Tìm hiểu Lời Chúa _ thứ năm tuần 4 mùa chay

THỨ NĂM SAU CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY
Xh 32,7-14; Ga 5,31-47
BÀI ĐỌC: Xh 32,7-14
7 Ngày ấy, Đức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập. 8 Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: "Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập.”9 Đức Chúa lại phán với ông Mô-sê: "Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. 10 Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn.”
11 Ông Mô-sê cố làm cho nét mặt Đức Chúa, Thiên Chúa của ông, dịu lại. Ông thưa: "Lạy Đức Chúa, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với dân Ngài, dân mà Ngài đã giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập?12 Tại sao người Ai-cập lại có thể rêu rao: Chính vì ác tâm mà Người đã đưa chúng ra, để giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất? Xin Ngài nguôi cơn thịnh nộ và xin Ngài thương đừng hại dân Ngài. 13 Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời.”14 Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe.
ĐÁP CA: Tv 105
Đ. Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con, bởi lòng thương dân Ngài. (c 4a)
19 Tại Khô-rếp, họ đúc một con bê, rồi phủ phục tôn thờ tượng đó. 20 Họ đổi Chúa vinh quang lấy hình bò ăn cỏ.
21 Họ quên Thiên Chúa là Vị Cứu Tinh từng làm việc lớn lao bên miền Ai-cập, 22 việc diệu kỳ trong cõi đất Kham,việc khiếp kinh giữa lòng Biển Đỏ.
23 Chúa tính chuyện sẽ tiêu diệt họ, nếu người Chúa chọn là Mô-sê chẳng đem thân cản lối, ở ngay trước mặt Người, hầu ngăn cơn thịnh nộ, kẻo Chúa diệt trừ dân.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Ga 3,16
Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời.
TIN MỪNG: Ga 5,31-47
31 Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Do-thái: “Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. 32 Có Đấng khác làm chứng về tôi, và tôi biết: lời Người làm chứng về tôi là lời chứng thật. 33 Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. 34 Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. 35 Ông Gio-an là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian. 36 Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gio-an: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi. 37 Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, chính Người cũng đã làm chứng cho tôi. Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người, cũng chẳng bao giờ thấy tôn nhan Người. 38 Các ông đã không để cho lời Người ở mãi trong lòng, bởi vì chính các ông không tin vào Đấng Người đã sai đến. 39 Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi. 40 Các ông không muốn đến cùng tôi để được sự sống.
41 “Tôi không cần người đời tôn vinh. 42 Nhưng tôi biết: các ông không có lòng yêu mến Thiên Chúa. 43 Tôi đã đến nhân danh Cha tôi, nhưng các ông không đón nhận. Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến, thì các ông lại đón nhận. 44 Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được?
45 “Các ông đừng tưởng là tôi sẽ tố cáo các ông với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ông chính là ông Mô-sê, người mà các ông tin cậy. 46 Vì nếu các ông tin ông Mô-sê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi. 47 Nhưng nếu điều ông ấy viết mà các ông không tin, thì làm sao tin được lời tôi nói?”

CHỈ CÓ CHÚA GIÊSU DẪN TA ĐẾN SỰ SỐNG!
Đức Giêsu nói: “Ta là đường và là sự thật, sự sống” (Ga 14,6).
