặc biệt đối với công việc nào không thoải mái, hoặc đối với những người có thái độ vô ơn trước sự giúp đỡ của chúng ta.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được thấy cách thức Đức Maria bằng lòng trở thành mẹ của Đấng Cứu độ. Nhưng khi Mẹ thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, Mẹ chưa nhận ra được đầy đủ những điều liên quan đến sự đồng ý của mình. Mẹ cho biết rằng đến ngày sinh của Đức Giêsu, mọi cánh cửa đều khép lại trước mặt Mẹ; rồi một thời gian ngắn sau ngày sinh của Đức Giêsu, Mẹ sẽ trở thành một người đi tị nạn tại một quốc gia khác; và 33 năm sau, Mẹ sẽ chứng kiến cảnh Đức Giêsu bị kết án như một tên tội phạm.
Đức Maria đã không chỉ thưa lời xin vâng một lần duy nhất, nhưng Mẹ xác quyết lời xin vâng cơ bản đó rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của Mẹ. Nếu không có sự vâng phục của Đức Maria đối với Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ không có Đấng Cứu Độ.
Mỗi người chúng ta đều đã từng nói lời xin vâng, khi chúng ta đảm nhận những cam kết và trách nhiệm. Khi nói lời xin vâng cơ bản, là chúng ta thực hiện một cú nhảy vào bóng tối, bởi vì chúng ta không biết được đầy đủ những điều đó liên quan đến điều mà chúng ta đang đảm nhận. Điều này chỉ được mặc khải từ từ cho chúng ta trong khi chúng ta tiến hành. Do đó, chúng ta cũng phải xác quyết lời xin vâng cơ bản của chúng ta, không chỉ một lần, mà là nhiều lần, và cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta giữ được lòng trung thành.
Giống như những trẻ nhỏ thường thắt mắc, Đức Maria cũng hay đặt câu hỏi. Lòng tin không phải là sự mù quáng. Lòng tin vượt ra ngoài lý luận, nhưng không chống lại sự lý luận. Nhưng sau khi đặt câu hỏi, thì những câu trả lời có thể không bao giờ làm chúng ta được hoàn toàn thỏa mãn, chúng ta phải để cho Thiên Chúa được làm Thiên Chúa. Chúng ta phải qui phục mầu nhiệm thôi.



18. Truyền tin – R. Gutzwiller.
1) Khung cảnh bên ngoài
Đây cũng là một cuộc loan tin, cũng nói tới chuyện báo trước về việc thụ thai hoàn toàn bất ngờ, mà cũng chính do thiên thần Gabriel chuyển lời; hơn thế cũng là chương trình Thiên Chúa đưa ra, sẽ được thực hiện từng điểm một. Tuy vậy tất cả đều khác hẳn. Cả khung cảnh bên ngoài, lẫn thái độ bên trong. Đây ta hãy xem:
Trên kia, Lời Thiên Chúa được loan báo trong miền Giuđa, giữa thủ đô Giêrusalem. Ở đây sứ thần nói trong một tỉnh biên giới của miền Galilê, một miền có lẫn dân ngoại. Và không được trong tỉnh lỵ Sepphoris hay ít là trong một thành nhỏ, hoặc một thị trấn bên bờ hồ, nhưng trong một làng miền sơn cước hoàn toàn vô danh.
Ở kia, sự loan tin xảy ra nơi đền thờ trong giờ lễ long trọng; ở đây, trong một căn lều quê mùa vào lúc mà chẳng ai định nổi thời gian. Ở kia, người đón nhận là một trong hàng tư tế Israel; đang khi dân chúng hội họp nhau đợi chờ, cầu nguyện; ở đây lời của thiên thần đến với một thiếu nữ bình dị mang tên là Maria, một cái tên thông thường có quá nhiều người đặt; không một ai hiện diện. Một bên với vẻ bên ngoài thật là hùng vĩ, long trọng, đầy xúc động; một bên thì bé nhỏ, bình thường và vô nghĩa.
Tuy nhiên, dù cả bên ngoài đi nữa, ở đây xét về chính yếu vẫn có những điểm lớn lao cao đẹp. Vì đang khi thiên thần chờ sẵn thì Giacaria mới bước vào. Thiên thần là kẻ chờ đón, còn Giacaria là người tiến đến gặp. Thiên thần nhập truyện luôn mà không chào hỏi gì cả. Đang khi đó, Đức Maria ở nơi phòng của ngài, ngài là người tiếp đón, trái lại thiên thần đi đến, đi vào. Như được yết kiến một nhân vật quan trọng với lời chào đầy vẻ kính trọng: “Xin kính chào bà”.
Tìm lại văn bản ba yếu tố: chào thăm, vui vẻ, và ơn phúc; tiếng cuối cùng đã đặc biệt được nhấn mạnh: “Bà đầy ơn phúc”. Maria luôn đầy ơn và giờ này lại càng đặc biệt hơn nữa “Chúa ở cùng Bà”. Thiên Chúa luôn ở với Maria, bây giờ thì sự hiện diện đó lại càng đặc biệt và vững bền hơn.
Giacaria phản ứng lại bằng sợ sệt và rối loạn. Nơi Maria –theo nguồn gốc của trình thuật Kinh Thánh- sự rung động còn hơn nữa, nghĩa là nó ăn sâu vào tận thâm tâm và cả hiện hữu của ngài. Việc chào thăm cùng sự việc lời Thiên Chúa đến với ngài hoàn toàn là bất ngờ. Mẹ vẫn chỉ thầm mong được sống một cuộc sống bình thường với một tâm tình đạo đức bình dị, nên Mẹ đã đính hôn với một người tên là Giuse. Như bất cứ một phụ nữ nào khác, Mẹ không nghĩ gì ngoài con đường của những người xung quanh trong dân Israel. Vậy thì Thiên Chúa muốn Mẹ làm gì đây? Lời mời gọi đã đến, đột ngột quá. Đó hẳn không phải là một hậu quả của một tình trạng tâm lý dễ giải thích, mà cũng chẳng phải là một dự phóng của một niềm hy vọng thầm kín hay một đáp ứng cho một niềm ao ước thiêng liêng. Trái lại đều do Thiên Chúa và chỉ vì một mình Ngài thôi.
Đối với Giacaria và Êlisabét, sự liên kết son sẻ biểu hiện sự đau khổ, mối buồn lặng lẽ; có thể luôn mang một tia hy vọng ghê gớm; chẳng thế mà Giacaria sợ khó xảy ra nên mới xin một dấu. Còn Maria, chẳng đợi chờ gì hết, lời của Thiên Chúa làm Mẹ hoảng hốt, sửng sốt. Như vậy hai cảnh tượng diễn ra song song với nhau, nhưng lại hoàn toàn khác biệt nhau. Điều đó còn rõ ràng hơn trong cuộc đàm thoại.
2. Đàm thoại.
Hai sứ điệp của Thiên thần mang theo hai câu trả lời của Đức Maria.
Sứ điệp thứ nhất: Lời nói dịu dàng: ‘Maria xin đừng sợ’ dựa trên sự kiện: ‘vì chị đã đắc sủng nơi Thiên Chúa’. Người ta không thể chiếm hữu ơn huệ hay tự cung cấp được cho mình. Người ta chỉ có thể tìm kiếm và nhận lãnh. Và bản chất của ơn này được mặc khải ở đây: ‘Này đây, chị sẽ thụ thai và sinh một con trai’. Để nhận hồng ân, ở đây phải có sự thụ thai Ngôi Lời Thiên Chúa, một thực tại thể xác chứ không phải chỉ là thiêng liêng. Maria khi chấp nhận lời Thiên thần thì đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa, và như thế Ngôi Lời mang xác phàm trong lòng Mẹ. Đứa trẻ mà Mẹ sinh ra cho thế trần là Thiên Chúa, như vậy mới đúng với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa: ‘Chị sẽ thụ thai và sẽ hạ sinh một con trai’. Con Thiên Chúa trở nên con loài người vì đó người ‘mẹ phàm trần sẽ trở nên Mẹ Thiên Chúa.
‘Và chị sẽ gọi tên Ngài là Giêsu’. Nếu tên của vị tiền hô đã giầu ý nghĩa, thì danh hiệu này còn hơn biết bao. Vì ‘Thiên Chúa là Ơn Cứu Độ’. Chúa Giêsu hẳn là Đấng mang lại ơn cứu độ. Do đó, sứ điệp của Thiên thần là sứ điệp của ơn cứu độ. Và chính ơn cứu độ đã xảy ra ở đây, đó là biến cố quyết định cho tất cả thời gian cứu độ.
