Suy tư mùa vọng _ gia đình người rừng

Gia đình “người rừng”
Chúa đã đến và đã không được ai đón tiếp, đặc điểm nhận dạng của Chúa: "Ta đói, các ngươi đã cho ăn...”
A Đế và Thị Mỷ rủ nhau lên lán giữa đồi núi hoang vu ở. Họ sống tách biệt với dân bản, sinh con đẻ cái ở đó, không dịch vụ y tế, không đăng ký hộ khẩu. Đám con họ sinh ra thậm chí còn không biết nói tiếng người...
Cách nay một năm, tôi được nghe kể ở xã Làng Nhì (Trạm Tấu, Yên Bái) có một gia đình “người rừng” tồn tại như một câu chuyện hoang đường giữa thời đại văn minh. Sau mấy lần “thất hứa”, mãi hôm nay tôi mới lên được Làng Nhì thăm gia đình “người rừng”.
Chủ của gia đình “người rừng” này là Trang A Đế, người Mông ở bản Chống Tầu, năm nay khoảng 46 tuổi. Bí thư xã Làng Nhì Mùa Sáy Tông cho biết: Do thiểu năng trí tuệ nên A Đế không đi học. Lớn lên Đế lấy vợ, không hiểu vì sao hai người bỏ nhau. Trong bản Chống Tầu có một người phụ nữ câm điếc tên là Hờ Thị Mỷ, A Đế “nhập nhằng” với cô này, bị anh trai của Mỷ bắt gặp, bèn họp anh em họ hàng lại buộc Đế phải lấy Mỷ.
Gia đình nhà Hờ Thị Mỷ có một chiếc lán canh nương ở Hang Á, cách bản Chống Tầu hơn hai giờ đi bộ. Trang A Đế và Hờ Thị Mỷ rủ nhau lên lán canh nương giữa đồi núi hoang vu để ở. Họ sống tách biệt với dân bản, sinh con đẻ cái ở đó, không dịch vụ y tế, không đăng ký hộ khẩu. Tất cả những quyền tối thiểu của con người mà xã hội và chế độ dành cho, họ đều từ chối.
Ngôi nhà mới của gia đình “người rừng” Trang A Đế
Năm tháng qua đi, kể từ ngày hai con người khốn khổ ấy dắt nhau lên lán ở tới nay đã tám hay mười năm, người ta cũng chỉ đoán mang máng như thế. Cứ vài năm vợ chồng ấy lại cho ra đời một đứa trẻ. Ba đứa trẻ sinh ra trong cái lán canh nương chật trội, bẩn thỉu giữa một đống chăn chiếu nhầu nát, chả khác gì một mớ giẻ rách.
Mảnh nương của vợ chồng Trang A Đế sau vài năm bị rửa trôi bạc màu, gieo lúa lúa không lên, tra ngô ngô không mọc. Đế ngày ngày vào trong rừng chặt cây, hay đẽo những cành và gốc cây pơ mu mà lâm tặc khai thác bỏ lại mang bán, kiếm mỗi ngày vài ba chục ngàn lấy tiền đong gạo, mua dầu, muối… nuôi vợ con. Buổi sáng, Đế dậy vác rìu vào rừng từ khi tờ mờ đất, tối mịt mới trở về “nhà”.
Còn Hờ Thị Mỷ sáng dậy dắt lũ con vào rừng kiếm rau măng, đào củ rừng, gõ trứng kiến… kiếm được gì thì ăn cái nấy, chả khác gì cuộc sống của con người thuở hồng hoang. Bí thư Mùa Sáy Tông bảo: Trang A Đế là người lười lao động, mặc dù bố mẹ vợ có chia cho con gái một ít ruộng nương, nhưng Đế không cho vợ làm, anh ta cũng chẳng làm, chỉ thích lên rừng kiếm cái ăn ngay thôi…
Vì không biết nói, Mỷ chỉ biết ra hiệu, vợ chồng cũng chỉ ra hiệu với nhau nên những đứa con của họ không ai dạy nói, chúng cũng chỉ biết ra hiệu. Thực ra, thì chúng cũng đã bập bẹ biết nói tiếng người, đó là thời kỳ đầu khi hai vợ chồng đưa nhau lên lán ở, quanh đó có một vài lán làm nương của bà con dân bản, họ qua lại lán của vợ chồng Đế, nhờ đó mà lũ trẻ biết nói vài ba câu.