Ta lưu ý chữ “và” trong câu này không đặt trước “sự sống” mà phải đặt trước “sự thật”. Bởi vì nếu chữ “và” đặt trước sự sống, thì đó là một liên từ báo trước chấm dứt một câu văn. Do đó có một số bản văn dịch câu Ga 14,6 theo ngôn ngữ Việt Nam: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống”, thì ta đừng đọc lối dịch này. Bởi vì trong ngôn ngữ Hy Lạp, chữ “và” dùng nhấn mạnh về một điều quan trọng. Thí dụ: Ba Ngôi Thiên Chúa quan trọng bằng nhau, nên phải đọc “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (hai chữ “và”), thế thì chữ “và” trong Ga 14,6 có ý nhấn mạnh: Có nhiều con đường, có đường dẫn đến tử thần, ai dám đi? Chỉ có đường dẫn đến sự sống thì ai cũng muốn bước vào. Đó mới là đường quan trọng. Con đường sự thật dẫn đến sự sống phải tin Đức Giêsu là Thiên Chúa, cũng chính là tin vào Chúa Cha, vì Đức Giêsu nói: “Ai thấy Ta là thấy Cha Ta” (Ga 14,9); “Ta và Cha là một” (Ga 10,30). Chỉ có sự thật này mới đem lại sự sống cho loài người. Thế mà người Do Thái lại uất ức vì “Ngài đã lộng ngôn gọi Thiên Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa” (Ga 5,18). nên họ tìm mọi mưu kế thâm độc giết Ngài. Vì vậy Đức Giêsu phải lên tiếng chứng minh về sự thật này, Ngài không cần ai phải đứng ra minh chứng cho giá trị Lời Ngài đã tuyên bố (x. Ga 5,34: Tin Mừng), kể cả ông Gioan được mọi người tín nhiệm, đến nỗi có người tưởng ông là Đấng thiên sai (Mêsia), nay đến để giải phóng dân thoát ách thống trị của đế quốc Roma (x. Ga 1,20-25). Đức Giêsu nói cho họ biết: “Ông Gioan chỉ là ngọn đèn cháy sáng, các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng nơi ông trong một thời gian” (Ga 5,35: Tin Mừng). Như thế ông Gioan thua xa Đức Giêsu, vì “Đức Giêsu Mặt Trời tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an” (Lc 1,78-79). Do đó Đức Giêsu không cần dựa vào lời chứng của ông Gioan, mà Ngài dựa vào ba chứng vô cùng xác thực.
I- DỰA VÀO VIỆC NGÀI LÀM.
Đức Giêsu nói: “Việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành, chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi là Chúa Cha đã sai tôi” (Ga 5,36: Tin Mừng).
Và Đức Giêsu cũng đã xác định: “Sự khôn ngoan được biện chính nơi công việc mình làm” (Mt 11,19b).
II- DỰA VÀO CHÚA CHA.
Đức Giêsu nói: “Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, chính Người cũng đã làm chứng cho tôi. Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người, cũng chẳng bao giờ thấy tôn nhan Người. Các ông đã không để cho Lời Người ở mãi trong lòng, bởi vì chính các ông không tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 5,37-38: Tin Mừng).
Vậy Đức Giêsu nại vào thân thế, uy tín của Chúa Cha để làm chứng cho Ngài, đây là lời thề dựa vào Thiên Chúa, theo Luật Môsê là một điều rất quan trọng, cho nên phải là điều xác thực, và buộc mọi lời thề đã dựa vào Thiên Chúa thì phải thực hành đúng như thế (x. Mt 5,33).
III- DỰA VÀO KINH THÁNH.
Đức Giêsu nói: “Các ông nghiên cứu Thánh Kinh vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính Thánh Kinh lại làm chứng về tôi” (Ga 5,39: Tin Mừng).
Đối với người Do Thái, muốn cho lời chứng xác thực, họ phải dựa vào Thiên Chúa, hoặc là dựa vào Thánh Kinh để xác quyết.
1/ Dựa vào Kinh Thánh.
Ông phú hộ xin tổ phụ Abraham cho Laradô hiện về báo cho năm người em trong gia đình đừng bắt chước lối sống của ông kẻo phải khốn, thì tổ phụ Abraham trả lời: “Chúng đã có Môsê và các ngôn sứ” (Lc 16,29), nghĩa là chúng đã có Kinh Thánh. Khi Đức Giêsu minh chứng về sự Phục Sinh của Ngài, Ngài cũng chỉ dựa vào Thánh Kinh để cắt nghĩa cho các môn đệ đang u sầu thất vọng vì Thầy Giêsu đã chết (x. Lc 24,25).
2/ Dựa vào uy danh Thiên Chúa.