Lời Thiên thần diễn tả một sự quả quyết, nhưng cũng là một lệnh truyền: ‘chị sẽ sinh con’. Người đang nghe nói, hẳn sẽ cộng tác bằng sự nhất trí của mình.
Như đối với vị tiền hô, thiên thần cũng tuyên bố về cá nhân và nhiệm vụ liên hệ.
Cá nhân: ‘Ngài sẽ làm lớn’, Ngài là Đấng vĩ đại tuyệt đối. ‘Chỉ có Chúa là Đấng Tối Cao’. Và Ngài sẽ được gọi là ‘Con Đấng Tối Cao’. Không phải chỉ nhân loại mới gọi Ngài là Con, mà cả Cha trên trời, cũng gọi như thế.
Với tư cách là Lơì nội tại của Thiên Chúa, Ngôi Lời đúng thực là ‘Đấng được phán’. Chính bởi sự hiện hữu của việc ‘được phán’ mà Ngài là Con, và bởi sự hiện hữu của việc làm Con, mà Ngài ‘được đặt tên’ với ý nghĩa đầy đủ và dồi dào nhất.
Nhiệm vụ: ‘và Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngôi báu của Đavít, tổ tiên Ngài’. Làm con Đức Maria, và làm Con Cha trên trời kèm thêm quan hệ phụ tử với Đavít. Triều đại của Đavít tìm lại được vẻ huy hoàng đầy mới mẻ nhưng không phải vẻ hào nhoáng bên ngoài của một quyền hành thế trần. Đó là vẻ rực rỡ bên trong của vinh quang Thiên Chúa.
‘Ngài sẽ làm Vua nhà Giacóp cho đến đời đời: sự quả quyết này mạnh mẽ hơn và có trường độ lớn hơn vì thêm hai chữ ‘ đời đời’. Đó là vì nói tới hình thức của một vương quốc và một triều đại khác. Cái vòng khép kín của thời gian với sự trở lại chắc chắn của những biến cố cũ đã bị phá rồi: vì Thiên Chúa, Đấng điều khiển thời gian, đã can thiệp vào thời gian và kéo dài cho tới đời đời. Vương quốc được thiết lập, triều đại được tu chỉnh, sẽ là vương quốc và triều đại vĩnh cửu.
Một vương quốc thế trần bị thời gian giới hạn xem ra không sao có được ý tưởng gì để so sánh. Vua dân Do thái đấy, không cần ngai vàng vật chất, mà cũng chẳng cần triều thiên óng ánh, nếu Ngài vác trên vai cây thập tự, mang trên đầu mão gai, thì đó đâu phải là ngày tàn của vương quốc và triều đại Ngài, mà trái lại, đó là dấu hiệu ngày khai mạc đã đến, nền tảng đã vững.
‘Vương quyền của Ngài sẽ vô cùng tận’: vương quyền đó không hoàn tất trong không gian và thời gian. Hãy cố có một hình ảnh về Vĩnh cửu, ta biết ngay nó vượt ngoài tầm tay con người và vật thụ tạo. Như vậy, những lời nói của Thiên thần biểu hiện một lời quả quyết mạnh mẽ và long trọng, ý nghĩ mỗi lúc mỗi tiến hơn theo từng tiếng một, sâu như biển gầm, hùng vĩ như những rặng núi cao và những tiếng sấm vang.
Mới chợt nhìn, trong vẻ đơn sơ, câu trả lời của Đức Maria thật lạ lùng, hầu như là ngã lòng, của một chủ thuyết duy thực, nhưng laị bộc lộ một tâm hồn đáng thán phục ‘việc ấy xảy ra làm sao được, vì tôi không nghĩ tơí người nam’. Thái độ tinh thần này không còn là một sự sẵn sàng vui vẻ biểu lộ hẳn ra bên ngoài, và chấp nhận với tất cả hân hoan, mà chỉ là một sự chối từ vì quá kinh hãi hay một sự rút lui vì khiêm nhường không đúng chỗ.
Nó cũng giống thái độ của Giacaria. Đối với Maria, đương nhiên là mong muốn xảy ra chuyện mà Thiên Chúa đã loan báo và yêu cầu qua Thiên thần, chỉ có vấn đề là ‘cách thế’. Mẹ muốn và phải biết Mẹ phải làm gì, con đường Thiên Chúa chọn là con đường nào, khi thêm vào câu “không biết tới người nam’, đó chẳng qua là Mẹ muốn biết xem, theo Thánh ý Thiên Chúa, thì Mẹ phải lập gia đình thực sự với Giuse sao? Phải chăng Thiên Chúa đòi sự thụ thai và sinh con trong hôn nhân? Đức Maria thực sự đã đính hôn, Thiên Chúa muốn hôn nhân cử hành ngay và thụ thai Đức Giêsu bởi Mẹ liền sao? Hay Ngài muốn xảy ra cách khác? Đức Maria không đặt những điêù kiện, Ngài chỉ hỏi thôi, Ngài muốn nhận rõ Thánh Ý Thiên Chúa. Việc hoàn tất đối với Mẹ hẳn sẽ xảy ra theo sau.
Lần truyền tin thứ hai này của Thiên thần đã đi quá xa lần loan báo cho Giacaria: ‘Thánh Thần sẽ đến trên Người và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ chị’. Như vậy có sự tham dự của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: quyền năng Đấng Tối Cao, Ngôi Con và Thánh Thần, Thánh Thần đã bay xà trên mặt đất trong buổi đầu của thế giới, như nguyên lý tạo dựng. Cũng thế, Ngài sẽ bao phủ trinh nữ, để tạo dựng và sinh Đấng Cứu Thế. Con của Đức Maria là Con Thiên Chúa. Việc quyền năng Đấng Tối Cao bao phủ trong viễn tượng Kinh thánh nói tới việc Thiên Chúa hiện diện lạ lùng nhưng rất đặc biệt.
‘Bởi đó, trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa’: Ngài không được gọi là ĐẤNG THÁNH, mà là Thánh.
Vì bản tính sinh ra cách trực tiếp Ngôi vị mà bản tính này thuộc về là chính Thiên Chúa. Trẻ này được gọi là Thánh, vì Ngài là Thánh trong tất cả ý nghĩa đầy đủ của hạn từ: ‘Chỉ có Chúa là Thánh’. Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng mà tất cả dân được chọn sẽ tái sinh trong Ngài, Đấng đã nhận nơi Giavê danh hiệu thân ái của Người Con. Ngài là Con Thiên Chúa vì Người Con từ nội tâm là Thiên Chúa sẽ có bản tính này của loài người như bản tính riêng của mình.
Maria không đòi một dấu chứng như Giacaria. Nhưng chính Thiên thần đã cho Ngài một dấu chứng: bà Êlisabét son sẻ đã sinh con trong tuổi già. Một việc thụ thai kỳ lạ sẽ là dấu chứng lạ lùng cho sự thụ thai ở đây, nhưng hoàn toàn khác nhau. Ở trên, tự bản chất là son sẻ, còn ở đây, son sẻ bên ngoài là do sự giữ đồng trinh: ‘tôi không biết đến người nam’. Làm bằng chứng cho lời của Thiên thần là một động lực sâu xa: ‘vì không có gì là không thể đối với Thiên Chúa’. Lời này dựa theo sách Sáng Thế (18,14): tiên báo cho Abraham rằng người vợ già cả Sara của ông sẽ thụ thai và sinh con. Đó là một điềm báo, một sự sửa soạn vho phép lạ đang thực hiện, ở đây, của việc thụ thai và sinh ra của Con thực Thiên Chúa đến để dẫn dắt dân Thiên Chúa. Gốc của bản văn cứ từng chữ phải nói là: ‘Vì Thiên Chúa có thể làm được tất cả những gì Ngài nói’. Tiếng ‘Thiên Chúa’ được Thiên thần thốt lên ở đây là một hạn từ diễn tả quyền năng, truyền khiến, động lực của ý chí Thiên Chúa. Không chỉ là lời mời gọi, nhưng còn là sự đòi hỏi và hơn nữa còn là hành động tác tạo của Thiên Chúa.
Vì thế, câu trả lời thứ hai và cũng là cuối cùng của Đức Maria mặc một vẻ vĩ đại hoà lộn với sự đơn sơ: ‘Này tôi là tôi tớ Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo như lời Ngài’.