Trang A Vổng không có quần áo mặc, lủi thủi một mình ở nhà
Do các đám nương mỗi năm bạc màu, người ta bỏ không làm nữa nên chẳng mấy người qua lại lán của vợ chồng Đế. Không tiếp xúc thường xuyên với mọi người trong cộng đồng, nên những câu nói mà lũ trẻ học được cũng quên dần.
Cuộc sống của gia đình “người rừng” ấy sẽ chẳng ai biết đến, nếu Trạm Tấu không tổ chức triệt phá cây thuốc phiện niên vụ 2008-2009. Trưởng ban Dân vận huyện Trạm Tấu Giàng A Lử, người dẫn đầu đội quân triệt phá cây thuốc phiện ở xã Làng Nhì khi đi qua lán của gia đình Trang A Đế, vô cùng ngạc nhiên thấy một gia đình như thế. Khi về anh báo cáo lại với lãnh đạo huyện. Ngay lập tức huyện Trạm Tấu chỉ thị cho xã Làng Nhì tổ chức đưa gia đình Tráng A Đế trở về hoà nhập với cộng đồng.
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Trang A Xay đèo tôi bằng xe máy lên nhà Trang A Đế. Nhà A Đế nằm ở đầu bản Nhì trên, cách trụ sở UBND xã chừng 2 cây số, nhưng phải vượt qua mấy cái dốc mặt ngựa. Nhà của A Đế được làm bằng nguồn vốn theo Quyết định 167 của Chính phủ. Ban đầu nhà dựng gần với ba hộ dân đầu bản nhưng vì những hộ đó không muốn ở gần vợ chồng Đế, ngược lại vợ chồng Đế cũng không muốn ở gần ai, bởi họ đã quen sống biệt lập, nên xã lại phải di chuyển nhà của A Đế cách xa ba hộ dân kia.
Theo tay Trang A Xay chỉ, ba hộ hàng xóm của A Đế khuất sau cánh rừng trước mặt, có lẽ cách ngôi nhà gia đình A Đế khoảng một tầm hú? Ngôi nhà của A Đế thấp lè tè nằm lọt thỏm giữa bốn bề cây rừng, cỏ mọc rườm rà khắp các lối đi, vắng lặng như thể nhà hoang.
Trang A Xay cho hay, khi chuyển gia đình A Đế từ lán trên nương xuống được vài tháng thì vợ A Đế mất, chị mất khi chửa đứa thứ tư.
Gia đình A Đế được chính quyền đón về tái hoà nhập với cộng đồng, nhưng không một mảnh nương, không một thước ruộng, cuộc sống của cả nhà vẫn trông chờ vào những chuyến đi rừng đẽo gỗ của A Đế. Thành ra cũng chẳng khác gì những năm tháng còn sống trên rừng.
A Đế cho thằng con lớn năm nay chừng 10 tuổi cho một gia đình anh em ở xã Pá Lau nuôi, khi vợ chết họ hàng vận động A Đế cho đứa con gái út Trang Thị Ca năm nay chừng 6 tuổi cho gia đình người anh em tên là Trang Pla Dơ nuôi hộ. Bây giờ Đế chỉ nuôi thằng Trang A Vổng, năm nay chừng 8 tuổi.
Trang A Xay ngồi nói chuyện và ra hiệu với thằng bé
Khi chúng tôi tới, cửa nhà A Đế đóng im ỉm, Trang A Xay vạch tấm ván cửa ngó vào phía trong bảo: Thằng này đi rừng từ sớm, chắc tối mới về. Chỉ một mình thằng Vổng ở nhà, anh có vào không?
Tôi lách qua chiếc cửa hẹp vừa bằng chiều ngang tấm ván bước vào nhà. Vách nhà thưng bằng những tấm ván hở hông hốc, vì nhà quá thấp, mặc dù lúc này đang là giữa trưa nhưng trong nhà chỉ nhìn thấy mờ mờ, phải một lúc sau mắt tôi mới quen.