Đức Giêsu nói: “Tôi biết: các ông không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Tôi đã đến nhân danh Cha tôi, nhưng các ông không đón nhận. Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến, thì các ông lại đón nhận. Các ông tôn vinh lẫn nhau vì không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được?” (Ga 5,42-44: Tin Mừng).
Sau khi Đức Giêsu dựa vào ba chứng lý xác thực trên để minh chứng Ngài thực là Thiên Chúa từ Cha trên trời gởi đến để cứu muôn dân, mà ai không tin thì tự lên án mình, tội ấy đã di căn đến nhiều người, từ thời tổ tiên dân Do Thái. Thực vậy, cha ông họ đã chứng kiến Thiên Chúa dùng ông Môsê làm bao nhiêu việc lạ lùng chưa từng có trên đời, để đưa dân tộc thoát nô lệ Ai Cập, thế mà chúng đã ra mù quáng, tưởng sự lạ lùng ấy là do “thần bò vàng” dẫn đưa họ! Vì họ tin như thế, nên cần có nhiều vàng bạc châu ngọc là họ được hạnh phúc. Đó là lý do họ bỏ Thiên Chúa, dùng vàng đúc tượng bò để thờ! (x. Xh 32,8: Bài đọc). Nhục thật, kẻ bỏ Thiên Chúa thì ngu hơn bò!
Bởi thế Đức Giêsu kết luận về những kẻ chống đối Ngài: “Các ông đừng tưởng là tôi sẽ tố cáo các ông với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ông chính là ông Môsê, người mà các ông tin cậy. Vì nếu các ông tin ông Môsê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi” (Ga 5,45-46: Tin Mừng).
Xưa kia người Do Thái bỏ Chúa mà thờ bò vàng còn được ông Môsê bầu cử trước mặt Chúa, ông thưa: “Lạy Chúa, xin nhớ lại Lời Chúa đã hứa với tổ phụ chúng con: là cho dòng dõi chúng con đông như sao trời như cát biển. Nếu Chúa diệt dân vì tội họ, thì bọn Ai Cập cười chê, đắc thắng mà nói: thần của chúng đã dụ chúng vào sa mạc để giết. Xin vì danh dự của Ngài, mà nguôi cơn thịnh nộ. Ông Môsê còn thưa cùng Chúa: Bằng không xin Chúa xóa tên con khỏi Cuốn Sách Ngài đã viết. Nhờ có ông Môsê cầu nguyện như thế nên Chúa đã tha phạt dân” (Xh 32,11-14. 32: Bài đọc).
Như thế, ông Môsê mới hé môi xin Chúa lấy mạng mình thay cho dân Israel, nhưng ông chưa mất gì thì Chúa đã nhận lời cầu của ông mà tha phạt cho dân. Thua xa khi Thiên Chúa thực thi Lời hứa cứu độ dòng giống Adam, Eva: “Miêu duệ người phụ nữ đạp nát đầu rắn Satan” (St 3,15). Thánh Tông Đồ nói: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta làm một với Người” (Rm 8,32 - Bản dịch NTT). Như vậy “Chúa Cha yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,16: Tung Hô Tin Mừng). Quả thật, Đức Giêsu yêu thương phàm nhân trổi vượt hơn ông Môsê đã cất lời xin Chúa tha phạt cho dân vì danh dự của Chúa, vì Ngài đành mất mạng sống mình để chuộc lấy phàm nhân tội lỗi, và còn cầu nguyện cho kẻ ác đã giết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm không biết việc chúng làm” (Lc 23,34), rồi Ngài tiến thẳng vào cung thánh trên trời: “Ví thể neo thần chắc chắn và bền vững của tâm hồn ta, cắm vào tận bên trong bức màn cung thánh. Đó là nơi Đức Giêsu đã vào như người tiền phong mở đường cho chúng ta sau khi trở thành vị Thượng Tế đời đời theo phẩm trật Melkisedek” (Dt 6,19-20). Và Ngài hằng khẩn cầu cho ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7,23-27). Ơn huệ này, Đức Giêsu truyền cho Hội Thánh hằng ngày làm hiện tại hóa Hy Tế Mới Ngài đã thiết lập, để chúng ta được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác (x. Ga 1,16). Kẻ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất (x. Cv 4,12), thì dù nó có cầu khẩn với Đức Mẹ để xin ơn này ơn kia, như dân Do Thái cầu khẩn với ông Môsê, thì chắc chắn Đức Mẹ cùng với ông Môsê đứng ra tố cáo tội nó! (x. Ga 5,45: Tin Mừng).