Một sự tương phản cứng cỏi và thô sơ đã làm cho gần gũi giữa đầy tớ và chủ nhân, Thiên Chúa là người chủ không hơn không kém, và Người trở nên cao cả vào giờ phút này, đã chỉ nhận cho mình là đầy tớ. Đó chính là sự nhận thức khiêm hạ về một thực tại, một khoảng cách giữa Đấng Tạo hoá và tạo vật, giữa ý chí quyết định, tuyệt đối tự do, có quyền đòi hỏi và tạo dựng với ý chí được thỉnh nguyện, mà sự tự do hệ tại ở việc đặt mình vào ý muốn của Thiên Chúa để được chìm vào giòng nước bao la của Ngài.
‘Xin hãy thành sự cho tôi như lời Ngài’. Sự thực hiện có tính cách quyết định nhất của lịch sử này đã mở màn… ‘Xin hãy thành sự cho tôi’ vừa diễn tả sự sẵn sàng thụ động và sự chấp thuận chủ động. Thiên Chúa, khi ban cách thế thực hiện và hình thức tạo lịch sử, đã đặt vào đây yếu tố nhân loại. Cùng với câu hỏi: ‘điều ấy sẽ làm sao được?’. Là câu trả lời của Đức Maria: ‘Xin hãy thành sự cho tôi!’. Đây hẳn không phải do một sự vui mừng quá đỗi mà cũng chẳng do một lời cầu khiêm hạ, nhưng hoàn toàn là do bởi sự chấp thuận tự nhiên Thánh Ý Thiên Chúa, một khi đã nhận thức rõ ràng. Nhưng chính trong sự tự nhiên này, người ta thấy được vẻ lớn lao vĩ đại. Đối với Maria chẳng phải là ý riêng, cũng không phải vì ý chí cá nhân hay do tài lợi khẩu nào đưa đến mà chỉ do ý muốn và lời của Chúa.
‘Và Thiên thần cáo biệt’. Trong câu chuyện trên về Giacaria, chính ông rời đền thờ, còn ở đây Thiên thần biến đi. Từ đây phòng ở Nagiarét đã trở nên đền thờ. Sự ẩn dật im lặng của Êlisabét chỉ là một dấu chứng của sự im lặng sâu xa mà ở nơi đó trong cung lòng Đức Nữ Trinh, mầu nhiệm của Thiên Chúa được hoàn thành. Một sự tinh tế lạ kỳ, một vẻ cao sang trang trọng liên kết với vẻ đơn sơ trinh khiết làm chứng một vẻ đơn sơ tinh khiết làm chứng một vẻ vĩ đại thực sự của tạo vật cởi mở hoàn toàn cho Thiên Chúa.



19. Mẹ Maria
Tại sa mạc Phi Châu, ngày kia tu sĩ Caréttô nghe biết một cô gái mới 14 tuổi đời mà đã được gả bán cho một chàng trai. Trong khi chờ đợi ngày cưới, cô gái ấy vẫn tiếp tục đi kín nước và làm những công việc nội trợ bình thường. Thời gian trôi qua, hai năm sau vị tu sĩ kia sực nhớ bèn hỏi xem đám cưới đã được tổ chức như thế nào? Và ông bố đã tỏ ra bối rối không muốn trả lời.
Cuối cùng, một người đầy tớ đã cho vị tu sĩ hay:
- Cô gái ấy đã bị bóp cổ chết chỉ vì đã có thai trước khi về nhà chồng. Danh dự gia đình đòi cô phải chết như vậy.
Thân phận của cô gái trong câu chuyện vừa nghe, là thân phận của phụ nữ ngày xưa, cũng như của mỗi người chúng ta sống dưới ách nô lệ tội lỗi. Bởi vì với tội lỗi, chúng ta sẽ phải chết. Không phải chỉ cái chết phần xác, mà còn cả cái chết phần hồn, mãi mãi xa lìa Chúa.
Thế nhưng Mẹ Maria đã khởi đầu cho một giai đoạn mới, trong giai đoạn mới này, người phụ nữ được phục hồi nhân phẩm và mỗi người chúng ta được trả lại địa vị làm con cái Chúa, bởi vì chúng ta có được chính sự sống của Ngài trong tâm hồn, như lời thánh Phaolô đã xác quyết:
- Xưa kia bởi một người mà nhân loại phải chết, thì nay cũng bởi một người mà nhân loại được sống.
Sở dĩ như thế là vì Mẹ Maria đã sống khiêm nhường và luôn chu toàn thánh ý Chúa. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại: Thuở xưa tại vườn địa đàng, Eva vì kiêu ngạo muốn trở nên bằng Thiên Chúa, cho nên đã giơ tay ngắt trái cấm mà ăn, để rồi truyền lại cho chúng ta là con cháu hậu quả thảm khốc của tội nguyên tổ.
Trong khi đó Mẹ Maria là Eva mới, đã đi ngược lại con đường xưa, bởi vì Mẹ luôn sống khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, trong hoạt cảnh truyền tin, chúng ta đã thấy như vậy. Sau khi nhận ra thánh ý Chúa, Mẹ đã cúi đầu thưa lên:
- Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.
Một sự xin vâng tức khắc và vô điều kiện. Giá như chúng ta thì có lẽ chúng ta sẽ trì hoãn, sẽ viện cớ này cớ kia để mà thoái thác: nào là không dám đâu, nào là chưa sẵn sàng, nào là để suy nghĩ và cầu nguyện thêm cái đã…
Chính vì thái độ khiêm nhường và vâng phục này, mà Mẹ đã được xứng đáng đặt làm Mẹ Đấng cứu thế, cũng như làm Mẹ của Thiên Chúa.
Sống trong Mùa Vọng, chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria: luôn khiêm nhường và vâng phục thánh ý Chúa, để nhờ đó, chúng ta sẽ có Chúa trong tâm hồn, cũng như sẽ đem Chúa đến cho những người chung quanh như Mẹ Maria ngày xưa.




20. Truyền tin
Đức Maria là người diễm phúc, bởi vì đã được Thiên Chúa chọn làm mẹ cho Con của Ngài nhập thể giáng trần. Điều đó đã được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, gọi là trình thuật truyền tin. Đây là một đoạn văn cho chúng ta biết Thiên Chúa đã đưa Đức Trinh nữ Maria, một phụ nữ khiêm tốn trở thành một người diễm phúc như thế nào.
Nhân vật được Thiên Chúa sai đi là sứ thần Gabrien, đem mệnh lệnh Thiên Chúa đến cho một thiếu nữ tên là Maria, con ông Gioakim và bà Anna, thuộc dòng họ vua Đavid. Sứ thần báo cho Maria một tin rất trọng đại: Thiên Chúa muốn trinh nữ làm mẹ Đấng Cứu Thế. Nhưng vì đã khấn hứa sống trinh khiết trọn đời, nên Maria không hiểu điều đó có ý nghĩa thế nào: làm sao vừa có thể sống trinh khiết lại vừa có thể sinh con và làm mẹ được? Vì thế, Maria hỏi sứ thần: “Việc ấy sẽ cảy ra cách nào?”. Sứ thần cho biết đây không phải là trường hợp bình thường bởi loài người nhưng bởi Chúa Thánh Thần làm phép lạ vĩ đại cho cô chịu thai mà vẫn còn đồng trinh và cô sẽ sinh một Thánh Tử là Con Thiên Chúa. Có thể nói giây phút ấy, tất cả tương lai nhân loại nằm trên đôi môi Đức Mẹ, giây phút ấy mầu nhiệm nhập thể vẫn còn lơ lửng, và Thiên Chúa hồi hộp chờ đợi câu trả lời của Đức Mẹ. Cuối cùng, Đức Mẹ đã hoàn toàn ưng thuận. Thế là mầu nhiệm truyền tin đã hoàn tất.
Qua mầu nhiệm này chúng ta thấy Đức Mẹ sau khi biết việc thụ thai con trẻ Giêsu là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ đã can đảm thưa “xin vâng”. Để hiểu được sự can đảm phi thường của Đức Mẹ, chúng ta thử đặt mình vào vai trò của Đức Mẹ cách đây 20 thế kỷ, sống dưới một luật lệ khắt khe của Do thái giáo. Thời đó phụ nữ rất bị khinh miệt hơn cả ở Việt Nam chúng ta, nếu đối với chúng ta: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: thì phụ nữ Do thái còn “nhẹ giá” hơn nữa. Thực vậy, lúc ấy Đức Mẹ là một trinh nữ mới lớn, khoảng 15, 16 tuổi, lại mới chỉ đính hôn với Giuse, luật lệ lúc ấy rất khắt khe với những người đính hôn, nếu có thai không do người bạn đính hôn của mình là bị kết tội giao du bất chính, ngoại tình và bị ném đá cho chết. Đàng khác, Đức Mẹ sống trong làng Nagiarét, một làng nhỏ bé, nên việc mang thai không thể giấu diếm được. Có lẽ nhiều câu hỏi đã nảy sinh trong đầu Đức Mẹ: làm thế nào để giải thích cho họ hàng đôi bên và nhất là với người chồng sắp cưới? Làm thế nào để giải thích cho những vị lãnh đạo tôn giáo khắt khe trong làng? Nhưng tình yêu Thiên Chúa của Đức Mẹ đã thắng, Đức Mẹ đã chấp nhận mọi nguy hiểm. Thực vậy, vì yêu Chúa, Đức Mẹ bằng lòng chấp nhận mọi sự hiểu lầm của mọi giới người, chấp nhận những lời xuyên tạc, đàm tiếu có thể xảy ra, và chấp nhận ngay cả cái chết nữa. Cũng thế, vì yêu Chúa, Đức Mẹ dám hy sinh hạnh phúc gia đình, bởi vì lúc sứ thần đến truyền tin thì Đức Mẹ đang trong thời gian đính hôn với Giuse, bây giờ câu chuyện xảy ra thế này thì việc cưới xin làm sao thành được nữa, nhưng Đức Mẹ đã bằng lòng chấp nhận tất cả, chấp nhận không điều kiện, phó thác mọi sự cho Chúa. Chính vì thế Thiên Chúa đã lo liệu trọn vẹn cho Đức Mẹ, đây cũng là bài học cho chúng ta. Chúng ta thấy đó, đối với Đức Mẹ lúc ấy, một tương lai mịt mờ đang chờ đón, nhưng Đức Mẹ vẫn dám nói “xin vâng” trong tin và yêu. Đời chúng ta không thể kém Đức Mẹ đâu, sống ở trần gian này, cuộc đời chúng ta cũng gặp nhiều khúc quanh, gánh nặng, nhiều lúc mịt mù lắm mây giăng. Nói rõ hơn, tất cả chúng ta đã, đang hoặc sẽ gặp đau khổ, có người đã trải qua đau khổ, có người đang quằn quại trong đau khổ, có người đang bị đau khổ rình rập, không ai dám quả quyết mình không có đau khổ, giàu hay nghèo, đi tu hay sống đời gia đình, đều có những đau khổ riêng của mình. Vì thế, đau khổ nhiều hay ít chưa phải là quan trọng, điều quan trọng là thái độ và tinh thần của chúng ta thế nào trước đau khổ. Dù trong hoàn cảnh nào chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Đức Mẹ mà an tâm phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa, hãy hết lòng tin tưởng và cầu xin Chúa, vì đối với Thiên Chúa, không có gì mà Chúa không làm được.
Tóm lại, mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta hãy ca lên bài ca “xin vâng’ để Mẹ trợ giúp: “Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó. Xin Mẹ day con hai tiếng xin vâng: hôm nay, tương lai và suốt đời. Xin Chúa cho chúng ta, dù làm gì, chúng ta luôn biết làm theo thánh ý Chúa, tức là luôn sống đúng và làm đúng với Tin Mừng của Chúa.




21. Tôi t
Năm 1876, khi Alexander Graham Bell phát minh ra điện thoại, có một vấn đề được đặt ra là phải nói lời gì khi bốc máy trả lời điện thoại. Ông Bell đề nghị người trả lời nên chào là “Ahoy!” Tiếng này nghe hơi lạ tai! Có lẽ cũng từ tiếng “Ahoy” và Hello” phát sinh ra tiếng “Alô”?
Tiếng “Hello” sau này mới xuất hiện do Thomas Edison, người khám phá ra điện và là một người bạn thân đang giúp ông Bell cải tiến kỹ thuật điện thoại. Tiếng “Hello” đầu tiên xuất hiện trong văn chương vào năm 1880. Nhà văn Mark Twain đã gọi những thiếu nữ làm ở tổng đài điện thoại là những “hello girls”. Sau cùng, vào năm 1883, tiếng “Hello” được đưa vào tự điển. Và bây giờ, trên 100 năm sau, nó là một trong những tiếng được sử dụng phổ thông nhất trên thế giới.
Phúc âm hôm nay, kể lại câu chuyện sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria. Chắc chắn lúc sứ thần mới gặp Maria, cô khoảng 14 tuổi, tuổi choai choai, ngài không chào là “Hi” hay “Hello”, mà Thánh Kinh kể rằng: “Kính chào trinh nữ đầy ơn phước…” Lời chào thật trang trọng và tôn vinh vì cô bé choai choai 14 tuổi đó sẽ là Mẹ Thiên Chúa.
Theo bài Phúc âm diễn tả, Maria một cô con gái trẻ, nhà quê, lại đón nhận một ơn gọi vĩ đại chưa từng có. Cô được sứ thần cho biết rằng sẽ đóng một vai trò duy nhất trong lịch sử loài người. “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phúc… Nầy Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao… Đấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”. Nghe những lời như vậy, Maria khiếp sợ và bối rối, liền hỏi: “Việc đó xảy đến thế nào được?” Nhưng khi nghe sứ thần khẳng định rằng người nói thay cho Thiên Chúa, Maria hoàn toàn chấp nhận ý của Thiên Chúa với lòng vô cùng khiêm tốn: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Tức thì Đấng Cứu Thế bắt đầu thực hiện chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa.
Trong Hiến Chế về Giáo Hội, Lumen Gentium đoạn 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria như sau:
Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Do sự tuân phục của mình, Mẹ đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại”. Và sau cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Cái gút do sự bất tuân phục của bà Evà đã được tháo cởi do sự vâng phục của Đức Maria; cái mà trinh nữ Evà đã thắt gút do sự cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo cởi do niềm tin của mình”. So sánh Đức Maria với bà Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và thường tuyên bố rằng: “Do Evà có sự chết, do Maria có sự sống”.
Theo sự giảng dạy của các Giáo Phụ, Công Đồng coi câu chuyện Truyền Tin rất quan trọng, vì nhận thấy ở thái độ căn bản của mọi Kitô hữu. Giáo Hội tiên khởi đã bày tỏ lòng tin của họ vào thái độ chấp nhận tự do trong ân sủng của Đức Maria. Sự chấp nhận tự do này là tiếng nói then chốt trong câu chuyện, nhưng đồng thời còn là bài học tóm lược tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu: ưng thuận khi Chúa đến và để ý định cứu rỗi hoàn tất trong chúng ta. Theo gương Đức Maria, vừa biết quảng đại phục vụ cho công cuộc cứu thế, chúng ta vừa tích cực cộng tác mà không tự mãn”.




22. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
YÊU CUỘC ĐỜI, YÊU CON NGƯỜI
Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh luận ở thư viện ngoại ô Paris, với thành phần tham dự đủ mọi loại người, thuộc nhiều tầng lớp xã hội và tuổi tác khác nhau, đề tài được bàn đến là Đức Giêsu. Đang khi mọi người tranh luận, một thiếu niên Ả-rập giơ tay nói với Duquesne: thưa ông, một con người không thể là Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể là người.
Quả thật đây là vấn đề được đặt ra từ lâu. Không chỉ người thiếu niên Hồi Giáo đặt ra mà suốt 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn luôn thao thức. Tin vào một Thiên Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngũ nghỉ, mệt mỏi, vui buồn?
Vậy mà Giáo Hội Kitô Giáo hơn 20 thế kỷ qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc của mình vào một Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Trong Phụng Vụ Lễ Giáng Sinh khi đọc đến câu Tin Mừng Ga 1, 14: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" thì mọi người đều quì gối. Trong Lễ Truyền Tin, lúc đọc Kinh Tin Kính, mọi người đều quì gối khi đọc câu "Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người"
Đức Giêsu, Thiên Chúa thật, người thật, là một mầu nhiệm thâm sâu. Đức Hồng Y Henri De Lubac bảo rằng: Mầu nhiệm Nhập thể là nghịch lý của mọi nghịch lý. Văn hào Tertuliano đã xác tín: Tôi tin vì nó phi lý. Thiên Chúa làm người, điều phi lý đối với lý trí nhưng ông đã tin vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm người là một nghịch lý, một điều không thể tin được, bởi lẽ, đã là Thiên Chúa thì phải là Đấng cao cả, tuyệt đối, hằng hữu, bất tử. Đối với triết lý Hy-lạp, các thần linh thuộc về một thế giới siêu phàm hoàn toàn khác biệt với thế giới phàm nhân. Các thần linh đều bất di bất dịch, bất động vô cảm đối với thế giới vật chất. Còn vật chất là một thực tại xấu xa. Thân xác con người là tù ngục nhốt kín linh hồn và linh hồn tìm cách thoát khỏi tù ngục thân xác để trở về thượng giới. Do đó họ không thể tin nổi một Thiên Chúa yêu thương con người tới mức làm người, sống với con người cách đơn sơ bé nhỏ. Vậy mà niềm tin Kitô Giáo lại khẳng định: Điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, dân ngoại cho là điên rồ (1 Cr 1, 23) thì lại là Niềm Tin căn bản nhất trong giáo lý Giáo Hội: Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Chúa Nhật 4 Mùa Vọng hướng về Lễ Giáng Sinh. Giáo Hội chọn đọc đoạn Tin Mừng Lc 1, 26 - 38: Truyền tin cho Đức Maria để nói cho chúng ta về việc nhập thể lạ lùng của Con Thiên Chúa trong cung lòng một trinh nữ. Một trinh nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Kitô Giáo. Đoạn Tin Mừng này được đọc trong các Lễ Đức Maria, nói lên sự thánh hiến tuyển chọn của Thiên Chúa đối với một thụ tạo được đặc ân vĩ đại nhất. Trang Tin Mừng được công bố trong Chúa Nhật này muốn hướng chúng ta đến Mầu Nhiệm Nhập Thể Làm Người của Con Thiên Chúa.
Trong cuộc đối thoại giữa sứ thần Gabriel và Đức Maria, chính sứ thần đã nói: "Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế con bà sinh ra sẽ là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa". Từ ngữ quan trọng ở đây là "bao trùm lên". Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành kể lại: Một đám mây mầu nhiệm bao trùm lên Lều Tạm, nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước; Một giao ước được Thiên Chúa ký kết với Mô-sê trên núi Xinai. Hòm Bia, nơi chứa đựng Thập Giới; Xh 40, 34 nói rằng: Bao lâu đám mây còn bao phủ Lều Tạm thì Lều Tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Luca dùng từ "bao trùm lên" không phải là ngẫu nhiên mà là có ý nghĩa thâm sâu. Lu-ca so sánh thân thể Đức Maria với Lều Tạm, nơi đặt Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa. Cung lòng Đức Maria, nơi Đức Giêsu cư ngụ; Hòm Bia Giao Ước, nơi đặt hai phiến đá ghi 10 Giới Răn của Thiên Chúa, trung tâm Cựu Ước. Vậy khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria thì có Thiên Chúa hiện diện trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn làsự hiện của Thiên Chúa trong Nhà Tạm, vì nơi đó Đức Giêsu bằng xương bằng thịt hiện diện. Quyền năng Chúa Thánh Thần bao phủ và máu thịt Đức Maria tạo nên hình hài Đức Giêsu. Đức Giêsu mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Đức Maria và Người vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.
Bài đọc 1 trong sách 2 Sm 7, 1-16: Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavít muốn xây cho Ngài; nhưng traí lại, Thiên Chúa hứa cho Đavít một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đavít. Lời hứa này được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng trở nên Hòm Bia Thiên Chúa, nơi đây Con Thiên Chúa đến với loài người. Đó cũng là mạc khải của mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nay được bày tỏ ra mà Thánh Phaolô đề cập đến trong bài đọc 2, Thư Rm 16, 25 - 27.
Qua lời "Xin Vâng" của Đức Maria, Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Nói như Thư Do thái, Ngài đã muốn nên giống anh em mình về mọi phương diện, phải trải qua thử thách và đau khổ, phải nếm sự chết. Đau thương, thử thách, gian khổ, chết, đó làthân phận con người. Hữu sinh hữu tử. Đức Giêsu đã chấp nhận sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật như Lời Thánh Phaolô trong Thư Gl 4, 4 thì Người cũng chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đinh trên cây thập giá và táng xác như chúng ta đã tuyên xưng trong kinh tin kính. Đó là niềm tin vững chắc của người Kitô hữu hơn 20 thế kỷ qua.
Đức Giêsu đã sinh ra và đã đi vào lịch sử. Thiên Chúa của chúng ta không phải là vị Chúa Tể xa cách uy nghi ngự chín tầng mây, mà qua, Đức Giêsu, Người đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân. Chính Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và tuyên bố với các học trò mình "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy thì Thầy sẽ cho anh em biết" (Ga 15, 15).
Con Thiên Chúa làm người cũng lớn lên như hàng tỉ con người khác, cũng cần chín tháng mười ngày trong lòng mẹ để khóc chào đời mong manh yếu đuối. Người cũng đã đi hết hành trình cuộc đời với tất cả buốn vui, âu lo trăn trở. Như thế, Con Thiên Chúa làm người dạy cho mỗi người chúng ta yêu mến cuộc đời, yêu mảnh đời bé nhỏ âm thầm đơn sơ của mình. Cuộc đời Đức Giêsu không chỉ toàn màu hồng. Ngài đã phải long đong với phận nghèo, cũng ê chề vì thất bại chống đối khinh khi, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài vững tin đến cùng vào tình yêu Chúa Cha ngay giữa lúc tối tăm nhất.
Con Thiên Chúa làm người dạy chúng ta yêu mến mọi người. Từ khi Đức Giêsu mang lấy khuôn mặt con người thì mọi người đều mang khuôn mặt Thiên Chúa. Mọi người đều là anh em trong Đức Giêsu. Yêu cuộc đời và yêu mọi người là thắp lên ngọn lửa Đức Tin để sưởi ấm cho xã hội đang mất dần niềm tin vào Thiên Chúa vào con người. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người đã mạnh mẽ nói rằng: Con người là con đường của Giáo Hội. con người là đối tượng phục vụ của Giáo Hội.
Xin Đấng Emmanuel giúp chúng con yêu mến con người và yêu mến cuộc đời.



23. Chú giải của Noel Quesson
Một trong những cách chuẩn bị tốt nhất để mừng lễ Noel, đó là suy niệm trình thuật về biến cố Truyền tin. Hiển nhiên là Thánh Luca đã tiếp xúc các môi trường Do Thái Palestin, nơi mà truyền thống và dòng họ Đức Giêsu vẫn được bảo tồn. Cũng có thể ông đã gặp riêng Đức Maria, Đấng hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng" (Lc 2,19). Luca cho mình là sử gia, nên ông đã lo lắng tập tục là người đã được chứng kiến ngay từ đầu để tra cứu vấn đề đầu đuôi mọi sự trước khi viết ra" (Lc 1,2-3). Vả lại Luca là một nghệ sĩ tế nhị là người tường thuật tinh tế nhất trong bốn Thánh sử. Hơn chúng ta ngày nay, gần cận với những biến cố mầu nhiệm đã xảy ra, hẳn là Luca đã cảm thấy vấn đề khi sử dụng ngôn ngữ: phải dùng từ nào để diễn ta kinh nghiệm huyền bí đang sống động nơi một thiếu nữ đã thực sự thụ thai mang xác thịt Ngôi Lời Thiên Chúa, được Chúa Cha dự kiến từ thuở đời đời. Rất may Luca sử dụng truyền thống văn chương và thần học lâu đời của Kinh thánh. Vì vậy, ông viết "báo cáo" của mình rất trôi chảy theo khuôn khổ ngôn ngữ đã được Thánh Thần chuẩn bị rất tinh vi trong dân Israel. Bức vải vẽ cảnh Truyền tin được dệt bằng những “sợi chỉ" Kinh thánh. Khi nhận ra những sơi chỉ đó ta sẽ càng nhận thức được rằng, mạc khởi là một về huyền diệu của những kiểu nói, những hình ảnh, những dụ ngôn, nhằm diễn ta mầu nhiệm về Thiên Chúa khó hiểu thấu bằng ngôn ngữ loài người.
Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nagiarét, đế gặp một thiếu nữ…
Luca chủ ý đặt một đối nghịch giữa việc loan báo sự sinh ra đời của Gioan Tẩy Giả với cảnh Truyền tin sinh hạ của Đức Giêsu.
Trường hợp trên: Đó là Giêrusalem... trong đền thờ…với một tư tế... ông này - không tin điều đó.
Trường hợp sau: Đó là Nagiarét... trong một ngôi nhà riêng... với một thiếu nữ... cô này hoàn toàn ưng thuận. Đúng vậy, Nagiarét là một làng nhỏ tầm thường. Theo các nhà khảo cổ, nó chỉ bao gồm khoảng 20 căn nhà, với 150 dân. cự.. Galilê cũng là một xứ bị người ta coi thường. Từ Nagiarét, thì có cái gì hay được?" (Ga l,46). Vẻ đơn sơ của căn nhà Maria ở, tương phản với vẻ trang trọng trong cuộc báo tin cho Giacaria, giữa khung cảnh hùng vĩ và thánh thiện của Đền Thờ, tại Giêrusalem, thủ đô (Lc l.,5-25).
Tôi dùng tưởng tượng chiêm ngắm Đức Maria trong căn nhà bé nhỏ nghèo nàn không ai biết đến, để suy niẹm sự khiêm hạ của Thiên Chúa nhập thể. Một ngày kia, thánh Phaolô sẽ nói: "Ngài đã làm cho mình hóa ra không, mặc lấy thân nô lệ" (Pl 2,7).
Một thiếu nữ đã kết hôn với một người tên là Giuse, con cháu nhà Đavít. Thiếu nữ ấy tên là Maria.
Trong một đoạn văn không có gì là song đối với bản văn trên, Mát-thêu quả quyết cả hai chân lý lịch sử một trật: Quan hệ dòng dõi nhà ‘Đavít của bé thơ và tình trạng tinh khiết của mẹ em (Mt 1,18-25). Tên Yosephel có nghĩa là: "Xin Chúa thêm cho". Còn tên "Miryam" có nghĩa là: "Bà sang trọng". Tôi hình dung ra cảnh, những cô bạn, những thiếu nữ hàng xóm đang gọi tên "Miryam" tại giếng làng mà họ tới kín nước. Đó là một thiếu nữ hoàn toàn giản đơn, không có gì đặc sắc phân biệt cô với các bạn hữu khác. Tôi cũng hình dung ra cảnh hai người đã đính hôn đang âu yếm gọi tên nhau: "Miryam"... "Yosephel"?
Sứ thần vào nhà cô và nói: "Kính chào bà, bà đầy ân sủng!".
Có lẽ chúng ta đã chờ đợi một lời chào như: "Kính mừng Maria!". Thế mà, thay vì Maria, sứ thần lại dùng "Đầy ân sủng" như một tên gọi. Cũng như trong nhiều trình thuật về ơn gọi, Thiên Chúa thường đổi tên cho con người. Maria trở thành "Đầy ân sủng" mà ta còn có thể là “Được Thiên Chúa sủng ái". Từ nay, trong tiếng Do Thái, gợi đến "kẻ yêu dấu”, "người được sủng ái" trong cuốn Diễm ca.
Kiểu nói Hy Lạp được sử dụng để chào nhau là "Kairé", thực sự mang ý nghĩa "Hãy vui lên". Đó là một sự ghi nhớ lại Cựu ước (Xp 3,14; Dcr 2,14 - 9,9; Is 54,1). Các ngôn sứ yêu cầu "thiếu nữ Sion" hãy reo vui lên khi ngắm nhìn Đấng cứu độ mình đang tiến đến gần: "Reo vui lên! Nữ tử Sion, hãy vui lên". Và chúng ta biết, niềm vui đã là đề tài luôn được bàn đến trong Tin Mừng Luca. Vì thế, đây là lời đầu tiên Thiên Chúa gửi cho trần gian: "Hãy vui lên!".
Thiên Chúa ở cùng bà.
Đó là kiểu nói Thiên Chúa quen dùng khi Người muốn trấn an nhưng kẻ Người mới gọi đảm nhận những trách nhiệm nặng nề (St 15,1; Xh 4,12; Tl 6,12-17). "Đừng sợ? Ta sẽ ở cùng ngươi! ". Trong phục vụ, vị chủ tế cũng thường lặp lại với ta lời cầu chúc này: "Chúa ở cùng anh chị em!". Chúng ta có tin tưởng vào lời chào chúc đó không? Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Nghe những lời ấy, cô hoảng sợ, và tự hỏi không biết lời chào như vậy có nghĩa gì.
Ở đây nếu chỉ nhận thấy một phản ứng tâm lý, thì ta mới dừng lại ở khung dạng bên ngoài. Trong Cựu ước, bất cứ cuộc đưa tin nào cũng đều gây “sợ hãi" cả. Một lần nữa, đây là kiểu nói Kinh thánh, có nghĩa là: Hãy chú ý ở đây đang bàn đến mầu nhiệm? Những lời này chứa một ý nghĩa kín ẩn, cần phải khám phá? Thiên Chúa vẫn có đó! Đây là điều quan trọng! Thiên Chúa luôn là Đấng gây bối rối, xuất hiện bất ngờ và ở trong tình trạng kín mật... Thế nên, được mời gọi đến gần Chúa, con người dễ phát sinh cảm tình muốn lùi lại, run sợ trước vẻ thiêng thánh...
Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai... và đặt tên là Giêsu.
Luca sử dụng một kiểu nói có sẵn, rất nhiều lần được dùng trong Kinh thánh (St 16,11-17-19; Tl 13,5-7; Is 7,14). Này đây trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ đặt tên con trẻ là Emmamuel". Lời sấm của Isaia từ lâu vẫn được hiểu theo nghĩa, việc hạ sinh Đấng cứu thế mà vẫn còn trinh khiết, như bản dịch Hy Lạp của 70 học giả xác nhận. Trong đó, ta thấy từ Hy Lạp "parthénos" (trinh nữ) chính xác hơn từ Do Thái "almah" (người nữ không lấy chồng).
Người sẽ nên cao cả, và thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Vua Đavít, tổ tiên của Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời,và vương quyền của Người sẽ vô cùng tận.
Maria thuộc lòng "lời tiên báo của Na than" (2 Sm 7,12-17) mà sứ thần gởi lại cho cô. Đối với chúng ta, đó là một thứ ngôn ngữ hơi bí hiểm. Những mọi người Do Thái đều hiểu lời đó theo ý nghĩa: Con trẻ này sẽ là Đấng cứu thế mà thiên hạ được loan báo và chờ mong.
Làm sao có chuyện ấy được; vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng.
Ý định của Luca thật là rõ ràng: ông không muốn để người ta phải nghi ngờ gì về sự trinh khiết của Maria. Thời đó, theo tập tục Do Thái, lễ đính hôn cho phép các người nam kết ước được hưởng mọi quyền lợi của kẻ làm chồng, kể cả những tương quan giao hợp... Luca loại bỏ giả thiết này. Maria đã cân nhắc suy nghĩ và chọn sống đồng trinh. Vấn đề đố khiến ta cần đi sâu vào trong tư tưởng và tâm hồn Maria. Cô đã tận hiến đời mình cho Thiên Chúa, trong một tình yêu huyền bí, tuyệt đối, chuyên nhất... như biết bao người khác vẫn làm từ lâu rồi? Điều đó không làm giảm giá trị bậc sống hôn nhân gì hết! Nhưng nó làm nổi bật một lý tưởng khác, là một số người có thể chọn lựa một cách hợp thức, như' sau này Đức Giêsu có đề cập đến (Mt. 19,12). Đàng khác, qua cuộc khám tìm nếp sống của nhóm người Essenien tại Qumraxl, giờ đây ta biết rằng, đó không phải là một lý tưởng xa lạ gì với Israel: vào lúc xảy ra các biến cố trên, lý tưởng sống độc thân tự nguyện tận hiến đã bắt đầu phổ biến rộng rãi.
Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và uy quyền Đấng tối cao sẽ che chở cho bà.
Chúng ta đừng tưởng rằng, Maria đã thấu suốt mầu nhiệm Ngôi vị của người con mình qua những định nghĩa tín lý trừu tượng. Không! Nhờ ý nghĩa của các hình ảnh và dụ ngôn Kinh thánh diễn tả, mà cô hiểu sự việc cách cơ bản thôi. Ở đây, Maria đứng trước một đề tài huyền diệu về "shekinah", hay "mây"; "bóng mát", dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thần khí bay lượn trên nước lúc khởi đầu để ban sự sống (St 1,2). Và đây là một cuộc tạo thành mới nới Đức Mària "mây" phủ kín trướng tao phùng trong bóng mát (Xh 40,35). Và giờ đây Maria trở nên nơi cư ngụ của sự hiện diện Tháp Chính dưới bóng của: mây trời" mà Thiên Chúa đã phán dạy Môsê (Xh 16,10). Khi Salômon khánh thành Đền thờ, năm 986, thì "mây xuống đầy nhà Chúa" (1 V 8,10). Đối với một nữ Do Thái, những lời của sứ thần đã gợi lên tất cả những điều đó.
Vì thế, hài nhi sắp sinh ra sẽ được gọi là Đấng thánh, là con Thiên Chúa.
"Thần khí...", "Quyền năng...", "Đấng thánh...", "Đấng tối cao...". Luca muốn diễn tả cho ta hiểu, ngay từ giây phút đầu tiên, nhân tính của Đức Giêsu đã được thần khí
Thiên Chúa thấm nhập. Ngôn ngữ đượm màu sắc Kinh Thánh. Ai không chấp nhận bắt đầu từ giới mức đó – giới mức của Đức tin - thì mới chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài trình thuật. Lạy Chúa, xin giúp con,biết dừng lại, sửng sốt mà thờ lạy, trước mầu nhiệm được diễn tả qua ngôn ngữ gợi ý trên đây. Trứng thụ thai trong dạ một người nữ, đó là một mầu nhiệm tuyệt vời,: vượt qua mọi định luật tự nhiên. Thánh Gioan sẽ nói: "Ngôi lời đã nhập thể" (Ga l,14). Ngày đó, ngang qua những gì đã biết nhờ vốn liếng Kinh thánh tại sao Maria lại không có thể hiểu, những gì sẽ xảy ra? Dẫu sao, chắc chắn đó chưa phải là điều rõ ràng trong những định nghĩa tín lý.
Này tôi là nữ tỳ của Chúa.
Thiên Chúa không thể đưa dẫn Maria tới chức năng làm mẹ mà lại không thông tin và hỏi ý kiến trước. Thiên Chúa không đặt chúng ta đứng trước một sự kiện đã rồi. Ngài tôn trọng lãnh vực tự do và trách nhiệm của mỗi người. Qua ngôn ngữ Kinh thánh trên, Maria đã hiểu rõ điều cốt yếu để dấn thân với ý thức đầy đủ về sự việc.
Nhưng ta cũng đoán được đó là "trong đức tin". Lạy Chúa, xin cũng giúp chúng con biết tin tưởng.




24. Thiên Chúa tìm cho Mình một ngôi nhà
(Suy niệm của Lm. G. Nguyễn Cao Luật)
Tin Mừng cho người biết khiêm tốn
Ai ai cũng mong đón nhận một tin mừng: một thanh niên thành đạt trong cuộc thi hay đám cưới của một người bạn thân... Một đứa trẻ sắp ra đời cũng là một tin mừng -có lẽ là tin mừng lớn lao nhất, đúng nghĩa nhất- bởi vì trước hết, đó là một sự sống mới phát sinh từ tình yêu. Tuy vậy, một tin mừng không có nghĩa là không có lo âu, không có nghĩa là không có những thắc mắc về tương lai.
Biến cố truyền tin cho Đức Maria đúng là một tin mừng, một Tin Mừng đích thực. Với biến cố này, Đức Maria sẽ sinh hạ một người con, nhưng cũng là sinh hạ Con Người, Con Thiên Chúa, đổng thời cũng là sinh hạ một thế giới mới. Nơi người con này, sự chết sẽ vĩnh viễn bị tiêu diệt. Trước lời loan báo như thế, thái độ đáp trả của Đức Maria diễn ra theo ba giai đoạn: trước tiên, khi nghe lời chào của sứ thần, Mẹ hoảng sợ; sau đó, rất cụ thể và với tất cả ý ngay lành, Mẹ lo lắng vì "làm sao có chuyện ấy được"; cuối cùng, sau khi nghe lời giải thích của sứ thần, Mẹ thanh thản nhường chỗ cho Lời của Thiên Chúa, sẵn sàng chấp nhận làm Nữ Tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa. Trong khi chấp nhận làm Nữ Tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa, Đức Maria cũng tràn đầy vui mừng bởi vì Mẹ nhận biết rằng Thiên Chúa yêu mến Mẹ. Mẹ rất hãnh diện khi biết rằng mình là con cái Thiên Chúa, được Người tuyển chọn để thi hành một việc rất cao cả.
Quả thế, Đức Maria được mời gọi cộng tác vào việc hạ sinh Đức Giêsu. Đó là việc phục vụ tuyệt vời nhất, nhưng đồng thời cũng là công việc đau thương nhất của tất cả mọi người phụ nữ. Còn gì cao quý và hạnh phúc cho người mẹ hơn là việc hạ sinh một người con, một sinh vật hình thành từ chính máu thịt của mình. Nhưng cũng có gì đau thương hơn đối với người mẹ trong việc sinh con, không phải chỉ là những đau đớn thể lý, nhưng là thái độ không chiếm hữu người con, để cho người con ấy hành động như một con người, và tự mình sống đời của mình. Không ít người phụ nữ cảm thấy khó có thể chấp nhận được tình trạng đau thương này.
Riêng với Đức Maria, khi chấp nhận cưu mang Đức Giêsu, Mẹ cũng đã chấp nhận việc Đức Giêsu thoát khỏi đôi tay của mình. Toàn bộ cuộc đời của Mẹ, từ sau biến cố này, luôn là một sự dấn thân, một cuộc phiêu lưu thực thụ trong việc từ bỏ mình, để cho chính người con mình đã sinh ra luôn hướng về việc thi hành thánh ý của Thiên Chúa (x. Lc 2,48-49). Bởi vì Mẹ biết rằng, người con Mẹ đã cưu mang trong cung lòng trinh khiết của mình là do Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa. Có thể nói được rằng, trong cuộc đời của Đức Maria, vai trò làm mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa, vẫn có tầm quan trọng thứ yếu. Điều quan trọng hơn hết, chính là lắng nghe và thi hành thánh ý của Thiên Chúa.
Ngôi nhà chính là một thái độ
Điều đáng lưu ý trong trình thuật truyền tin, đó là Đức Maria đã không bao giờ dám mơ tưởng mình sẽ nhận được một hồng ân lớn lao; nhưng khi được đề nghị, Mẹ đã ưng thuận.
Nơi Đức Maria, niềm hy vọng của quân vương Đa-vít được thành tựu. Ông từng ước mong xây dựng cho Thiên Chúa một ngôi nhà, nhưng ông đã không được diễm phúc ấy. Đức Maria quả là ngôi nhà mà vua Đa-vít hằng mơ ước, bởi vì Thiên Chúa đã đích thân đến xây dựng nơi ở của Người giữa nhân loại. Chính Thiên Chúa xây dựng cho mình chứ không phải ai khác. Ngôi nhà ấy là một con người sống động, thật khiêm tốn chứ không phải là căn nhà uy nghiêm được xây bằng gỗ đá.
Đức Giêsu chính là Đền Thờ của Thiên Chúa. Người đã đến trong cung lòng Đức Maria. Về phần mình, Đức Maria chưa bao giờ nghĩ đến một điều như thế, và cũng chẳng bao giờ tìm cách xây dựng bằng nỗ lực của mình.
Như thế, một bên, chương trình của vua Đa-vít vẫn còn nằm trong ý tưởng, trong ước mơ, (mơ hồ về cả mục đích: mong muốn tôn vinh Thiên Chúa, điều ấy có; nhưng đồng thời cũng là khát vọng muốn tôn phong vương quyền của mình, muốn chiếm hữu Thiên Chúa. Một bên, Đức Maria chỉ có một ước mơ duy nhất là dâng hiến cuộc sống của mình cho Thiên Chúa (lời khấn trinh khiết là một dấu chỉ), và không tìm cách chiếm hữu Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã thực hiện những điều kỳ diệu: Người đã đến xây dựng ngôi nhà cho mình.
Quả thế, tính cách cao cả nhất trong con người Đức Maria, tính cách làm cho Mẹ trở thành phần tử ưu việt của Ít-ra-en, tính cách làm cho Mẹ trở nên thánh thiện tuyệt vời, đó là Mẹ hoàn toàn thanh thản và sẵn sàng. Thái độ này đã được khởi đầu với lời khấn trinh khiết và ý muốn duy trì nếp sống này mãi mãi, cả khi nghe lời loan báo của sứ thần. Thế nhưng, cũng chính thái độ này làm bật lên tiếng kêu: "Này tôi là Nữ Tỳ của Thiên Chúa". Đức Maria đã từ bỏ một điều tốt đẹp để nhận lấy điều tốt đẹp hơn; đã từ bỏ ý định cao cả của mình để đón nhận điều cao cả nhất là chính Thiên Chúa, là hoàn toàn phục vụ Lời.
Tuy nhiên, Đức Maria chỉ là điểm để Thiên Chúa đi qua. Mẹ hạ sinh Đấng Cứu Thế; nhưng bởi vì là Mẹ Đức Giêsu, nên Mẹ phải để Người ra đi. Người Con của Mẹ không phải là của riêng Mẹ. Người là Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa. Toàn bộ phần kế tiếp của Tin Mừng Lu-ca sẽ nhấn mạnh chi tiết này. Đặc ân của Mẹ, chính là thái độ từ bỏ, để cho Người Con thực hiện chương trình của Thiên Chúa, và Mẹ đã đi theo Người Con ấy đến tận cái chết trên thập giá.
Thiên Chúa vẫn đang tìm một ngôi nhà
Đọc đi đọc lại bản văn này, hẳn chúng ta sẽ cảm thấy bị thối thúc đặt mình vào vai trò của Đức Maria và suy tưởng những điều chúng ta phải làm.
Một em bé gái đã đặt câu hỏi với người nói cho em về Đức Maria: Tại sao lại là Mẹ mà không phải là tôi? Người kể chuyện đã đặt câu hỏi khác với em: Tại sao lại là tôi chứ không phải ai khác?
Mỗi chúng ta có thể nói như thế được không? Có thể được, bởi vì chúng ta biết rằng, mỗi lần Đức Ki-tô thâm nhập vào cuộc đời chúng ta, thì đó là một cuộc truyền tin mới, một lễ No-en mới. Và chúng ta hiểu rằng, đó là một hồng ân, một hồng ân đặc biệt Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta.
Bởi vì, như Con Thiên Chúa đã làm người trong cung lòng Đức Maria, Người cũng muốn đến cư ngụ trong mỗi chúng ta, Người vẫn mong muốn bắt đầu lại nơi mỗi người cuộc phiêu lưu trong cái chết và phục sinh.
Theo nhãn giới này, câu trả lời của Đức Maria quả là một gương mẫu cho sự đáp ứng của con người trước Thiên Chúa, và qua đó, cũng cho thấy khoảng cách giữa chúng ta với gương mẫu này.
Trước lời chào của sứ thần, Đức Maria đã bối rối. Còn chúng ta, chúng ta lại thường điếc, không nghe thấy.
Khi nghe loan báo Tin Mừng, Đức Maria nói "Làm sao...". Còn chúng ta, chúng ta đặt câu hỏi "tại sao?"
Và khi Đức Maria thưa "Xin vâng", thì chúng ta lại tranh luận về những từ ngữ trong bản giao ước với Thiên Chúa.
Lời thưa "Xin vâng" của Đức Maria hoàn toàn chìm sâu trong tình yêu và tin tưởng. Tương lai sẽ ra sao, không cần biết! Thiên Chúa là Đấng tín trung, thế là đủ! Còn chúng ta, chúng ta lại chẳng mau mắn nắm lấy trong tay này điều chúng ta vừa cố gắng bỏ ở tay kia đó sao? Cuối cùng, truyền tin cho Đức Maria thì cũng là truyền tin cho cả nhân loại, cho con người trọn vẹn. Đức Maria đã đón nhận Tin Mừng, và Tin Mừng đã không tránh cho Mẹ những đớn đau, những vất vả. Còn chúng ta, chúng ta đón nhận như thế nào? Có phải Đức Giêsu luôn là Tin Mừng cho chúng ta không? Người vẫn đang đến và đang cần một ngôi nhà.



25. Như Mẹ Maria, thưa vâng trong cả cuộc đời
(Suy niệm của Antôn Nguyễn Thành Chương)
Kính thưa cộng đoàn!
Trong ba Chúa nhật mùa vọng vừa qua chúng ta đã nghe Thánh Maccô và Gioan kêu gọi hãy tỉnh thức, sám hối, dọn tâm hồn và hãy vui lên để đón Chúa vào trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Hôm nay, Chúa Nhật cuối cùng trong bốn Chúa Nhật Giáo hội dành cho chúng ta để chuẩn bị đón mừng đại lễ kỷ niệm biến cố Chúa Giáng Sinh.
Bài Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, tả lại bối cảnh sứ thần Thiên Chúa truyền tin cho Đức Bà Maria. Đây là biến cố đặc biệt mà Đức Maria đã được đặt vào vị trí trung tâm, vị thế quyết định vận mệnh cho cả thế nhân: hoặc được giải thoát khỏi tội lỗi – hoặc vẫn sống đắm chìm trong đêm tối mà vẫn khắc khoải chờ mong một đấng cứu thế. Vì thế, biến cố truyền tin phải được xếp vào trong những biến cố quan trọng hàng đầu trong chương trình cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa. Bởi vì, nếu không có lời “Xin vâng” của Đức Maria thì Đấng Cứu Thế vẫn chưa đến, thế giới này đã không được trở nên trời mới đất mới và có thể loài người chúng ta chưa được hưởng ơn cứu độ.
Lời xin vâng ấy đã làm xoay chuyển cả cuộc đời còn lại của Đức Maria vì trước đó Mẹ đã nhận lời đính ước cùng Thánh Giuse, dòng dõi con vua Đa-vit. Vì thế, khi sứ thần Thiên Chúa Gabrien xuất hiện, chào kính cùng báo tin đã làm thiếu nữ Maria vô cùng sửng sốt và bối rối… nhưng Đức Maria đã không phụ lòng hết thảy nhân gian đang ngày ngày trông đợi, mong có một đấng đến giải thoát họ khỏi khổ cực lầm than.
Đức Maria đã đáp: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. (Lc 1,38).
Khi lời xin vâng trịnh trọng của Đức Maria cất lên không những làm cho cuộc đời Mẹ thay đổi mà cả thế giới cũng được chuyển mình. Vì thế, Đức Maria xứng đáng được làm Mẹ Con Thiên Chúa và trở nên một Eva mới của trời mới, đất mới. Khi chấp nhận để Chúa Con ngự vào lòng mình thì Mẹ đã sẵn sàng để Thiên Chúa Cha hướng dẫn cuộc đời Mẹ, dù không biết được con đường của Chúa sẽ dẫn tới đâu. Quả là một lời hứa bất chấp sự rủi ro, Mẹ đã từ bỏ quyền kiểm soát tương lai và để mặc cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời của mình, hành động đó của Mẹ cũng chỉ vì Tình Yêu cho nhân thế mà bất chấp mạng sống. Mẹ đã nói: Tôi không hiểu được tất cả ý nghĩa của việc này, nhưng tôi tin tưởng rằng nhưng điều tốt đẹp sẽ xảy ra.
Do đó chúng ta có thể nói Đức Maria đã không chỉ thưa tiếng xin vâng một lần đơn giản trong ngày Sứ Thần Thiên Chúa truyền tin. Trái lại, Đức Maria đã tiếp tục thưa tiếng xin vâng mọi ngày trong suốt cuộc hành trình với Chúa Giêsu và suốt cả cuộc đời Mẹ sau này. Lời thưa: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” đã chứng tỏ Đức Maria đã thực sự là một người khiêm hạ, nhận mình nghèo hèn và đặt mình tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đấng sẽ nâng đỡ và giúp Mẹ sống trung tín suốt cả cuộc đời Mẹ.
Mẹ xin vâng để Chúa Con được làm người và thực thi sứ mệnh mà Chúa Cha giao phó.
Mẹ xin vâng trong suốt chặng đường của cuộc sống gia đình đầy khó khăn.
Cuối cùng Mẹ xin vâng khi chấp nhận để con mình ra đi thi hành sứ mệnh, kể cả khi thấy con đau đớn, kiệt sức và chết trên thập giá.
Thưa cộng đoàn, Lời Chúa trong ngày Chúa Nhật hôm nay mời gọi mỗi người trong chúng ta hãy sống theo gương Đức Maria với lòng khiêm tốn và xin vâng qua những công việc tầm thường xảy ra hằng ngày trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Mẹ Maria đã vui mừng nói lời xin vâng khi Thiên Chúa ngỏ lời hỏi ý, vậy còn chúng ta những Kitô hữu đã và đang lữ hành trên đường tìm kiếm hạnh phúc đích thật, chúng ta có giám mạnh dạn nói “Này con xin vâng” khi Thiên Chúa cần để thực thi Thánh ý của Ngài?
Trong tâm tình những ngày cuối của mùa vọng chúng ta thử một lần nhìn thẳng vào chính con người thật của mình và cùng xin Mẹ Maria phù trợ để biết nói lên lời xin vâng như Mẹ trong mọi hoàn cảnh.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ Maria đã xin vâng trong suốt cả cuộc đời. Amen.