Bếp nấu ăn đặt ở giữa nhà, dường như lửa đã tàn từ đêm qua, bên phải là một đống chăn nhàu nhĩ cùng những chiếc quần áo, đen bẩn vứt lung tung chồng lên nhau chả. Thằng Vổng cựa quậy trong đống chăn, nó từ từ nhô cái đầu tóc bù xù ra, chả khác gì lông con gấu, đen nhánh bết vào nhau bởi mồ hôi và khói bếp. Hai mắt mở to nhìn tôi sợ hãi, mũi và hai bên má ngoa nghếch lở loét đỏ lòm.
Trang A Xay ngồi xuống bên đống chăn, giọng anh nhẹ nhàng: Vổng à, cán bộ đến thăm Vổng đấy… Rồi anh khẽ lật tấm chăn lên, thằng bé vội co tấm chăn lại. Thì ra cu cậu không mặc quần áo, chẳng biết thằng bé có quần áo hay không, nó co rúm lại quấn chặt tấm chăn vào người.
A Xay cho tôi biết, sau hai năm đưa gia đình A Đế về đây, mấy đứa trẻ đã biết nói tiếng người, thằng Vổng ở với bố không tiếp xúc với trẻ con hàng xóm, nó thui thủi ở trong nhà chơi với mấy cái ống bơ thịt hộp mà bố nó nhặt ở trên rừng về, còn bố nó thì suốt ngày vắng nhà, nên thằng bé nói chưa được nhiều. Anh hỏi, nó chỉ ừ và gật.
Trên đường trở về, Trang A Xay cho tôi hay: Mấy người anh em muốn đón thằng Vổng về nuôi, cho đi học, nhưng Trang A Đế không nghe. Có một cái gì đó cay cay trong khoé mắt tôi. Tôi tự hỏi: Với cuộc sống mà thằng bé đang sống, không hiểu tương lai của nó rồi sẽ ra sao?
Tôi mở vung lần lượt 8 chiếc nồi đặt quanh bếp lửa, tất cả đều rỗng không. Mấy chiếc bát đen đúa chồng đống lên nhau, duy nhất một chiếc có đựng một nhúm muối. Bố thằng Vổng lên rừng từ lúc mờ đất, chắc từ sáng đến giờ thằng bé chưa có thứ gì vào bụng. Tôi nhìn khắp nhà, không thấy một bao gạo, một bắp ngô hay một củ sắn, nồi xoong nhẵn thín, chắc nó đợi đến tối bố nó mới mang thức ăn về cho.
Nhìn mấy người lạ vào nhà, thằng Vổng kéo chăn trùm kín đầu, tôi gọi: Vổng à, cán bộ cho tiền để mua gạo ăn này... A Xay dịch lại lời tôi bằng tiếng Mông, thằng bé khẽ nhô đầu ra. Tôi đưa cho nó tờ 100 ngàn đồng. Nhìn thấy tờ giấy bạc xanh xanh có nhiều hoa văn, thằng Vổng vội lật chăn ra, cầm đồng tiền ngắm nghía, đưa lên soi, rồi dán vào mắt nhìn qua kẽ vách … Với nó, đó chỉ đơn giản là một thứ đồ chơi.
A Xay vừa nói vừa khum lòng bàn tay như cầm bát cơm, bàn tay kia cầm đũa, ra hiệu rằng đây là tiền, tối bố về đưa cho bố để mua gạo. Thằng Vổng gật gật, nó tìm chiếc túi khâu bằng khăn len cất tiền vào rồi lại mở ra…
Theo Thái Sinh
 Nông nghiệp Việt Nam

Hôm nay là ngày bắt đầu cho Mùa Vọng, mùa mong đợi Chúa ngự đến, chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh và chuẩn bị đón mừng Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang. 
Chúa đã đến và đã không được ai đón tiếp, phải sinh ra trong hang đá giữa cánh đồng. Chúa đã cho mọi người biết đặc điểm nhận dạng của Chúa để tiếp đón: "Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han ... Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." 
Việc của tôi là khám phá ra được một cậu bé Trang A Vổng đang sống trong làng xóm tôi, hoặc ngay trong gia đình tôi. Nếu tôi không thấy một Trang A Vổng nào thì tôi sẽ trả lời thế nào khi Chúa hỏi: "Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng."

Lời Chúa tuần 1 Mùa Vọng