Vậy chỉ khi nào ta được hưởng nhờ ơn huệ do lời bầu cử của Chúa Giêsu nơi Chúa Cha qua Phụng Vụ, ta mới thưa cùng Ngài: “Lạy Chúa, xin nhớ đến chúng con bởi lòng thương dân Ngài” (Tv 106/105, 4a: Đáp ca).
Thực tế ngày hôm nay có nhiều người Công Giáo vẫn chưa lấy việc làm để biểu lộ Đức Tin tìm đến với Đức Giêsu là nguồn sống dồi dào (x. Ga 10,10). Vì họ để hết tâm lực, thời giờ đi tìm kiếm những thực tại trong thế gian, vì coi đó là thần hộ mạng, thì họ cũng chẳng khôn hơn người Do Thái thờ bò vàng!
Một tu sĩ hằng cầu nguyện thiết tha đêm ngày với Chúa: “Lạy Chúa, con chỉ ước được nhìn thấy Chúa”, mãi lâu sau Chúa mới chiều ý thầy: Thầy tận mắt nhìn thấy Ngài vô cùng sáng láng vinh hiển, đang lúc thầy ngây ngất chiêm ngưỡng tôn nhan Chúa, Chúa lên tiếng hỏi:
-         Con có muốn theo Cha không?
-         Dạ nếu được, thì còn gì sung sướng hơn.
Thầy theo Chúa đi một quãng xa, Ngài nói:
-         Cha khát nước quá, con kiếm đâu được nước?
-         Dạ con đi ngay.
Sau một ngày thầy đi tìm nước mà chưa thấy dòng suối nào hay con sông nào, nhưng thầy vẫn kiên nhẫn, ba ngày sau thầy gặp được một dòng nước trong vắt, thầy vui mừng múc nước vào bình để đưa về hầu Chúa. Đang lúc đó, một thiếu nữ rất xinh đẹp trong vùng cùng tới chỗ thầy để lấy nước, nàng bị trượt chân té, thầy vội đỡ nàng dậy và hai người bắt chuyện…. lát sau cô nàng mời thầy về nhà dùng bữa, thầy quá sung sướng nên ngỏ lời với cha mẹ cô xin cưới cô làm vợ. Ba năm sau, có dịp thầy đưa vợ con đi dạo, gặp thấy Chúa Giêsu đang ngồi bên vệ đường chờ thầy cho uống nước, thấy thế ông hối hận đến xin lỗi Chúa. Chúa trả lời:
-         Cha đã chờ con quá lâu, tưởng chết khát, may có người lạc đạo xứ Samari đưa nước cho Cha uống (x. Ga 4). Còn con, con đã kiếm được vợ đẹp hấp dẫn hơn Cha, thì con cứ trung thành với người con yêu cho đến chết!
Nếu thầy đã từng mơ ước được gặp Chúa Giêsu, dù thầy có gặp được người yêu, sao thầy không đưa cô nàng đến gặp Chúa ngay, cùng với hai bình nước của chàng và nàng, chắc chắn Chúa vui lắm! Tiếc thay, thầy đã chọn đàn bà hơn chọn Chúa!
THUỘC LÒNG
Chúa Giêsu nói: “Tôi đã đến nhân danh Cha tôi, nhưng các ông không đón nhận. Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến, thì các ông lại đón nhận. Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được?” (Ga 5,43-44).
 Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH